Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo 1
Có hạt cát vô tình rơi vào làm xót lòng trai. Tháng năm… năm tháng hạt cát không mang tên, không số phận. Hạt cát lại trở thành hạt ngọc quý giá cho đời. Có những tác phẩm ví như đứa con mang nặng đẻ đau qua chín tháng mười ngày của người mẹ: những nhà văn đầy tâm huyết và trách nhiệm với nghề Nam Cao với thiên chức cao cả đó và thai nghén nên đứa con tinh thần Chí Phèo, bên cạnh những Lão Hạc, Đời thừa, Sống mòn.
Chí Phèo, tên nhân vật được Nam Cao đặt thành tên tác phẩm (sau hai lần đổi tên), xuất hiện xuyên suốt tác phẩm với một tấn bi kịch “bị cự tuyệt quyền làm người”. Nghĩa là từ lúc chào đời Chí đã mang lấy cái bi kịch tội nghiệp của số phận! Nhưng có lẽ những diễn biến trầm trọng và hành động của Chí từ lúc gặp Thị Nở đến khi tự kết liễu cuộc đời là khúc ca ai oán nhất, có thể gọi là bi kịch nhất trong những thứ gọi là bi kịch của Chí.
Và Nam Cao, sự hóa thân hài hòa trong cuộc sống của người nông dân nghèo thời kì 1930-1945 với tấm lòng nhân đạo sâu sắc đã tạo nên giá trị của tác phẩm thông qua ngòi bút đầy tài năng của ông.
“Tài sản” duy nhất của một đứa trẻ bị vứt trong cái lò gạch hoang được người ta cứu vớt trước khi sắp chết chỉ là cái váy đụp “rách như tổ đỉa”. Đó là hình dạng nguyên vẹn của Chí Phèo lúc mới ra đời. Rồi Chí lớn lên, trở thành anh canh điền, sau mấy lần “thay cha đổi mẹ” mà cũng không phải như thế, Chí có được làm con của ai bao giờ đâu? Anh canh điền chân đất, chăm làm lụng ấy vì sự ghen tuông của Bá Kiến đã bị chế độ nhà tù đế quốc “đào tạo” mất đi lương tính sau ngày trở lại quê hương.
Chí trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Bao nhiêu máu và nước mắt đã đổ xuống vì hắn. Chính Bá Kiến và uy quyền giai cấp thống trị mà hắn là đại diện cùng sức mạnh của đồng tiền đã tha hóa con người của Chí.
Chí mất hẳn nhân hình và nhân tính, hắn chỉ còn có men rượu làm bạn. Ai cũng trách hắn, hắn là kẻ cô đơn, nhất là chính bản thân hắn trong mê hồn trận của mình, hắn đã không cảm nhận được hay đôi khi cảm nhận nhưng không thể thay đổi được mọi việc mọi diễn biến xung quanh vì lúc nào hắn cũng say, rồi la hét, rạch mặt ăn vạ để đòi nợ cho gia đình tên Bá Kiến.
Hắn vẫn đương say, vẫn là “con quỷ dữ” cho đến cái đêm trăng ấy bên bờ sông. Hắn bắt gặp Thị Nở. Ả nằm ngủ ngon lành, bộ dạng “hớ hênh” làm thức tỉnh một cái gì đó trong hắn. Đó không phải là tình yêu, mà chỉ là “bản năng” song cũng chẳng phải bản năng của con người bình thường! Rượu điều khiển hắn chứ hắn không tự chủ được bản thân từ khi nhận năm hào của Bá Kiến nữa rồi.
Sau đêm ấy, hắn bị ốm liệt giường. Mọi sự chắc cũng sẽ diễn ra bình thường, hắn cũng sẽ say, sẽ có một mình trong túp ều ọp ẹp của hắn. Nhưng Thị Nở với một chút tình thương trong tâm hồn người phụ nữ đã đến với hắn. Thị mang cho hắn một bát cháo hành. Ôi lạ thật, Chí đã từ ngạc nhiên rồi đến xúc động nghẹn ngào. Bát cháo là ân huệ từ trước đến nay hắn được nhận từ sự quan tâm, chăm sóc của một con người. Mắt hắn rưng rưng, đây là một sự thay đổi đầu tiên trong hắn, tự bao giờ có thấy hắn khóc bao giờ? “Ai chưa ăn cháo hành không biết là cháo rất ngon”. Phải chăng đời đã dành cho hắn chút ân tình? Và điều gì đã diễn ra ở con người ấy?
Hắn đã dần bỏ rượu, cứ nghe mùi rượu là hắn ớn, những phút yêu đương với Thị Nở chiếm hết thời gian của hắn. Hắn tưởng Thị Nở đã chấp nhận hắn thì mọi người ắt sẽ chấp nhận được hắn thôi.
Nhưng cánh cửa Thị Nở mở cho hắn về với cuộc đời vội khép lại. “Con mụ” dở hơi ấy vì “nhận ra mình còn một bà cô” nên đã “dừng yêu” về nhà hỏi cô. Bà cô là đại diện cho những hà khắc, những định kiến của xã hội cùng với tâm tính của một bà già còn “ở vậy” đã ngăn cấm cháu đến với Chí, một thằng suốt đời chỉ biết rạch mặt ăn vạ.
Chí Phèo nào biết mọi việc diễn ra theo chiều hướng xấu. Buổi sáng chờ Thị Nở đối với hắn thật là dài, và hắn thấy “Chao ôi! Buồn”. Mọi vật mà hằng ngày vì say mèm hắn quên để ý nên thứ gì cũng thấy mới mẻ. Hắn muốn uống rượu nhưng để có thời gian mà yêu, nên thôi. Diễn biến tâm trạng của hắn thật là khó diễn đạt. Có lẽ nào con người của ý chí, của lương tri đã sống lại trong hắn? Sự vật chung quanh bừng sáng, âm thanh mái chèo khuấy nước nghe là lạ. “Chao ôi! Buồn”, có gì đâu mà chẳng buồn đối với hắn. Hắn chợt nhớ… những ước mơ thời tuổi trẻ một mái gia đình nghèo thôi chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, có chút ít vốn thì nuôi mấy con lợn trong nhà. Anh canh điền của tuổi đôi mươi chợt hiện về trong Chí. Chí khao khát được trở lại với cuộc sống, trở lại với cộng đồng và trong ý nghĩ của Chí thì Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối đưa hắn trở về với đồng loại.
Bao dự định tốt đẹp mà hắn với Thị Nở sẽ làm như mạch suy tưởng của anh Chí với khát vọng sống ngày xưa. Chí chờ Thị và thời gian như bỡn cợt hắn. Và rồi Thị đến, Thị đem đến cho hắn, nếu lần trước là bát hành nóng, thì hôm nay là gáo nước lạnh tạt vào mặt. Mọi sự bất ngờ quá. Hắn cứ tưởng Thị đùa nên lấy làm thú vị. Rồi hắn ngạc nhiên! Và hắn hiểu. Hiểu cái xô của Thị. Lần thứ hai Chí khóc. Không thể mô tả bản mặt của Chí lúc này, hắn rất đáng thương. Nam Cao cũng chỉ có thể nhìn nhận đấy là bản mặt của một con vật lạ khác mặt con quỷ trước đó.
Chí uống mọi lúc để có can đảm làm việc gì đó như đi đòi nợ, rạch mặt ăn vạ, hắn chỉ việc uống cho thật say. Quái, sao càng uống càng tỉnh, “những thằng điên và những thằng say không bao giờ làm những việc mà trước đó hắn định làm”. Chí Phèo định đến nhà để “giết chết con mụ khọm già”. Hắn nghĩ tại bà cô của Thị Nở. Hắn xách dao đi trong trạng thái không say cũng không tỉnh nhưng không phải đến nhà bà cô Thị Nở mà lối ấy đến nhà Bá Kiến.
Khi không còn gì, dường như lúc ấy người ta lại còn rất nhiều. Chí còn gì đâu, nhân hình đã mất, nhân cách cũng không còn, Thị Nở là điểm tựa là niềm ao ước duy nhất của Chí để đưa Chí trở về với cuộc sống của cộng đồng. Nhưng Thị Nở đã khép mất cánh cửa hi vọng của đời Chí. Chỉ còn mối thù ai đã xô Chí đến con đường này, tiến không được, lùi cũng không xong. Có lẽ mọi sự đã hết nhưng Chí phải làm cho xong một việc. Đòi lương thiện cho mình.
Lần thứ ba, Chí đến nhà Bá Kiến, kẻ mà ngày mới ra tù về làng Chí định sẽ đến đòi nợ. Lần này Chí không đến lấy mấy hào bố thí, không đòi đi tù mà đòi cái thiêng liêng, cao cả nhất của con người mà chính Bá Kiến đã trực tiếp tước mất của Chí.
“Tôi đến để đòi lương thiện”. Câu nói xuất phát từ tận đáy lòng con người đang đi đến mức đường cùng của bi kịch. Chí Phèo đã vung dao giết chết Bá Kiến và Chí tự kết liễu đời mình ngay ở ngưỡng cửa trở về. Câu hỏi nhức nhối đến đau thương sau cùng của Chí “Ai cho tao lương thiện” và những lần Chí hét “Thì đây… này” chính là câu trả lời của bản thân Chí.
Bằng cảm nhận, người đọc thấy cái lôgic tất yếu lời nói và hành động của Chí Phèo ở cuối tác phẩm là rất tự nhiên, rất phù hợp. Dĩ nhiên dù có những nghiệt ngã và bất ngờ – cái nghiệt ngã cái tự nhiên, cái lạ như quy luật cuộc sống! Thế nhưng, thử đọc lại và suy ngẫm, ta khó cắt nghĩa được thậm chí ta thấy đối ngược với ý niệm ban đầu: Tại sao Chí Phèo lại có thể nói như một nhà hiền triết? Tại sao con người bản chất nông dân ưa nôm na mách qué và đã có một quá trình bị rượu u mê lại có thể đường hoàng dõng dạc và nói mạch lạc, minh triết đến sâu thẳm cái ước mong vô vọng của mình? Thực ra, cái dõng dạc cái vênh mặt kiêu ngạo, cái lắc đầu khi đứng trước Bá Kiến lần này là “thừa kế” những lần say đến đòi tiền nhà Đội Tảo, những lần chủ động hung hăng đến gây tai họa cho dân Vũ Đại. Nhưng có lẽ cái hành động rất linh hoạt này, Chí đã “học” từ Bá Kiến bởi hàng ngày hắn lá mặt lá trái với con quỷ nham hiểm này. Còn lời nói? Cái từ “lương thiện” chẳng đã vang lên như điệp khúc khi Chí gần Thị Nở? Khi Chí khao khát, hắn thèm lương thiện (…) Họ sẽ nhận ra hắn vào (…) những người lương thiện. Mơ ước đôi lứa với Thị Nở, cái “lương thiện” trở thành một bào thai của hi vọng đang cựa quậy… Nhưng khi đối mặt với Bá Kiến cái tiếng ấy được “Cụ Bá” nhắc lại như nói với thằng say một điều mà hắn phải tỉnh.
Ô tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ!
Khát khao cháy bỏng của Chí với cụ Bá lại chỉ là một việc vớ vẩn không đáng lưu tâm "Ồ tưởng gì” cái việc lấy lương thiện cũng dễ như cái việc uống rượu đòi nợ và ăn vạ. Dù hiểu đời đến mức lọc lõi Bá Kiến cũng không thể hiểu ước mơ của Chí nó quan hệ tới sinh tử. Thế giới quỷ có bao giờ hiểu thế giới – dù là đời thường nhất của người? Do đó lời “cụ Bá” muốn “tri kỉ” với thằng quỷ mà mình vắt nặn nên trở thành lời nhạo báng với anh Chí vừa rời lốt quỷ: Chí Phèo nói và day dứt nhiều tới lương thiện có lẽ là vậy.
Lời nói của Chí Phèo phản ánh một thực tế trần trụi đến thô bỉ: “Định kiến” người đời đã không thể cho Chí qua một cái con sào ngáng đường, mà điều này không khó lắm, bởi chỉ mình Thị Nở, Thị cũng có khả năng mở chốt nâng sào. Chí giận sôi sùng sục trong lời chất vấn mà kết án với Bá Kiến. Thực ra, Chí đang nói những ấm ức mà Thị Nở vừa “Trút vào mặt hắn tất cả lời bà cô”.
Vậy là ngôn ngữ, giọng điệu thái độ có lẽ rất lạ của Chí đã có những yếu tố hiện thực tiềm năng trong quá khứ. Nó bất ngờ và vẫn tự nhiên là vì thế. Nhưng có lẽ tài năng của Nam Cao ở đây là ông đã mô tả một cách tuyệt vời những “vùng biên” tâm trạng rất vi tế thậm chí mơ hồ của con người, đâu là lời và hành động của Chí Phèo say? Đâu là anh Chí tỉnh? Thật khó rạch ròi. Cách phân tích là nên đọc lại và thêm một lần nữa khâm phục Nam Cao. Vậy là Chí không còn con đường lựa chọn nào khác, xã hội đã không thừa nhận. Thị Nở cũng đã bỏ hắn, mà trở lại với cuộc sống lưu manh tha hóa, thì Chí không thể nhân tính hắn mất, nhưng phút cuối cùng nó lại trở lại với anh Chí.
Chí Phèo ngoắc ngoải trên vũng máu, đây là hình ảnh mang sức tố cáo lớn. Nó tố cáo chế độ phong kiến, tố cáo nhà tù thực dân với sự nhơ bẩn của đồng tiền đã xô đẩy, tha hóa một con người. Giá trị nhân đạo của một tác phẩm qua ngòi bút của Nam Cao vừa đau đớn vừa như một nhát dao lạnh ông để lại cho thời đại cùng lên án một chế độ, về một cách cư xử khi nhìn người ta sung sướng thì ghen tuông vùi dập. Đó là hoàn cảnh với bao nhiêu sự cay độc, tàn ác đã chà đạp lên số phận con người. Chí Phèo và tuổi thơ đã là một bi kịch xót xa ngậm ngùi nhưng Chí Phèo với bi kịch dằng xé trong tâm hồn và những hành động đã bị ép vào con đường cùng thì càng khiến người đọc đau ran vùng cay đắng, nhức nhối một niềm thương cảm hơn. Chí chỉ mơ ước một cuộc đời bình dị, một người vợ cũng bình thường trong xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao xây dựng Thị Nở xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn, có lẽ ông đã dụng ý của kì công khắc họa một nhân vật xấu nhất trong văn học Việt Nam xuất phát từ thành tâm đem đến cho Chí một người phụ nữ thích hợp. Khác với mô-típ xây dựng nhân vật của những nhà văn đi trước hoặc cùng thời, nhân vật xấu người đẹp nết hay ngược lại, đó đã là một khía cạnh thể hiện sự nhân đạo của Nam Cao. Ông nhìn nhận sâu sắc bằng cả trái tim và tâm linh của người viết về cái phần hồn của mỗi người “Với con người phần hồn nặng hơn phần xác” (ý Nguyễn Minh Châu) Chí Phèo và Thị Nở, người thì mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Người thì xấu xí lại ương dở “vô tư”. Nhưng chính Nam Cao đã phát hiện ra phần hồn được đánh thức của họ, xã hội đẩy đưa trong túm bọc thành kiến đã biến chất con người họ chứ như tự tâm hồn họ vẫn khát khao được sống được yêu như những người bình thường.
Hành động quyết liệt cuối cùng của Chí, tìm đến cái chết, có phải là hạn chế của Nam Cao cũng như nhân vật của chị Dậu của Ngô Tất Tố với cái “tiền đồ tối đen như mực”? Đây là điểm nhân đạo lớn của tác giả. Ông không muốn phải đứng về phía xã hội xưng hô với Chí bằng những tiếng “y” hay “hắn”. Ông không muốn Chí phải trở về với con đường cũ, về với sự cách biệt của xã hội mà muốn con quỷ làng Vũ Đại về với cái anh Chí ngày nào và nếu có chết cũng phải cắt đứt cái đuôi “phèo” rất nặng để thăng hoa thành người. Chí Phèo đã rất tội, ngay từ mở đầu “hắn vừa đi vừa chửi”, đây là sự thèm khát được giao tiếp đến tột độ của nhân vật.
Tác phẩm đóng lại nhưng thực ra trong suy nghĩ của người đọc thì vẫn còn mở. Chị Dậu của Ngô Tất Tố về đâu với cái tiền đồ tối đen như mực? Còn Chí Phèo, cái chết là gì? Phải chăng đỉnh cao của bản cáo trạng tố cáo chế độ phong kiến thực dân là máu của Chí, là nhân mạng? Cái chết như là biểu dương nhân cách, nhân tính. Nó khuyên dụ và cảnh cáo.
Nam Cao ơi! Sao rơi chi nhiều nước mắt? Hẳn tác giả đã khóc như bao lần Nguyên Hồng đã òa khóc cho Huệ Chi: “Nó chết rồi”. Cả tác phẩm Chí Phèo vùi trong cơn say, trong những diễn biến tâm trạng khác nhau còn đối với người đọc, lại là những phút giận và những giờ thương.
Không biết trong cái xã hội đen tối cũ, có bao nhiêu người bị đẩy vào bi kịch cả về tâm trạng lẫn hành động như Chí Phèo. Hỏi Nam Cao? Hỏi xã hội tấm lòng thương cảm của mỗi con người?
Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo 2
Truyện ngắn “Chí Phèo” là một thành công lớn của Nam Cao. Đọc xong tác phẩm dường như hình ảnh Chí Phèo luôn để lại những sự ám ảnh nhất định trong lòng bạn đọc. Tác phẩm nói về cuộc đòi của nhân vật Chí Phèo, và có lẽ quá trình hồi sinh của nhân vật luôn luôn là một điều mà bạn đọc hướng tới.
Chí Phèo được biết đến là nhân vật từng là một đứa trẻ bị bỏ rơi. Sau đó một anh thả ống lươn một ngày nhặt được hắn “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp bên cái lò gạch bỏ không“. Có thể nói tuổi thơ của hắn qua tay hết người này đến người khác và khi Chí Phèo lớn lên thì làm canh điền cho Lí Kiến. Chí Phèo đã bị Bá Kiến ghen, đẩy vào tù, sau bảy tám năm, nhà tù thực dân dã man kia đã biến anh canh điền chất phác trở thành một thằng lưu manh.
Khi Chí Phèo ra tù, hắn tìm đến nhà Bá Kiến để trả thù. Dường như bản chất của một thằng lưu manh, biến chất thể hiện trong cách chửi rất “bài bản”, thật là ngoa ngoắt: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời có hề gì trời có của riêng nhà nào…”.
Từ cái dáng hình nom thật đáng sợ: “trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Người đọc sao có thể quên được các hình ảnh “hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những vét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế, trông gớm chết”… Cho đến cách ăn vạ thật đáng sợ là cách mà hắn lấy mảnh chai vỡ mà cào vào mặt, vừa cào vừa lăn lộn. Từ một thằng đã lưu manh, chế độ phong kiến mà đại diện ở đây chính là Bá Kiến đã hoàn thành nốt quá trình tha hoá để biến Chí thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Và cùng với những chuỗi ngày dài chìm trong men say của hơi rượu là những ngày hắn đã phá đi biết bao ngôi nhà hạnh phúc bình dị, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người lương thiện. Dường như hắn đã làm tất cả những việc đó trong khi say, hắn cũng không nhận thức được rằng mình đã và đang trượt dài xuống vực thẳm và người ta đang lảng tránh hắn như lảng tránh một con vật đáng sợ nào đó. Có thể nói cuộc đời Chí tưởng cứ thế diễn ra, tối tăm, mù mịt. Không ai có thể tin hay nghĩ rằng có thể một lần nữa con quỷ dữ ấy lột xác trở lại thành con người. Vậy mà dường như điều kì diệu đó đã xảy ra, dù ngắn ngủi, dù bất thường nhưng vẫn là một điều kì diệu vĩ đại, điều kì diệu cũng có thể thay đổi một con người.
Trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi giữa Chí Phèo và Thị Nở không chỉ đơn giản là một cuộc đụng chạm về xác thịt. Đó đơn giản chỉ là khởi đầu, buổi tối bên bờ sông, dưới ánh trăng sáng kia như chỉ làm khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng con người. Có thể nói chính sự thức tỉnh của nhân vật thực sự bắt đầu vào những giờ phút sau đó. Và lần đầu tiên, Chí như đã cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ. Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài đủ biết… Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ”.
Ta như đều biết rằng những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy...”. Và dường như đây cũng lần đầu tiên, sau những ngày say triền miên kia, hắn biết thế nào là buồn và đó là cái buồn mơ hồ mà lại thật thấm thía. Và ở đây một người bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống có nghĩa là cũng đã biết tự chiêm nghiệm về chính bản thân mình. Và Chí Phèo dường như thật đau đớn khi nhận ra rằng hắn chính là một kẻ trắng tay không hơn không kém. Khi mà đã đứng ở bên kia dốc cuộc đời, hắn biết mình đã già, “Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn“. Chàng canh điền hiền lành chất phác ngày nào cũng đã từng ước mơ có một gia đình giản dị, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, giờ đây nhìn thấy trước số phận mình. Chí Phèo “đói rét, ốm đau và cô độc” và chi tiết này rõ ràng là trong Chí Phèo đã có một sự chuyển biến lớn trong tâm hồn của hắn.
Có thể nói sự chuyển biến ấy đánh thức bản năng ham sống, muốn sống của hắn nhưng chưa chỉ ra cho hắn biết rằng phải làm thế nào để có thể được sống lại lần nữa đúng với hai từ con người. Và con đường thực sự đã mở ra vào ngày hôm sau khi Thị Nở đã mang sang cho Chí Phèo một bát cháo hành. Một người đàn bà dở người như Thị Nở lại có thể nấu cháo hành ngon đến vậy hay đó là bởi vì Chí lần đầu tiên được người ta cho, và cũng là lần đầu tiên được ăn chào hành nên mới cảm thấy cháo hành ngon mà dường như hương cháo hành cứ ám ảnh Chí mãi không thôi. Có thể khẳng định rằng bát cháo hành là tình cảm chân thành, thứ tình người lương thiện đầu tiên mà hắn được cho, một cách hoàn toàn tự nguyện. Điều ấy dường như đã làm Chí xúc động sâu sắc. Thị Nở cho dù là người có xấu đến ma chê quỷ hờn nhưng ở Thị lại mang một tình người đẹp thánh thiện, thứ tình người trong sáng, một sự chân thành không một chút vụ lợi và tính toán. Có thể thấy được tình người ấy, cùng với hương cháo hành như cũng đã dẫn dắt tính người quay trở lại trong hình hài của một con quỷ dữ, như đã đánh thức ước mơ thời trai trẻ, đánh thức khát khao lương thiện tưởng chừng như đã lụi tắt trong Chí Phèo từ lâu.
Và quan trọng hơn nữa là nó như đã đánh thức niềm hi vọng ở Chí, khát khao được trở về với cuộc sống của loài người. Khao khát được họ đón nhận. “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị Nở cũng có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Và giờ đây họ sẽ nhận thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại được ai. Họ sẽ lại nhận Chí Phèo vào cái xã hội bằng phẳng và rất thân thiện của những người lương thiện kia. Dường như chính tình thương yêu con người chân thành đã có sức mạnh cảm hoá vĩ đại, không chỉ thế, nó như còn mang lại cho con người sự sống và sức sống mới, và ngay khi ở cả những kẻ tưởng chừng là “vô phương cứu chữa” như Chí Phèo. Chí Phèo lúc này đã thức tỉnh thực sự.
Tuy rằng cho đến cuối cùng, cánh cửa trở về với xã hội loài người đã được mở ra bởi tình thương yêu con người, nhưng đó lại là của một người đàn bà dở người. Và trong một xã hội tăm tối đến ngột ngạt kia đã vội vàng đóng chặt. Và khi nhân tính trở về, Chí lại như không thể tiếp tục cuộc đời của một tên quỷ dữ, nhưng lại cũng không thể trở lại làm người được nữa. Dường như tấn bi kịch đó đã được đẩy lên đỉnh điểm chỉ còn một cách giải quyết cuối cùng là cái chết. Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến và cũng tự kết liễu đời mình. Khi không có tình yêu thương, cuộc sống sẽ chỉ còn là tối tăm và bất hạnh biết bao nhiêu.
Có thể nói rằng tình thương yêu là hạnh phúc của con người cũng như tâm hồn con người giống như một vườn cây mà ở đó tình yêu thương là những trận mưa tưới mát đã làm cho vườn cây tươi tốt hơn, và như đã vươn dậy đầy sức sống, dù cho trước đó đã có lúc nó lụi tàn, héo úa. Và ta cũng đã thấy có biết bao câu chuyện cảm động về sức mạnh của tình yêu thương… Tình yêu thương giúp con người ta chiến thắng được số phận. Và trong cơn khó khăn như sự thức tỉnh của Chí Phèo. Và chỉ khi có tình yêu thương con người trong sáng không vụ lợi mới luôn toả sáng. Tình yêu thương không chỉ giúp thay đổi quan niệm mà còn có sức cảm hoá ghê gớm, bẻ gãy tất cả những gì là bóng đêm, là trở ngại để con người sống gần với con người hơn.
Tình yêu thương ở đời cũng cần thiết như ánh sáng, như không khí trên Trái Đất này vậy. Dường như con người không thể sống mà không có tình thương yêu. Ý thức được điều đó thì trong mỗi chúng ta cần bồi dưỡng cho mình một trái tim nhân hậu, bao dung. Và phải bồi dưỡng tình yêu thương dành cho mọi người, để được cho và được nhận. Hãy để tình yêu thương trong sáng và chân thành được bao bọc khắp thế gian và mỗi con người sẽ được sống trong ngập tràn yêu thương.
Nhân vật Chí Phèo là một trong những nhân vật hiện lên có sức ám ảnh nhất, đặc biệt là quá trình từ một anh nông dân hiền lành cho đến khi bị cực tuyệt quyền làm người sẽ còn lay động, còn để lại cho người đọc biết bao nghĩ suy. Qua đó nói lên khả năng bậc thầy trong việc miêu tả phân tích tâm lý nhân vật của Nam Cao.
Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo 3
Nguyễn Minh Châu đã có nhận xét về Nam Cao: “Cả đời cầm bút của Nam Cao ông chỉ đau đáu nhìn vào nhân cách của con người”. Điều này thể hiện rõ trong nhiều tác phẩm của Nam Cao. “Chí Phèo” là một ví dụ điển hình. Qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Chí Phèo từ lúc gặp Thị Nở đến khi kết liễu cuộc đời trong truyện ngắn cùng tên, tác giả đã thể hiện tài năng, bản lĩnh nghệ thuật của mình, đồng thời cũng bộc lộ rõ tấm lòng nhân đạo sâu sắc của ông.
Trước khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí Phèo đã trải qua hai chặng đường: làm thuê cuốc mướn và ở tù rồi ra tù. Hắn vác cái mặt “cơng cơng, cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn” về làng, cam lòng làm tay sai cho kẻ thù – Bá Kiến đã gieo rắc tai họa kinh hoàng cho dân làng Vũ Đại. Và rồi vào đêm trăng định mệnh của số phận, hắn đã gặp Thị Nở, mở đầu cho một giai đoạn mới trong cuộc đời Chí. Sau cái đêm ấy thì Chí ngã bệnh. Hắn chưa bệnh bao giờ. Thế mà giờ đây lại yếu đến thế. Buổi sớm mai thức dậy, tâm trạng của Chí được miêu tả thật tài tình qua ngòi bút của Nam Cao. Mở đầu là “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” và rồi “tiếng của anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, rồi những người đàn bà đi chợ Nam Định.
- Vải hôm nay bán mấy?
- Kém ba xu dì ạ.
Tất cả những cái đó đột nhiên vang vang trong lòng Chí. Tất cả rất quen mà với hắn, chợt trở nên mới, nên lạ. Vì hôm qua, hôm kia, cả bao hôm trước nữa. Chí có nghe những tiếng ấy bao giờ đâu khi đang chìm trong những cơn say bất tận của cuộc đời. Giờ đây, tỉnh lại, tiếng cuộc đời, tiếng con người đang lăn náo nức, cứ dội vang mãi trong lòng Chí. Phải rồi! Tiếng của cuộc đời lương thiện đang vang lên trong anh. Con quỷ dữ sau cơn ốm bệnh dường như đã lấy lại được một phần con người, một phần hiền lành lương thiện của anh Chí hôm nào. Chí lắng nghe tất cả, thế rồi bỗng thấy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”, lát nữa lại buồn: “Buồn thay cho đời”. Một cảm giác lạ đang len lỏi trong lòng Chí Phèo. Tiếp sau nỗi buồn là nỗi lo sợ, sợ đói, rét, cô độc, “Cô độc ư?” Cái này còn đáng sợ hơn cái đói và cái rét. Chí đã dần nhận ra thảm cảnh của đời mình: bơ vơ, lạc lõng không ai thân thích, không ai nương tựa. Trong nỗi sợ ấy, Chí cũng đang hình dung lại hình như ngày xưa hắn cũng có một ước mơ: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, lại có một con lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng”. Một ước mơ nhỏ nhoi thôi tầm thường lắm nhưng rất con người. Trước đây thì còn là một anh Chí “hiền như cục đất”, biết “nhục chớ yêu thương gì” khi bị bà Ba bắt lên bóp chân, ước mơ ấy hiện hữu trong anh. Trải qua những tháng ngày tăm tối, u mê, ước mơ đã tắt lịm hẳn, nhường chỗ cho cái ác, cái thú tính lên cao. Giờ đây, sau cơn say khi một phần “người” đã trỗi dậy, ước mơ ấy đã lại trỗi dậy theo, tha thiết, cồn cào. Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo được Nam Cao khắc họa thật đậm nét. Buồn, lo sợ, ước mơ. Đó là những nét tính cách rất người, đặc biệt là ước mơ rất đời thường ấy. Trong lúc Chí Phèo đang ngổn ngang trong bao tâm sự, nỗi niềm thì chất xúc tác đưa hắn trở lại làm người xuất hiện. Đó là Thị Nở. Thị đến mang cho hắn bát cháo hành giải cảm. Và chính liều thuốc giải độc này góp phần thức tỉnh con người bấy lâu bị chìm lấp trong Chí Phèo.
Phải nói rằng Nam Cao đã rất dụng công khi miêu tả hành động Chí ăn cháo. Đầu tiên là hắn “ngạc nhiên” vì trước đây hắn chỉ toàn cướp “chứ có xin của ai hay ai cho bao giờ” lần này thì lại được “một người đàn bà cho ngạc nhiên”, rồi cảm động, “hắn thấy mắt mình như ươn ướt”. Và rồi Chí đã đón nhận bát cháo từ tay Thị Nở như một báu vật. Hắn chưa vội vã ăn mà ngửi đã, sau đó mới “húp một húp” – cách thức hành động này của Chí Phèo đâu còn là ăn nữa mà là thưởng thức và tận hưởng, thưởng thức và tận hưởng hương vị của cuộc đời và của tình người. Sau đó, lần đầu tiên ta thấy Chí Phèo triết lí: “Những con người chưa bao giờ ăn cháo hành không biết cháo rất ngon”. Ngon cũng là phải vì Chí có được ăn bao giờ đâu “mà có ai nấu cháo Chí ăn”. Chính vì thế, Chí Phèo đã rất trân trọng vật báu này. Bát cháo hành nồng đượm hương vị tình đời, tình người xuất hiện giữa mênh mông bao nhiêu là rượu trong cuộc đời Chí Phèo. Cũng như Thị Nở vậy, tình yêu giữa Thị xuất hiện như ánh chớp lóe lên giữa cuộc đời dầy đặc những số không to tướng của Chí Phèo; không cha mẹ, không gia đình, không quá khứ, không hiện tại, không tương lai. Nếu như đêm trăng ấy như một ý kiến đã nhận xét, Thị chỉ khơi dậy bản năng sinh vật trong con người Chí thì hôm nay, với bát cháo hành, Thị đã cứu rỗi tâm hồn Chí bằng tình yêu của mình. Ăn xong cháo, Chí thấy “thèm làm hòa với mọi người biết bao”, “thèm làm người lương thiện” biết bao, và Chí nhận ra rằng Thị chính là cái cầu nối nối hắn, giúp hắn quay trở lại với xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện. Thị Nở vừa là người tình, lại vừa như người mẹ soi đường cho hắn, vì thế hắn đã muôn “làm nũng với Thị như mẹ” đấy thôi. Và thế là hai con người khốn khổ khốn nạn đã kết hợp lại với nhau trong cái khát vọng hạnh phúc, và muốn làm người lương thiện, bình thường.
Khác với Tràng trong Vợ Nhặt của Kim Lân, khi có được hạnh phúc, Tràng cảm thấy “nên người” hơn, còn Chí, người ta đã tước đoạt ngay hạnh phúc của anh. Sau những ngày yêu thương hạnh phúc. Nghe lời bà cô. Thị Nở đã bỏ rơi Chí không thương tiếc. Cái ao ước được “yêu khi tỉnh” sau những tháng ngày “ăn trong khi say, ngủ trong khi say” của Chí đã bị định kiến xã hội ngăn cản. Đau đớn thay Chí Phèo, và anh lại tìm về với rượu. Thế nhưng “hơi rượu không sặc sụa mà thoang thoảng thấy hơi cháo hành” anh càng uống lại “càng tỉnh ra”, “tỉnh ra! Chao ôi, buồn” Chí đã nhận ra cái bi kịch cự tuyệt quyền sống quyền làm người của mình. Thế là anh vác dao đến nhà “con đĩ Nở, giết hết nó và cả con khọm già nhà nó” Thế nhưng, lí trí lại dẫn anh sang nhà Bá Kiến. Những câu đối đáp của anh và Bá Kiến xốn xang lòng ta đến lạ: “Tao không có đến đây để xin năm hào. Tao muốn làm người lương thiện!” “Ai cho tao lương thiện”, “tao không làm người lương thiện nữa được rồi!”. Và Chí đã đâm Bá Kiến rồi tự tử. Bá Kiến chết vì đã đoán lầm Chí Phèo, đó không là một tên say nữa mà đó là một con người khát khao quyền sống, khao khát lương thiện. Ai bảo Chí Phèo say khi đến nhà Bá Kiến? Say ấy chỉ say phần “con” để tỉnh thức phần “người”, mà chiến đấu với chính mình giành lương thiện. Chí Phèo gục ngã trước ngưỡng cửa cuộc đời nhưng khát khao sống ấy còn cháy mãi.
Có nhiều ý kiến nhận xét cách viết của Nam Cao là sắc, lạnh, tỉnh táo và đóng cũi tình cảm. Thế nhưng ta thấy ngòi bút của ông tràn đầy tính nhân đạo, không nhân đạo sao nhà văn lại thấy được những mơ ước, khao khát rất đời thường, lại đắm sâu trong tâm hồn của những con người đã bị tha hóa, biến dạng về cả nhân tính lẫn nhân hình. Những trang văn Nam Cao viết mô tả lúc Chí Phèo vừa tỉnh dậy mới thấm đẫm tấm lòng thương người của ông biết bao! Và cả bát cháo hành mà Nam Cao đã dụng công miêu tả nữa. Nó xuất hiện bất chợt giữa cuộc đời Chí Phèo, mang lại cho anh chút hương vị của lòng người để lắng lại trong anh cái phần “con” độc ác, xấu xa, đồng thời thổi bùng lên ngọn lửa khát khao lương thiện làm người. Trong những con người bị tha hóa đến cùng cực như Chí Phèo. Nam Cao vẫn thấy ở đó một khát khao mãnh liệt. Chính vì vậy ông đã để cho nhân vật của mình “vác dao đi đòi lương thiện”.
Còn một nét nhân đạo nữa đó là Nam Cao đã để cho nhân vật của mình được chết. Ông biết Chí Phèo sống không thể trở thành anh bộ đội cụ Hồ tự cứu lấy đời mình, cũng không để anh sống tù tội để rồi nhà tù thực dân phong kiến gắn thêm cho anh cặp sừng, cái đuôi, để anh thành con quỷ ác hơn, dữ hơn cái anh đã từng làm ở làng cũ Vũ Đại. Cuộc hôn phôi giữa “con quỷ dữ của làng Vũ Đại – Chí Phèo và một con vật gì rất tởm” – Thị Nở cũng là một cách nhìn hết sức nhân đạo của Nam Cao. Nhân đạo ở chỗ ông đã thấy cái mơ ước, khát khao được hạnh phúc của những con người cùng khổ.
Chí Phèo sống khổ mà chết vật vã cũng khổ. Qua bi kịch đó nhà văn tố cáo một xã hội đã đày đọa, tha hóa, bần cùng hóa con người, đẩy họ vào chỗ biến dạng cả nhân tình lẫn nhân hình. Nam Cao viết nhiều đến cái “đói” nhưng riết nóng nhất trong văn của ông là cái “đói người” trong sự giành giật của phần “con” và ông lớn tiếng đòi quyền sống cho phần “người” ấy.
Đọc xong truyện mà câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo ám ảnh ta mãi. Quả thật với tấm lòng nhân đạo sâu sắc và tài năng của mình. Nam Cao miêu tả những vết thương trong nhân cách con người. Nhưng ông xoáy sâu mà tìm cách chạy chữa cho nó. Với những trang văn và những bi kịch điển hình như Chí Phèo, Nam Cao đã lớn tiếng đòi tự do, hạnh phúc cho con người, cũng như lời gọi: Hãy cứu lấy, bảo vệ cho nhân cách con người! Với đề tài đã khai thác tối đa như đề tài người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao với lưỡi xẻng ngôn từ và tài năng của mình, vẫn có thể “tìm tòi”, “khơi được những nguồn chưa ai khơi”, lật lên nhiều mảng khổ đau và mảng đẹp mới, trong tính cách, trong bản chất của người nông dân Việt Nam ở thời điểm đêm trước của cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại.
Phân tích quá trình hồi sinh của Chí Phèo 4
Sinh thời, khi cầm bút, Nam Cao hằng tâm niệm “Sáng tạo là yêu cầu sống còn của văn chương, nghệ thuật”. Vì thế, hướng ngòi bút đến đề tài quen thuộc đó là cuộc sống khốn khổ của người nông dân trước cách mạng tháng Tám nhưng Nam Cao chọn cho mình một lối đi riêng. Khác với nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam là được đặt vào trong một khoảnh khắc nhất định, nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao thường là những nhân vật có tính cách điển hình và được đặt trong hoàn cảnh điển hình. Đặc biệt, nhắc đến Nam Cao người ta không thể không nhắc đến Chí Phèo – nhân vật bước vào trang văn, ngật ngưỡng với dáng diệu của một kẻ say. Những diễn biến tâm lí của Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở đã được Nam Cao diễn tả một cách chân thực, tài tình đến cảm động.
Chí Phèo đang vẩn vơ nghĩ về đời mình thì thị mang đến một nồi cháo hành. Sự quan tâm mộc mạc, giản dị chân tình ấy đã làm tâm hồn Chí đổi thay đến bất ngờ, mạnh mẽ. Lòng Chí trào dâng bao cảm xúc: bâng khuâng, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vui mừng, xúc động rồi lại nuối tiếc, buồn tẻ, xót xa, lại có cái gì như là ăn năn hối hận nữa. Chí ngỡ ngàng ngạc nhiên, cảm động đến ứa nước mắt. Vì đây là lần đầu tiên hắn không phải dọa nạt, đâm chém mà vẫn có cái ăn. Lần đầu tiên, hắn được một người đàn bà chăm sóc ân tình. Nhưng Chí không khỏi ngậm ngùi, cay đắng, buồn tủi, xót xa vì mãi đến tận bây giờ hắn mới được nếm mùi cháo. Cái hạnh phúc giản dị, đơn sơ khiến người ta thấy tội nghiệp sao lại đến với Chí muộn màng đến như vậy. Chí còn hối hận, ăn năn. Hành động của Thị Nở đã làm Chí suy nghĩ nhiều và Chí bỗng ngộ ra một điều rằng: Chí có thể làm bạn được sao lại gây kẻ thù. Dù rất hiếm hoi nhưng trên cõi đời vẫn còn có những vòng tay yêu thương, vẫn còn những tấm lòng nhân ái, bao dung. Trong đoạn văn diễn tả sự hồi sinh của Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở, chi tiết Chí Phèo khóc có lẽ là chi tiết ấn tượng nhất. Có thể nói, Nam Cao luôn tin vào nước mắt của con người bởi một khi họ khóc có nghĩa là trong người họ vẫn cón chút lương thiện, nó chưa bị hủy hoại hoàn toàn mà vẫn sống âm thầm lặng lẽ. Vậy là chính tình người mộc mạc, giản dị của Thị Nở đã làm hồi sinh tình người trong Chí. Cái lốt quỷ dữ được lột bỏ, bản chất lương thiện đã hồi sinh trở lại.
Khi tính người trở về, lòng Chí nảy sinh tình cảm với Thị Nở. Trong khi ăn cháo, Thị Nở nhìn chộm Chí rồi lại toe toét cười. Trông Thị thế mà có duyên, tình yêu làm cho có duyên. Và chính tình yêu và chỉ có tình yêu mới làm cho cháo hành có hương vị thơm ngon, ngọt ngào chưa từng có. “Hắn húp một húp và nhận ra rằng những người suốt đời không ăn cháo hành không biết rằng cháo rất ngon. Cháo được nấu bởi tay của Thị Nở mà vẫn thấy ngon. Chí có tình yêu và chính tình yêu mới làm nên điều đó”. Yêu thương, trân trọng Thị Nở bao nhiêu, Chí càng căm ghét con quỷ cái nhà Bá Kiến bấy nhiêu. Cái con quỷ lẳng lơ, đĩ thõa chỉ lợi dụng Chí chứ chưa bao giờ yêu Chí. Chí cảm thấy nhục chứ không thấy yêu đương gì.
Hương vị ngọt ngào của bát cháo hành, tình yêu thương ngày càng thấm sâu vào tâm hồn Chí khiến chí như được lột xác, tái sinh. Chí thay đổi hoàn toàn cả về bộ dạng lẫn tâm tính. Nói chính xác hơn là Chí trở lại với diện mạo và tính cách của một người lương thiện. Chí còn muốn trở lại với cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Chí đặt tất cả niềm tin hi vọng vào Thị Nở. Hơn thế nữa, Chí đã có hành động vô cùng táo bạo và lãng mạn: Chí tỏ tình và cầu hôn Thị Nở. Dĩ nhiên cách tỏ tình của Chí Phèo rất mộc mạc và chất phác. Được Thị Nở ưng thuận, Chí vô cùng sung sướng hạnh phúc. Từ đây, Chí sẽ có một tổ ấm gia đình, từ đây, Chí trở lại được làm người lương thiện. Đó là khát khao lớn nhất của Chí.
Như vậy, không chỉ dừng lại ở việc tả “cái bề ngoài của xã hội”, của cuộc sống con người, Nam Cao đã đi sâu vào nội tâm nhân vật. Với những trang văn sống động mà chân thực, Nam Cao đã đưa chủ nghĩa hiện thực Việt Nam lên đến trình độ mới, hội nhập với quốc tế: từ chủ nghĩa tả chân lên đến chủ nghĩa hiện thực tâm lí. Không chỉ bộc lộ cảm quan hiện thực sâu sắc, đoạn văn còn thấm đượm tình cảm sâu sắc, cao đẹp, tiến bộ của Nam Cao. Có thể nói, đoạn văn diễn tả nội tâm của nhân vật Chí Phèo khi đón nhận bát cháo hành của Thị Nở là đoạn văn hay và để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc nhất. Ở đó, ta có thể thấy rằng dù con người có bị tha hóa và bị đẩy xuống vũng bùn đen đến đâu thì thẳm sâu trong tâm hồn họ, vẫn có một mầm non lương thiện đang sống âm thầm, lặng lẽ. Nuôi dưỡng mầm cây non đó, Nam Cao đã dìu dắt Chí trở về với cõi thiện. Vậy là bằng ngòi bút chứa chan tình yêu thương con người, cũng như Thạch Lam, Nam Cao đã hoàn thành sứ mệnh của một nhà văn chân chính.