Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh (16 mẫu)

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh chi tiết nhất 1

I. Mở bài:

Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh và bài thơ Chiều tối trích Nhật ký trong tù

II. Thân bài: Nêu cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

1. Hai câu đầu: Bức tranh thiên nhiên

·         Con người luôn hướng về thiên nhiên

·         Cảnh chiều tối âm u, hiu quạnh, vắng vẻ

·         Hình ảnh mang tượng trưng cho cảnh chiều tà

·         Hình ảnh chòm mây gợi tả không gian mênh mông, rộng lớn

·         Hình ảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp cổ điển, thơ mộng

·         Qua hai câu thơ cảm nhận được ý chí, nghị lực của con người

2. Hai câu thơ cuối: Bức tranh đời sống

·         Những hình ảnh đời sống dân dã, đời thường

·         Bức tranh gần gũi, quen thuộc, mộc mạc

·         Hình ảnh con người lấn át hình ảnh thiên nhiên mênh mông, rộng lớn nhưng vắng vẻ

·         Thể hiện tình yêu thương, quan tâm đến số phận của người lao động nghèo

·         Ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình của người nghèo

·         Bừng lên sức sống mãnh liệt của con người

3. Nghệ thuật

III. Kết bài: Khái quát cảm nhận của em về bài thơ một cách ngắn gọn

Dàn ý Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh hay nhất 2

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả:

+ Hồ Chí Minh không chỉ là một vị lãnh tụ vĩ đại mà còn là một danh nhân văn hóa của dân tộc.

+ Hồ Chí Minh để lại cho nước nhà một sự nghiệp văn học đồ sộ

- Giới thiệu tác phẩm:

+ Tác phẩm được trích trong tập thơ Nhật Kí trong tù của Bác

+ Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và tấm lòng lớn lao của Hồ Chủ tịch

Ví dụ: Hồ Chí Minh là một vị cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam, là một vị anh hùng lỗi lạc của đất nước. Bên cạnh tài làm chính trị, Bác còn có một kho tàng những tác phẩm văn học quý giá và to lớn. Bác đã để lại cho dân tộc rất nhiều các tác phẩm văn học đặc sắc, trong đó nổi bật là bài thơ Chiều tối nằm trong tập Nhật ký trong tù. Bài thơ thể hiện cảm hứng về thiên nhiên, về tinh thần tự do dù trong hoàn cảnh Bác chuyển lao tù chẳng hề kém phần vất vả.

II. Thân bài

- 2 câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên cảnh vật chiều tối

+ Hình ảnh:

·         Chim bay về rừng: chim không chỉ bay mà còn “mỏi” => gợi thời gian chiều tối

·         Mây trôi lững lờ trên bầu trời: “Trôi nhẹ” và “chòm mây” trong phần dịch thơ tuy giữ được sự thưthái của đám mây song nó lại làm mất đi lớp nghĩa cô đơn, lẻ loi của từ “cô vân” trong bản nguyên tác.

=> hé mở về cả cuộc đời hoạt động Cách mạng của Bác. Cuộc hành trình bị áp giải còn biết bao nhiêu là điểm đến, từ nhà tù này đến nhà tù kia và những điều trước mắt còn gian nan hơn nhiều, chưa biết rằng tương lai mình sẽ đi đâu về đâu, tương lai của dân tộc.
 
=> gợi không gian bao la, rộng lớn.

+ Đặc sắc trong nghệ thuật tả cảnh: Thiên nhiên mang sắc thái giống con người.

·         Cánh chim mệt mỏi sau một ngày mưu sinh đang vội vã bay về rừng tìm nơi trú ngụ cũng như người tù cũng đã mệt nhoài sau những chặng đường dài lê bước.

·         Đám mây trở nên cô độc giữa bầu trời giống như người tù đang bơ vơ nơi xứ người.

- 2 câu thơ sau: Bức tranh cuộc sống sinh hoạt của con người

+ Hình ảnh:

·         Cô gái xóm núi: đang trong công việc xay ngô, người thiếu nữ miền sơn cước hiện lên mang một sức sống phi thường, hăng say, trẻ trung. Con người không chịu sự chi phối của cảnh vật, xuất hiện giữa nơi núi rừng mênh mông, bạt ngàn nhưng không bị hòa lẫn với thiên nhiên mà chính bản thân cô gái trẻ trung này lại trở thành tâm điểm của cảnh vật.

·         Lò than: rực đỏ => hơi ấm của sự sống.

·         Hình ảnh người lao động trên đất Quảng Tây hiện lên khỏe khoắn, chăm chỉ, hăng say.

+ Chữ “hồng” trong thi phẩm: Ánh hồng nơi bếp lửa, trái tim ấm nồng, tinh thần hăng say của người thiếu nữ hay cũng là sự lạc quan, yêu đời của chính tác giả. Sự hiện diện của chữ “hồng” được xem như là nhãn tự của bài thơ, như thổi vào hồn thơ một làn gió mới, một tinh thần mới, một nét đẹp mới => bóng tối đang dần buông xuống.

+ Nghệ thuật:

·         Điệp ngữ vòng “bao túc”: tạo ra sự nối âm cùng âm hưởng của sự nhịp nhàng, liên hoàn những vòng quay của cối xay ngô. Vòng quay ấy lại có giá trị mở ra sự kiên trì, bền bỉ, công việc tuy vất vả, nặng nhọc là thế nhưng con người vẫn rất cần mẫn, hăng say.

·         Không dùng chữ tối nhưng vẫn tả được cảnh trời tối

* Khái quát nghệ thuật được sử dụng trong cả tác phẩm.

- Sử dụng từ ngữ

- Bút pháp ước lệ tượng trưng: lấy mây điểm trăng; lấy động tả tĩnh, lấy cảnh vật để khắc tạc thời gian, nhấn nhá nỗi niềm con người.

- Nét cổ điển xen lẫn hiện đại:

+ Nét cổ điển: hình ảnh thơ; ngôn ngữ thơ; thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

+ Nét hiện đại: Không san sẻ nỗi buồn với thiên nhiên mà hòa hợp với thiên nhiên. Từ trong cái khó khăn, cơ cực mà toát lên phong thái ung dung, lạc quan cách mạng.*

* Liên hệ mở rộng (có thể đan xen vào bài viết)

III. Kết bài:

- Khái quát nội dung, nghệ thuật của tác phẩm

- Nêu cảm nghĩ cá nhân về bài thơ

Ví dụ:

   Bài thơ Chiều tối trích trong tập Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh cho ta cảm nhận được phong cảnh thiên nhiên bao la, rộng lớn nhưng vắng vẻ, không gian ấy đã bị lấn áp bởi hình ảnh con người lao động cực khổ.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh hay nhất 1

Đối với chủ tịch Hồ Chí Minh – Bác luôn luôn quan niệm rằng “Văn chương phải là thứ vũ khí chiến đấu trên mặt trận văn hóa văn nghệ”. Bác luôn trăn trở rằng viết cho ai , viết cái gì, viết như thế nào, viết để làm gì.

“Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

Nói đến sự nghiệp sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ta biết đến ngoài việc là Bác là Bác Hồ kính yêu của chúng ta, là chủ tịch vĩ đại của đất nước Việt Nam. Khi nói đến tên Người – Hồ Chí Minh có một sự nghiêp sáng tác vô cùng đồ sộ và Bác có rất nhiều tác phẩm phục vụ cho cách mạng, phục vụ cho kháng chiến. Nói đến văn chính luận, ta biết đến những tác phẩm đặc sắc như: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Di chúc của Bác” “Tuyên ngôn độc lập”…những tác phẩm này được ra đời trong hoàn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” của dân tộc. Nói đến “Truyện và kí” , ta biết rằng những bài báo được đăng lên trên những tờ báo của Pháp, đó là việc Bác sử dụng rất nhiều những tác phẩm viết theo cách châm biếm, đả kính, phê phán, lên án…Bác viết những bài này để vạch trần những bộ mặt quỷ dữ và khát máu của Pháp trước toàn thể cộng đồng quốc tế. Với những tác phẩm như là “Những trò lố như là Va-ren và Phan Bội Châu”, “Vi hành” ,…Khi nói đến thơ ca của Hồ Chí Minh, gồm hai mảng chính: Thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Tiêu biểu là bài thơ “Chiều tối” viết về cảnh chuyển lao , khi Bác bị áp tải đi bộ trong một buổi chiều.

Trong bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt thì kết cấu của nó bao giờ cũng là “Khai – thừa – chuyển – hợp” . Đọc tác phẩm ta thấy có sự kết hợp nhuần nhị, đó là vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ phương Đông và ở đó là chất thép cao thường của một người tù cộng sản. Đó là sức chiến đấu trong thơ ca của Bác.

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”

Ở câu thơ thứ nhất, sức mạnh của văn chương dồn đổ lên từ “quyện” thể hiện sự mệt mỏi, sống như những nhà thơ phương Đông Bác Hồ cũng sử dụng hình ảnh “cánh chim” để gọi về buổi chiều . Thế nhưng sự khác biệt ở đây đó là từ “quyện” nó thể hiện sự mệt mỏi.

“Là một trái tim yêu từ ngọn cỏ nhành hoa

Chỉ biết quên mình cho tất cả

Như dòng sông chảy nặng phù sa”

Ở đây Bác nhìn thấu vào trong từng sự vật hiện tượng, đó là sự  mệt mỏi sau một ngày dài lam lũ kiếm sống. Cánh chim của chủ tịch Hồ Chí Minh rất khác trong thơ ca phương Đông. Trong thơ ca phương Đông luôn luôn là hình ảnh bầy chim bay về nơi vô định để gợi tả cảnh buổi chiều. “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” . Cánh chim trong tác phẩm lại không bay về chỉ để đơn thuần gợi tả cảnh chiều mà lại bay về rừng đang “quy lâm” để “tầm túc thụ”, đang bay về rừng để tìm chốn ngủ. Đó cũng là khát vọng được đoàn viên của Bác. Bác chạnh lòng nhớ nhà trong một ngày dài bị áp tải ở nơi đất khách quê người. Đó là vẻ đẹp của câu thơ thứ nhất, vừa cổ điển lại rất hiện đại.

“Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Ở đây , “cô vân” là chỉ sự cô đơn , cô quạnh trong một ngày dài buổi chiều bị áp tải. Từ nhà lao này sang nhà lao khác, năm ba cây số một ngày. “Mạn mạn” có nghĩa là chậm chậm nó mang hai dấu nặng đi liền keeff, không chỉ đơn thuần là miêu tả chòm mây bay  mà ở đây nó thể hiện bước đi nặng trịch của người cộng sản. Cổ đeo gong, chân tay vướng xiềng xích trong một ngày dài bị áp tài. Vì vậy mà ở đây tác giả viết “Cô vân mạn mạn độ thiên không” một chòm mây trôi châm chậm giữa một bầu trời cao rộng.

Khi ta đọc bài thơ này, ta sẽ thấy một nghịch lý, nghĩa là Bác luôn luôn phê phán thơ xưa:

“Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp,

Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông”

Bác thường lên án , phê phán thơ xưa vì thơ xưa “thiên nhiên” bao giờ cũng là chủ thể còn con người thì nhỏ bé côi cút

“Lang thang trên núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà”

Vậy mà nay trong thơ của Bác cũng có hình ảnh “cánh chim” hình ảnh “khu rừng” “bầu trời cao rộng” và cả hình ảnh “chòm mây” . Vậy rõ ràng, điều này có gì là nghịch lý không? Mới nghe qua ta tưởng là nghịch lý, nhưng đọc kĩ ngẫm nghĩ lại thì nó vô cùng hợp lí. Bởi, hai câu trên là viết về thiên nhiên thì hai câu thơ sau lại viết về con người. Vậy, thiên nhiên và con người là song hành , ngang bằng nhau. Thậm chí, thiên nhiên chỉ là nền cảnh để con người xuất hiện. Bác Hồ khép lại cảnh trời chiều và mở ra đó là cảnh trời tối

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”

Mới nghe qua ta tưởng câu thơ ấy là trong sáng, trong trẻo. Một người tù cộng sản, cổ đeo gong, chân tay vường xiềng xích. Vậy mà lại dành tình thương của mình cho người khác, thế nhưng, khi đọc kĩ, ta thấy đây là một sự phê phán lớn. “Ma bao túc” “Bao túc ma hoàn” ở đây nó thể cái vòng quay đều đặn và luẩn quẩn của cái cối xay ngô. Tối rồi mà vẫn còn phải lao động vất vả, đó thể hiện là một xã hội áp bức bất công dưới chế độ Tưởng Giới Thạch. Ta tưởng rằng, bài thơ này mở ra là cảnh buổi chiều và khép lại là cảnh buổi tối. Nhưng không, nhãn tự của bài thơ này chính là hình ảnh “lô dĩ hồng” . Trời đã tối đi thì lò than càng bừng sáng. Một nửa đánh bật bóng đen thui, một nửa cân bằng cả hai âm tiết còn lại. Phải chăng Bác là người tay nắm chắc chân lí, mắt nhìn thấu cõi tương lai. Mặc dù bài thơ này được viết vào những năm 1942 – 1943 của thế kỉ trước, nhưng Bác nhìn thấy màu hồng, thấy cuộc cách mạng tháng Tám ở Việt Nam nhất định thành công thắng lợi. Đó là vẻ đẹp chất thép cao thường của người cộng sản. Đó cũng là lí do khi người ta nói đến chất thép trong thơ Bác, người ta nói rất rõ ra rằng:

“Khi Bác nói trong thơ có thép, ta cũng cần tìm hiểu thế nào là thép ở trong thơ. Có lẽ phải hiểu một cách linh hoạt mới đúng. Không phải cứ nói chuyện thép, lên giọng thép, mới có tinh thần thép”

Hay Hoàng Trung Thông đã từng viết

“Tôi đọc trăm bài trăm ý đẹp

Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh

Vần thơ của Bác, vần thơ thép

Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”

Rõ ràng, không một loại nhạc cụ nào có thể giam cầm được trái tim, tâm hồn của người tù cộng sản. Đó chính là sức chiến đấu trong thơ Bác. Bác không nói chuyện thép, không lên giọng thép. Thế nhưng trong thơ của Bác ngập tràn “tinh thần thép” .

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 2

Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, là một danh nhân văn hóa thế giới. Người không chỉ là một nhà cách mạng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ, nhà văn lớn, Người đã để lại một kho tàng văn học đồ sộ với những tác phẩm có giá trị nhân văn to lớn. Tiêu biểu trong đó là bài Chiều tối.

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng.

  Bài thơ nằm trong tập “Nhật ký trong tù” được viết trong khoảng thời gian Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở nhà lao tỉnh Quảng Tây. Chiều tối là bài thơ thứ 31, được gợi cảm hứng trong lần chuyển lao từ Quảng Tây sang Thừa Bảo. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn từ tuyệt.

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không.

  Ở hai câu thơ đầu bài thơ miêu tả cảnh chiều tối, và người đọc bắt gặp ở đây bút pháp chấm phá quen thuộc của Hồ Chí Minh. Chỉ vài nét nhỏ, mà người đọc có thể thấy được cả một không gian rộng mở. Trong bức tranh buổi chiều đấy, Hồ Chí Minh chỉ vẽ một con chim bay về rừng tìm chốn ngủ. Với những áng mây trôi nhẹ giữa tầng không. Cánh chim và áng mây đó luôn mang trong mình nét cổ thi, được Hồ Chí Minh sử dụng miêu tả cảnh chiều tối, đây là thi liệu quen thuộc, ám chỉ thời gian. Và chỉ cần bấy nhiêu đấy thôi, cũng đủ để gợi ra một bầu trời cao rộng, trong trẻo gợi nên nổi bâng khuâng xao xuyến của lòng người. Cánh chim nhỏ nhoi khiến cho bầu trời rộng thêm, vạn vật đang vận hành theo quy luật của muôn đời. Chim thì bay về tìm chốn ngủ sau một ngày kiếm ăn. Mây thì cứ lửng lơ trôi trên bầu trời chỉ có người đi là chưa được dừng chân, người tù ngục dường như đồng cảm trước sự mệt mỏi của cánh chim kia và cũng khao khát được dừng chân nghỉ lại sau một ngày dài đầy ải. Cảnh vậy đã làm cho con người trở nên xao xuyến bồi hồi. Câu thơ tả cảnh nhưng người đọc vẫn nhận ra một thoáng nao nao của lòng người mang nổi nhớ quê hương.

Cô em xóm núi xay ngô tối

 Xay hết lò than đã rực hồng

  Bài thơ đã chuyển từ bức tranh thiên nhiên sang bức tranh  đời sống một cách thật tự nhiên với hình ảnh cô em xóm núi  xay ngô với anh lửa chiều hồng làm cho bức tranh không còn hưu quạnh nao nào buồn như trước mà nó mang hơi thở ấm áp của cuộc sống. Hình ảnh con người với công việc bình thường gợi nên một vẻ đẹp bình dị tươi tắn như cuộc sống hang ngày hết sức gần gũi, tạo nên một vẻ đẹp khỏe khoắn.

  Bài thơ được tả theo hướng vận động từ chiều cho đến tối, từ ngày sang đêm nhưng không gợi sự tối tăm, bi quan, trái lại đầy hơi ấm và ánh sáng được hắt lên từ ánh lửa chiều hôm. Thể hiện nhịp sống của con người được toát lên từ trái tim lạc quan yêu đời của Hồ Chí Minh.

  Bài thơ Chiều tối toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh trong trạng thái bị áp giải, bị đau đớn về thể chất nhưng vẫn vươn lên trên cảnh ngộ cũng để cảm nhận sự tươi đẹp của cuộc sống. Thể hiện tinh thần của Bác là tinh thần thép, nhưng trái tim vẫn bát ngát nghĩa tình. Từ đó mỗi bản thân chúng ta cũng học hỏi được từ Bác rất nhiều điều. Là cần phải biết sống có nghị lực, sống có quyết tâm, vươn lên, vượt khó để rồi từ đó ta mới cảm thấy yêu thương. Ta càng cảm thấy trân trọng hơn vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc- Hồ Chí Minh.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 3

Bài thơ "Chiều tối" của tác giả Hồ Chí Minh được viết trong tập thơ Nhật ký trong tù, ghi lại những ngày tháng tác giả chịu cảm tù đày ở nhà lao của Tưởng Giới Thạch.Trong hoàn cảnh bị giải đi hết nhà tù này tới nhà tù khác, thân thể mệt mỏi bởi tay chân bị gông cùm xiềng xích nhưng tâm hồn của tác giả vẫn vô cùng ý chí, sắt đá, thể hiện sự lãng mạn và lòng yêu đời của nhà thơ.

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

Bức tranh hoàng hôn được tác giả Hồ Chí Minh phác họa lên một bức tranh thiên nhiên, với đầy tính thi vị, không gian bao la mênh mông trên bầu trời những đàn chim sau một ngày mỏi mệt tìm kiếm mưu sinh chúng đang vội vã tìm về tổ của mình để nghỉ ngơi.

Những chòm sao lơ lửng lững lờ trôi trong không trung thể hiện sự an nhàn thảnh thơi của mình khác hẳn với sự vội vã của đàn chim. Cảnh vật thiên nhiên khiến cho người chiến sĩ cách mạng, người tù tuy mệt mỏi về thể xác sau những hành trình áp giải, vẫn không thể nào làm ngơ trước cảnh vật thiên nhiên, núi non hùng vĩ, con người thi vị.

Thiên nhiên chính là nét chấm phá độc đáo gợi lên khung cảnh vô cùng tươi đẹp, bát ngát, trong sáng êm đềm của cảnh hoàng hôn nơi rừng núi, hoang sợ. Thiên nhiên đẹp trong trẻo, một vẻ đẹp nên thơ nhưng gợi chút buồn man mác trong lòng người lữ khách.

Hai câu thơ sử dụng bút pháp cổ điển làm chấm phá nhiều nét vừa quen vừa lạ trong thơ cổ điển. Tác giả Hồ Chí Minh lấy cánh chim làm cảnh động cho buổi chiều hoàng hôn, đối lập với sự tĩnh lặng của không gian, nó làm cho bức tranh chiều tối của tác giả thêm lung linh, say đắm lòng người.

Trong khong gian bao la đó, con người dường như cảm thấy mình thật nhỏ bé, cô đơn. Tác giả cảm thấy nhớ nhà nhớ quê hương của mình, biết bao muộn phiền lo lắng đang chất chứa trong tâm hồn của tác giả.

Tác giả cảm thấy nhớ quê hương, nhớ những người đồng bào đồng chí của mình. Tác giả lo lắng cho vận mệnh của quê hương dân tộc mình, khi nơi xa kia quê hương của chúng ta vẫn chìm trong sự chèn ép, áp bức của bọn thực dân. Những người dân của ta vẫn đang chịu cảnh " Một cổ hai tròng" chịu nhiều thiệt thòi, sống khổ cực, bị bóc lột, mất quyền bình đẳng.

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng

Hai câu thơ sử dụng bút pháp cổ điển từ "Hồng" chính là nhãn tự của bài thơ. nó là hình ảnh bị dị nhưng vô cùng chân thực được tác giả ghi lại một cách tinh tế, sâu sắc. Hình ảnh con người hiện lên khi đang làm việc gợi lên sức sống mãnh liệt, vẻ đẹp giản dị của cô gái khi đang làm việc thể hiện một cuộc sống thanh bình, yên vui của núi rừng sơn cước.

Hình ảnh bếp lửa lò than rực hồng mang lại cho bài thơ một luồng sinh khí mới, nó làm cho cả bài thơ như sáng bừng lên, ấm áp sự sống mới tươi vui, bình yên của nhịp sống con người.

Đồng thời nó cũng thể hiện tinh thần lạc quan yêu đời trong thơ của Hồ Chí Minh, dù trong hoàn cảnh bị tù đày mệt mỏi, bởi sự áp giải của chế độ Tưởng Giới Thạch nhưng Bác không hề nao núng hay tỏ thái độ lo lắng sợ hãi.

Trong tâm thế nào thì tác giả vẫn luôn yêu đời tin tưởng vào con đường tương lai mà mình đã lựa chọn. Đó chính là con đường cách mạng theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin, giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân đế quốc, giành quyền độc lập về tay người dân lao động vô sản.

Bài thơ "Chiều tối" là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ hiện đại xen lẫn cổ điển trong thơ của Hồ Chí Minh. Bài thơ đã mang tới người đọc một bức tranh thiên nhiên vô cùng sinh động tươi đẹp.

Đồng thời cho chúng ta thấy tâm hồn thanh cao, tinh thần lạc quan yêu đời của tác giả, dù trong hoàn cảnh nào tác giả vẫn lạc quan tin tưởng vào cuộc sống vào tương lai.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh chi tiết nhất 4.

Bác Hồ với tâm hồn tha thiết yêu con người, đất nước bao nhiêu thì cũng thiết tha yêu thiên nhiên cuộc sống bấy nhiêu. Tâm hồn ấy trong những tháng ngày tù đày tăm tối luôn hướng về tự do, ánh sáng, sự sống và tương lai. Trên đường bị giải đi trong chiều buồn ở tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc lòng nhà thơ – người tù bỗng ấm lên và phấn chấn vui vẻ trước thiên nhiên đẹp và hình ảnh cuộc sống bình dị ấm cúng. Đây là bài thớ thứ 31 của tập.“Nhật ký trong tù” vào cuối thu 1942. “Chiều tối” là bài thơ mang màu sắc cổ điển, thể hiện ở thể thơ tứ tuyệt, hình ảnh ước lệ, tượng trưng, nghệ thuật điểm xuyết quen thuộc trong thơ ca trung đại và tinh thần hiện đại – lấy sự vận động của con làm hình tượng thơ, lấy con người làm đối tượng trung tâm cho bức tranh thiên nhiên.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên chiều tà:

               “ Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

               Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”

Khung cảnh thiên nhiên lúc chiều tối. Trong bức tranh thiên nhiên ấy có: cánh chim mệt mỏi bay về tổ và chòm mây lơ lững giữa tầng không. Hình ảnh cánh chim và chòm mây là những hình ảnh mà trong thơ ca xưa rất hay sử dụng, mang nét đẹp cổ điển. Cánh chim mệt mỏi bay về tổ, hình ảnh cánh chim điểm giữa bức tranh chiều tàn, tạo nét chấm phá cho bức tranh, một điểm nhấn. Hình ảnh “cánh chim” gợi tả không gian rộng lớn, thinh vắng trong thời khắc ngày tàn đồng thời cũng là dấu hiệu thời gian. Đồng thời trạng thái “mỏi mệt” của cánh chim gợi điểm tương đồng giữa cánh chim và người tù nhân chiều đã về, ngày đã tàn nhưng vẫn mệt mõi lê bước trên đường trường. Đã chiều tà mọi thứ đều muốn nghỉ ngơi nhưng người tù nhân lại vẫn phải cố sức mình để đi những đường dài. Những đám mây “trôi nhẹ”, cảm nhận được sự thư thái, nhẹ nhàng nhưng chưa gợi tả được nổi cô đơn, lẻ loi của áng mây chiều. Thiên nhiên trong thơ Bác mang nét đẹp cổ điển với những hình ảnh thơ gần gũi, bình dị. Đồng thời bức tranh thiên nhiên và con người có sự giao hòa với nhau. Ẩn sau bức tranh thiên nhiên là những nỗi niềm tâm trạng của nhà thơ, tả cảnh ngụ tình.

Sau bức tranh thiên nhiên thu ảm đạm, bức tranh đời sống con người được bộc tả:

                “ Cô em xóm núi xay ngô tối,

                 Xay hết lò than đã rực hồng”.

 Hình ảnh cô gái xay ngô tối trẻ trung, khỏe khoắn, siêng năng lao động tạo nét đặc biệt cho bức tranh thu, con người nhỏ bé ấy trở thành trung tâm của cảnh vật, là thứ to nhất. Dù là xuất hiện giữa không gian núi rừng trong đêm mênh mông nhưng hình ảnh cô gái sơn cước không hề đơn độc. Hình ảnh thơ gợi sự ấm áp cho người đọc. Qua hình ảnh thơ, ta còn thấy ở Bác là tấm lòng, tình yêu, sự trân trọng dành cho những người lao động, dù nghèo khó, vất vả nhưng vẫn lao động miệt mài trong tự do. Một cuộc sống do mình quyết định, đứng lên nhờ bàn tay lao động.

Lò than được xuất hiện trong bài thơ, gợi sự ấm áp. Rực hồng, là nhấn mạnh thời gian đã tối hẳn, ta có thể cảm nhận được ánh lửa hồng ấm áp. Vì từ “hồng” vừa giúp người đọc hình dung ra được thời gian, vừa làm câu bài thơ “Chiều tối” trở nên sáng rực xua tan đi bao mệt mỏi, nặng nề của bài thơ cũng như trong tâm hồn nhà thơ.

Qua hai câu thơ trên là sự quan sát của người đi đường, trên con đường gian nan của mình vẫn mải mê thả hồn vào những cảnh vật xung quanh, nhưng là cái nhìn của người đang khao khát tìm về cuộc sống bình yên giản dị. Thế nên khi bắt gặp hình ảnh cuộc sống con người giữa miền sơn cước, tình yêu và niềm vui đã tràn ngập cõi lòng, người tù cũng mong mình có một cuộc sống như thế. Không phải ngoại cảnh tác động đến con người mà chính cảm xúc của con người trùm lên ngoại cảnh. Thiên nhiên đẹp nhưng chưa đủ mang đến niềm vui, cuộc sống đẹp đã mang đến niềm vui chan chứa. Điều ấy đã thể hiện phẩm chất nhân văn cao đẹp của nhà thơ.
 Bài thơ bốn dòng, hai mươi bảy chữ, đã thể hiện tinh thần lạc quan, ung dung, tự tại, kiêng cường vượt qua mọi hoàn cảnh sống và vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của Hồ Chí Minh-người chiến sĩ, nghệ sĩ với tình yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu cuộc sống. Qua bài thơ, người ta càng cảm nhận được tấm lòng nhân ái, yêu nước thương nòi và hi sinh đến quên mình của Bác. Bài thơ rất hay và ý nghĩa, giàu ý nghĩa sâu sắc.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 5


Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong bài viết Hồ Chủ tịch - hình ảnh của dân tộc có nói đại ý: Hồ Chủ tịch là Người rất giàu tình cảm, và vì giàu tình cảm mà Người đi làm cách mạng. Trong thế giới tình cảm bao la của Người dành cho nhân dân cho các cháu nhỏ, cho bầu bạn gần xa, hẳn có một chỗ dành cho tình cảm gia đình. Bài Chiều tối có lẽ hé mở cho ta nhìn thấy một thoáng ước mơ thầm kín một mái nhà ấm, một chỗ dừng chân trên con đường dài muôn dặm.

   Chiều tối là bài thơ thứ ba mươi mốt trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại cảm xúc của nhà thơ trên đường bị giải đi qua hết nhà lao này đến nhà lao khác. Trên con đường khổ ải ấy, một chiều kia. Người chợt nhận thấy cánh chim chiều.

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ"

    Câu thơ không giản đơn chỉ tái hiện cảnh vật mà còn bộc lộ cảm nhận của nhà thơ. Làm sao biết rõ được là chim đang mỏi, và làm sao nói chắc được mục đích của chim là về rừng tìm chốn ngủ, như thế ở trong lòng chim mà ra? Câu thơ chỉ là tín hiệu cho thấy là trời đã chiều, mọi vật hoạt động ban ngày đã mệt, đã đến lúc tìm chốn nghỉ ngơi. Câu thơ tương phản với hình ảnh chòm mây cô đơn ở dưới:

"Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không"

    Câu thơ dịch tuy đẹp nhưng ý thơ có phần nhẹ hơn so với nguyên tác Hán. Nó bỏ mất chữ cô trong cô vân, nghĩa là chòm mây cô đơn, trơ trọi rất có ý nghĩa. Hai từ trôi nhẹ cũng không lột tả được ý của mấy chữ mạn mạn độ. Bới vì độ là hoạt động nhằm đi từ bờ này sang bờ kia, ví như độ thuyền đi từ thuyền sang sông, độ nhật ở cho qua ngày, độ thiên không là chuyển dịch từ chân trời này sang chân trời kia, con đường của mây mới xa vời và vô hạn biết chừng nào! Còn mạn mạn là dáng vẻ trì hoãn, chậm chạp. Chòm mây cô đơn đi từ chân trời này sang chân trời kia, mà lại còn chậm chạp, trì hoãn nữa thì không biết bao giờ mới tới nơi? Và hiển nhiên khi trời tối nó vẫn còn lửng lơ bay giữa tầng không, là hình ảnh ẩn dụ về người tù đang bị giải đi trên đường xa vạn dặm, chưa biết đâu là điểm đừng! Trong hình ảnh ấy hẳn còn gửi gắm tình cảm thương mình cô đơn sốt ruột và khao khát có một mái nhà. Chỉ hai câu thơ mà vừa tả cảnh vật, vừa tả cảnh người, tả tình người. Đó là cái hàm súc, dư ba của thơ cổ điển.

    Nếu hai dòng đầu đã nói tới chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ và chòm mây cô đơn chưa biết dừng nơi nào, thì hai câu thơ của bài thơ sau hiện diện một chon ngủ của con người:

"Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng."

    Trong bản dịch, người dịch đã đưa vào chữ tối lộ liễu trong khi thi pháp thơ cổ chỉ muốn người đọc tự cảm thấy chiều tối phủ xuống mà không cần một sự thông báo trực tiếp nào. Điều đó làm lộ tứ thơ. Nhưng đó là cái khó của người dịch. Điều đáng chú ý là một cảnh lao động gia đình, rất đỗi bình thường, dân dã: Cô em xóm núi xay ngô hạt, ngô hạt xay xong, bếp đã hồng. Cô em, bếp lửa, tượng trưng cho cảnh gia đình. Ngô hạt xay xong, bếp đỏ hồng lại tượng trưng . Cho công việc và nghỉ ngơi. Một không khí ấm cúng đối với người lữ thứ. Điều chú ý thứ hai là trong nguyên tác chữ hồng là ấm, nóng chứ không phải là đỏ, càng chứng tỏ điều nhà thơ nghĩa đến là sức ấm nóng, chứ không phải sáng hồng. Bếp lạnh, tro tàn là tượng trưng cho sự cô quạnh, lẻ loi. Điều chú ý thứ ba là nhà thơ đứng ở núi như thế, y như thể đứng gần gũi bên cạnh. Lại nữa, nhà thơ phải đứng rất lâu mới thấy được cảnh thời gian trôi trong câu: Cô em xóm núi xay ngô hạt - Ngô hạt say xong bếp đã hồng? Đây chỉ là bài thơ trên đường. Vậy đó chỉ là cảnh tưởng tượng trong tâm tưởng, trước xóm núi bên đường xuất hiện như là biểu trưng của mái ấm gia đình, nơi đoàn tụ của những người thân thuộc. Cái kết này tuy không sáng bừng lên màu hồng lạc quan của cách mạng như ái đó hiểu, cũng vẫn ấm áp tình người làm cho nỗi lòng người vơi bớt nỗi cô đơn. tĩnh mịch. Cùng với hình ảnh ấy, một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình thấp thoáng đâu đó. Nếu ta chú ý tới bài thơ trước này là bài Đi đường.

"Đi đường mới biết gian lao       

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng."

    Một con đường vô tận, và bài sau đó là bài Đêm ngủ ở Long Tuyền:

    Đôi ngựa ngày đi chẳng nghỉ chân. Món Gà năm vị: tối thường ăn, thừa cỏ rét, rệp xông vào đánh, oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần. Thì ta sẽ thấy sự xuất hiện khung cảnh gia đình kia là rất dễ hiểu. Nó chứng tỏ trái tim của nhà cách mạng vẫn đập theo những nhịp của con người bình thường gần gũi với mọi người.

    Nghệ thuật của bài thơ là một nghệ thuật gián tiếp cổ điển, nói cảnh để nói tình. Hình ảnh trong thơ cũng là tâm cảnh. Nếu chỉ phân tích nó như một bức ranh hiện thực đơn giản, chắc chắn ta sẽ rời xa thế giới nội tâm phong phú của nhà thơ.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh hay nhất 6

    Một tác phẩm hay là tác phẩm hàm chứa giá trị tư tưởng sâu sắc. Ở đó, ta không chỉ thấy được tài năng của người viết mà còn chứa đựng cả một tâm hồn, một cốt cách của thi nhân. Bài thơ Chiều tối là một bài thơ như thế, Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của đất nước, một nhà thơ của dân tộc mang một tình cảm lớn lao với Tổ Quốc đã viết nên những vần thơ chạm vào đáy hồn nhân thế. Mà có lẽ, bài thơ còn giá trị cho đến tận mãi về sau.

"Chim mỏi về rừng tìm cây ngủ,

Chòm mây nhẹ giữa tầng không"

    Sau ngày dài kiếm ăn, từng đàn chim nối đuôi nhau trở về nơi rừng mong tìm chốn nghỉ ngơi. Cánh chim mỏi mệt đập nhẹ giữa không trung trong buổi chiều tàn. Chòm mây cô độc trôi lững lờ giữa khoảng không vô định, cảnh vật tuy nhẹ nhàng nhưng mang một nỗi buồn man mác. Lạ kì thay, là cảnh buồn hay chính nơi tâm hồn người tù nhân cũng đang ưu sầu nơi chốn xa quê hương. Thời khắc của ngày tàn cũng là khi màn đêm buông xuống, đây là lúc người ta tạm gác mọi công việc để trở về nơi gia đình quây quần bên bữa cơm gia đình. Phải chăng ngay lúc ấy, Bác cũng đang khát khao được đứng nơi đất nước mình, được cùng nhân dân, cùng những người con dân tộc sum họp. Vậy mà, thực tại muôn nỗi khó khăn, bởi vậy mà cảnh cũng đeo sầu, đám mây cô độc,cánh chim mỏi mệt là những hình ảnh ẩn dụ cho những lúc yếu lòng, cảm thấy cô đơn, lẻ loi của Người nơi đất khách quê người. Nỗi nhớ quê hương da diết trong tâm khảm nhà thơ, càng cô độc bao nhiêu thì nỗi nhớ lại càng lớn bấy nhiêu. Bằng biện pháp tả cảnh ngụ tình quen thuộc, tâm trạng của Bác được bộc lộ rõ rệt. Cảnh và tình tuy hai mà một - người mang nỗi niềm, cảnh cũng chẳng thể nào vui.

"Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng"

   Không gian sinh hoạt mở ra thật giản dị. Người con gái xay ngô giữa bầu trời đêm bình yên đến lạ kì. Giữa bao nhiêu cái kì vĩ, lớn lao khác, Bác lại nhìn về cảnh lao động - xay ngô tối. Chắc hẳn, Bác đã rất trân trọng cái khoảnh khắc này, trân trọng sức lao động của con người trong mỗi khoảnh khắc của thời gian. Phải có một tâm hồn tinh tế, nhà thơ mới có thể nhận ra được vẻ đẹp rất đỗi bình dị trong đời sống như thế. Đó là vẻ đẹp của con người giữa cuộc đời thiếu thốn, tuy vất vả mà rất đỗi ấm cúng, đáng quý, đáng yêu. Hình ảnh con người lao động hoà hợp với vẻ đẹp thiên nhiên làm cho bức tranh chiều tối dường như ấm áp hơn, sinh động hơn. Đem đến sức sống cho cảnh núi rừng, dù buồn nhưng tràn trề nhựa sống. Dường như, đó là khát khao hướng tới sự sống, hướng tới những điều tốt đẹp, ước mơ vươn tới tự do cho muôn người, sống trong gian khổ tù đày ta lại càng trân trọng cuộc sống lao động. Từ "hồng" trở thành nhãn tự, là trung tâm của bài thơ. Ngọn lửa không đơn thuần chỉ là một sự vật, mà nó là biểu tượng cho ngọn lửa của cách mạng, ngọn lửa của tình yêu hoà bình. Ngọn lửa xua tan đi màn đêm lạnh giá, xua tan đi những nỗi mệt mỏi của ngày dài, xưa tan nỗi trầm tư trong lòng người tù cách mạng. Ngọn lửa hồng thắp lên niềm tin vào một tương lai tốt đẹp cho dân tộc, hơn hết là sự bình yên trong lao động của nhân dân.

    Đọc bài thơ, ai cũng sẽ có riêng cho mình những suy ngẫm. Với em, bài thơ không chỉ cho em thấy được tình yêu Tổ Quốc của Bác, mà qua đó càng trân trọng hơn cuộc sống lao động của những con người chân chất giản dị, thêm trân trọng cuộc sống tự do hoà bình mà thế hệ chúng em hôm nay có được. Từ đó, càng kính yêu Bác Hồ với tấm lòng bao la rộng lớn, thêm tự hào về hồn thơ lớn của dân tộc. Đồng thời, cho em bài học về thái độ sống trước cuộc đời, trong bão bùng gian lao, trước những gian khó, thử thách của cuộc sống vẫn giữ vững niềm tin, hướng tới ngọn lửa hồng, hướng tới một tương lai đầy hi vọng. Thử thách của hiện tại dù khiến bản thân áp lực nhưng không thể làm ta gục ngã, mệt mỏi có thể chùn chân nhưng không được lùi về phía sau, hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ở phía sau bạn. Hãy giữ vững tinh thần lạc quan trong mọi hoàn cảnh.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 7

    Chiều tối là một trong những bài thơ tức cảnh sinh tình tinh giản nhất mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại trong Nhật ký trong tù. Thơ của Bác thường là vậy, thoạt nhìn xem tưởng không có gì sáng tạo, vẫn chỉ là những hình ảnh ước lệ quen thuộc trong lối đường thi:

"Chim mỏi về rừng tìm chỗ ngủ

Cho mây trôi nhẹ giữa từng không"

   Thực ra, đó là hình ảnh tích cực trong mắt của người tu thi sĩ khi chiều tối nơi núi rừng.

   Chiều tối là lúc mà ánh sáng ban ngày chưa tắt hẳn. Lúc ấy, giữa chốn núi rừng không có chân trời, chút ánh sáng còn sót lại của một ngày tàn chỉ có thể nhìn thấy thấp thoáng nơi đỉnh trời. Một cách tự nhiên, con mắt của nhà thơ ngước lên cao và nhận ra cánh chim mỏi mệt đi tìm chốn ngủ nơi vòm cây.

    Cảnh vật cứ thế mà buồn, buồn man mác khi chiều tàn. Đây là giờ phút của sự sum họp, của mọi người sau ngày làm việc mệt mỏi quay quần bên gia đình nhưng, Bác lại chẳng thể có được cảm xúc ấm áp đó. Mang trong mình nỗi đau khổ sai, tù tội lại tha phương trên đất khách quê người nên chắc hẳn nỗi nhớ nhà da diết đang giày vò chủ thể trữ tình. Trong lòng Người, không lúc nào làm nguôi đi nỗi nhớ quê hương…

    Tuy nhiên, thơ của Hồ Chí Minh vẫn có một điểm rất độc đáo: mạch thơ, hình ảnh thơ cũng như tư tưởng thơ ít khi tĩnh lại mà thường vận động một cách đầy khỏe khoắn và bất ngờ, hướng về sự sống và ánh sáng:

"Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng"

    Nếu như nói về cảnh thì sự chuyển cảnh trong Câu thơ này cũng rất đỗi tự nhiên. Khi đêm đã buông xuống, tấm màn đen của nó đã bao trùm lên toàn cảnh vật thì nhà thơ chỉ có thể hướng tầm nhìn về phía có ánh sáng. Đó chính là ánh sáng soi tỏ hình ảnh một cô thôn nữ xay ngô để chuẩn bị bữa cơm chiều.

    Ở câu thơ thứ ba, người dịch đã thêm chữ “tối” không có trong nguyên tác. Từ này không sai nhưng lại làm cái tinh tế của bài thơ mất mát đi ít nhiều. Nó vừa làm lộ ý thơ, vừa khiến cho nội dung kém đi sự gợi mở.

    Lê Chí Viễn còn phát hiện ra thêm một điểm vô cùng tinh vi ở câu thơ này. Đảo ngữ “ma bao túc”, “bao túc ma hoàn” khiến cho câu thơ trở nên thật hấp dẫn và đặc biệt. Thời gian trôi tình theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay ngô cuối của người thiếu nữ, quay mãi, quay mãi và đến khi cô ấy phải dừng lại thì lò than đã rực hồng, nó dịch lên một thứ ánh sáng tuyệt đẹp. Thứ ánh sáng tỏa ra từ phía lò than kia không chỉ là thứ ánh sáng thắp lên trong đêm tối tăm, mịt mù mà còn là ánh sáng của niềm tin, của hy vọng mà Bác vẫn luôn luôn tin tưởng và gửi gắm. Đọc thơ Bác, buồn nhưng vẫn tràn ngập niềm tin và hy vọng có lẽ là vì vậy.

   Hai câu thơ đầu là cảnh buồn, cảnh chiều muộn với hình ảnh cánh chim và con người đều mỏi mệt trước giờ khách tàn lụi nhưng hai câu thơ sau lại là một niềm vui, một niềm tin háo hức, mong chờ qua hình ảnh đúng lửa hồng. Chỉ một hình ảnh nhỏ nhưng lại có thể cân chỉnh cả bài thơ, khiến cho bài thơ sáng rực lên sự ấm áp. Sự sống, ánh sáng và niềm vui của con người được hiện lên ở trung tâm của bức tranh được nhà thơ vẽ ra đã tỏa sáng, xua tan cái cô quạnh, cái mệt mỏi của cảnh chiều nơi núi rừng.

   Nguyễn Du đã từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Chân lý ấy khá ứng với hai câu thơ đầu tiên. Nhưng ở hai câu thơ này, ta phải nhấn mạnh rằng do cảnh buồn nên người cũng muốn buồn theo. Tuy vậy, ở hai câu thơ sau thì niềm vui đã quay trở lại. Sự hy vọng, niềm tin thông qua hình ảnh gọi lửa hồng đã khiến cho bài thơ trở nên vui tươi và rạo rực hơn hẳn…

   Thế mới biết mọi niềm vui, nỗi buồn của Bác Hồ đều gắn bó với niềm vui, nỗi buồn của đất nước. Quyền hành nỗi bất hạnh của riêng mình, của tù ngục, khổ đau, Bác vẫn đau đầu lo cho nước nhà…

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 8

   Bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh là bài thơ thể hiện bức tranh hoàng hôn và bức tranh miêu tả người thiếu nữ lao động vô cùng tươi đẹp. Bài thơ được tác giả Hồ Chí Minh viết trong những ngày tháng bị bắt giam tại nhà tù của chế độ Tưởng Giới Thạch khi bị áp giải chuyển từ nhà giam này tới nhà giam khác.

   Bài thơ "Chiều tối" chỉ có vẻn vẹn bốn câu thơ nhưng lại miêu tả hai bức tranh hoàn toàn khác nhau. Đó là bức tranh thiên nhiên và bức tranh con người hoàn toàn đối lập. Thông qua bài thơ ta thấy dù trong hoàn cảnh khó khăn bị giam cầm, tù đày nhưng tác giả Hồ Chí Minh vẫn thể hiện tinh thần yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan, niềm tin vào cuộc sống của mình.

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không."

    Trong hai câu thơ này tác giả Hồ Chí Minh đã miêu tả bức tranh cảnh chiều tà, hoàng hôn vô cùng buồn bã, thể hiện sự vội vã của những cánh chim muốn tìm về tổ ấm của mình sau một ngày mệt mỏi tìm kiếm thức ăn, mưu sinh. Những cánh chim nhỏ nhoi đối lập với bầu trời bao la, mênh mông thể hiện sự cô đơn của cảnh vật, thể hiện một nỗi buồn man mác trĩu nặng trong lòng.

    Trên bầu trời xanh bao la đó những chòm mây đủng đỉnh trôi vô định, đối lập với sự vội vã của những cánh chim mệt mỏi kia. Cảnh thiên nhiên nơi núi rừng hoang sơ, hiểm trở, của vùng sơn cước vô cùng đẹp nên thơ lãng mạn, có chim, có mây, nhưng lại gợi lên một chút buồn khiến tâm trạng của người đọc cảm thấy cô liêu.

    Trong hai câu thơ này tác giả Hồ Chí Minh đã tinh tế khi sử dụng bút pháp cổ điển vô cùng điêu luyện, lấy cánh chim làm biểu tượng cho cảnh chiều tà, hoàng hôn. Và lấy cảnh hoàng hôn thể hiện cho nỗi buồn trong lòng của mình. Bởi con người khi nhìn thấy cảnh hoàng hôn luôn gợi lên một nỗi buồn nhè nhẹ trước cảnh ngày sắp tàn, ánh nắng biến mất dần và màn đêm bao phủ gợi lên sự cô liêu. Trong hoàn cảnh của tác giả Hồ Chí Minh lúc này thì khó lòng người có thể vui được bởi người đang chịu cảnh mất tự do, chân tay bị gông cùm, xiềng xích, bị áp giải đi đường cả một ngày trời mệt mỏi. Trong trái tim của tác giả còn nặng chứa những nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai một nỗi buồn mỗi khi nghĩ tới quê hương đất nước, khi quê hương còn đang chịu khiếp thuộc địa làm nô lệ lầm than.

    Thiên nhiên và con người lúc này như có sự đồng cảm bởi thiên nhiên, cánh chim, chòm mây đều thể hiện một nỗi buồn sau một ngày dài mệt mỏi. Con người mất tự do không biết mình sẽ bị áp giải tới đâu và về đâu. Sự mệt mỏi về tinh thần và thể xác của một người tù.

   Trong tâm trạng của tác giả còn thể hiện nỗi buồn vì phải rời xa quê hương tổ quốc thân yêu của mình. Trước cảnh đẹp của núi rừng sơn cước những người vẫn không thể nào vui vẻ thư giãn được. Tuy nhiên trong hai câu thơ tiếp theo, không gian bức tranh phong cảnh:

"Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng"

    Hai câu thơ tiếp theo này thể hiện bút pháp "nhãn tự" của tác giả Hồ Chí Minh, khi nhà thơ dùng từ "hồng" để làm "nhãn tự" cho mình. Một hình ảnh cô thiếu nữ lao động miệt mài tới khi trời tối khuya những giọt mồ hôi lấm tấm trên khuôn mặt cô thể hiện một nét đẹp giản dị nhưng thu hút lòng người về người con gái chăm chỉ làm việc.

    Cô gái xay ngô bên lò than hồng quên cả trời tối thể hiện một bức tranh vô cùng sinh động, tươi đẹp của cuộc sống gia đình ấm cúng, hạnh phúc, no đủ yên vui. Bức tranh đời sống này làm cho bài thơ trở nên sống động, mang màu sắc tươi vui rung động lòng người. Một bức tranh sinh hoạt ấm áp.

    Hình ảnh lò lửa hồng chính là một hình ảnh trung tâm, là nhãn tự của bài thơ làm cho cô gái trở nên rõ ràng tươi nét hơn. Lò lửa hồng cũng sưởi ấm cả bài thơ với những nét vẽ trầm buồn trước đó, làm nên sự bứt phá mới trong thơ của Hồ Chí Minh. Lò lửa hồng đỏ rực bên cạnh một cô thôn nữ đang chăm chỉ làm việc, lao động nhiệt tình hăng say làm cho bài thơ trở nên nổi bật trẻ trung hơn, nhiều sức sống hơn. Đồng thời qua đây thể hiện sự lạc quan của tác giả Hồ Chí Minh, dù trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn nhưng tác giả vẫn nhìn cuộc sống vô cùng tươi trẻ đầy tinh thần lạc quan vào tương lai.

    Bài thơ "Chiều tối" của Hồ Chí Minh chính là một bài thơ kết hợp tài tình giữa hai phong cách cổ điển và hiện đại, giữa thiên nhiên và con người. Bài thơ đã xây dựng hai bức tranh thiên nhiên và con người vô cùng tươi đẹp hoàn toàn đối lập nhưng lại tương trợ lẫn nhau. Thông qua bài thơ ta thêm ngưỡng mộ tác giả bởi người có tinh thần vô cùng lạc quan, có một trái tim giàu cảm xúc với thiên nhiên và cuộc sống.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh hay nhất 9

    Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam, là một danh nhân văn hóa thế giới. Người không chỉ là một nhà cách mạng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ, nhà văn lớn, Người đã để lại một kho tàng văn học đồ sộ với những tác phẩm có giá trị nhân văn to lớn. Tiêu biểu trong đó là bài Chiều tối.

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng."

    Bài thơ nằm trong tập “Nhật ký trong tù” được viết trong khoảng thời gian Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam ở nhà lao tỉnh Quảng Tây. Chiều tối là bài thơ thứ 31, được gợi cảm hứng trong lần chuyển lao từ Quảng Tây sang Thừa Bảo. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt.

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không."

    Ở hai câu thơ đầu bài thơ miêu tả cảnh chiều tối, và người đọc bắt gặp ở đây bút pháp chấm phá quen thuộc của Hồ Chí Minh. Chỉ vài nét nhỏ, mà người đọc có thể thấy được cả một không gian rộng mở. Trong bức tranh buổi chiều đấy, Hồ Chí Minh chỉ vẽ một con chim bay về rừng tìm chốn ngủ. Với những áng mây trôi nhẹ giữa tầng không. Cánh chim và áng mây đó luôn mang trong mình nét cổ thi, được Hồ Chí Minh sử dụng miêu tả cảnh chiều tối, đây là thi liệu quen thuộc, ám chỉ thời gian.

   Và chỉ cần bấy nhiêu đấy thôi, cũng đủ để gợi ra một bầu trời cao rộng, trong trẻo gợi nên nỗi bâng khuâng xao xuyến của lòng người. Cánh chim nhỏ nhoi khiến cho bầu trời rộng thêm, vạn vật đang vận hành theo quy luật của muôn đời. Chim thì bay về tìm chốn ngủ sau một ngày kiếm ăn. Mây thì cứ lửng lơ trôi trên bầu trời chỉ có người đi là chưa được dừng chân, người tù ngục dường như đồng cảm trước sự mệt mỏi của cánh chim kia và cũng khao khát được dừng chân nghỉ lại sau một ngày dài đầy ải. Cảnh vậy đã làm cho con người trở nên xao xuyến bồi hồi. Câu thơ tả cảnh nhưng người đọc vẫn nhận ra một thoáng nao nao của lòng người mang nỗi nhớ quê hương.

"Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng"

    Bài thơ đã chuyển từ bức tranh thiên nhiên sang bức tranh đời sống một cách thật tự nhiên với hình ảnh cô em xóm núi xay ngô với anh lửa chiều hồng làm cho bức tranh không còn hiu quạnh nao nao buồn như trước mà nó mang hơi thở ấm áp của cuộc sống. Hình ảnh con người với công việc bình thường gợi nên một vẻ đẹp bình dị tươi tắn như cuộc sống àang ngày hết sức gần gũi, tạo nên một vẻ đẹp khỏe khoắn.

    Bài thơ được tả theo hướng vận động từ chiều cho đến tối, từ ngày sang đêm nhưng không gợi sự tối tăm, bi quan, trái lại đầy hơi ấm và ánh sáng được hắt lên từ ánh lửa chiều hôm. Thể hiện nhịp sống của con người được toát lên từ trái tim lạc quan yêu đời của Hồ Chí Minh.

    Bài thơ Chiều tối toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh trong trạng thái bị áp giải, bị đau đớn về thể chất nhưng vẫn vươn lên trên cảnh ngộ cũng để cảm nhận sự tươi đẹp của cuộc sống. Thể hiện tinh thần của Bác là tinh thần thép, nhưng trái tim vẫn bát ngát nghĩa tình. Từ đó mỗi bản thân chúng ta cũng học hỏi được từ Bác rất nhiều điều. Là cần phải biết sống có nghị lực, sống có quyết tâm, vươn lên, vượt khó để rồi từ đó ta mới cảm thấy yêu thương. Ta càng cảm thấy trân trọng hơn vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc - Hồ Chí Minh.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh hay nhất 10

    Bị bắt ở Túc Vinh, Bác Hồ bị đưa đến nhà giam huyện Tĩnh Tây. Sau 42 ngày đêm bị hành hạ khốn khổ ở đây mà không được xét xử gì, đúng ngày “song thập” – quốc khánh nước Trung Hoa thời Quốc dân đảng – Bác bị chúng giải đi Thiên Bảo. Trong chặng đường từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Bác làm 5 bài thơ, 5 lần ghi nhật kí. Qua những dòng “nhật kí” – thơ đó, có thể hình dung khá cụ thể tình cảnh của Người trong chuyến đi này. Bài thứ nhất Tẩu lộ (Đi đường) cho biết đây là đường núi cheo leo vất vả, cứ đi qua hết dãy núi này lại tiếp những dãy núi khác. Vậy mà mỗi ngày Bác phải đi đến năm chục cây số “trèo núi qua truông”, “dầm mưa dãi nắng” như Trần Dân Tiên đã kể. Tối đến, dừng lại trong nhà giam xã nào đó thì cái đêm “nghỉ ngơi” sau một ngày hành trình gian khổ ấy mới hảm hại. Cái “đêm ngủ ở Long Tuyền” hai chân Bác bị cùm chéo lại còn bị rét, rệp “giáp kích” suốt đêm. Đêm đầu tiên đến Thiên Bảo cũng khổ không kém. Sau một ngày đi bộ năm mươi ba cây số “áo mũ dầm mưa rách hết giày” đến nơi nghỉ thì cái nhà lao tương đối lớn mà Bác phải đi mấy ngày trời mới tới này không có được một chỗ ngủ yên cho người tù và Người đã phải “Ngồi trên hố xí đợi ngày mai”!

    Mộ (Chiều tối) là bài thơ thứ ba trong chùm thơ 5 bài sáng tác trong chặng đường Bác bị giải từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Khác những bài kia, Mộ không kể chi những nỗi dọc đường mà là một bài thơ tức cảnh, một bức tranh chấm phá về thiên nhiên Bác gặp trên đường đi: nhan đề bài thơ đã thuyết minh thời điểm sáng tác, cái thời điểm nhà thơ cảm nhận thế giới xung quanh, nảy ra thi hứng. Đó là lúc “chiều tối”, đã suốt ngày “tay bị trói”, “cổ đeo xích”, bị giải đi “qua núi qua truông”…mà vẫn chưa được nghỉ. Và khi nghỉ đêm thì chắc chắn cũng tay trói chân cùm trong xà lim, trên rạ bẩn với muỗi rệp… Tức là, ở thời điểm “chiều tối” ấy, những đày đọa ban ngày cũng chưa qua và những đày đọa ban đêm sắp tới.

    Bài thơ tứ tuyệt, như tên gọi, là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối, một cảnh tối vùng núi. Bố cục bài thơ cũng là bố cục bức tranh, một bố cục có tính chất cổ điển: hai câu đầu là mấy nét chấm phá dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều, hai câu sau là những nét đậm nổi bật lên trên bình diện thứ nhất, là trung tâm của bức tranh.

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không.

    Trong thơ, trong tranh xưa, và nói chung, trong thế giới thẩm mĩ cổ điển phương Đông, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng, ước lệ diễn tả cảnh chiều. “Phi yến thu tâm”, “quyện điểu quy lâm”, những nhóm từ ấy thường gặp trong thơ chữ Hán. “Chim bay về núi tối rồi” (Ca dao), “Chim hôm thoi thóp về rừng” (Truyện Kiều), “Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan)… và bao nhiêu nữa, những câu thơ tiếng Việt xưa có cánh chim chiều. Dường như không có nét vờn vẽ mấy cánh chim xa xa, bức tranh chưa rõ là cảnh chiều. Thi sĩ Huy Cận, với cái nhìn rất thi sĩ cảm thấy bóng chiều tà như sa xuống từ cánh chim bay xa dần về phía chân trời và đã viết một câu thơ thật hay:

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

    Bài thơ của Bác Hồ mở đầu bằng cánh chim lấy từ thế giới nghệ thuật cổ điển phương Đông đó và chỉ với câu đầu, cái phong vị, cái không khí cổ thi đã khá rõ.

    Câu thứ hai “Cô vân mạn mạn độ thiên không” được dịch thành thơ: “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”. Như vậy là bỏ đi chữ “cô” không dịch, còn hai chữ điệp âm mạn mạn thì dịch là nhẹ. Về chữ “cô”, trong tiếng Việt, từ gốc Hán này thường kết hợp với một tiếng khác thành một từ mới mà ý nghĩa “lẻ loi cô độc” có phần đậm hơn vì nó đứng trong hệ thống từ vựng Hán ngữ: cô độc, cô đơn, cô quả, cô quạnh, thân cô thế cô… Do đó, “cô vân” chỉ dịch là “chòm mây” theo chúng tôi là hợp lí. Không nên làm đậm thêm ý lẻ loi cô độc của chữ “cô” vốn không có gì đậm trong câu thơ chữ Hán của Bác. Đáng tiếc ít nhiều chăng là ở chỗ này, “cô” là chữ được sử dụng đậm đặc trong thơ Đường và mang dấu ấn thơ Đường rất rõ, bỏ đi sẽ không khỏi làm nhạt đi chút sắc màu Đường của bài thơ. Bỏ đi hai chữ láy âm “mạn mạn” cũng có cái thiệt thòi ấy. “Mạn mạn” là một trong rất ít những từ láy âm đặc biệt thường xuất hiện với mật độ cao trong thơ Đường, cũng như du du, xứ xứ, mang mang… và mỗi từ ấy có một sắc thái ý nghĩa riêng chỉ có trong thơ Đường. Cho nên, có nhà nghiên cứu bảo rằng, chúng nằm trong hệ từ vựng khép kín của Đường thi (Đọc Ngục trung nhật kí – Học tập phong cách ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhữ Thành). Thỉnh thoảng ta gặp du du, mạn mạn… trong thơ chữ Hán của Bác Hồ và đó là một dấu hiệu rõ rệt của chất Đường thi trong thơ của Bác. Câu thơ dịch không thể giữ lại được những từ ngữ có giá trị đánh dấu ấy của thơ Đường khiến cho màu sắc Đường ít nhiều giảm đi trong bản dịch, song điều đó khó tránh được trong việc dịch thơ.

   Một đặc điểm quan trọng trong cấu trúc nghệ thuật thơ Đường mà nhà nghiên cứu gọi là mã nghệ thuật của nó là “quy sự vật ra thành một quan hệ xây dựng trên sự thống nhất lại bằng tư duy nhìn hiện tượng xét bên ngoài, về mặt giác quan, là mâu thuẫn” (Đọc Ngục trung nhật kí – Học tập phong cách ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhữ Thành). Cho nên, thi nhân đời Đường thường lấy động tả tĩnh, lấy chậm tả nhanh, dùng điểm vẽ diện, mượn sáng nói tối… Điều đó không chỉ thuộc về biện pháp thể hiện, bút pháp nghệ thuật mà còn như là thuộc về phương thức nghệ thuật, về tư duy thẩm mĩ, có cơ sở tiến triết học, lịch sử, xã hội của nó. Nói thơ Bác nhiều bài có dáng dấp thơ Đường, trước hết là ở chỗ này mà câu thơ đang nói đây là một biểu hiện rõ nhất.

   Bác cảm nghe cái không gian bao la yên tĩnh của cảnh chiều muộn nơi rừng núi diễn tả cái bao la yên tĩnh đó bằng hình ảnh chòm mây một mình đang chầm chậm trôi lờ lững ngang qua bầu trời. Bầu trời chiều phải thoáng đãng, cao rộng, phải trong trẻo và yên tĩnh đến thế nào thì mới làm nổi bật lên hình ảnh chòm mây lẻ loi lưng trời, và mới thấy được nó đang trôi chầm chậm (mạn mạn) ngang qua (độ) bầu không mênh mông như vậy. Không gian mênh mông vô tận, thời gian như dừng lại, lắng xuống. Phải có một tâm hồn êm ả thư thái như thế nào mới có thể theo dõi một chòm mây trôi lơ lửng thong thả giữa bầu trời như vậy.

    Chính những chữ “cô”, “mạn mạn” và bút pháp mượn điểm vẽ diện, lấy cái cực nhỏ diễn tả cái bao la, dùng cái di động thể hiện cái yên tĩnh làm cho câu thơ Bác trở nên rất Đường. Đường trong cấu trúc nghệ thuật, trong cả từ ngữ, chi tiết, hình tượng, âm điệu, tức là trong từng yếu tố. Do đó, chúng tôi chưa thấy có căn cứ để đồng ý với ý kiến cho rằng chỉ có “cấu trúc nghệ thuật của Bác lại rất Đường” (Nhữ Thành). Nhất là ý kiến đó không thật phù hợp với nhiều bài thơ, nhiều câu thơ của Bác, trong đó có những câu đang nói ở đây, đều đậm đặc những “yếu tố” Đường, đồng thời cũng rất tiêu biểu cho “cấu trúc thơ Đường”, mặc dù khi dịch ra câu thơ tiếng Việt chất Đường đã bị nhạt đi ít nhiều.

    Hai câu đầu bài Mộ rất cổ điển, rất Đường thi. Một cảnh trời chiều thật thi vị, vừa cổ kính, vừa quen thuộc, thân thiết. Liệu tình cảm thiên nhiên, sự giao hòa với tạo vật của Bác còn cần phải chứng minh? Đó cũng là một yếu tố tinh thần truyền thống kết tinh vững bền trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng của thời đại.

   Song trong thẳm sâu tâm hồn, hồn thơ Hồ Chí Minh, đâu phải chỉ có tầm hồn nghệ sỹ cổ điển. Trong tranh xưa vẽ cảnh chiều – tranh bằng tranh và tranh bằng thơ – cánh chim thường chỉ là một nét vẽ thuần túy có ý nghĩa thẩm mĩ, một nét nên thơ, nên họa cần thiết thêm vào để gợi cảnh chiều, thế thôi. Cũng có khi nhìn kĩ, đọc kĩ, có thể thấy cái hồn, cái thần toát lên từ nhiều nét chấm phá sơ sài và gợi cảm trong bức tranh không gian rộng lớn đó: cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa…

    Hoàng Trung Thông khi thưởng thức một cách tâm đắc bài thơ Chiều tối của Bác Hồ, đã liên tưởng đến một bài thơ của Liễu Tông Nguyên đời Đường mà hai câu đầu là:

Thiên sơn điểu phi tuyệt

Vạn kính nhân tông diệt

    Dịch nghĩa:

Nghìn non bóng chim bay đã tắt

Muôn nẻo, dấu người mất

    Bài Độc tọa Kính Đình sơn của Lí Bạch cũng có hai câu trên là:

Chúng điểu cao phi tận

Cô vân độc khứ nhàn

    Dịch nghĩa:

Bầy chim cao bay hết

Chòm mây một mình trôi

    Cả hai bài thơ đều là những nét chấm phá cổ điển gợi cảnh không gian bao la, với những cánh chim cao bay. Lí Bạch còn có chòm mây trôi nhàn nhã một mình lưng trời, cũng như trong bài thơ của Bác.

   Song, có phải những cánh chim trong hai bài cổ thi trên đây đều bay mãi vào chốn xa xăm, vô tận vô cùng. Đường bay của chúng là vô tận: càng bay càng mất hút trong cõi tuyệt mù của bầu trời mênh mông. Hai câu thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều kết thúc bằng tận hoặc tuyệt. Thi nhân xưa nhìn theo cánh chim bay mất hút và như đã cảm nghe cái mênh mang vô tận vô cùng của trời đất “Thiên địa chi du du” (Thơ Trần Tử Ngang)…

    Trở lại câu thơ Bác Hồ: “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”. Cánh chim ở đây không chỉ là mấy nét vờn vẽ của một họa sĩ: dường như Bác không nhìn theo cánh chim bay về hướng rừng chỉ với cái nhìn thưởng thức thẩm mĩ của một người nghệ sĩ, mà nhiều hơn là với đôi mắt lưu luyến, trìu mến của một tấm lòng yêu thương, cảm thông đối với một biểu hiện của sự sống. Đây là những con chim có sự sống, có sinh hoạt nhịp nhàng hàng ngày của chúng. Chúng không “cao phi tận”, “phi tuyệt”, bay vào chốn vô cùng vô hạn để biến mất trong cõi hư không siêu hình, mà là những cánh chim “về rừng tìm chốn ngủ”, sau một ngày “lao động” chuyên cần mệt mỏi, ngủ để sáng hôm sau lại tiếp tục nhịp sống tuần tự của đời chim. Câu thơ 7 chữ mà có tới 4 động từ, trạng từ diễn tả hoạt động, trạng thái sinh hoạt của sinh mệnh chim (quyện, qui, tầm, túc). Đường bay, hoạt động bay ấy có mục tiêu cụ thể gần gũi: về rừng tìm cây để ngủ trong đêm. Câu thơ của Bác đã đưa cánh chim từ cõi hư không phảng phất ý vị siêu hình trở về với thế giới hiện thực sự sống hàng ngày, bình thường giản dị song bất diệt trên trái đất này.

    Bác Hồ đã nhận xét có tính chất phê phán: “Cổ thi thiên ái nhiên tuyệt mĩ – Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp”. Song chính Bác là người có tấm lòng, có mối giao hòa đặc biệt với thiên nhiên. Dường như Bác sinh ra để làm chuyện hòa hợp với suối rừng, sống ở căn nhà sàn mây vách gió, giữa tiếng chim rừng, bông hoa núi… Có điều, lắm khi lòng yêu thiên nhiên đặc biệt đó không phải chỉ vì thiên nhiên đẹp, mà còn có gì nữa thật sâu xa. Nhà nhiếp ảnh Đinh Đăng Định kể lại: Có lần anh định bẻ một cành lá để khỏi vướng ống kính, Bác vội ngăn lại: Bác thương cành lá. Khu nhà sàn trong phủ Chủ tịch có cây bụt mọc bị bệnh lá vàng đang lụi chết, Bác thương cái cây, Bác tự tìm cách chữa cho nó và cây đã xanh trở lại. Đàn cá rô trong ao vườn Bác thường ríu rít rộn ràng mỗi khi Bác ra với chúng, vì: “hàng ngày Bác vẫn gọi rô luôn”… Xuân Diệu đã nhận xét sâu sắc: “Sự yêu thương của Bác đã thành tấm lòng tạo hóa: Bác sống như trời đất của ta”.

    Tình cảm thiên nhiên của Bác Hồ, trong chiều sâu chính là lòng yêu thương sự sống, cảm quan nghệ sĩ ở Bác chính là cảm quan nhân đạo. Cái đẹp là ở sự sống; phải chăng quan điểm thẩm mĩ ở Bác đã vượt xa thi nhân xưa? Người nghệ sĩ rất mực tài hoa đó trước hết là một con người. Và do đó là một nghệ sĩ lớn.

   Câu thơ trong bài Mộ “Cô vân mạn mạn độ thiên không” là câu thơ Đường hơn cả trong bài thơ đậm chất Đường thi này. Nếu tách nó khỏi bài thơ, thì đúng là “đặt vào giữa tập thơ Đường, Tống cũng khó nhận ra” (Và cây đời mãi mãi xanh tươi, Quách Mạt Nhược). Nó rất gần với câu thơ Lí Bạch đã dẫn ở trên: Cô vân độc khứ nhàn. Nó làm gợi nhớ đến câu thơ trong bài Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng của Thôi Hiệu: “Bạch vân thiên tải không du du”. Có gì có sức gợi cảm về cái bao la, trong trẻo, cái êm ả của trời thu hơn là hình ảnh chòm mây trắng trôi nhẹ giữa tầng không? “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” – nhà thơ Việt Nam Nguyễn Khuyến đã điểm trúng cái thần mùa thu ở câu thơ này. Ở thơ Bác, cũng chòm mây dường như muôn thuở ấy nhưng dù là “khó nhận ra”, thơ Bác nếu để lẫn trong thơ Đường thơ Tống thì cũng không thể nhận ra, ngay cả khi câu thơ của Bác bị cắt rời khỏi bài thơ, tập thơ của Người. Chòm mây trong thơ Bác vẫn có chỗ khác, không để ý thì khó thấy, mà thật ra là rất khác xa thơ xưa.

    Hình tượng áng mây trắng một mình giữa bầu không khí như là một mô típ nghệ thuật quen thuộc trong thơ xưa và ít nhiều mang một ý nghĩa biểu tượng riêng. Nó gợi nên cái cô độc thanh cao, cái đạo sống phiêu du thoát tục, đã từng hấp dẫn nhiều thế hệ nhà Nho xưa. Nhữ Thành còn cho biết, mấy chữ “không du du” trong thơ Đường có một ý nghĩa triết học không giống ý nghĩa thông thường của những chữ ấy: “Không du du: muốn đời lo lửng” (Nhữ Thành). Có lẽ cũng có thể nói như vậy về những chữ “bạch vân” (mà nhà thơ đại nho đại ẩn Nguyễn Bỉnh Khiêm lấy làm bút hiệu, đạo hiệu…)

    Trong câu thơ của Bác chòm mây trôi một mình giữa trời không có sắc thái ý nghĩa ấy, cái sắc thái vốn đã khá đậm trong câu thơ Lí Bạch có dáng dấp, thần thái của một tâm hồn phiêu diêu nhàn tản, đi một mình bên trên cuộc đời, “độc thiện kì thân độc kì hành đạo” cái đạo lánh đời. Câu thơ Bác có chữ “cô” mà không có chữ “độc”. Và chòm mây trong câu thơ của Người cũng không phải là ánh mây trắng ngàn năm phiêu diêu lơ lửng giữa bầu không mênh mông, nhuốm ý vị triết học siêu hình, như mang nỗi khoắc khoải mơ hồ của con người trước cõi hư không…trong câu thơ Thôi Hiệu. Không có căn cứ gì để gán cho hình tượng chòm mây trong thơ Bác một ý nghĩa tượng trưng nào đó. Đây chỉ là chòm mây quen thuộc trên bầu trời thế thôi. Nó gợi cảm rất nhiều vì cái cao rộng, trong trẻo, êm ả của một chiều thu miền sơn dã.

    Tác giả bài Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác (Hoàng Trung Thông) dường như muốn từ vị trí, cảnh ngộ của Bác trên đường giải đi lúc đó để lĩnh hội ý thơ của người nên cho rằng, cũng như con chim đi xa mệt mỏi tìm chỗ ở, tác giả (Bác Hồ – NKTT) cũng thế thôi, giải đi chiều đến rồi cũng mong có chốn nghỉ: vậy thì “làn mây che mặt trời” cũng uể oải (…) cũng muốn tìm chỗ trú ở chân trời. Mộ (Chiều tối) là lúc mặt trời lặn hoặc đang lặn vậy mà sao chòm mây lẻ đang trôi lơ lửng ngang qua bầu không gian bao la kia lại che khuất mặt trời đã trụt xuống chân trời được! Hẳn không phải vậy, mặt trời đã khuất (sau rừng), song những tia nắng cuối cùng vẫn lưu luyến trên bầu không và châm mây nhuốm nắng chiều bỗng nổi rõ trên bầu trời bao la. Bức tranh chiều ấy khoáng đãng, trong trẻo, nhẹ nhõm biết bao! Sao chòm mây một mình trôi lơ lửng lưng trời kia lại “uể oải”, “vội vã”, “nặng nề”. Câu thơ dịch không thể dịch từ kí âm “mạn mạn” – diễn tả sự di động rất thong thả trên bầu trời bao la yên ả mà thêm vào chữ “nhẹ: “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”. Câu thơ chữ Hán không có chữ nào có ý nghĩa nhẹ nhàng mà vẫn gợi lên cảm giác nhẹ nhõm thanh thoát, người dịch thêm vào chữ nhẹ là để truyền cái tinh thần nhẹ nhõm này, cũng được thôi! Cố gắng từ vị trí, cảnh ngộ của Bác để hiểu thơ Bác là đúng, song hiểu đúng tâm trạng của Người để từ đó hiểu ý thơ, không suy diễn chù quan thật không dễ. Thơ của Hồ Chủ Tịch thường chứng tỏ một điều là niềm vui và nỗi buồn của Người kể cả những sâu kín riêng tư lại nhiều khi không thể giải thích bằng những lí do cá nhân cụ thể. Biêt bao vần thơ trong Nhật kí trong tù cho thấy tâm hồn Bác Hồ lắm khi không hề phụ thuộc vào cảnh ngộ của riêng Người. Chính sự quên mình một cách tự nhiên khi cho nhiều khi tứ thơ thêm bừng sáng, bốc dậy cả bài thơ, thật bất ngờ; nếu đối chiếu với hoàn cảnh sáng tác cụ thể thì thấy lạ lùng dường như không hiểu nổi:

Mừng sáng nghe oanh hót xóm gần

    Câu thơ “như một cánh chim loáng bạc bay sáng cả trời đất” (Đọc thơ Bác, Lưu Trọng Lư) đó là từ sau cái đêm “ngủ ở Long Tuyền” bị cùm chéo chân và rệp, rét hành hạ.

Phương Đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn quét sạch không

Hơi ấm bao la trùm vũ trụ…

   Cái tứ thơ rất khỏe, rất lớn, có giọng anh hùng ca, “một nguồn cảm hứng lớn khiến cảnh bình minh chung trong một ngày bỗng có cái khí thế của cảnh bình minh chung trong một thời đại” (Đọc Nhật Kí trong tù, Hoài Thanh) lại từ trên đường giải đi rất sớm, những trận gió thu lạnh lẽo tới tấp quất vào mặt…

    Nếu Bác nhìn theo cánh chim về rừng, chòm mây trôi lưng trời chỉ với đôi mắt người tù mệt mỏi mong được nghỉ ngơi làm sao có được những câu thơ “Thơ bay cánh hạc ung dung” nhường ấy! Hiểu như vậy e không đúng với tâm trạng Bác Hồ, cũng là chưa tới được chất người cộng sản Hồ Chí Minh và không hợp ý hợp tình, thần thái câu thơ. Hai câu đầu bài Mộ có cái bát ngát, cái trong trẻo, cái nhẹ nhõm êm ả mà không hề gợi cảm giác hoang vắng, quạnh hiu, càng không có màu sắc hư vô siêu hình. Đằng sau những câu thơ bình dị mà cao rộng khoáng đạt ấy là tâm hồn hết sức ung dung thanh thản của nhà thơ trữ tình. Làm sao những vần thơ đó lại không khác gì bài thơ Giang tuyết của Liễu Tông Nguyên, một bài thơ lẻ loi quá chừng, lạnh lẽo quá chừng (Hoàng Trung Thông)!

    Hai câu thơ thật đẹp, vừa giản dị vừa tinh tế, cái đẹp của sự trong sáng cổ điển. Song cái đẹp thật sự của thơ Bác lắm khi không thể tìm thấy ở câu chữ, tức là ở trong thơ, mà thường phải tìm ở ngoài thơ. Nếu không chú ý hoàn cảnh cụ thể nảy ra thi hứng, thi tứ thì những câu thơ ấy cũng như những câu thơ đẹp cổ điển khác nói cảnh trời thu, cảnh hoàng hôn mà thôi. Đây không phải là thơ của Lí Bạch, của một Thôi Hiệu hay một Nguyễn Khuyến nhàn dật buông cần câu trên mảnh ao thu, một Bà Huyện Thanh Quan “Êm ái chiều xuân tới khán đài”… mà là của một người tù đang trên đường bị giải, “Tay bị trói, cổ đeo xích”, đã suốt ngày dầm mưa dãi nắng trèo núi qua truông hàng năm chục cây số “vẫn chưa được nghỉ…, đến lúc nghỉ ngơi vẫn bị đày đọa trong nhà lao địa phương, chắc hẳn vẫn tay trói chân cùm trên sàn xà lim bẩn thỉu lạnh lẽo…”. Và đặt trong hoàn cảnh sáng tác cụ thể oái oăm như vậy, bức tranh chiều thu êm ả kia sẽ hiện ra trước người đọc một ánh sáng khác. Những câu thơ rất thơ, có cái vị cổ điển toát lên phong thái “nhẹ nhàng thanh tịch rất ung dung” kia chẳng phải là một biểu hiện của một bản lĩnh phi thường của người chiến sĩ kiên cường vĩ đại sao? Không có một nghị lực phi thường để vượt lên trên mọi dày vò thử thách, không có một tinh thần lạc quan kì diệu của con người hoàn toàn làm chủ bất kì hoàn cảnh nào dù cho khốc liệt đến mấy, để thực sự luôn luôn làm chủ bản thân, thật sự là người tự do, thì không có được những vần thơ bay bổng, trong trẻo ấm áp đến thế trong hoàn cảnh ấy. Đó chính là chất thép vĩ đại của con người cộng sản Hồ Chí Minh.

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

    Như một bức chấm phá cổ điển, bức tranh chiều tối của Hồ Chủ tịch có bố cục hài hòa, với những mảng xa gần, đậm nhạt rõ rệt. Nếu như hai câu đầu dựng lên tấm phông làm nền thì hai câu này làm nổi lên hình tượng trung tâm ở cận cảnh, là bình diện thứ nhất của bức tranh.

    “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc” – Cô gái (bản dịch của Viện Văn học dịch là cô em làm cho câu thơ có giọng xa lạ với lời thơ của Bác trong nguyên tác) xóm núi xay ngô. Câu thơ thật giản dị, giản dị tới đơn sơ: 7 chữ song chỉ 4 từ, một câu trần thuật tối giản, một thông báo bình thường trong khẩu ngữ hàng ngày không miêu tả, lại dùng cả tiếng nói địa phương (bao túc: ngô, tiếng Quảng Tây). Điều mà phong cách cao quí của thơ cổ điển nói chung, thơ Đường nói riêng, rất kiêng kị

     Thơ Bác là thế! Từ dáng dấp cổ điển của Đường thi chuyển hẳn sang bút pháp hiện thực rất gần văn xuôi hiện đại. Nhà nghiên cứu kĩ, tinh sẽ chỉ ra một điều khá độc đáo là lắm khi chỉ một bài thơ bát cú, thậm chí tứ tuyệt của Bác, có tới hai hoặc ba “phong cách”, bút pháp “màu sắc thẩm mĩ”… mà biến hóa phóng túng, thoải mái, linh hoạt làm sao! Điều lạ là câu thơ có vẻ ít giọng thơ mà gần như một câu văn xuôi trần trụi ấy lại rất đẹp, lấp lánh sinh động lạ thường. Phải chăng vì hai tiếng thiếu nữ tự nó bao hàm sắc thái nghĩa tươi mát tr trung? Vì âm điu nhp nhàng ca câu thơ có láy âm sang câu sau, phù hp vi vic din t xay ngô nhp nhàng uyn chuyn?

    Trong một bài tứ tuyệt, câu thứ ba, có một vị trí rất đáng chú ý. Đó là câu chuyển. Trong kết cấu bài Cảnh khuya, câu đầu rất lãng mạn, rất hiện đại, lãng mạn hơn cả “thơ mới” của Thế Lữ (tiếng hát trong như nước ngọc tuyền). Câu thơ thứ hai bỗng lộng lẫy vẻ đẹp cổ kính như một tấm sơn mài (Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa). Câu 3 và câu 4 chuyển sang khẩu ngữ thân mật bình dị hàng ngày. Khai – Thừa – Chuyển – Hợp khá cố định trong thơ cổ điển, nó không liền vần với ba câu kia mà có tư thế tương đối độc lập nêu ra để làm nổi bật ý thơ. Và vì vậy hình tượng cô gái xay ngô đã hiện ra nổi bật để làm trung tâm bức tranh. Với nét vẽ đậm khỏe đó, Bác Hồ đã đặt người con gái lao động ở vị trí chủ thể của thiên nhiên tạo vật và đẩy lùi ra phía sau, nền trời với cánh chim, chòm mây…Từ bức tranh thiên nhiên trở thành bức tranh đời sống, bức tranh sinh hoạt, từ trời mây chim muông chuyển sang con người và lại là con người lao động. Đó là xu hướng vận động của cấu trúc bài thơ, là logic của hình tượng thơ, phản ánh cái logic lớn của tâm hồn nhà thơ trữ tình.

     Trong những bài thơ vịnh cảnh chiều nổi tiếng xưa cũng thấp thoáng bóng người:

Lom khom dưới núi tiều vài chú

Lác đác bên sông chợ mấy nhà

…Gác mái ngư ông về viễn phố

Gõ sùng mục tử lại cô thôn.

    Song đó chỉ là những chấm phá ước lệ, những ngư tiều, canh mục được điểm xuyết trên tranh, lẫn với chim chóc, cỏ cây, hoa lá, và ngàn mai gió cuốn, dạm liễu dương sa… Có con người mà không có sự sống, và thật ra cũng chính thiên nhiên đây thôi! Đằng sau cảnh trời chiều nhuốm màu sương, hoài cổ sầu muộn ấy là nỗi niềm cô đơn của một tấc lòng tổ quốc, của một lữ thứ tha hương…Lời thơ hay, song sao mà hoang vắng quạnh hiu.

     Bài Giang tuyết của Liễu Tông Nguyên dẫn ở trên cũng có bố cục giống như bài Mộ: hai câu sau cũng là hình ảnh con người ở trung tâm bức tranh:

Cô chu suy lạp ông

Độc điếu hàn giang tuyết

    Ông ngư mặc áo tơi, đội nón lá một mình ngồi câu trên chiếc thuyền lẻ loi giữa dòng sông tuyết lạnh! Hai câu thơ chỉ mười chữ mà có tới bốn chữ có nghĩa lẻ loi, lạnh lẽo (cô, độc, hàn, tuyết), kết thúc bài thơ là hàn giang tuyết, đọc xong còn để lại cai dư vị “lẻ loi lạnh lẽo quá chừng”! Bài thơ cũng có nói đến chim bay, dấu chân người, có vẽ nên cả con người, song chim thì bay hết, dấu chân người cũng mất, chỉ còn bóng ông già câu cá như một chấm đen chết giữa nền “sông tuyết lạnh”. Cái nét chấm phá lẻ loi ấy chỉ càng làm bức tranh “sông tuyết” thêm lạnh lẽo mà thôi!

    Từ chú tiều lom khom lẫn với cây cỏ dưới chân đèo Ngang, một ngư ông, một mục tử đang tìm về “cô thôn”, “viễn phố” để nhòa dần trong buổi chiều tối, hoặc “ông già” lẻ loi ngồi câu trên sông tuyết, đến cô gái xóm núi xay ngô sinh động, khỏe khoắn nổi bật giữa cảnh chiều, có sự khác nhau giữa hai phạm trù thẩm mĩ, hai thế giới quan của hai thời đại.

    Lê Trí Viễn có nhận xét khá tinh về bản dịch hai câu thơ cuối của bài thơ Mộ này: “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc” dịch thành “Cô em xóm núi xay ngô tối”. Trong chữ Hán không có chữ “tối” ấy, chỉ có “xay ngô”. Kể ra thì bài này tả cảnh chiều tối bên một xóm núi, sau khi tả cảnh chim bay về núi ngủ, cảnh mây trôi chầm chậm trên không, quay về xóm núi cô gái nhỏ xay ngô để chuẩn bị bữa tối mà thêm chữ “tối” vào, có gì là sai? Đúng là xay ngô tối nhưng đặt chữ tối mà tự nhiên nói đến, thời gian trôi dần theo cánh chim và lần này, theo những vòng xoay của cối ngô, quay quay mãi, “ma bao túc”, lò đã rực hồng, tức trời tối, trời tối thì rực lên, nhịp câu thơ thứ tư là 4 – 3, nhịp ba ngắn, chấm dứt cho cả một sự vận động, chuyển động đúng với cái tối lúc đến nhanh, thu dần vào cuộc sống bên lò than, rồi tỏa cái ấm ra theo âm thanh nồng ấm của chữ hồng. Tất cả cái đó, chữ “tối” trong câu 3 và nhịp điệu 2 – 5 của câu 4 làm đi nhiều tấm lòng nâng niu, trìu mến, chút reo vui trước cuộc sống bình thường, nghèo khổ nhưng bình yên của người làm thơ đang bị giải đi trên đường.

    Nói thêm về mấy chữ cuối câu thứ ba được lặp lại ở câu thứ tư: ma bao túc, bao túc ma…Thơ Bác, cả tiếng Việt, cả thơ chữ Hán không ít những trường hợp có láy âm. Ba âm tiết được láy trong bài Mộ vừa cho thấy sự tiết kiệm cao độ trong ngôn từ thi ca của Bác, một trong những biểu hiện có tính chất giản dị lạ lùng của thơ Người, vừa làm cho câu thơ có cái vòng quay của động tác xay ngô, cái nhịp nhàng uyển chuyển của cô gái lao động xóm núi. Và, kể cũng lạ, hai câu thơ đơn giản trần trụi kia lại như đã khắc họa nổi bật hình tượng người thiếu nữ lao động có một giá trị tạo hình, dường như có cả đường nét, hình khối, sáng tối…hẳn hoi, tất cả đều toát lên sự trẻ trung khỏe khoắn, sống động, đẹp và đáng yêu biết bao! Không phải là tưởng tượng chủ quan mà đó đúng là “một hình ảnh tuyệt đẹp về cuộc đời thiếu thốn vất vả mà vẫn ấm cúng, mà vẫn đáng quí, đáng yêu”.

    Đã có nhiều nhà nghiên cứu phát biểu tâm đắc về chữ hồng kết thúc bài thơ. Trong một bài Đường thi tứ tuyệt hàm súc, chữ cuối cùng này thường có một sức nặng truyền cảm đặc biệt, nó góp phần quan trọng tạo nên cái dư vị, cái âm hưởng vang ngân của bài thơ. Chữ hồng kết thức bài Mộ thật tự nhiên mà thật bất ngờ. Bếp lửa hồng lên, nghĩa là buổi chiều tàn êm ả mà thời gian tưởng như không trôi đã đến lúc kết thúc để bắt đầu vào tối đêm, song không phải đêm tối âm u mà là ngọn lừa hồng ấm áp, bừng sáng.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 11

 “Nhật kí trong tù” được xem là tập thơ thể hiện rõ nhất tâm hồn người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh. “Chiều tối” được Người sáng tác vào cuối thu năm 1942 khi bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ, bài thơ thể hiện được tình yêu thiên nhiên cùng ý chí, tinh thần thép của Bác ngay trong hoàn cảnh tù đày, xiềng xích mất tự do.

“Chiều tối” là bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn đến hài hòa giữa mang đậm phong vị cổ điển và tinh thần hiện đại. Mở đầu bài thơ, Hồ Chí Minh đã phác họa bức tranh thiên nhiên lúc chiều tà đầy sinh động, gợi cảm qua hình ảnh cánh chim mỏi mệt và đám mây cô đơn:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không

Dịch thơ:

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Chiều tà là khoảng thời gian dễ khắc sâu vào lòng người nỗi cô đơn, trống trải nhất đặc biệt là đối với người nữ khách tha phương. Bức tranh thiên nhiên chiều tối được Bác gợi mở với hình ảnh cánh chim mỏi mệt đang tìm về chốn ngủ, là đám mây trắng đơn độc trôi vô định giữa tầng không rộng lớn của bầu trời. Với một vài nét chấm phá, Bác đã mở ra trước mắt người đọc cả một khung cảnh rừng núi rộng lớn, choáng ngợp nhưng lại tịch mịch, quạnh quẽ khi hoàng hôn.  Dường như thiên nhiên đã có sự đồng điệu, hòa quyện làm một với tâm trạng con người hay chính con người đã làm cho bức tranh thiên trở nên đượm buồn, tràn đầy cảm xúc như Nguyễn Du từng nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”?

Cánh chim mỏi mệt và đám mây cô đơn vốn là những hình ảnh quen thuộc trong thơ ca cổ điển, trong bài thơ Chiều tối, Bác Hồ đã sử dụng những thi liệu đậm màu sắc cổ điển ấy để làm cầu nối thể hiện nỗi buồn xa xứ, tâm trạng cô đơn của người cộng sản khi phải lưu lạc nơi đất khách. Hình ảnh cánh chim mỏi mệt như ẩn dụ cho những mỏi mệt về thể xác của người tù cộng sản khi phải thực hiện chuyển lao liên tục suốt một ngày dài, đám mây cô đơn lại liên tưởng đến tâm trạng cô đơn, lạc lõng của Bác nơi đất khách.

Hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng nhưng vắng lặng, đượm buồn. Đến hai câu thơ sau Bác lại hướng ngòi bút của mình đến bức tranh của đời sống ấm áp, rực sáng giữa vùng sơn cước vắng lặng, cô đơn:

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng

Dịch thơ:

(Cô em xóm núi xay ngô tối’
Xay hết, lò than đã rực hồng)

Hình ảnh cô thôn nữ xay ngô không chỉ gợi ra cái khỏe khoắn của con người trong công việc lao động mà còn phản chiếu bức tranh đời sống bình dị mà ấm áp, yên vui. Trong cảm nhận của người tù cộng sản, ánh sáng của lò than, hơi ấm của cuộc sống vô cùng thiêng liêng, quý giá, nó mang đến hơi ấm cho người cộng sản nơi đất khách, hơn nữa chính sự sống giản đơn, bình dị ấy đã tiếp thêm sức mạnh, niềm tin để vượt qua xiềng xích của hiện tại và hướng đến một tương lai tươi sáng.

Chữ “hồng” được coi là nhãn tự của bài thơ bởi sự xuất hiện của lò than rực hồng đã xua đi bóng tối và sự lạnh lẽo của khung cảnh rừng núi trong hai câu thơ trước và thắp lên ngọn lửa của niềm tin, của hi vọng. Hai câu thơ cuối đã thể hiện được tình yêu cuộc đời và sự lạc quan của Bác ngay trong hoàn cảnh khắc nghiệt, thử thách nhất.

Qua bài thơ Chiều tối, người đọc không chỉ cảm nhận được bức tranh thiên nhiên, bức tranh sự sống sinh động, tràn đầy cảm xúc mà còn xúc động trước một tâm hồn đẹp, một nghị lực phi thường và một tình yêu cuộc sống tha thiết nơi Bác.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 12

Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại đáng kính của cả dân tộc, ngôi sao Khuê soi sáng con đường cách mạng Việt Nam đi đến thành công thắng lợi. Không những thế, Người còn là danh nhân văn hóa với sự nghiệp văn học đồ sộ, thành công trên nhiều thể loại khác nhau. Nổi tiếng và tiêu biểu nhất phải kể đến tập “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù) hoàn thành từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943. Giữa chốn gông cùm xiềng xích những áng thơ vẫn cất lên ngời ngời tư tưởng cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng. Trong đó “Mộ” (Chiều tối) chính là bài thơ mang giá trị nội dung và nghệ thuật độc đáo.

 Mở đầu bài thơ là một bức tranh thiên nhiên yên bình, êm ả:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)

Bằng ngòi bút đặc tả của mình, Hồ Chí Minh đã tạo ra khung cảnh có sự chuyển động của cánh chim và chòm mây vào cái độ chiều tà dần buông. “Quyện điểu” nghĩa là “chim mỏi”, “tầm” nghĩa là “tìm”. Vào thời khắc mặt trời xuống núi, ngày dần tàn, mọi sự vật đều cần một nơi chốn nghỉ ngơi. Cánh chim sau một ngày mải miết rong ruổi kiếm ăn cũng không phải ngoại lệ. Đến loài vật cũng biết mệt mỏi để tìm chốn ngủ thì hẳn con người cũng đã kiệt quệ sức lực khi phải di chuyển cả một chặng đường tù đày dài liên tục. Nhưng điểm khác biệt ở chỗ, chim cố gắng bay về với tổ ấm của nó, còn người tù chính trị mà chính là tác giả ở đây chỉ có thể đi từ nhà lao này đến nhà lao khác. Nếu chim có động lực thúc đẩy cất đôi cánh bay đi thì mỗi bước chân di chuyển của người tù ở đây gần như là vô nghĩa.

Con người chẳng thể tự do như cánh chim, ngước lên bầu trời mà bỗng thấy cô đơn, trống trải như “Cô vân mạn mạn độ thiên không” – “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”. Trên bầu trời chiều cao và rộng ấy, có lẻ loi một áng mây chiều.

Từ xưa đến nay, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, có lẽ trong lòng người thi nhân lúc bấy giờ có cái sầu, có cái bi nhưng tuyệt nhiên lại không thấy cất một lời nào ai oán than vãn. Tất cả chỉ có sự thả hồn tận hưởng khung cảnh như người nghệ sĩ ngắm nhìn bức tranh tuyệt mĩ tạo hóa đã dệt nên vào cuối ngày. Nó cho thấy một tình yêu thiên nhiên đến rạo rực. Chắc hẳn nhìn cánh “chim mỏi về rừng”, nhìn “chòm ấy trôi nhẹ”, trong tâm tưởng của Hồ Chí Minh ít nhiều cũng khao khát sự tự do, muốn được trở về với quê hương, đất nước.

Có mấy ai giữa cảnh lao từ vẫn có phong thái ung dung, tinh lần lạc quan thả hồn chắp nên những vần thơ tuyệt vời như vậy. Hai câu thơ tuy ngắn nhưng lại và sự kết hợp tổng hòa, nhuần nhuyễn giữa nét cổ điển và hiện đại. Ở đây, Hồ Chí Minh đã sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng, không có một chữ nào nhắc đến “chiều” nhưng người đọc vẫn có thể hình dung một cách rõ nét về không gian chiều tà cũng như nỗi lòng mà tác giả muốn gửi gắm.

Cánh chim hay mây vốn không phải đề tài xa lạ trong những tác phẩm thi cổ xưa. Tuy nhiên khi đưa vào thơ Hồ Chí Minh vẫn tràn đầy sức sống, một cánh chim nhỏ chao liệng đủ để làm chủ cả một không gian bao la rộng lớn.

Hai câu sau, hình ảnh con người xuất hiện bình dị và tràn đầy sức sống

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng

(Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng)

Bức tranh thiên nhiên dần khép lại, nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt của con người nơi sơn cước. Không gian chiều tà giờ đây đã bị bóng tối đã lấp đầy phủ kín không gian.

Trên đoạn đường bị giải đi, Hồ Chí Minh bắt gặp hình ảnh “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”, không phải là giai nhân yểu điệu, mà là cô thôn nữ đang hăng say uyển chuyển với công việc của mình. Một vẻ đẹp trẻ trung, khỏe khoắn và tràn đầy sức sống trong lao động thường ngày. Hiếm có nhà thơ nào lại tinh tế để khám phá ra được sức hấp dẫn trong những điều bình dị nhất như vậy. Nguyên tác, Hồ Chí Minh dùng từ “sơn thôn thiếu nữ” thể hiện sự tôn trọng, ngưỡng mộ vẻ đẹp của cô gái. Nhưng rất tiếc ở bản dịch đã bị chuyển thành “Cô em xóm núi”, ít nhiều bị mất đi tính hình tượng mà tác giả cố ý xây dựng. Cấu trúc điệp liên hoàn được sử dụng trong câu 3 và 4: “ma bao túc” – “bao túc ma hoàn” tạo ra sự nhịp nhàng, uyển chuyển khéo léo. Đặc biệt cái hồn cả cả bài thơ đọng lại trong nhãn tự “hồng”. Hình ảnh “lô dĩ hồng” bừng lên thứ ánh sáng để xua tan đi bóng tối và sự mệt mỏi, sưởi ấm không gian vẫn đang hiu quạnh vắng vẻ ở hai câu thơ đầu tiên. Một chữ “hồng” ấy thôi cũng đủ để thổi bùng lên bao nhiêu ý chí, khát vọng và quyết tâm của người thi nhân – người chiến sĩ cách mạng trong cảnh cầm lao.

Hai câu thơ cuối của bài thơ “Chiều tối” đã tô điểm bức tranh trở nên hoàn hảo, có cảnh, có người. Con người hiện lên không nhỏ bé, cô lập mà thật kỳ vĩ, làm chủ cả không gian, thời gian, lấp đầy khoảng trống thiên nhiên đem đến. Ý thơ còn bộc lộ được sức sống mãnh liệt cũng như tinh thần sắt đá của tác giả Hồ Chí Minh.

“Mộ” (Chiều tối) tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh. Giữa gông cùm và xiềng xích, tâm hồn người thi nhân vẫn cất lên tiếng lòng tha thiết với cảnh vật, con người hữu tình. Bút pháp ước lệ tượng trưng, lấy động tả tĩnh, lấy mây điểm trăng cùng sự kết hợp cổ điển xen lẫn hiện đại đã tạo nên một bài thơ xuất sắc cả về nội dung và giá trị nghệ thuật.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 13

Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta đã hy sinh biết bao nhiêu năm tháng cả cuộc đời để cống hiến cho Tổ Quốc. Người không chỉ là một người chiến sĩ Cách Mạng mà còn là một nhà thơ có tâm hồn lãng mạn, bay bổng. Trong suốt những năm tháng bị bắt giam trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, phải chuyển nhà giam nhiều lần, Bác đã bắt gặp những khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Say lòng trước những vẻ đẹp ấy, Người viết lên bài thơ Mộ (Chiều tối). Bài thơ là khung cảnh thiên nhiên và vẻ đẹp của con người lao động trong thời buổi lúc bây giờ. Đọc bài thơ, ta thấy được tinh thần ung dung, lạc quan, vẫn cảm nhận và rung động trước cái đẹp của Hồ Chủ Tịch dù đang phải sống trong ngục tù tối tăm, bẩn thỉu.

   Hai câu thơ đầu là bức tranh thiên nhiên chiều tà khi hoàng hôn buông xuống:

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không"

Bức tranh hơi phảng phất chút buồn, bởi nó không phải là một bức tranh của bình minh ngập tràn sức sống mà là bức tranh của buổi chiều tà, khi nắng đã tắt và mặt trời từ từ lặn mất đi. Đó là thời điểm những cánh chim phải tìm đường bay về tổ, về với gia đình của nó để nghỉ ngơi cho ngày mai được sải cánh bay lượn tiếp. Lẽ tất nhiên khi đứng trước khung cảnh thiên nhiên mang màu sắc chiều tà đượm buồn như vậy thì thi nhân cũng sẽ mang nhiều tâm trạng. Ta chợt nhớ đến nỗi "sầu trăm ngả" của Huy Cận khi chứng kiến hoàng hôn buông xuống trong bài thơ Tràng Giang:

"Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu"

Cánh chim đã mỏi mệt cũng như người tù đã mỏi chân sau cả một ngày dài phải chuyển nhà giam. Hoàng hôn buông xuống cũng là lúc con người, sự vật được nghỉ ngơi, là lúc con người ta cảm nhận được rõ tình cảnh của mình. Nếu như Huy Cận thấy mình "cô liêu" đơn độc giữa không gian mênh mông, rộng lớn thì Hồ Chí Minh lại thấy cô đơn, lẻ loi trong bốn bức tường. Trong lòng Người lúc này là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương sâu sắc. Ta không hề thấy yếu tố bi thương, bi lụy ở ý thơ, tác giả có nhớ nhà, nhớ quê hương, đất nước nhưng lại không quá sầu thảm, chỉ là một khoảnh khắc bày tỏ nỗi lòng mình. Chứ thi nhân vẫn luôn có khí thế ung dung, tự tại và hiên ngang với đất trời. Hai câu thơ sau cho thấy rất rõ điều đó.

   Trong sự u ám của màn đêm buông xuống, Người vẫn cảm nhận được vẻ đẹp của con người lao động:

"Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng"

Hình ảnh con người lao động hiện lên trên nền một bức tranh thật sinh động, có hồn. Nhà thơ đã dùng màu sắc để khiến cho bức tranh tĩnh lặng ấy trở nên thu hút hơn. Cô gái miền núi cao với sự chăm chỉ, cần cù dù cho đã đến thời điểm cần được nghỉ ngơi cho thấy tinh thần hăng say làm việc, hăng hái lao động của con người thật đáng trân trọng. Có chăng Bác đã nhớ đến phẩm chất cần cù, chịu thương, chịu khó của những người con dân Việt Nam qua hình ảnh cô gái. Dù ở đồng bằng hay miền núi cao thì những nét phẩm chất đẹp đẽ không bao giờ mai một đi ở họ. Bắp ngô là biểu tượng của nền nông nghiệp, của sự ấm no, hạnh phúc. Người tin rằng chỉ cần có sự chăm chỉ, siêng năng thì chắc chắn sẽ được cuộc sống đền đáp, con người đang dành toàn bộ công sức của mình để có được một cuộc sống tốt đẹp hơn, đầy đủ hơn, ấm no hơn. Chỉ qua hai câu thơ mà ta thấy được tình yêu đời, yêu cuộc sống tha thiết, cháy bỏng của người tù. Dù trong ngục có u uất, đối ngược với hiện tại tươi đẹp ngoài kia như thế nào thì Bác vẫn sẽ nhìn vào những điểm tích cực để hy vọng về cuộc sống, về tương lai.

   Bài thơ Chiều tối với 4 câu thơ nhưng đủ để nói lên phẩm chất của Bác cũng như phẩm chất của những người chiến sĩ Cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Họ là những người không bao giờ chịu khuất phục trước hoàn cảnh, đầu hàng trước số phận mà luôn tìm và hy vọng vào những thứ tươi đẹp của cuộc đời. Nhờ có những người như vậy mà đất nước ta mới có được hòa bình như ngày hôm nay.

   Phong cách thơ Hồ Chí Minh cũng dứt khoát, thanh cao, lãng mạn và tích cực giống như phong thái đáng quý trọng của Người. Đọc thơ của Hồ Chủ Tịch, ta tự hỏi vì sao một con người luôn dốc lòng, khổ nhọc vì đất nước lại còn có thời gian thưởng thức cảnh đẹp, lại có một tâm hồn lãng mạn, bay bổng đến như vậy. Đó là bởi vì Người là vị lãnh tụ có một không hai của đất nước ta, cũng là một danh nhân văn hóa nổi tiếng trên Thế Giới mà không mấy đất nước nào có được!

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 14

"Chiều tối" là bài thơ ra đời trong khoảng thời gian đầu khi bác ở trong tù. Cũng trong thời gian đầu ấy, đã có nhiều bài thơ Bác ghi lại ảnh "trên đường"chuyển lao ("Năm mươi ba cây số một ngày_Áo mũ đầm mưa sách hết ngày")_Mới đến nhà lao Thiên Bảo)và bài này cũng nằm trong mạch các bài thơ "Đi đường"ấy.Bài thơ thể hiện một phong cách nghệ thuật nhất quán là sự thống nhất trong đa dạng của tập "Nhật kí trong tù".Đó chính là sự vận động của hình tượng thơ, trong thơ bác bao giờ cũng từ bóng tồi hướng ra ánh sáng, từ lạnh lẽo đến ấm áp, từ nỗi buồn đến niềm vui. Điều này cũng được thể hiện rõ trong bài thơ "Chiều tối ".

Trong bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng xa lạ có gì như thoáng buồn ẩn chứa những liên tưởng mơ hồ:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây lơ lửng giữa tầng không)

Câu thơ mang màu sắc của cổ thi bởi bút pháp miêu tả chấm phá và những thi liệu quen thuộc cửa thơ cổ xưa. Không nói đến thời gian chính xác nhưng hình ảnh "cánh chim"đủ sức diễn tả không gian còn mang ý nghĩa thời gian. Hai câu đầu diễn tả cảnh vật trong một buổi chiều tối. Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất minh hoạ vừa nhớ đến tứ thơ quen thuộc của thi ca cổ điển. Sự mệt mỏi của cánh chim sự cô đơn của đám mây chiều là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù tha phương. Trong lúc mệt mỏi ấy người tù vẫn dành cho thiên nhiên một tình yêu lớn, người đã vẽ lên bức tranh đẹp và đậm chất cổ điển. Đó là biểu tượng của một buổi chiều tà, một chiều thu êm ả nhưng cảnh vật thoáng vẻ buồn, mệt mỏi và đơn chiếc. Cảnh ấy có sự hài hoà với lòng người. Rõ ràng đó chính là sự đồng điệu giữa thiên nhiên và tâm trạng con người được thể hiện khá đậm nét. Song hình tượng thơ không dừng lại ở đó mà có sự vận động rất độc đáo. Từ một bức tranh thiên nhên, lời thơ đã chuyển sang một bức tranh sinh hoạt bình dị. Thời gian từ chiều muộn đã chuyển sang chiều tối. Cảm xúc của con người không còn thoáng buồn nữa mà đã thấy vui. Không gian cũng bừng sáng lên màu đỏ "rực hồng" của lò than:

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng.

Hình ảnh cô gái xay ngô tối trở thành hình ảnh trung tâm của bài thơ, toát lên vẻ trẻ trung, khoẻ mạnh sống động. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống.Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại. Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn:"Ma bao túc","bao túc ma" hành động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô. Ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng kì diệu chính là ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà vào nhịp điệu trong cuộc sống. Buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối, song đêm tối không lẽo âm u mà bừng sáng bằng ngọn lửa hồng.

Từ hai câu đầu đến hai câu cuối của bài thơ "Chiều tối" là sự vận động của tứ thơ từ nỗi buồn sang niềm lạc quan, từ bóng tối ra ánh sáng. Hai câu trên cảnh buồn và lòng cũng không vui. Cảnh ấy, tình ấy thể hiện ở hính ảnh cánh chim mỏi mệt về rừng và chòm mây cô đơn chầm chậm trôi qua lưng trời. Hai câu thơ lại là một niềm vui thể hiện ở hình ảnh ánh lửa hồng bỗng rực sáng lên.Ánh lửa hồng là niền vui của con người làm tan đi cái cô đơn, mệt mỏi tàn lụi của buổi chiều nơi núi rừng hiu quạch. Dó cũng chính là nét cổ điển nhưng vẫn khá hiện đại của bài thơ.

Sự vận động của hình tượng thơ từ thiên nhiên quạch vắng đến con ngýời lao động, đến sự sống đến ánh sáng và tương lai được thể hiện hết sức tự nhiên, giàu cảm xúc. Sự vận động này trong tư tưởng Hồ Chí Minh nằm xuyên suốt trong các bài thơ của tập "Nhật kí trong tù".

Bài thơ kết lại bằng chữ "hồng "chính là nhãn tự của bài thơ thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài. Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ"hồng"đó. Nó thể hiện niềm tin tưởng ý chí, nghị lực kiên cường của người tù cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh của ngọn lửa hồng mang lại cho người đọc cảm giác ấm áp và niềm vui. Ngọn lửa của sự sống vẫn còn lung linh tươi sáng và sưởi ấm mãi muôn đời.

Bài thơ vừa mang phong vị cổ điển vừa có phẩm chất hiện đại, dào dạt cảm xúc của thi nhân trước thiên nhiên và những con người lao động bình dị mà cao đẹp. Cảnh chiều tà vùng sơn cước trong cái nhìn của người tù trên đường lưu đày sự chuyển đổi của thời gian, cảnh vật….đã làm cho bừc tranh "chiều tối"không kết thúc với bóng đêm u tối, với cái buốt lạnh của núi rừng mà ấm sáng bởi ngọn lửa hồng -ngọn lửa của một trái tim, mọt tấm lòng yêu sự sống, yêu đời, yêu đát nước và lòng thương người vô hạn.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 15

Trong dòng chảy của nền văn học dân tộc, cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo tựa hồ hai mạch ngầm xuyên suốt, dào dạt chảy không ngừng nghỉ qua bao chặng đường lịch sử. Hồ Chí Minh là một trong những nghệ sĩ đã hòa quyện cả hai nguồn cảm hứng lớn lao đó vào trong tác phẩm của mình một cách vô cùng tài tình, uyên bác. Bài thơ “Chiều tối” là tác phẩm tiêu biểu cho điều đó

 “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết, lò than đã rực hồng.”

Hồ Chí Minh (1890 –1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung. Quê nội ông là làng Kim Liên (tên Nôm là làng Sen). Cha là một nhà Nho tên là Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929), từng đỗ phó bảng. Mẹ ông là bà Hoàng Thị Loan (1868-1901). Người là nhà cách mạng lỗi lạc, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20.

Bài thơ “Chiều tối” nằm trong tập thơ “Nhật ký trong tù” (còn gọi là “Ngục trung nhật ký”) là một tác phẩm văn học gồm 133 bài thơ bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh viết từ ngày 29 tháng 8 năm 1942 đến ngày 10 tháng 9 năm 1943. Bài thơ kể về quãng đường Hồ Chí Minh bị áp giải tới nhà tù thực dân, qua đó tố cáo chế độ nhà tù khắc nghiệt, tàn ác của chính quyền Tưởng Giới Thạch.

Hai câu thơ đầu là không gian rừng núi đại ngàn:

  “Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”

Cánh chim là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca, thường mang yếu tố gợi nỗi buồn tịch. Nói về cánh chim, Hồ Chí Minh dùng từ “mỏi”. Người thường thấy cánh chim đang bay, còn Hồ Chí Minh lại thấy chim “mỏi”. Sau một ngày dài kiếm ăn mỏi mệt, những cánh chim chiều trở về tổ tựa như lòng người vậy. Suốt cả một ngày đôi chân xiềng xích phải bước từng bước về trại giam, Người cũng mỏi mệt quá rồi. Hơn nữa những cánh chim đang trong trạng thái “tìm”. Rừng già là nhà, là địa phận sống của mọi loài chim, nhưng chúng lại phải tìm “chốn ngủ”. Có lẽ, nhà thơ cũng đang lạc lõng trên chính mảnh đất Tổ quốc của mình. Sống trong một đất nước không có chủ quyền, làm sao con người lại không lạc lõng cho được.

Cánh chim cũng là biểu tượng cho nỗi nhớ quê hương:

“Nhớ nước đau lòng con quốc quốc

Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”

(“Qua đèo ngang” – Bà Huyện Thanh Quan)

Thân tù đày mệt mỏi là thế, nhưng điều khiến Hồ Chí Minh đau đáu hơn, đó là nỗi nhớ nhà, nỗi nặng lòng cho quê hương trong cảnh chiến tranh gian khổ.

Ngoài cánh chim chiều, Hồ Chí Minh còn đặc tả không gian rừng núi bằng hình ảnh chòm mây. Mây được tác giả cảm nhận trong trạng thái “trôi nhẹ”. Mây cũng đang chầm chậm, chầm chậm chờ bóng tối bao trùm. Từ “chòm” chỉ sự ít ỏi được đặt trong thế đối xứng với “tầng không” – không gian sâu ngút ngàn, rộng thênh thang. Cũng như cánh chim, chòm mây cũng cô đơn, lạc lõng giữa không gian như kéo dài vô tận.

  “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”

(“Truyện Kiều” – Nguyễn Du)

Vậy ra, chính tâm trạng cô độc, lạc lõng của tác giả khiến những vần thơ nhuốm màu sắc cô liêu, hiu quạnh.

Hai câu thơ cuối tác giả chuyển điểm nhìn về con người giữa rừng đại ngàn:

 “Cô em xóm núi xay ngô tối,

 Xay hết, lò than đã rực hồng.”

Nghệ thuật đảo trật sự vế trong câu được Hồ Chí Minh sử dụng rất đắc địa. Thông thường ta sẽ nói: vào buổi tối, ở xóm núi, cô em xay ngô. Tuy nhiên, việc đảo từ “cô em” lên đầu câu vừa để nhấn mạnh con người vừa tạo cảm giác mới lạ. Con người được miêu tả như đang hăng say lao động sản xuất, góp sức mình vào cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

Nhãn tự của bài thơ nằm trọn trong từ “hồng” ở cuối bài. Ánh sáng hồng là ánh sáng của nhiệt huyết, tựa như trái tim ấm nóng vẫn đang âm ỉ, sục sôi trong góc khuất nào đó. Ánh sáng hồng còn là ánh sáng của Đảng, của con đường cứu nước đúng đắn, là chân lí thời đại. Tâm trạng nhà thơ có sự biến chuyển biến rõ rệt từ bóng tối ra ánh sáng, từ mỏi mệt tới hăng say, từ chán trường tới lạc quan, tin tưởng. Tâm trạng ấy tôi từng bắt gặp trong thơ Tố Hữu:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”

Tóm lại, bài thơ “Chiều tối” được Hồ Chí Minh viết dưới dạng thơ thất ngôn tứ tuyệt, sử dụng ngôn ngữ rất linh hoạt, giàu sức tạo hình. Qua bài thơ, người đọc có thể thấy tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước sâu sắc của tác giả. Đồng thời, bài thơ cũng cho thấy một nhân cách cao đẹp, tuy chịu cảnh tù đày song vẫn một lòng nghĩ về quê hương, nghĩ về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, một lòng tin tưởng và con đường cứu nước đúng đắn.

Chúng ta không chỉ biết đến Hồ Chí Minh như một vị lãnh đạo kiệt xuất, nhà chính trị tài ba, một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc mà văn học Việt Nam còn nhắc tới Người như một nhà thơ cách mạng rất mực nhân văn, nhân đạo.

Cảm nhận bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh 16

Là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, Bác Hồ đã hi sinh cả cuộc đời riêng của mình để lo cho nước nhà đến tận hơi thở cuối cùng của Người. Trong những năm tháng tuổi trẻ bôn ba ra nước ngoài tìm đường cứu, Bác đã phải trải qua biết bao chông gai, thử thách nhưng vẫn luôn một lòng hướng đến nước nhà mà lạc quan cố gắng vượt lên tất cả. Tác phẩm “Nhật kí trong tù” chính là được ra đời trong những hoàn cảnh khó khăn ấy, trong đó em ấn tượng nhất là bài thơ “Chiều tối”.

Trong khoảng thời gian ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam từ năm 1942 đến 1943 tại Quảng Tây và “Nhật kí trong tù” chính là những dòng nhật kí Bác lưu lại trong quá trình bị giam giữ như một tù nhân chính trị ấy. Mùa thu năm 1942, Nguyễn Ái Quốc phải chuyển lao từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo, trên đường chuyển lao ấy trước khung cảnh bên đường Bác đã sáng tác ra bài thơ “Chiều tối”. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt quen thuộc và chia làm hai phần chính, phần một là hai câu thơ đầu miêu tả cảnh núi rừng Quảng Tây trong ánh hoàng hôn và phần hai là hai câu thơ còn lại miêu tả cảnh sinh hoạt của con người nơi núi rừng.

Hai câu thơ mở đầu của “Chiều tối” đã mở ra trước mắt người đọc về khung cảnh thiên nhiên rừng núi Quảng Tây trong hoàng hôn đang dần buông xuống:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Sau một ngày bay lượn khắp nơi tìm thức ăn, những cách chim đã mỏi mệt và quay về rừng mà tìm thân cây nào đó có thể giúp chúng tá túc trong đêm. Trên bầu trời từng đám mây nhẹ nhàng bay ngang trời. Ở đây chúng ta có thể thấy rõ sự đối lập giữa cái vội vàng tìm nơi ngủ qua đêm của những chú chim và sự ung dung, thản thiên của đám mây trời. Bằng biện pháp sử dụng bút pháp chấm phá miêu tả cũng như các thi liệu mang đậm sắc thái cổ điển, Nguyễn Ái Quốc đã mượn cảnh thiên nhiên mà khéo léo nói lên tâm trạng của mình trong hoàn cảnh sống giữa chốn lao tù. Cánh chim tìm nơi ngủ là đại diện cho hoàng hôn, cho màn đêm sắp buông xuống, trong khi đó ánh hoàng hôn vốn vẫn được nhiều nhà thơ yêu thích sử dụng để nói về nỗi buồn. Cánh chim bay về trong ánh hoàng hôn ấy phải chăng chính là Bác, cánh chim mệt mỏi sau một ngày trời cũng chính là Bác mỏi mệt sau thời gian trên đường chuyển lao. Chim bay về rừng cũng chính là khao khát trở về quê hương, nước nhà của Bác. Đặc biệt, Nguyễn Ái Quốc đã rất khéo léo khi miêu tả sự  chuyển động của sự vật mà diễn tả sự vận động của thời gian, dù không hề xuất hiện từ chiều tối nhưng hai hình ảnh thơ ấy cũng đủ để chúng ta nhận ra thời điểm diễn ra sự việc.

Tiếp theo, khung cảnh thiên nhiên bớt hoang vắng, buồn bã hơn bởi có sự xuất hiện của con người:

“Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng”

Nhờ sử dụng bút pháp điểm nhãn điển hình của thơ cổ, những hình ảnh đời thường, bình dị cũng trở nên chân thật, nổi bật. Nếu hai câu thơ trước là khung cảnh đượm buồm của thiên nhiên, núi rừng thì hai câu thơ này là hình ảnh một cô sơn nữ đang mải miết xay ngô bên lò than rực hồng, hình ảnh ấy mới bình dị, ấm cúng và yên vui làm sao. Khi không phải lo lắng bất kì một vấn đề nào, tâm con người ta sẽ thanh tịnh và có thể tập trung hoàn thành tốt bất kì một công việc nào, ở đây cô sơn nữ ấy cũng vậy. Qua hai câu thơ chúng ta có thể thấy hình ảnh một cô sơn nữ tập trung xay ngô mà quên đi thời gian, đến khi ý thức được thì trời đã tối. Có thể là một hình ảnh rất bình thường trong mắt nhiều người nhưng đối với một tù nhân như Bác thì hình ảnh ấy quý giá biết bao bởi đó là hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống tự do, yên vui, đầm ấm, trái ngược hoàn toàn với cảnh tù lao khổ cực.

Có thể nói điểm nhấn của cả bài thơ chính là hình ảnh bếp lửa hồng. Bếp lửa hồng thắp lên trong đêm tối toả ánh sáng soi rọi vạn vật và toả hơi ấm sưởi ấm con người trong đêm khuya rừng núi lạnh lẽo. Bếp lửa ấy còn sưởi ấm cả trái tim người tù nhân xa xứ, là niềm an ủi, động lực để Bác vượt qua mọi khó khăn. Qua đó bộc lộ sự lạc quan, yêu đời đáng khâm phục của Bác trong cảnh tù lao. Cả bài thơ là những sự vận động như tối đến sáng, từ lạnh lẽo sang ấm áp, từ buồn bã đến vui tươi,…đặc trưng cho phong cách thơ Nguyễn Ái Quốc, thể hiện tình yêu thiên nhiên và tinh thần lạc quan, yêu đời đáng ngưỡng mộ.

Dù rơi vào hoàn cảnh khó khăn đến nhường nào vẫn lạc quan, yêu đời, vững tin vào một ngày mai tươi sáng là những phẩm chất tốt đẹp của Nguyễn Ái Quốc hay Bác Hồ kính yêu, là động lực và phương tiện để Bác vượt qua mọi thử thách, thành công trên con đường ra đi tìm đường cứu nước và trở về lãnh đạo nhân dân kháng chiến sau này.