Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết 1
Không khí ngày xuân không thể thiếu rượu, bánh mứt, phong bao lì xì đỏ, cây nêu và bánh chưng xanh. Đối với cư dân vùng đồng bằng Nam bộ, bánh Tét lại là món ăn không thể thiếu trên bàn thờ gia tiên như tấm lòng thành kính của con cháu sau một năm làm lụng vất vả. Ngồi bên bếp lửa hồng, nghe hơi ấm giữa lòng đêm se se chợt nghe bao ký ức tìm về.
Nếu ở miền Bắc trong ngày Tết, giỗ kỵ, các lễ hội cổ truyền có bánh dày, bánh chưng để dâng cúng tổ tiên, thì ở Nam Bộ bánh Tét được liệt ngang hàng, coi như bánh Tổ. Hiện diện như một nét văn hóa của miền Nam, bánh Tét gói ghém trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn… quyện vào nhau thật dẻo mềm, bùi béo giữa màu xanh thẫm và láng mượt của lớp lá chuối mang hương vị tự nhiên của trời đất. Thường được gọi là bánh đòn do có hình trụ dài và tròn đều, cứ mỗi hai đòn bánh lại cột thành một cặp có dây quai để xách, vừa tiện vừa đẹp, lại phù hợp với tập quán vì năm mới phải đủ đôi, chẵn cặp mới hạnh phúc, thịnh vượng.
Tương truyền tên gọi “bánh Tét” có xuất xứ từ hành động nắm đầu dây buộc, khoanh tròn đòn bánh đã lột vỏ, “Tét” từng khoanh một đơm lên đĩa. Cũng có thuyết cho rằng bánh Tét là một biến thể của chiếc bánh chưng ngoài Bắc về nguyên liệu, cách nấu, chỉ khác về hình dáng và sử dụng lá chuối để gói thay vì lá dong. Hay có nơi lại hiểu bánh Tét là một trong những sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam, cái đặc sắc, độc đáo của bánh chủ yếu ở nét khác biệt trong hình khối, màu sắc, hương vị so với các loại xôi đỗ và bánh nếp khác nên cứ mỗi năm tết đến người phương Nam lại gói loại bánh này, gọi là “bánh tết”, lâu dần đọc trại ra thành “bánh Tét”.
Được người Kinh và một số dân tộc thiểu số ở miền Nam và Trung chế biến một cách tài tình, lại tuỳ theo địa phương mà thêm thắt gia vị cho hợp khẩu nên đòn bánh Tét phương Nam ngày càng phong phú về chủng loại và hương vị. Nào là bánh Tét nhân ngọt (không có thịt) nhân đậu xanh có trộn đường; bánh Tét nhân chuối thay cho nhân đậu xanh, đòn nhỏ một trái chuối, còn đòn lớn ba trái chuối xiêm chín có thêm đường để tăng độ ngọt cho nhân, khi chín có màu đỏ tím. Tét khoanh bánh ra trông lạ mắt, màu đỏ tím chính giữa nổi bật bên ngoài màu nếp trắng phau rất đẹp. Nào là bánh Tét thập cẩm với phần nhân cao cấp gồm trứng, tôm khô, lạp xưởng, hạt sen, thịt giò Bắc thảo, đậu phộng, nấm đông cô trộn chung với nhân đậu xanh…
Mỗi lần gói bánh Tét, người ta thường gói chí ít 5 – 7 đòn vừa để dành ăn dần, vừa để biếu hàng xóm láng giềng, bà con thân thích. Hay nhất là cứ sau hăm ba ông Táo chầu Trời cả nhà tự xúm xít lại gói bánh. Trước tiên, xếp lá chuối ngang dọc xen kẽ nhau, sau đó cho gạo nếp, đậu xanh đãi vỏ đã nấu chín lên trên, trải đều ra thành hình chữ nhật, sau đó thêm vào giữa một miếng thịt lợn theo chiều dài đòn bánh. Kế đến cho thêm một lớp đậu xanh và một lớp gạo nếp lên trên cùng rồi bắt đầu lăn cuộn bánh. Gấp một đầu bánh lại và bắt đầu nén gạo cho chặt và buộc dây lạt nữa là hoàn tất.
Để nấu bánh, chọn một cái nồi thật cao để xếp những chiếc bánh vào, cho nước ngập mặt bánh rồi đun trên bếp củi. Cách giờ phải thăm và châm nước thêm. Bánh nấu liên tục trong khoảng từ 10 – 12 tiếng đồng hồ mới chín đều. Vì thời gian nấu lâu nên hạt gạo khi chín sẽ mềm và quyện chặt lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”. Lúc này, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đỗ đều chín nhừ, chan hòa, ngấm vào nhau, trở nên thơm ngon độc đáo. Cùng nhau ngồi quây quần bên nồi bánh Tét đượm ánh lửa hồng, chợt nghe trong lòng lâng lâng bao cảm xúc khó tả về một sự thiêng liêng, sự hòa điệu của thiên nhiên và con người giữa đêm thanh vắng chỉ còn tiếng cười nói, tiếng tí tách của những thanh củi và bao câu chuyện vượt thời gian. Người này canh bánh thì người kia ngủ, trong giấc ngủ mơ màng bạn sẽ được nghe thoang thoảng mùi hương tỏa ra từ những đòn bánh chín đầu tiên của mùa Tết. Tự tay vớt những đòn bánh ra và xếp thành từng dãy trên bể nước, dằn cho bánh được ráo cũng sẽ rất thú vị cho những ai tự nấu bánh Tết cho người thân và gia đình.
Thuyết minh về món ăn truyền thống: Bánh tét 2
Người dân Nam bộ còn lưu truyền câu ca dao:
“Chim kêu ba tiếng ngoài sông
Mau lo lựa nếp hết đông tết về”
Lo lựa nếp để gói bánh Tét trước cúng ông bà tổ tiên, kế biếu bà con lối xóm, sau cùng để ăn cho ba ngày tết. Do vậy, món bánh Tét ngày Tết là loại bánh không thể thiếu được vào dịp xuân về, là nét văn hóa ẩm thực tiêu biểu của người Việt ở Nam bộ. Vì thế, một số người mới cho rằng cách gói bánh Tét có thể được đọc trại từ bánh tết mà ra.
Cứ đến khoảng 27, 28 tết là mấy bà nội trợ đã lo chuẩn bị nếp. Một ngày trước khi gói bánh, nếp được đem đi ngâm và gút. Hôm sau, họ cắt mấy tàu lá chuối còn nguyên và xanh um ở mé vườn hay sau hè. Lá chuối được rọc nhỏ lại theo kích cỡ đòn bánh, rồi lau sạch và quét lên tí dầu ăn cho láng. Nếp gút lại thật kỹ, sau đó mới bày lên lá với lớp nếp đến lớp nhân. Người gói bánh tiến hành gói phần lá bên ngoài và gói ở 2 đầu bánh, rồi dùng sức buộc dây lạt thật chặt thân bánh, phần dây thừa được gọi là đuôi bánh. Cách gói phần đầu bánh có hai dạng: Gói theo kiểu hình tròn hay hình tam giác. Người gói bánh cột phần đuôi 2 hay 3,4 đòn bánh lại với nhau thành từng xâu, rồi bỏ vào nồi nước sôi trên lò than, lò củi để luộc chín. Mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh nồi bánh Tét chụm lửa. Hồi còn nhỏ, ai đã từng ngồi như thế thì chắc không thể quên được hình ảnh bập bùng của lò than với âm thanh tí tách, cái háo hức mong đợi khi bánh được vớt khỏi nồi nước luộc và cái hơi nóng tỏa ra làm ấm cả gian nhà bếp. Đó là cảm giác của ngày tết sắp về ở từng gia đình. Độ chừng 3 đến 4 tiếng, người ta vớt bánh ra khỏi nồi nước, treo thành từng xâu trên cái đòn dài của nhà bếp để bánh ráo nước và tránh sự dòm ngó của lũ mèo, chuột. Sáng 30 cúng rước ông bà, họ cắt bánh thành từng khoanh rồi đặt vào đĩa để cúng. Bánh cúng xong thì con cháu mới được ăn. Khi ăn cũng là dịp để thưởng thức sự khéo léo của người nội trợ. Bánh Tét ngon là khi mở ra phần nếp không dính lá, nếp phải dẻo, mịn và trong, phần nhân phải vừa ăn (không quá mặn cũng không quá ngọt) và có mùi thơm. Muốn được như vậy phải biết kỹ thuật gói bánh. Nếp chọn là loại nếp thượng hạng, nếp rặt, không được pha với thứ khác. Còn lá chuối là loại lá còn nguyên vẹn, không được rách để tránh cho bánh bị “xì” khi nấu. Mặt khác, nếp phải được gút kỹ nhiều lần sao cho thật sạch để khi ăn bánh phần nếp mới dẻo, mịn. Kỹ lưỡng hơn nữa, khi gút người ta cho thêm muối vào cho nếp thêm sạch, dễ gút. Nước ngâm nếp phải được để trong lu vài ngày để lắng tạp chất xuống đáy. Điều này giúp bánh được giữ lâu hơn trong ba ngày tết. Khi gói bánh phải gói thật chặt, không được gói lỏng vì dễ làm hư bánh trong khi luộc. Đậu xanh ngâm kỹ, đãi vỏ thật sạch thì nhân mới ngon.
Nói là bánh Tét ngày tết, nhưng dân Nam bộ chia làm 2 loại: Bánh Tét mặn và bánh Tét ngọt. Bánh Tét mặn là loại bánh Tét có nhân đậu xanh với mỡ, thịt ba rọi, một số nơi còn thêm hột vịt muối. Còn bánh Tét ngọt gồm bánh Tét nước tro, bánh Tét nhân chuối, nhân đậu xanh,…Bánh Tét mặn được làm phổ biến vào dịp tết. Người ta chọn mỡ heo hay thịt ba rọi còn tươi, rửa sạch và để ráo nước. Khi gói bánh thì để thịt, mỡ trên lớp đậu xanh. Nếu gói bằng thịt ba rọi, khi cắt bánh, phần chính giữa vừa trong vừa đục, trông rất bắt mắt. Còn bánh Tét nhân mỡ thì phần mỡ trong vắt mới ngon. Ở Tiền Giang, khi làm bánh Tét nhân mỡ, mấy bà lấy mỡ ướp với tí đường, củ hành tím rồi phơi trong thau nhôm chừng 5 đến 6 tiếng. Mỡ ướp hành tím làm cho nhân không nặng mùi, thơm và dễ ăn, khác với ướp tỏi. Phơi mỡ trong thau nhôm để lấy nhiệt cho mỡ dễ chín, săn chắc. Mấy ngày tết, sợ ăn bánh Tét mặn ngán, bà con còn gói thêm bánh Tét ngọt để ăn thêm, đặc biệt ở một số gia đình ăn chay. Bánh Tét ngày Tết bằng nước tro là loại bánh mà nếp được ngâm với nước tro tàu, phần nhân gồm đậu xanh xào chung dừa nạo. Bánh có mùi thơm lạ, màu hơi đen, ăn rất ngon. Gọi bánh Tét chuối vì phần nhân được làm bằng chuối. Người ta chọn loại chuối xiêm chín rục làm nhân. Khi cắt bánh, phần nhân có màu đỏ thẫm, vị ngọt tự nhiên. Ở miệt Bến Tre còn có loại bánh Tét không nhân. Bánh được làm toàn bằng nếp trộn chung với đậu đen hay đậu phộng và nước cốt dừa, ăn rất béo và thơm. Còn ở Tiền Giang, cũng bánh loại này, mấy bà còn cho thêm chuối xiêm chín đã bóp nhỏ vào hỗn hợp đậu, nếp, nước cốt dừa, đậu đen rồi mới gói. Khi cắt ra, bánh gồm nhiều màu, rất bắt mắt và có vị ngọt của chuối, vị bùi của đậu, vị béo của nước cốt dừa, vị dẻo của nếp.
Ở Nam bộ, khi ăn, bánh Tét ngày Tết thường được dùng chung với dưa kiệu, dưa muối cho đỡ ngán. Có người thích ngọt, khi ăn họ còn cho thêm đường trên mặt bánh. Người ta còn dùng bánh Tét thay cơm. Họ chan nước thịt kho tàu dầm tí ớt, trộn thêm dưa giá hay dưa kiệu để ăn chung với bánh. Ăn kiểu này thì ngon và hết sẩy! Vị béo, ngọt của bánh cùng vị chua chua của dưa giá, dưa kiệu và vị mặn mặn, cay cay của nước thịt kho tàu tạo nên một hương vị khó tả và nhớ mãi. Mấy bà nội trợ ở Tiền Giang còn làm thêm món củ cải trắng ngâm với nước tương hoặc nước mắm, bỏ trong hũ sành để ăn kèm với bánh Tét.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét hay nhất 3
Đối với các gia đình trong mấy ngày tết, thiếu đi những đòn bánh Tét, coi như cái tết không được trọn vẹn. Có lẽ phong tục gói bánh Tét ngày tết đã ăn sâu trong tiềm thức người dân quê tôi.
Làng quê yên bình nằm nếp mình bên dòng Sông Vệ (xã Đức Thắng, Mộ Đức, Quảng Ngãi) những ngày giáp tết lại bận rộn hơn nhiều. Người dân quê tôi lại tất bật lo mọi thứ để chuẩn bị đón tết, vui xuân được ấm cúng. Và đâu đó nồi bánh Tét ngày cuối năm không thể thiếu đối với mỗi gia đình. Nếu trong mỗi chúng ta, đi làm ăn đâu xa, và có những người đã lập gia đình rồi lỡ không về quê nhà đón tết cùng gia đình, thì tết đố thiếu đi một cái gì đó mà khó lòng nói ra được.
Bao lo lắng để ngày về quê kịp đón tết cùng gia đình cũng đến. Trên tay xách đủ thứ quà của người con xa xứ bao năm về quê đón tết, khiến cho đôi tay tôi mỏi nhừ. Hơn 16 giờ đồng hồ ngồi tàu từ Sài Gòn về quê nghèo tỉnh lẻ miền Trung cũng khá vất vả, nhưng trong lòng cảm thấy vui. Vui vì năm này mình được đón tết nơi mình đã sinh ra và lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người.
Xa quê nhiều năm học tập và công tác, hương vị, không khí những ngày giáp tết cũng theo đó mà lùi dần vào quá khứ. Nơi Sài thành, tôi chỉ biết lo công việc cơ quan, rồi tất niên cuối năm ở cơ quan này, ban ngành nọ. Chỉ đến khi nghỉ tết về quê mới cảm nhận được không khí hối hả, tất bật của mọi nhà, mọi gia đình để chuẩn bị đón tết cổ truyền của dân tộc. Đó là khoảng thời gian thấy ấm cùng và hạnh phúc nhất.
Vừa về đến nhà, đã thấy ba, mẹ bày lá chuối và thúng nếp, đậu xanh, thịt và các loại gia vị hành mỡ, cùng đống lạt tre dùng làm dây buộc, chuẩn bị gói những đòn bánh Tét cho ngày tết. Quê tôi dù còn nhiều khó khăn, nhưng mỗi khi tết đến thì mọi nhà không thể thiếu nồi bánh Tét. Đây là những hương vị làm nên không khí ngày tết thêm ấm cúng và mặn nồng.
Đối với các gia đình trong mấy ngày tết, thiếu đi những đòn bánh Tét, coi như cái tết không được trọn vẹn. Vì thế dù khó khăn đến mấy, họ cũng cố lo cho được những đòn bánh Tét để làm cho không khí ngày tết thêm phong phú và vui hơn. Có lẽ phong tục gói bánh Tét ngày tết đã ăn sâu trong tiềm thức người dân quê tôi.
Sau khi gói xong cũng là trời vừa tối, ba tôi lại cho lên bếp lớn mới được kê bằng ba viên đá cỡ lớn giữa sân để bắt đầu nấu. Ánh đèn điện bừng sáng, nồi bánh Tét cũng ngùn ngụt lửa đỏ bừng. Tiếng củi cháy nổ tanh tánh, tôi cùng ba, mẹ và đứa em lại quây quần bên nồi bánh Tét.
Không gian màn đêm nặng mùi khói lửa, ba bắt đầu kể về những chuyện làm ăn năm qua. Kể về những thay đổi cuộc sống của gia đình và các gia đình xung quanh. Câu chuyện ba kể có phần vui hơn những năm về trước, nhờ điều kiện kinh tế được khá hơn, nên quê nhà đón tết với nhiều thứ ấm no hơn.
Những câu chuyện đời trong năm được ba ghi nhớ để dịp cuối năm mang ra kể như một điều gì đó mà bà xưa vẫn hay làm. Cứ thế ba kể trong hơi ấm của nồi bánh Tét đang được nấu chín dần, thỉnh thoảng ba lại dừng lại để đẩy lửa, và câu chuyện ngắt quãng đôi chút. Bên bếp lửa đỏ bừng, sau câu chuyện làm ăn năm qua, ba tôi lại truyền “bí kíp” để làm sao nấu bánh Tét được ngon, dẻo và chín đều, để được lâu.
Ba nói: “Ngoài việc lựa chọn những loại nếp thơm dẻo, ngon và nhân đảm bảo thì cách nấu cũng khá quan trọng. Trước khi nấu, cần cho bánh vào một lượt trong nồi, đổ nước lạnh vào ngập xâm xấp bánh. Sau đó đun lửa cháy đều cho nồi bánh sôi ùng ục quanh đều, giữ đều lửa để bánh chín dần.
Nấu từ 8 đến 9 giờ đồng hồ, bánh Tét mới chín, sau đó nhỏ lửa và để ngâm khoảng vài giờ đồng hồ vớt bánh ra để ráo và treo lên”. Bằng cách nấu này đòn bánh Tét sẽ giữ được lá xanh, cây bánh đẹp và để được lâu ngày, khi dùng cũng rất ngon”.
Quê tôi giờ kinh tế có phần khá hơn, cuộc sống còn hiện đại nên một số gia đình không còn mặn mà gói bánh Tét. Nhưng điều đó không có nghĩa phong tục gói bánh Tét ngày tết bị mai một. Một số gia đình còn nặng lòng với việc gói bánh Tét lại trổ tài gói theo đơn đặt hàng cho mỗi gia đình. Cách làm như thế cũng tiện lợi nhưng tết nhà nào cũng có đòn bánh Tét để cúng ông bà tổ tiên, đãi khách trong những ngày tết.
Bà Nguyễn Thị Hải (xã Đức Thắng, Mộ, Đức, Quảng Ngãi) có thâm niên trong nghề gói bánh Tét theo đơn đặt hàng nhiều năm nay chia sẻ “Trong ba ngày cuối tháng chạp này, mỗi ngày gói trên 100 đòn bánh Tét, để giao cho các gia đình. Trung bình mỗi đòn bán với giá từ 30 đến 40 chục ngàn/đòn. Nhẫm tính mấy ngày tết này kiếm cũng vài triệu đồng để lo sắm sửa mọi vật dụng cho ngày tết của gia đình”.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết 4
Không biết tự bao giờ, đòn bánh Tét đã trở thành món ăn truyền thống và việc gói bánh Tét cũng trở thành một trong những phong tục ngày Tết không thể thiếu của mỗi người Nam Bộ.
Không biết tự bao giờ, đòn bánh Tét đã trở thành món ăn truyền thống và việc gói bánh Tét cũng trở thành một trong những phong tục ngày Tết không thể thiếu của mỗi người Nam Bộ. Nếu ngoài Bắc ngày Tết có bánh chưng xanh thì trong Nam lại là đòn bánh Tét. Và mỗi loại bánh lại có một số phận và nguồn gốc riêng của nó. Nếu chiếc bánh chưng gắn liền với “Sự tích bánh chưng bánh dày” của hoàng tử thứ 18 con Vua Hùng là Lang Liêu tượng trưng cho trời tròn đất vuông thì đòn bánh Tét cũng có những giai thoại ly kỳ về nguồn gốc và ý nghĩa riêng.
Sự tích đòn bánh Tét ngày Tết Nam Bộ. Theo những ghi chép còn sót lại, đòn bánh Tét có nguồn gốc từ chủ nhân vùng đất này. Đó là người Chăm Pa trong lịch sử (tiền thân là người Sa Huỳnh) định hình lãnh thổ quốc gia dân tộc từ cuối thế kỷ thứ II sau Công nguyên (cách ngày nay khoảng gần 2 thiên niên kỷ). Khi ấy, người Chăm có một nền văn hóa phát triển rực rỡ và đạt đến đỉnh cao. Nền văn hóa ẩm thực cũng phong phú.
Theo lý giải của cố giáo sư Trần Quốc Vượng, rất có thể, đòn bánh Tét mà người trong Nam dùng trong ngày Tết hôm nay là sản phẩm của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa Việt Chăm hay cũng có thể là sự kế thừa những giá trị của lớp tiền nhân đi trước để lại. Khi người Việt vào khai hoang mở hóa vùng đất phương Nam, do sự tiếp thu yếu tố tín ngưỡng đa thần của nền văn hóa Chăm, trong đó có tín ngưỡng Phồn thực, thờ thần lúa.
Từ sự hình tượng hóa của yếu tố Linga của thần Siva (mà nay còn biểu hiện rõ nhất ở khu đền tháp Mỹ Sơn) cùng với tín ngưỡng nông nghiệp vốn có nên các cư dân Việt sau này đã tạo ra chiếc bánh Tét như ngày nay. Rồi dần đà, đòn bánh Tét được sinh thành và “thai nghén” lúc nào cũng không rõ.
Bên cạnh đó, có một truyền thuyết khác bổ sung thêm cho nguồn gốc của bánh Tét, cách gọi tên bánh và thói quen ăn bánh Tét trong ngày Tết như sau. Vào mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789, Nguyễn Huệ và quân ta đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước. Lúc bấy giờ quân lính được nghỉ ngơi, ăn Tết. Trong số quân lính có anh lính nọ được người nhà gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình dạng như bánh Tét ngày nay. Anh lính mang bánh mời vua Quang Trung.
Vua ăn thấy ngon bèn hỏi thăm về loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà làm gửi cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau bụng nhưng khi ăn bánh này thì lại không thấy đau nữa.
Nghe câu chuyện cảm động của anh lính, vua bèn ra lệnh cho mọi người gói loại bánh này để ăn Tết và đặt tên là bánh Tết nhằm ghi nhớ chiến thắng giặc Thanh vào mùa xuân và thể hiện tình cảm gia đình thắm thiết mỗi độ xuân về. Đó được xem là nguồn gốc của bánh Tét trong ngày Tết cổ truyền ở Việt Nam.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết 5
Hàng năm, cứ vào dịp Tết đến xuân về, mọi gia đình trên đất nước VN đều tất bật sửa soạn chuẩn bị cho ngày lễ truyền thống của dân tộc. Nếu như người miền Bắc có bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành thì đặc sản của người miền Nam đó chính là những đòn bánh tét, ăn với cháo cá và các loại rau có sẵn trong vườn nhà.
Có thể nói, bánh tét chính là hương vị tết cổ truyền đặc trưng, độc đáo của miền Nam. Nguyên liệu để làm ra những đòn bánh tét vẫn là gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn… Tương tự như bánh chưng, bánh tét cũng mang trong mình màu xanh thẫm lá chuối và hương vị gạo-thịt đặc trưng của đất nước VN giàu truyền thống nông nghiệp. Người dân Nam Bộ thường gói bánh hình dạng giống đòn gánh. Cứ mỗi hai đòn bánh lại cột thành một cặp, cột thêm dây quai để treo lên hoặc tặng cho người thân.
Ngày nay, sự chế biến và làm bánh tét cũng có sự đa dạng và phong phú vô cùng. Nào là bánh tét nhân ngọt, bánh tét nhân chuối, bánh tét truyền thống, bánh tét thập cẩm có thêm trứng, tôm khô,... để gia tăng hương vị, tùy sở thích của mỗi gia đình.
Theo tập tục của người miền Nam, mỗi lần gói bánh tét, người ta thường gói chí ít 5 đến 7 đòn vừa để ăn dần, tránh hỏng trong thời tiết nóng ẩm của miền Nam. Trong những gia đình, cả nhà tự quât quần lại gói bánh. Trước tiên, người ta xếp lá chuối ngang dọc xen kẻ nhau, sau đó cho gạo nếp, đậu xanh đãi vỏ đã nấu chín lên trên, trải đều ra thành hình chữ nhật. Sau đó người ta cho thêm vào giữa một miếng thịt lợn theo chiều dài đòn bánh. Kế đến người ta cho thêm một lớp đậu xanh và một lớp gạo nếp lên trên cùng rồi bắt đầu lăn cuộn bánh. Cuối cùng, người ta sẽ gấp một đầu bánh lại và bắt đầu nén gạo cho chặt và buộc dây lạt nữa là hoàn tất. Để luộc bánh, người nấu sẽ chọn một cái nồi thật cao để xếp những chiếc bánh vào, cho nước ngập mặt bánh rồi đun trên bếp củi. Bánh phải được nấu liên tục trong khoảng từ 10 đến 12 tiếng đồng hồ mới chín đều. Cả nhà có thể ngồi bên nhau quây quần trông nồi bánh tét, hưởng thụ hương vị của ngày tết đoàn viên.
Và rồi, cách thưởng thức bánh tét cũng đòi hỏi sự tinh tế và cầu kỳ, tuyệt đối không nên dùng dao để cắt, thay vào đó, người ta bóc vỏ rồi dùng dây buộc bánh để cắt thành từng khoanh mỏng như cách người miền Bắc cắt bánh chưng. Một biến thể thú vị khi đã quá ngán món bánh tét truyền thống là bánh tét chiên, ăn kèm với rau sống.
Tóm lại, bánh tét chính là một phần không thể thiếu trong mâm cơm cổ truyền ngày Tết của người dân Nam Bộ. Nó là món ăn quê hương, mang trong mình giá trị của dân tộc và vẻ đẹp văn hóa của đất nước VN.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết hay nhất 6
Ẩm thực Việt Nam không chỉ đặc sắc trong hương vị, nguyên liệu mà còn chứa đựng tinh hoa của sự khéo léo cũng như văn hóa lối sống, tâm hồn người Việt. Dân gian có đôi câu đối: "Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ/ Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh". Nhắc đến tết cổ truyền, chắc hẳn mỗi người Việt Nam, dù đang ở trên chính mảnh đất quê cha hay đang ở nơi đất khách quê người cũng không thể quên được thức bánh dẻo thơm bùi của đỗ xanh, dẻo ngọt của gạo nếp, béo ngậy của thịt mỡ của bánh chưng - thức bánh hình vuông ẩn chứa những ý niệm sâu sắc về văn hóa dân tộc.
Sự ra đời của bánh chưng gắn liền với truyền thuyết "Bánh chưng, bánh giầy" cùng sự kiện vua Hùng Vương đời thứ sáu chọn người nối ngôi. Giữa muôn vàn sơn hào hải vị, cặp bánh chưng bánh giầy đã đem đến chiến thắng cho hoàng tử Lang Liêu. Nếu bánh giầy thon dài với hình tròn tượng trưng cho trời thì bánh chưng lại là ý niệm ẩn dụ của mặt đất với hình dáng vuông vức.
Là một món ăn thể hiện rõ đặc trưng của nền ẩm thực Việt Nam, nguyên liệu làm ra bánh chưng cũng hết sức dân dã. Vỏ ngoài của bánh được tạo nên từ những chiếc lá dong xanh tươi, lành lặn và gân chắc cùng những sợi dây lạt giang trắng phau, mảnh nhỏ và mềm mại. Còn bên trong bánh là những nguyên liệu quen thuộc như thịt ba chỉ, đỗ xanh, hành cùng một số gia vị đơn giản khác như muối trắng, hạt tiêu,...
Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ những nguyên liệu trên, bàn tay khéo léo của con người sẽ sơ chế nguyên liệu và lần lượt thực hiện các công đoạn gói bánh, nấu bánh. Lá dong có nhiệm vụ bao bọc và ảnh hưởng đến màu sắc của chiếc bánh chưng nên cần được chọn lọc với sắc xanh mướt, sau đó rửa sạch sẽ những bụi bặm và vết bẩn, dùng khăn lau khô hoặc để ráo nước. Gạo nếp là thành phần quan trọng nhất của chiếc bánh nên cần đảm bảo những yêu cầu như hạt to, đều hạt, tròn và thơm dẻo. Trước khi gói bánh, những hạt gạo này sẽ được ngâm cùng nước trong khoảng thời gian nhất định, thường kéo dài từ 12 tiếng đến 14 tiếng. Đỗ xanh sau khi được xay hoặc giã vỡ đôi, người làm bánh sẽ ngâm trong nước ấm với nhiệt độ thường ở mức 40 độ C để hạt đỗ trở nên mềm hơn và sau đó đãi sạch vỏ đỗ, chỉ giữ lại sắc tươi vàng ươm. Về nhân thịt của bánh chưng, loại thịt thường được sử dụng là thịt ba chỉ vừa nạc vừa mỡ cắt thành từng miếng, ướp cùng những gia vị như hành khô, hạt tiêu để gợi dậy mùi thơm và hương vị.
Để tạo ra một chiếc bán với hình thù vuông vức, gói bánh là công đoạn hết sức quan trọng. Sau khi trải lá dong, người gói có thể sử dụng khuôn để tạo nên bốn góc vuông cân xứng, hài hòa. Và lần lượt các nguyên liệu khác được sắp xếp theo thứ tự: gạo nếp ở ngoài, đỗ xanh, thịt lợn ở bên trong, và đổ thêm gạo nếp để lấp đầy chiếc bánh. Quá trình này đòi hỏi người gói bánh cần tỉ mỉ và khéo léo. Sau đó, những chiếc bánh tươi tắn, vuông vức được xếp vào nồi, đổ nước vào luộc trong vòng 10 - 12 tiếng để bánh chín đều và dẻo thơm. Trong lúc luộc bánh, những thành viên trong gia đình thường quây quần bên bếp lửa để kể cho nhau nghe những câu chuyện về năm cũ.
Vào mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng luôn là yếu tố không thể thiếu và mang trong mình những ý niệm về sự tưởng nhớ công ơn và lòng thành kính đối với những người đã khuất. Đồng thời, chiếc bánh vuông vắn tượng trưng cho mặt đất thể hiện mong ước về một cuộc sống trọn vẹn và ấm no. Hơn hết, nó còn là biểu tượng cho thành tựu văn minh nông nghiệp của dân tộc ta.
Bánh chưng vuông tượng trưng cho mặt đất, xanh màu lá dong có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tâm thức con người Việt Nam. Bánh chưng, hơn cả một món ăn - đó còn là bản sắc dân tộc, là nét đẹp ẩm thực truyền thống ngàn đời nay còn lưu giữ.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét đặc sắc nhất 7
Bánh tét được phổ biến bắt đầu từ tỉnh miền Trung Thừa Thiên – Huế trở vào. Tùy từng địa phương mà thêm gia vị cho phù hợp và tùy hoàn cảnh mà có kích thước khác nhau. Phổ biến nhất là bánh có độ dài khoảng 2 gang tay người lớn, với đường kính 10cm, khi cắt bánh xếp ba lát bánh tạo thành hình cánh hoa, ở giữa đặt thêm một lát bánh nữa tạo thành hình hoa trên đĩa.
Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Cửu Long xưa kia, có gia đình con, cháu đông đúc người ta thường gói những đòn bánh lớn, nặng hơn 1kg, khi cắt ra đặt gọn trong lòng đĩa, phần vỏ bánh có màu xanh cốm, chính giữa là nhân đậu xanh vàng óng trông đẹp mắt.
Nhiều gia đình gói bánh chay nhân không có thịt hoặc đậu xanh trộn thêm đường làm nhân ngọt, cũng có nhà làm bánh tét nhân chuối thay cho nhân đậu xanh. Chuối làm nhân người dân thường chọn chuối xiêm (một loại chuối phổ biến của miền Nam) trộn thêm ít đường để tăng vị ngọt, khi bánh chín nhân có màu đỏ tím nổi bật giữa lớp vỏ nếp trắng trông rất lạ mắt.
Cũng còn một loại bánh tét đặc biệt nữa là bánh tét thập cẩm. Nguyên liệu chính của bánh vẫn là nếp và đậu xanh, nhưng phần nhân có thêm trứng, tôm khô, lạp sườn, hạt sen, lạc, nấm. Loại bánh này ăn rất ngon nhưng cũng khá tốn kém, xưa kia chỉ những gia đình khá giả mới làm.
Bánh phải được buộc thành cặp, có buộc dây để dễ xách, khi tặng người thân, bè bạn phải cả đôi, thay cho lời chúc một năm mới đủ đôi vừa cặp, hạnh phúc, thịnh vượng.
Bánh phải được cắt bằng sợi chỉ tạo cho mặt bánh mịn màng. Ăn bánh với củ kiệu hoặc thịt lợn kho tàu, mùi thơm dẻo của gạo nếp, vị bùi của nhân đỗ, vị béo của thịt lợn và vị chua của củ kiệu hoà quyện với gia vị tạo nên hương vị thật là độc đáo làm người ăn một lần sẽ nhớ mãi.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết 8
Từ lâu, bánh tét hiện diện như một nét văn hóa độc đáo của người dân Nam Bộ.
Đặc biệt trong những ngày giỗ, ngày lễ hội và ngày Tết, bánh tét là một trong những món không thể thiếu để các gia đình dâng cúng ông bà, tổ tiên. Hương vị bánh tét làm cho Tết cổ truyền trở nên ấm áp hơn.
Mỗi dịp Xuân về, nếu ở miền Bắc, miền Trung có bánh chưng xanh thì ở miền Nam có bánh tét. Nguyên liệu gói bánh tét cũng là những nguyên liệu đậm chất quê hương như bánh chưng, gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn… nhưng khác ở chỗ: nếu bánh chưng gói bằng lá dong thì bánh tét gói bằng lá chuối, nếu bánh chưng hình vuông thì bánh tét gói tròn, dài khoảng 20cm. Tuy nhiên, nhân bánh tét phong phú hơn, có thể là thịt, có khi nhân làm bằng chuối chín.
Bánh tét có nhiều loại nhân và vị mặn, ngọt tùy ý gia chủ. Phần nếp, bánh tét cổ truyền thường được trộn thêm đậu đỏ hoặc đậu đen cho có sắc màu. Bánh tét được xem như một món ăn phổ biến không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết của người dân Nam Bộ.
Để hương vị bánh thơm ngon, công việc gói bánh phải chu đáo, tỉ mỉ ngay từ khâu chuẩn bị. Gạo nếp ngon, không bị lẫn gạo tẻ đem vo sạch, để ráo nước. Đậu xanh đãi vỏ nấu nhuyễn. Dừa khô nạo nhỏ vắt lấy nước cốt. Lá dứa giã nhuyễn, lọc lấy nước trộn hòa vào nếp để lấy mùi thơm và màu xanh hoặc cho nguyên lá vào nấu sôi chung với nước cốt dừa lấy mùi thơm.
Sau đó, nếp đã ráo nước được cho vào xào săn chung với nước cốt dừa tạo vị béo và thơm. Thịt mỡ hoặc thịt ba chỉ cắt hình chữ nhật theo độ dài của bánh và ướp chút muối, chút đường trước khi làm nhân. Đậu xanh nấu nhuyễn vo làm nhân được nắn theo chiều dài của bánh tét.
Hoàn thành việc gói bánh xong thì chuẩn bị khâu luộc: nước nấu sôi, xếp bánh vào theo từng lớp, đổ nước thêm cho ngập bánh và chất lửa nấu, nước cạn tới đâu thêm vào đến đó. Quá trình nấu kéo dài khoảng 8 tiếng thì bánh thành phẩm rền, thơm, béo ngậy. Đĩa bánh cắt khoanh sau khi dâng cúng tổ tiên trong ngày Tết được hạ xuống ăn cùng với thịt kho, dưa món đậm đà hương vị quê hương.
Ngày Xuân, mọi thành viên trong gia đình về đoàn tụ và được thưởng thức những khoanh bánh tét thơm ngon mới thấy hết giá trị của không khí gia đình truyền thống và ý nghĩa Tết cổ truyền của dân tộc. Màu xanh của lá, mùi thơm của nếp, của lá dứa, vị ngọt bùi của nhân đậu, thịt sẽ là hương vị đậm đà khó quên cho mỗi người, nhất là đối với du khách đã một lần ghé thăm và ăn Tết với người dân Nam Bộ.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết 9
Theo phong tục Tết cổ truyền nồi bánh tét được nấu vào đêm 30 đón giao thừa. Cả nhà thức chờ quanh nồi nấu bánh, trẻ con làm nhiệm vụ chụm bếp lò, tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của buổi sum họp gia đình ngày Tết.
Tết, người Nam Bộ chỉ gói hai loại bánh tét là: bánh tét chay và bánh tét mặn. Bánh chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn. Bánh tét ăn kèm với củ kiệu, dưa chua, thịt kho tàu.
Một số sách vở cho rằng, bánh tét là sản phẩm của sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau tại miền Nam. Trong đó, chủ đạo là văn hóa Chăm với tín ngưỡng “phồn thực”. Hình dạng bánh tét là hình tượng Linga. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).
Nguyên liệu làm bánh là từ động vật (thịt ba chỉ) và thực vật (lá gói, gạo nếp, đậu xanh), đại diện cho hai cực âm – dương. Ngoài ra, đậu và nếp cũng là hai cực âm – dương khi được trồng ở hai nơi: đậu trên cạn và lúa nếp dưới nước. Âm dương hòa quyện vào nhau không thể tách rời và làm nên một vật phẩm, một món ăn đặc trưng cho ngày Tết cổ truyền.
Mặt khác, tên gọi bánh tét có cách phát âm gần giống với từ “Tết” nên người ta cho rằng bánh tét là bánh Tết được đọc lệch đi theo cách ăn loại bánh này. Điều này giải thích vì sao bánh tét lại có mặt trong ba ngày Tết của người miền Nam.
Theo phong tục Tết cổ truyền nồi bánh tét được nấu vào đêm 30 đón giao thừa. Cả nhà thức chờ quanh nồi nấu bánh, trẻ con làm nhiệm vụ chụm bếp lò, tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của buổi sum họp gia đình ngày Tết.
Tết, người Nam Bộ chỉ gói hai loại bánh tét là: bánh tét chay và bánh tét mặn. Bánh chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn. Bánh tét ăn kèm với củ kiệu, dưa chua, thịt kho tàu.
Một số sách vở cho rằng, bánh tét là sản phẩm của sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau tại miền Nam. Trong đó, chủ đạo là văn hóa Chăm với tín ngưỡng “phồn thực”. Hình dạng bánh tét là hình tượng Linga. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).
Nguyên liệu làm bánh là từ động vật (thịt ba chỉ) và thực vật (lá gói, gạo nếp, đậu xanh), đại diện cho hai cực âm – dương. Ngoài ra, đậu và nếp cũng là hai cực âm – dương khi được trồng ở hai nơi: đậu trên cạn và lúa nếp dưới nước. Âm dương hòa quyện vào nhau không thể tách rời và làm nên một vật phẩm, một món ăn đặc trưng cho ngày Tết cổ truyền.
Mặt khác, tên gọi bánh tét có cách phát âm gần giống với từ “Tết” nên người ta cho rằng bánh tét là bánh Tết được đọc lệch đi theo cách ăn loại bánh này. Điều này giải thích vì sao bánh tét lại có mặt trong ba ngày Tết của người miền Nam.
Một truyền thuyết khác bổ sung thêm cho nguồn gốc của bánh tét, cách gọi tên bánh và thói quen ăn bánh tét trong ngày Tết được kể như sau:
Vào mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789, Nguyễn Huệ và quân ta đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước. Lúc bấy giờ quân lính được nghỉ ngơi, ăn Tết. Trong số quân lính có anh lính nọ được người nhà gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình dạng như bánh tét ngày nay (tuy nhiên lúc bấy giờ chưa có tên gọi). Anh lính mang bánh mời vua Quang Trung.
Vua ăn thấy ngon bèn hỏi thăm về loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà làm gửi cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau bụng (có thể xem là đau dạ dày) nhưng khi ăn bánh này thì lại không thấy đau nữa.
Nghe câu chuyện cảm động của anh lính, vua bèn ra lệnh cho mọi người gói loại bánh này để ăn Tết và đặt tên là bánh Tết nhằm ghi nhớ chiến thắng giặc Thanh vào mùa xuân và thể hiện tình cảm gia đình thắm thiết mỗi độ xuân về. Đó được xem là nguồn gốc của bánh tét trong ngày Tết cổ truyền.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết 10
Việt Nam – dải đất hình chữ S thân yêu của chúng ta luôn được bè bạn trên khắp thế giới biết đến là thiên đường ẩm thực với nhiều món ăn hấp dẫn, thú vị. Trong thế giới ẩm thực với muôn ngàn hương vị, sắc màu ấy, những món bánh luôn được nhiều người lựa chọn khi ghé thăm Việt Nam và bánh tét và một trong số những loại bánh như thế. Cùng khám phá, tìm hiểu về bánh tét chắc hẳn chúng ta sẽ có nhiều cảm nhận độc đáo và thú vị.
Cùng với bánh chưng, bánh tét cũng là một loại bánh gần gũi và phổ biến của những người con đất Việt trong đời sống hằng ngày và đặc biệt là trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Bánh tét là loại bánh có nguồn gốc lâu đời bậc nhất ở nước ta. Bánh tét ở mỗi vùng miền khác nhau còn có thể được gọi bằng những cái tên khác như bánh đòn, bánh tày,… Bàn về sự ra đời của bánh tét có nhiều giai thoại khác nhau song mỗi giai thoại đều có những lí do và ý nghĩa riêng. Theo một số chuyên gia nghiên cứu về văn hóa, bánh tét chính là một trong số những sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa Việt – Chăm. Do trong quá trình giao lưu văn hóa, người Việt đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Chăm nói chung, yếu tố tín ngưỡng Chăm nói riêng và đặc biệt là yếu tố tín ngưỡng thờ thần nên về sau người Việt đã sáng tạo ra chiếc bánh tét như bây giờ. Tuy nhiên, bên cạnh ý kiến cho rằng bánh tét là sản phẩm của văn hóa Việt – Chăm thì nhiều giai thoại hiện còn lại trong dân gian cho rằng bánh tét ra đời gắn với câu chuyện vua Quang Trung đánh giặc Thanh vào dịp Tết. Khi đó, vua đã được một quân lính dâng lên một chiếc bánh được gói thành hình trụ trong lá chuối, khi ăn rất ngon và về sau, vua đã ra lệnh cho mọi người gói bánh này vào dịp Tết, đồng thời đặt tên cho nó là bánh tét. Như vậy, có thể thấy, có nhiều tích truyện, giai thoại khác nhau về nguồn gốc, sự xuất hiện của bánh tét song theo cách lí giải nào đi chăng nữa thì cũng có thể thấy bánh tét là một trong số những loại bánh đã xuất hiện ở nước ta từ rất sớm và rất gần gũi, quen thuộc với mọi người dân Việt Nam.
Bánh tét thường được làm từ hai loại nhân chủ yếu là nhân ngọt từ chuối và nhân mặn từ đậu, thịt và cũng căn cứ vào đặc điểm của nhân bánh mà người ta chia bánh tét thành hai loại là bánh tét ngọt và bánh tét mặn. Cũng giống như bánh chưng, những nguyên liệu để làm bánh tét cũng rất đơn giản và là những vật phẩm gần gũi trong cuộc sống hằng ngày của con người Việt Nam như gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá chuối, lạt buộc cùng các loại gia vị khác như tiêu, đường,… Để làm ra một chiếc bánh tét đòi hỏi người làm bánh phải rất cẩn thận, tỉ mỉ và phải trải qua các giai đoạn, các bước khác nhau. Việc làm đầu tiên để tạo ra một chiếc bánh tét đó chính là khâu sơ chế nguyên liệu. Gạo nếp sau khi mua về cần được làm sạch, rồi đem đi ngâm với nước, để qua đêm nhằm mục đích làm cho hạt nếp nở ra, khi nấu bánh sẽ nhanh chín và dẻo hơn. Cùng với gạo nếp, nhân bánh cũng là phần quan trọng được những người làm bánh đặc biệt chú ý. Nhân bánh thường được làm từ đậu xanh, thịt lợn. Đậu xanh ngâm với nước rồi đãi sạch vỏ và nấu nhuyễn. Thịt lợn được cắt thành sợi dài, ướp với tiêu, nước mắm và không cho thêm dưa hành như nhân của bánh chưng. Cuối cùng đó chính là chuẩn bị lá và lạt buộc. Lá chuối để gói bánh thường được hơ qua lửa để có độ dẻo dai nhưng vẫn giữ được màu sắc. Lạt buộc thường được chẻ thành sợi dài và mỏng để dễ dàng hơn khi buộc bánh. Sau khi đã chuẩn bị xong nguyên liệu, người ta tiến hành gói bánh. Bánh tét được gói thành hình tròn với độ dài khoảng 20 xăng-ti-mét. Sau khi đã gói xong bánh đó chính là giai đoạn nấu bánh. Bánh tét thường được nấu trong khoảng thời gian 8 tiếng thì chín, có độ mềm, dẻo với mùi thơm, béo ngậy.
Có thể thấy, bánh tét là một loại bánh gần gũi với những người con đất Việt và có lẽ bởi vậy nó có vai trò, giá trị và ý nghĩa to lớn trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Trước hết, bánh tét là loại bánh không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên mỗi dịp Tết đến xuân về bởi người Việt ta từ ngàn đời nay quan niệm thưởng thức bánh tét vào những ngày cuối năm hay đầu năm mới thể hiện sự cầu chúc ấm no, sum vầy hạnh phúc của gia đình và hơn thế nữa, nó thể hiện sự đa tạ, biết ơn trời đất, ông bà tổ tiên đã cho người dân mùa màng thuận lợi, vạn điều tốt lành. Không dừng lại ở đó, bánh tét còn là hình ảnh tượng trưng cho niềm ước mong được “an cư lạc nghiệp” của một mùa xuân, một năm mới an bình đối với mọi gia đình. Bánh tét còn là một nét đẹp văn hóa trong ẩm thực của người Việt, được bạn bè trên khắp năm châu bốn bể biết đến.
Tóm lại, cũng giống như bánh chưng, bánh tét là một loại bánh cổ truyền của dân tộc, nó có ý nghĩa to lớn trong đời sống của những người con Việt Nam. Chiếc bánh tét nhìn giản đơn nhưng thấm đẫm thật nhiều ý nghĩa cùng những điều tốt đẹp và có lẽ bởi vậy, dẫu thời gian trôi đi, cuộc sống ngày càng có thêm nhiều món ăn mới, hấp dẫn hơn nhưng sẽ không bất cứ món ăn nào có thể thay thế được vị trí của chiếc bánh tét trong lòng con người Việt, đặc biệt là mỗi dịp Tết đến xuân về.
Thuyết minh về món ăn truyền thống: Bánh Tét ngày Tết 11
Trong những ngày Tết Cổ Truyền Việt Nam, bánh tét không thể thiếu trong những ngôi nhà người Miền Nam, nhưng từng vùng,từng miền có những nét đặc trưng riêng.Nhờ những đặc trưng vùng miền, bánh tét miệt vườn biến hóa đa hình đa dạng: mang hình hoa cúc,nhân có chữ, một bánh nhiều nhân… góp thêm hương vị cho ngày xuân mọi nhà.
Không như các loại bánh khác, ngoài ý nghĩa ẩm thực, bánh tét còn mang ý nghĩa nghi lễ truyền thống, đi vào tâm thức người Việt như một thứ tình cảm thân thuộc không thể tách rời.
Với những đại gia đình người Việt, hình ảnh cả nhà quây quần gói bánh, đêm ba mươi xúm xít bên bếp lửa vừa canh nồi bánh tét vừa đón giao thừa là hình ảnh mẫu mực kinh điển mang ý nghĩa sum họp. Trong không gian se lạnh cuối năm, ánh lửa leo lét và làn hơi nhẹ mỏng của nồi bánh và những gương mặt thân quen hớn hở mở lòng đón mừng năm mới như phả vào lòng người hơi ấm dịu dàng khó tả.
Cũng là nếp, đậu, nước cốt dừa, thịt mỡ nhưng bởi mỗi gia đình có một khẩu vị, sở thích riêng, nên cũng tạo ra dấu ấn riêng trong nồi bánh tét. Những người trong gia đình nề nếp rất khó tìm thấy vị ngon trong bánh tét… không do nhà mình gói. Dù giàu dù nghèo, trong dịp tết biếu nhau một cặp bánh tét đã đủ để thể hiện tấm lòng tình nghĩa, Bây giờ cuộc sống gấp gáp, thời gian cho ngày tết không nhiều, rất ít gia đình còn có thời gian dành cho “bánh tét nhà mình” nên người ta đành cậy nhờ hương vị của bánh thị trường. Chính nhờ vậy bánh tét đặc sản các địa phương có dịp đua nhau về thành, cho thấy bức tranh đa dạng của bánh tét khắp các vùng miền.
Vùng Bình Dương, Tây Ninh đất cát là xứ rẫy có nhiều đậu nên bánh tét ở đây làm bằng nếp trộn đậu phộng. Đồng Nai có bánh tét nhân hột điều. Sóc Trăng – nơi nhiều đồng bào người Khmer sinh sống – có bánh tét cốm dẹp (nếp non giã tróc vỏ, ruột dẹp mỏng); Ba Tri (Bến Tre) có bánh tét bắp non…Tuy nhiên, đỉnh cao tinh tế của bánh tét lại được làm ra từ những phụ nữ miệt vườn Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Mỹ Tho. Trên vùng đất phù sa màu mỡ, nhịp sống chậm rãi, văn hóa các dân tộc Việt, Khmer, Hoa, Pháp giao thoa mạnh mẽ tạo ra một không gian văn hóa đặc biệt mà nhà văn SơnNamgọi là Văn minh miệt vườn. Theo nền văn minh này, bánh tét được làm không chỉ để cúng, để ăn mà còn để thưởng thức, để ngắm, để biếu tặng nhau một cách trân trọng.Nếp làm bánh ở đây đương nhiên phải chọn từ giống nếp tốt nhất, thường được xào với nước cốt dừa trước khi gói để tăng vị béo và rút ngắn thời gian nấu. Có nơi còn pha đậu đen trong nếp để tạo vị bùi và tạo màu nâu sẫm. Nhân bánh có nhiều loại: nhân mặn đậu xanh, thịt mỡ hay ba rọi.Ngọt có loại chuối, đậu xanh nấu ngọt. Nhưng nét độc đáo của bánh miệt vườn là hình dạng bên trong của bánh. Vùng Chợ Gạo, Tiền Giang có loại bánh nhiều nhân. Đường kính của đòn bánh dài từ một đến một tấc rưỡi, bên trong có từ ba đến sáu loại nhân khác nhau. Chỉ một khoanh bánh, người ăn cảm nhận được đủ các loại hương vị mặn, ngọt, béo, bùi từ đậu, thịt, chuối… mà không lẫn lộn.Vĩnh Long, Cần Thơ có “hàng độc” là bánh nếp lá cẩm. Lá cẩm có màu tím được vắt nước pha, luộc qua nếp để tạo màu. Từ màu nếp tím phối với màu đỏ của chuối, vàng của đậu xanh, trắng của mỡ…, những nghệ nhân làm bánh có cách phối màu độc đáo, khi cắt ra, từng khoanh bánh cho ra hình hoa cúc. Tiêu biểu cho dòng bánh này là bánh tét hấp cô Hai Hà ở xã Lục Sĩ Thành, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ngoài các loại nhân truyền thống (đậu, chuối…) còn có thêm dòng bánh mới nhân mặn: thịt ba rọi, trứng vịt muối. Bánh hấp bằng hơi nước chứ không nấu trong nồi nước nên có thể giữ lâu..Đặc biệt ở Trà Vinh có làng nghề bánh tét Trà Cuôn (chợ Trà Cuôn, xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang) nằm trên tuyến Quốc lộ 53, cách trung tâm thị xã Trà Vinh khoảng 12 km với hàng chục hộ làm nghề nấu bánh tét. Trước đây, bánh tét Trà Cuôn được làm từ loại nếp sáp địa phương. Hiện nay, nhu cầu ngày càng tăng cao, nguồn nếp địa phương không đủ cung cấp nên các lò bánh phải nhập nếp sáp của Thái Lan để làm bánh. “Độc chiêu” của bánh ở đây là nếp vo xong để ráo, trộn đều với nước lá rau ngót để tạo màu tươi và có mùi thơm.Nhưng có lẽ bánh tét độc đáo nhất là bánh tét Bến Tre. Bàn tay “phù thủy” của các nghệ nhân ở đây đã phù phép nên một loại bánh đặc biệt; khi cắt bánh từng khoanh xếp liền kề nhau, nhân bánh sẽ hiện thành chữ Phước, Lộc, Thọ, chữ Vạn, chữ May hay chữ Phúc ở giữa. Ngoài tay nghề khéo léo, người làm bánh còn gởi gắm tình cảm và cả giá trị tinh thần trong lời chúc mừng đến người ăn bánh. Khẩu vị bánh Bến Tre cũng cực kỳ lạ lùng, tưởng chừng như trong dừa Bến Tre có chất liệu đặc biệt nào đó nên vị béo của bánh ở đây khác hẳn những vùng miền khác. Nếp ở đây trắng đục nấu nhừ đến nhuyễn ra như bột vừa thơm vừa dẻo.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết 12
Mỗi độ xuân về, hầu như nhà nhà ở miền Tây đều không thể thiếu vắng sự hiện diện của những đòn bánh tét trên bàn thờ tổ tiên.Bánh Tét được xem như một biến thể của Bánh Chưng, loại bánh có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại qua truyền thuyết liên quan đến hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Do tác động của điều kiện sinh sống và nguyên liệu đặc trưng vùng miền, hình vuông của bánh Chưng đã biến thành hình trụ của bánh Tét, còn cơ bản các nguyên liệu và cách chế biến gần giống nhau.
Ngày nay, Bánh Chưng vẫn là lọai bánh truyền thống có vị trí đặc biệt trong tâm thức người dân phía Bắc, ngược lại Bánh Tét lại vô cùng thiêng liêng đối với người miền Nam. Gói và nấu bánh Tét, ngồi canh nồi bánh bên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người miền Nam. Từ đó, nhiều thương hiệu bánh tét ở miền Tây ra đời. Trong đó, bánh tét lá cẩm gia truyền ở Cần Thơ nổi tiếng ngon, vị lạ không nhầm lẫn với vùng quê khác .
Để có một mẻ bánh tét lá cẩm ngon, quá trình chế biến rất công phu. Trước tiên phải lựa nếp thật tốt, không lẫn gạo tẻ mới làm cho đòn bánh dẻo, ngâm qua 6 tiếng sau đó để ráo, trộn với nước lá cẩm để lên màu tím đẹp mắt. Lá cẩm phải còn tươi, lá úa sẽ làm cho nước lá cẩm xuống màu. Sau khi ngâm nếp tương đối mềm thì sẽ xào chung với nước cốt dừa, nêm muối, đường trong thời gian khoảng một tiếng để màu lá cẩm và vị bó của nước dừa ngấm vào từng hạt nếp. Nhân bánh tét lá cẩm khá đa dạng, có thể bên trong là đậu xanh, thịt, trứng muối, có thể thêm tôm khô hoặc chỉ đơn giản là nhân chuối.Bánh được gói trong lá chuối tươi, không quá non cũng không quá già, được lau sạch và thoa một lớp dầu trên bề mặt để tránh nếp dính vào lá khi nấu. Công đoạn gói chính là lúc cần đến đôi bàn tay khéo léo, bánh đẹp phải đảm bảo tròn đều, sao cho nhân bánh là thịt, hay trứng muối, lạp sườn, thậm chí là nhân chuối với bánh tét chay phải được nằm đúng ở vị trí chính giữa của bánh.
Chưa hết, khi buộc bánh người thợ còn phải có sự tinh tế để cảm nhận độ giằng chắc vừa đủ. Khâu luộc bánh cũng quan trọng không kém. Bánh tét phải luộc củi mới ngon, rền, để lâu bánh vẫn dẻo mà không bị lại gạo. Bánh luộc khoảng 4 – 5 tiếng đồng hồ thì chín rồi vớt ra để ráo nước. Lá cẩm không chỉ cho màu tím bắt mắt mà còn là phương pháp bảo quản tự nhiên không độc hại. Nếu đòn bánh tét thông thường chỉ để được 2, 3 ngày thì bánh tét lá cẩm có thể kéo dài 4, 5 ngày. Thậm chí nếu trời lạnh có thể để 7, 8 ngày mà bánh không hỏng. Ngoài ra còn có thể bảo quản bánh trong tủ lạnh, khi dùng chỉ cần đem hấp lại.
Chính nhờ sự công phu, tỉ mỉ nên bánh tét lá cẩm Cần Thơ rất nổi tiếng. Hơn nữa, màu tím hồng tự nhiên của lá cẩm khiến chiếc bánh thêm sinh động, đẹp mắt. Cắn một miếng bánh tét màu tím, nếp dẻo và cái vị ngọt của thịt, của hương thơm trứng muối như đọng trong đầu lưỡi. bạn sẽ thấy sự khác biệt rất rõ khi ăn loại bánh tét đặc biệt này so với loại bánh tét truyền thống khác. Dù bất kỳ ai có khó tính đến mấy cũng phải gật đầu khen ngon mỗi khi được thưởng thức bánh tét lá cẩm dẻo, thơm xuất xứ từ vùng đất Cần Thơ.
Khi đời sống càng ngày càng phát triển, nhu cầu ngày càng tăng cao thì bánh tét không chỉ được làm trong mỗi dịp Tết nữa mà món bánh truyền thống này được làm hàng ngày phục vụ nhu cầu của người dân và du khách.
Hiện ở Cần Thơ còn khá nhiều lò bánh tét lá cẩm hoạt động nổi tiếng nhất là bánh tét lá cẩm của nghệ nhân Huỳnh Thị Trọng, bánh tét Chín Cẩm, bánh tét Tư Đẹp… đây là những thương hiệu bánh lâu đời tại Cần Thơ. Khi du lịch Cần Thơ đừng quên thưởng thức món bánh tét lá cẩm và mua về làm qua cho người thân tại các chợ như: chợ Xuân Khánh, An Thới, Mít Nà… ,siêu thị hay đến bến Ninh Kiều, bạn dễ dàng tìm được các sạp bánh đặt rải rác dọc theo bờ sông.
Thuyết minh về chiếc bánh Tét ngày Tết 13
Món bánh Tét thơm ngon đã trở thành món ăn quen thuộc của người dân Nam Bộ mỗi dịp xuân về, cùng như bánh chưng ở ngoài miền bắc vậy.
Đối với người miền Nam, đặc biệt là người vùng sông nước Cửu Long, món bánh Tét này dường như là một món ăn thân thuộc hàng ngày với họ như món cơm vậy. Tuy nhiên, cái nét thân thuộc đó lại là một nét vô cùng độc đáo với người dân vùng miền khác. Và đặc biệt món bánh tét lá cẩm ở Cần Thơ đã khiến nhiều ngường ngưỡng mộ không chỉ bởi vị ngon mà còn do nó có màu sắc hết sức đẹp mắt.
Những thương hiệu bánh tét lá cẩm nổi tiếng ở Cần Thơ có thể kể tên: bánh tét của nghệ nhân Huỳnh Thị Trọng, bánh tét Chín Cẩm, bánh tét Tư Đẹp…
Cách làm bánh tét đặc sản miền Nam Việt Nam cũng gần giống với cách làm món bánh chưng ở ngoài bắc. Cũng làm từ gạo nếp, nhân thịt với đỗ xanh bọc lá nhưng ngày nay người Nam Bộ khiến chiếc bánh tét sặc sỡ hơn bởi mầu tím đậm đà của lá cẩm.
Muốn làm được một chiếc bánh tét đẹp mắt và ngon miệng, việc lựa chọn nguyên liệu làm bánh cần phải rất cẩn thận và cầu kỳ. Loại nếp làm bánh phải là loại nếp thơm ngon không bị lẫn gạo tẻ, hạt nếp phải căng tròn không nép, được ngâm kỹ trong nước lá cẩm. Lá cẩm lấy nước phải là lá tươi không héo mới cho ra được màu bánh đẹp. Nếp sau khi ngâm được xào với nước cốt dừa, nêm nếm muối, đường, xào trên bếp lửa khoảng 1 tiếng đồng hồ cho màu lá cẩm cũng như nước cốt dừa ngấm đầy hột nếp, vừa chín khoảng 30% rồi mới gói. Xào cũng là khâu quan trọng. Nếu dư liều nước, bánh nhão, không ngon.
Nhân làm bánh đặc biệt phải làm từ những nguyên liệu ngon như: Thịt sườn cốt lết cắt thành từng miếng bằng ngón tay cái ngâm trong gia vị cho đủ ngấm, lòng đỏ trứng vịt muối, cùng với đỗ xanh nghiền nhỏ. Lá chuối gói bánh không được non hoặc già quá; lau sạch, không cần phết dầu, vì nước cốt dừa trong hột nếp khi nấu tiết ra đủ để không làm nếp dính lá khi bánh chín.
Bánh tét được đun trong khoảng 4 đến 5 tiếng đồng hồ, trong thời gian đun lửa phải đều để bánh có thế chín đều. Sau khi vớt ra, món bánh tét thơm ngon này có thể được sử dụng trong khoảng 7 ngày. Muốn có món bánh tét thơm ngon nóng hỏi ngày tết, người dân nơi đây phải thức qua đêm giao thừa để làm. Cả nhà quây quần bên nhau mỗi người một việc, cũng khiến cho không khí tết của gia đình thêm ấm cúng hơn.
Màu tím hồng của nếp cẩm làm nổi bật lớp nhân đậu xanh chắc nịch, thịt mỡ trong veo và trứng muối vàng ươm. Và khi thưởng thức món bánh tét lá cẩm người ta không thể nào mà quên được cái vị thơm dẻo của lớp gạo nếp cùng vị ngọt đậm đà của thịt và vị bùi bùi đăc trưng của trứng vịt muối, nó khác với nhân bánh tét làm từ đậu trắng, đậu đen nhân mỡ hành, nhân chuối theo kiểu truyền thống. Ngoài ra màu tím của lá cẩm cũng làm cho bánh tét thêm đẹp mắt hơn.
Ngày nay, người dân nơi đây cái tiến chiếc bánh tét lá cẩm thành những chiếc bánh tét vô cùng độc đáo như xếp nhân bánh để thành chứ Phúc chữ Lộc hay chứ Thọ, chính điều này khiến giá của chiếc bánh tét này cao hơn những loại bánh tét đơn giản khác, và đây cũng là một món quà ngày tết khá độc đáo và vô cùng ý nghĩa.