Phân tích nhân vật Giu-li-ét trong đoạn kịch “Thề nguyền” rút trong kịch “Rô-mê-ô và Giu-li-ét” của kịch tác giả Sếch-xpia hay nhất

“Dưới trăng đôi trẻ đinh ninh thề nguyền” là trích đoạn Hồi II, cảnh 2 vở bi kịch “Rô-mê-ô và Giu-li-ét” của kịch tác gia vĩ đại Sếch-xpia.

Vở bi kịch có những cảnh hãi hùng như cảnh Ti-bân, anh họ của Giu-li-ét giết chết Mơ-kiu-xi-ô, người nhà Môn-ta-ghiu và sau đó, Rô-mê-ô đã giết chết Ti-bân để trả thù; cảnh Rô-mê-ô giết chết Pa-rít tại khu hầm mộ của gia đình Ca-piu-lét. Còn có cảnh thương tâm: cảnh Rô-mê-ô uống thuốc độc tự tử để cùng chết với người yêu; cảnh Giu-li-ét hồi tỉnh, dùng lưỡi kiếm mà Rô-mê-ô vẫn mang theo bên mình để quyên sinh được cùng xuống suối vàng với người bạn tình chung thuỷ. Bên cạnh những cảnh hãi hùng và thương tâm đó, còn có cảnh thơ mộng Rô-mê-ô và Giu-li-ét đinh ninh thề nguyền dưới trăng ở khu vườn của gia đình Ca-piu-lét.

Giu-li-ét và Rô-mê-ô là cặp uyên ương từng được sống trong những giây phút thần tiên thơ mộng. Trai tài gái sắc thề nguyền “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” (“Truyện Kiều”- Nguyễn Du). Nhân vật Giu-li-ét trong trích đoạn kịch đã để lại cho khán giả nhiều ấn tượng tuyệt vời.

Giu-li-ét kiều diễm xuất hiện trên cửa sổ đẹp tươi, rực rỡ như ánh sáng vừng đông “lóe lên”. Đôi mắt nàng “lấp lánh” như hai ngôi sao đẹp nhất trên bầu trời, vẻ đẹp rực rỡ của đôi gò má nàng “làm cho các vì tinh tú phải hổ ngươi”. Chim chóc sẽ động “lóe lên”. Đôi mắt nàng “lấp lánh” như hai ngôi sao đẹp nhất trên bầu trời, vẻ đẹp rực rỡ của đôi gò má nàng “làm cho các vì tinh tú phải hổ ngươi”. Chim chóc sẽ lên tiếng hót vang vì tưởng đêm đã tàn trước làn ánh sáng tưng bừng mà cặp mắt giai nhân chiếu rọi. Cử chỉ “tì má lên tay” của nàng đã làm cho Rô-mê-ô say mê, khẽ thốt lên: "Ước gì ta là chiếc bao tay, để được mơn trớn gò má ấy!”. Với Rô-mê-ô thì Giu-li- ét là “nàng tiên lộng lẫy”, đang “tỏa ánh hào quang như một sứ giả nhà trời có đôi cánh, đang cưỡi những đám mây lười nhẹ lướt trên không trung, khiến kẻ trần tục phải cố ngước đôi mắt thịt mà chiêm ngưỡng. Sếch-xpia vốn là một thi sĩ viết rất hay về thơ tình nên đã sử dụng khá đắt các so sánh, ẩn dụ và nhân hoá để miêu tả nhan sắc tuyệt thế của Giu-li-ét qua cái ngắm nhìn đắm đuối của chàng Rô-mê-ô hào hoa, phong tình. Cảm hứng nhân văn toả sáng bức chân dung kiều diễm nàng Giu-li-ét.

Sau đêm dạ hội hoá trang tại nhà Ca-piu-lét, Rô-mê-ô bí mật gặp Giu-li-ét. Tình yêu của hai người bùng lên mãnh liệt. Giu-li-ét yêu say đắm Rô-mê-ô, nàng quyết tâm vượt qua mọi thử thách trở ngại, trước hết là mối hận thù truyền kiếp giữa hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét. Với nàng chỉ cần người yêu “từ bỏ thân phụ đi, từ bỏ tên họ đi; hoặc nếu không thì chàng hãy thề là chàng yêu em đi, em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa”. Qua đó, ta thấy nàng đã sống hết mình vì tình yêu, sẵn sàng hi sinh tất cả vì tình yêu. Nàng đã tha thiết cầu xin: “Rô-mê-ô chàng ơi, chàng hãy từ bỏ tên họ đi…, chàng hãy đổi nó lấy cả tấm thân em”.

Giu-li-ét rất lo sợ cho tính mạng của Rô-mê-ô “khó lòng thoát chết”, sẽ bị người nhà gia đình mình “giết chàng mất”, nếu họ “bắt gặp chàng” nơi khu vườn có tường cao này! Nàng “muốn vượt vòng lễ giáo”, thổ lộ với người yêu: “Chàng Môn-ta-ghiu tuấn tú ơi, em yêu chàng say đắm”; em “giàu lòng chung thuỷ”; em không phải là “gái lẳng lơ”, em chỉ mong chàng “đừng -vì nỗi lòng yếu đuối bị bắt chợt trong đêm tối mà ngờ em là kẻ trăng hoa”. Qua đó, ta thấy Giu-li-ét có một tấm lòng tự trọng và một trái tim bốc lửa trong tình yêu vô cùng trong sáng.

Nàng muốn người yêu “đừng lấy trăng kia mà thề thốt” vì “em chỉ sợ tình chàng cũng sẽ như trăng kia thay đổi”. Nàng chỉ muốn “chàng hãy đem tấm thân tuấn nhã kia ra mà thề” vì đó là “y là vị thần mà em thờ phụng, và em sẽ tin chàng”. Giu-li-ét sung sướng được gặp người yêu, mong muốn, khát khao “nụ ái tình”, sẽ sớm trở thành “một đoá hoa lộng lẫy”. Rất nhân hậu, nàng “xin cầu cho sự thanh thản êm đềm của lòng em cũng sẽ đến với trái tim chàng”.

Giu-li-ét là một thiếu nữ rất chung thuỷ trong tình yêu. Nàng chỉ muốn “được rộng lòng hào phóng và tặng chàng lần nữa”. Như một kẻ đa tình “Đã hôn rồi hôn lại – Hôn mãi đến muôn đời – Đến tan cả đất trời – Anh mới thôi dào dạt” (Biển – Xuân Diệu), Giu-li-ét cũng có một tình yêu mênh mông, bao la và vô cùng thắm thiết, như nàng đã nói với Rô-mê-ô: “Lòng em mênh mông, tình em thăm thẳm như biển cả, em tặng chàng thì em càng có nhiều, vì cả hai đều vô tận”. Nàng chỉ mong người yêu “giữ lòng chung thuỷ”. Tình yêu đẹp phải đi tới hôn nhân, vì thế nếu Rô-mê-ô “muốn cùng em xe tơ kết tóc”, “muốn hôn lễ cử hành ngày nào, chỗ nào” thì ngày mai “em sẽ cho người đến gặp chàng”. Và “Lúc đó, em sẽ trao thân gửi phận trong tay chàng và nguyện theo phu quân tới nơi chân trời góc bể”. Quả vậy, tình yêu đã cho Giu-li-ét một nghị lực, một sức mạnh phi thường để vượt qua mọi khó khăn thử thách, mọi trở lực ghê gớm.

Giu-li-ét đã dành cho Rô-mê-ô những lời đẹp đẽ nhất, trang trọng nhất: “Chàng Rô-mê-ô phong nhã hỡi”, “chàng Môn-ta-ghiu tuấn tú ơi”, “chính nhân quân tử”, “phu quân”. Giu-li-ét rất tự hào về Rô-mê-ô, người bạn trăm năm của mình. Ngôn ngữ của nàng là ngôn ngữ của một tiểu thư quý tộc nước Ý thời trung cổ, thể hiện một nhân cách, một tâm thế, một cách ứng xử cao sang. Vì thế, Rô-mê-ô mới yêu quý gọi Giu-li-ét là “nàng tiên lộng lẫy”, “nàng tiên yêu quý”, “nàng tiên kiều diễm”, “con chim non của anh”. Tình yêu của lứa đôi thật vô cùng nồng nàn, say đắm!

“Chín giờ ngày mai” là thời gian hò hẹn có là bao, thế mà Giu-li-ét coi dài “đằng đẵng như hai chục năm trường”. Đúng là “Ba thu dồn lại một ngày dài ghê!” (“Truyện Kiều” Nguyễn Du).

Xưa nay, mọi sự biệt ly đều nhuốm màu sầu thương. Trong đêm mộng thần tiên này, khi trời sắp sáng, Rô-mê-ô rời khỏi khu vườn gia đình Ca-piu-lét, phải tạm biệt Giu-li-ét, nhưng nàng muốn “chàng cứ ở đây mãi mãi, nhắc cho em thấy lòng em tha thiết gần chàng xiết bao”.

Nghe Rô-mê-ô nói: “Anh ước gì được làm con chim của em”, thì Giu-li-ét rất đỗi hạnh phúc, tự hào: “Em cũng ước mong như vậy, hỡi người yêu quý”. Đó là “nỗi buồn lúc chia tay êm đềm” của đôi tình nhân Rô-mê-ô và Giu-li-ét.

Qua trích đoạn kịch tình tự, thề nguyền, đính ước này, Sếch-xpia đã tạo nên một không gian nghệ thuật mộng mơ và nguy hiểm giàu tính kịch, một thời gian nghệ thuật êm đềm để khắc hoạ tâm tình cặp uyên ương đang say đắm thề nguyền. Giu-li-ét là một giai nhân tuyệt thế, qua lời thề tình tự đã thể hiện một quyết tâm vượt qua mọi hận thù dai dẳng để đi tới một tình yêu son sắt thuỷ chung, để sẵn sàng đi tới “nơi chân trời góc bể” cùng tình lang xây đắp mộng đẹp và tình yêu hạnh phúc.

Sau bốn thế kỉ, nhân vật Giu-li-ét trong kiệt tác bi kịch “Rô-mê-ô và Giu-li-ét” của Sếch-xpia vẫn hấp dẫn chúng ta. Một tình yêu tuyệt đẹp sáng ngời chủ nghĩa nhân văn đã ca ngợi tình yêu mạnh hơn hận thù, ca ngợi lứa đôi đã sống chung thuỷ trong tình yêu và có thể chết vì tình yêu.