Tiếng nói tâm hồn của nhân vật trữ tình trong bài thơ Tràng Giang của Huy Cận hay nhất

Tràng giang (in trong tập Lửa thiêng, 1940) là một kiệt tác của nền thơ Việt Nam hiện đại, thể hiện rất rõ phong cách nghệ thuật thơ Huy Cận thời kì trước Cách mạng với giọng “ảo não”, với niềm khắc khoải khôn nguôi trước một không gian xa vắng và thời gian chiều tà hết sức đặc trưng.

Đoạn trích gồm khổ 2 và khổ 3 của bài thơ, dựng lên sống động hình ảnh của một buổi chiều muộn trên sông với những đặc điểm nổi bật là mênh mông, đìu hiu, cô liêu, lặng lẽ. Bức tranh gần như đơn sắc, có màu xanh, màu vàng (bờ xanh, bãi vàng) nhưng những màu đó nhạt mờ và nhoà lẫn vào nhau. Sự vật trong bức tranh toả đều trên nền rộng, với những cồn nhỏ nổi lơ thơ, rải rác đây đó; với những hàng bèo nối nhau trôi trên dòng nước. Động thái ở đây chỉ là sự đưa lướt đìu hiu của gió, nhịp điệu dịch chuyển miên man, vô định của bèo. Âm thanh được gợi lên cũng mơ hồ, xao xác như có như không… Bút pháp tạo hình đã đạt đến trình độ bậc thầy. Mọi chi tiết miêu tả đều gây được cho người đọc những ấn tượng khó phai mờ.

Cảnh trí hiện lên như thật, gợi tình quê đậm đà. Ta tưởng như nhà thơ chỉ việc vẽ lại những gì đã thấy, đã quan sát được tại một địa điểm xác định. Kì thực, đây trước hết là một bức tranh tâm hồn của thi nhân. Cảnh buồn nhưng thực ra là người buồn, lòng buồn. Trong dáng nét chuyển động của gió, ta nghe được tiếng lòng khắc khoải trước không gian. Qua cử chỉ lắng tai ghi nhận tiếng chợ chiều ngày muộn, ta thấy được niềm chắt chiu những âm thanh của sự sống. Qua nét vẽ những véc tơ chuyển động ngược chiều của nắng xuống, trời lên, ta cảm nhận được rất rõ nỗi chới với rợn ngợp của một tâm hồn quá nhạy cảm với cái rộng dài vô biên của vũ trụ. Qua chi tiết tả những hàng bèo trôi, ta thấy hiện lên một tâm sự hoang mang với câu hỏi về đâu cắt cứa âm thầm. Qua ánh mắt tìm kiếm một chuyến đò ngang, một cây cầu bắc nối hai bờ, ta hiểu được sự cựa quậy của một niềm mong mỏi, mong mọi sự vật trong cõi đời này không tồn tại cách biệt nhau đến thế…

Tiếng nói trữ tình trong đoạn thơ, cũng như trong cả bài thơ là tiếng nói của cái tôi cá nhân. Cái tôi ấy nhìn sâu vào lòng mình và thấy trong đó có cả một thế giới cần được bày tỏ, với tất cả những gì thật nhất: có nỗi cô đơn, có niềm khát sống. Cái tôi ấy, trong khi tâm trí hướng về những không gian xa xôi thì các giác quan vẫn luôn mở rộng để ghi nhận những hình sắc cụ thể, mến thân của cuộc đời.

Đoạn thơ thể hiện rất sâu nỗi sầu nhân thế cũng như nỗi sầu vũ trụ của Huy Cận. Tất cả quyện chặt vào nhau, làm cho mọi sự vật hiện hữu trước mắt ta cũng mang chở một suy tư bát ngát, hướng tới những câu hỏi lớn của tồn tại vốn giày vò tâm trí của bao bậc thức giả xưa nay. Ngược lại, những suy nghĩ siêu hình, trừu tượng cũng nhờ bao cảnh trí, dáng nét, âm thanh quen thuộc mà về gần với những vui buồn của nhân gian, dễ nhận được sự chia sẻ, đồng cảm của độc giả rộng rãi.

Nói về tiếng nói tâm hồn của nhân vật trữ tình trong bài thơ, không thể không nhận thấy sự thiết tha đối với những gì thuộc về “tình tự dân tộc”. Cảnh và tình đều rất Việt Nam. Phong vị dân tộc, cổ điển thấm đượm trong cách dùng từ (đặc biệt là các từ láy như lơ thơ, đìu hiu, chót vót, mênh mông, lặng lẽ), dùng các thi liệu đã quen (tiếng chợ chiều, cảnh sông dài trời rộng, chuyến đò ngang, những cụm bèo trôi dạt…); trong nghệ thuật tạo ra chiều sâu ám gợi, tượng trưng của các hình ảnh. Kiểu ứng xử với ngôn từ ở trên cho thấy sự nặng lòng với truyền thống của một nhà thơ mới, trong khi học hỏi nhiều kinh nghiệm nghệ thuật của các nền thơ lớn ở phương Tây, vẫn không quên suối nguồn thi ca mà mình đã được tắm gội trong đó từ tuổi ấu thơ.