Dàn ý Nghị luận về hám danh và hám lợi
1. Mở bài
Giới thiệu vấn đề nghị luận về thói hám danh, hám lợi
2. Thân bài
a. Giải thích, nêu biểu hiện của thói hám danh, hám lợi
- Giải thích các khái niệm: "hám", "danh", "lợi".
- Nêu biểu hiện của thói hám danh, hám lợi.
b. Phân tích tác hại của thói hám danh, hám lợi
- Xã hội hiện đại sản sinh ra một thế hệ "hữu danh vô thực", sùng bái và mải miết chạy đua với vòng danh lợi để thỏa mãn tham vọng quyền lực.
- Là nguyên nhân chính cản trở sự phát triển của một xã hội công bằng - dân chủ - văn minh.
- Là nguyên nhân dẫn đến việc con người bất chấp mọi thủ đoạn, lạm dụng chức quyền để trục lợi cá nhân, tước đoạt những lợi ích chính đáng của người khác.
c. Chỉ ra nguyên nhân của thói hám danh, hám lợi
- Sự lên ngôi và chi phối của đồng tiền.
- Con người không thể chống lại những cám dỗ, xác lập mục đích sống tiêu cực, lệch lạc.
d. Đề xuất giải pháp
- Con người cần rèn luyện lối sống giản dị cùng những lí tưởng sống cao đẹp.
- Lên án, phê phán lối sống thực dung, coi trọng giá trị đồng tiền và hư danh.
3. Kết bài
Khẳng định vấn đề nghị luận. Liên hệ bản thân.
Nghị luận về hám danh và hám lợi
Nguyễn Công Trứ (1778-1858), một ông quan to của triều Nguyễn, nhà thơ kiệt xuất của đất nước ta trong thế kỉ XIX từng nói về vị thế của kẻ sĩ, của đấng nam nhi giữa cõi đời là “Phải có danh gì với núi sóng”; nếu “Không công danh thời nát với cỏ cây“.
Chỉ có phường giá áo túi cơm, còn hầu như ai cũng muốn lập thân, cũng muốn làm nên công danh sự nghiệp. Tuy vậy, động lực của mỗi người một khác. Có người hiểu danh, nhưng có kẻ lại hám danh, háo danh.
Kính yêu và biết ơn cha mẹ, hết lòng săn sóc cha mẹ là hiếu thảo. Siêng năng, chăm chỉ học hành là hiếu học. Hiếu thảo, hiếu học đều mang hàm nghĩa đẹp, tốt.
Trái lại, hiếu danh (có tư tưởng ham danh vọng, tiếng tăm), hiếu chiến (thích gây chiến, đánh nhau), hiếu sắc (mê thích gái đẹp), hiếu sát (thích chém giết), hiếu thắng (thích hơn người), hiếu sự (thích bày chuyện phiền phức),... - đều mang nghĩa xấu.
Còn “hám” nghĩa là gì? - Hám là ham, muốn đến mức không còn biết phân biệt đáng với không đáng, nên với không nên, gần như mang tính bản năng; như hám của, hám danh, cá đói tham mồi,...
Chữ “háo” gần nghĩa với chữ “hám”. Hám nghĩa là rất ham, rất thích đến mức hầu như không còn nghĩa gì khác, thật đáng chê trách; như háo danh, háo sắc, háo của, háo chuyện,... Vì “khát” mà “háo”
Trong cuộc sống, ta thường bắt gặp nhan nhản đủ mọi loại người hiếu danh và hám danh. Những việc làm “ồn ào” của họ gây ra nhiều khó chịu cho nhiều người. Danh thường gắn liền với lợi; hám danh xét cho cùng là hám lợi. Có danh, có chức quyền nên mới có nhiều lợi lộc, bạc vàng. Những kẻ hiếu danh, hám danh, về tài thì hạn chế, về đức thì lèm nhèm, méo mó; còn lòng tham thì vô độ.
Kẻ hiếu danh và hám danh không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào như xài bằng giả, sử dụng bằng giả, chạy khen thưởng, chạy chức, ra sức lũng đoạn đục khoét tiền của nhà nước, móc túi của dân. Vì hám danh, háo danh, hễ thấy lợi, thấy vàng, thấy đô-la thì lao vào như con bạc khát nước, con thiêu thân lao vào ánh đèn. Chẳng có tài cán gì, đức độ gì những kẻ hám danh, hám lợi dùng đủ mọi trò ma quái để đánh lừa đồng loại. Bản chất, bản tính “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê” nhưng chúng đóng kịch rất giỏi về sự trong sạch, về cần kiệm liêm chính,... để lừa bịp đồng loại.
Một Phó bí thư tỉnh uỷ nọ lấy của công mấy nghìn đô-la để mua bằng giả; bằng “Tiến sĩ” ngoại rởm bỏ túi chi trong vòng sáu tháng, thật, “nhanh hơn tên lửa”. Một Trưởng ban tuyên giáo tỉnh uỷ kia tạo dựng mọi giấy tờ giả, biên bản giả để kiếm cái Huân chương lao động hòng đeo lên ngực cho oai! Một Chủ tịch huyện sao “ăn đất khoẻ” rứa! Bộ mặt kẻ hám lợi bị vạch mặt, tay bị còng, bị đẩy vào nhà đá mà ngồi “bóc lịch” những năm dài! Và còn bao quan chức hám danh, hám lợi, làm xằng làm bậy mà chưa bị vạch mặt!
“Trời mưa mau tối, nói dối mau cùng”, “giấu đầu hở đuôi", “một lời nói dối sám hối chín ngày”, “tham thì chết”,... là những câu tục ngữ nói lên cái hậu quả bi thảm của thói nói dối bịp bợm của kẻ hám danh, hám lợi.
Chạy chức, chạy quyền vì hám danh, hám lợi. Ngày xưa, bọn lí dịch quan lại cố chạy vạy thầy thợ, cố lo lót quan trên để được cái Cửa phẩm, cái mề-đay, thế là vênh vang mày mặt! Bọn cán bộ biến chất ngày nay, hoặc chạy chức, chạy bằng giả, chạy khen thưởng, để tiến thân mà nghễu nghện với đời, mà vinh thân phù gia. Lũ ấy đều đáng khinh bỉ.
Thế gian rất công bằng, sáng suốt. Người có tài đức lập nên công danh sẽ được nhân dân ngưỡng mộ, tôn vinh. Ngô Bảo Châu, sinh năm 1972, năm 2010, tròn 38 tuổi đã nhận giải thưởng Fields - được xem là giải “Nobel Toán học” Anh đã được nhân dân ta và báo chí ngợi ca, Đảng và Nhà nước trọng vọng. Anh đã làm rạng rỡ đất nước và dân tộc.
Phải tu thân, rèn trí, luyện đức để lập nên công danh, sự nghiệp. Hám danh, hám lợi, tha hoá về lối sống, về nhân cách sẽ bị đồng loại khinh bỉ. Hai chữ “xuất - xử” là phương châm ứng xử của ông cha, của những bậc hiền tài. Gặp thời thì đem tài năng ra giúp vua, giúp nước, lập công danh. Không gặp thời thì lui về mái nhà gianh, với suối rừng, làm bạn với trăng thanh, gió mát. Xưa, Nguyễn Trãi đã lui về Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dựng am Bạch Vân, lập quán Trung Tân. Đâu có chuyện chữa năm sinh, để mua chức, bán quyền, không chịu về hưu! Người có tài đức mới biết lẽ “xuất - xử”. Còn bọn hám danh, hám lợi sao mà biết được! Nhân cách như lợn sề, tâm địa như sói, cầy thì làm sao mà biết hổ thẹn?
Xã hội, đất nước ngày một đổi mới. Người người ra sức làm ăn, kinh doanh để làm giàu, góp phần làm cho đất nước phú cường, nhân dân được yên vui hạnh phúc. Trong hoàn cảnh ấy, trong xu thế đi lên của lịch sử, bàn luận về chuyện hám danh, hám lợi để rút ra bài học làm người, để mỗi chúng ta phấn đấu, tu dưỡng mà sống tốt đẹp hơn thật là lí thú.