Truyện ngắn Nam Cao rất hiện đại trong kết cấu tâm lí và ngôn ngữ giàu chất sống. Nhưng đặc sắc hơn cả là nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật mà văn học thời kỳ sau còn chịu ảnh hưởng.
Chí Phèo là tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp cầm bút của nhà văn. Bên cạnh nội dung hiện thực sâu sắc và tư tưởng nhân đạo mới mẻ là nghệ thuật tả tâm lí nhân vật đặc sắc, nhất là đoạn tả tâm trạng Chí Phèo lúc tỉnh rượu rồi khao khát sống. Đây là đoạn văn tiêu biểu cho bút pháp tả tâm lí của Nam Cao: Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc… cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.
Sau khi ở tù về, Chí Phèo trở thành người khác hẳn: lưu manh, côn đồ, hung hăng, dữ tợn và lúc nào cũng say. Hắn bị bá Kiến biến thành tay sai và sống u mê tăm tối gần mười mấy năm trời. Một đêm trăng sáng bên bờ sông, Chí Phèo gặp Thị Nở. Sáng hôm sau tỉnh rượu, Chí Phèo nhận biết thế giới quanh mình và nhận ra cảnh ngộ cay đắng, bi đát của cuộc đời. Trích đoạn miêu tả dòng suy nghĩ của Chí về thực trạng cuộc đời trong hiện tại và cả tương lai.
Hắn thấy hắn… Ngôn ngữ độc thoại cho thấy lần đầu tiên Chí Phèo sống nội tâm. Hắn chủ ngữ là con người lý trí tỉnh táo, hắn bổ ngữ là con người thân phận: già và cô độc. Chí Phèo đang suy tư, nhìn nhận về mình.
Con người tự nhận thức là một bước tiến của nhân loại đưa con người đến với ánh sáng trí tuệ và cũng là bước chuyển biến quan trọng trong số phận Chí Phèo. Dấu chấm than rớt xuống cùng cụm từ Buồn tay cho cuộc đời như một tiếng thở dài não nuột, Chí không biết chia sẻ cùng ai. Trực giá cho thấy đời hắn buồn, rồi từ đó hắn nhận ra cuộc sống thật buồn mà chính cuộc sống làm đời hắn buồn.
Lí do khiến hắn buồn đã rõ. Con người ham sống thì thường sợ tuổi già. Tuổi già đến nhanh quá nên Chí cho là phi lý: Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Điều Chí thắc mắc là hoàn toàn có lý vì có bao giờ hắn tỉnh để nhận biết thời gian, thậm chí là không gian sống của hắn. Chủ nghĩa hoài nghi là dấu hiệu đầu tiên của nhận thức. Chí Phèo bắt đầu nhận thức lại. Quy luật chảy trôi của thời gian mà Chí Phèo xem là nghịch lý thì Chí Phèo đã nhìn thấy rõ để tiếc nuối quãng đời mê muội, tội lỗi đã qua và tha thiết yêu cuộc đời này biết bao nhiêu, nhất là khi Chí Phèo vừa được nghe những âm thanh trong trẻo từ thế giới tươi xanh vọng vào.
Dòng độc thoại nội tâm tiếp tục với giọng điệu buồn da diết: Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ngoài bốn mươi chưa hẳn là già nhưng chắc chắn là không còn trẻ. Phép so sánh độc đáo của Nam Cao cho thấy sức khỏe của Chí đã bắt đầu đổ dốc, càng về cuối tốc độ càng nhanh hơn. Trận ốm lúc tờ mờ sáng là những lá vàng báo hiệu rằng mùa thu cuộc đời đã đến, khiến Chí Phèo giật mình thảng thốt lo âu khi sắp trôi về mùa đông tàn lạnh. Khả năng bươn chải với cuộc mưu sinh đã hạn chế, sự mệt mỏi đã bắt đầu xuất hiện, trong khi đó Chí Phải bắt đầu sống từ thời điểm này thì có gì buồn hơn.
Chí đang nhìn về quá khứ buồn, hiện tại đắng nên thấy trước tương lai đầy bất trắc, lo âu: Chí Phèo hình như đã trông trước thấy tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau. Mạch suy tư của Chí Phèo rất phù hợp với quy luật tâm lý, khi con người cô độc đối diện với chính mình và thấy không ai hiểu được mình. Chí thấy ba tảng đá đang đè nặng lên cuộc đời và có quan hệ tương tác. Tuổi già thường sinh bệnh tật. Tuổi già thường phải sống cô đơn. “Cái gì khô héo hơn cọng rơm khô? – Một trái tim đau buồn!” (Ma-ha-bha-ra-ta) nên sự cô độc đáng sợ hơn tất cả vì cảnh trống trải không nơi nương tựa, sự thiếu thốn tình cảm và nỗi buồn sẽ làm hao mòn sinh lực khiến sinh nhiều bệnh tật. Chí Phèo đã và đang sống giữa sa mạc cô đơn, cách ly với xã hội nên tha thiết được trở về để hưởng chút nắng ấm của bình minh, của tình người nơi mảnh đất lương thiện.
Khao khát hoàn lương mà bất lực, con người cô độc thường sợ hãi nên lúc này Chí Phèo thấy tương lai xám mịt, tâm tư nặng trĩu và Chí đã rưng rưng nước mắt.
Diễn biến tâm lí của Chí Phèo lúc này được phản ánh đúng quy luật, dòng độc thoại nội tâm, mạch suy nghĩ theo từng bước phát triển tự nhiên, không có sự áp đặt chủ quan của tác giả. Khi đối diện với chính mình trong không gian bó hẹp, chịu áp lực bởi hoàn cảnh nên nhân vật thụ động trong suy nghĩ và quẩn quanh với một điều duy nhất: già, đói rét, bệnh tật, cô độc. Do đó, đặc điểm tâm lí nhân vật đã phản ánh số phận.
Nam Cao thường có giọng văn lạnh như ở trích đoạn này, giọng điệu nhẹ nhàng, mềm mại; phép so sánh giàu chất trữ tình, vừa lột tả được nỗi buồn da diết của Chí vừa thể hiện được sự cảm thông của nhà văn. Có những câu văn pha trộn ngôn ngữ gián tiếp với trực tiếp: Buồn thay cho đời! Có lý nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… cho thấy tác giả như nhập hẳn vào tâm trạng nhân vật để lắng nghe và cùng chia sẻ nên biểu hiện được chiều sâu tình cảm nhân đạo.
Khi đặt nhân vật trong quan hệ với chính nó và quan hệ với môi trường, nhân vật vừa có nhu cầu nhận thức vừa có nhu cầu giao tiếp nên đoạn trích đã đưa ra khái niệm con người tự nhận thức và con người cô độc. Con người tự nhận thức thì sẽ lớn hơn chính nó, vì vậy mà nó tự khắc xung đột với môi trường khi trước đó nó dung hòa được. Con người cô độc là sự nhảy cảm của Nam Cao về bản chất nguyên thủy của con người rất cần đoàn thể cộng đồng. Đó là chất triết lí của nhà văn Nam Cao.