Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 1
Khi Đôi lứa xứng đôi (tức Chí Phèo) xuất hiện trên văn đàn (1941) thì văn học hiện thực phê phán đã qua một thời kỳ phát triển rực rỡ. Là người đến muộn, nhưng Nam Cao đã tự khẳng định mình bằng những khám phá nghệ thuật mới mẻ, đem đến cho văn học đương thời một tiếng nói riêng đặc sắc.
Hơn năm mươi năm đã trôi qua, tác phẩm Chí Phèo ngày thêm được khẳng định, được khám phá từ những góc độ mới mẻ và chắc chắn sẽ tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử văn học Việt Nam như một tác phẩm ưu tú.
Dưới một ngọn bút tài hoa, linh hoạt, giàu biến hoá: khi kể, khi tả, khi sắc lạnh tàn nhẫn, lúc hài hòa bỡn cợt, lúc trữ tình thắm thiết, khi triết lý sắc bén, khi quằn quại đau đớn... cuộc sống cứ hiện lên với biết bao tình huống, bao cảnh ngộ, bao chi tiết sống động. Đôi khi, chỉ một cử chỉ, một lời nói, một phác thảo đơn sơ... mà hiện lên một chân dung, lộ nguyên hình một tính cách... Cứ thế, tác phẩm tạo nên một sức lôi cuốn hấp dẫn từ dòng đầu tiên cho đến dòng kết thúc. Gấp sách lại rồi, ta vẫn bị ám ảnh không thôi bởi tiếng kêu cứu của một con người bị tước mất quyền làm người. Một tiếng nói khát khao muốn trở về lương thiện nhưng bị chặn đứng ở mọi nẻo, và một kết thúc bi thảm đắng cay.
“Bi kịch của một con người bị khước từ quyền làm người” đó là chủ đề xuyên suốt toàn bộ hình tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt ra như một tiếng kêu cứu thảm thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân đạo đặc sắc của tác phẩm Chí Phèo.
Khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ... của người nông dân, mặc dù trong thực tế, đó cũng là một hiện thực phổ biến. Nam Cao trăn trở, băn khoăn suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc, bức xúc hơn cả đói rét bần cùng, đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời; về nhân phẩm bị vùi dập, chà đạp bởi cả một guồng máy thống trị bạo tàn. Vấn đề nhân phẩm, vấn đề quyền con người được đặt ra, chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao, trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp, tập trung và mãnh liệt hơn cả.
Mở đầu tác phẩm là tiếng chửi ngoa ngoắt, thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trên đường say, đập vào ý thức người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Hãy nghe nhà văn miêu tả: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại, ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này? A ha! Phải đấy, hắn cứ thế mà chửi, hắn cứ chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”.
Đây là tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức. Nhưng nhiều khi trong vô thức, con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi tỉnh.
Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 2
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn của nền văn học Việt Nam trước Cách mạng. Sau Cách mạng, ông hăng hái tham gia làm báo kháng chiến. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nền văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Bằng ngòi bút sắc sảo, nghệ thuật khắc họa nhân vật đặc sắc, Nam Cao đã làm nổi bậc tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo.
Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã lí giải thành công nguyên nhân vì sao người nông dân hiền lành bị tha hóa từ nhân tính đến nhân hình một cách tàn tệ đến vậy
Quá trình tha hóa của nhân vật Chí Phèo trải qua hai giai đoạn. Mỗi giai đoạn là một bước chuyển biến mạnh mẽ sức sống trong nhân vật.
Thứ nhất, từ một anh nông dân hiền lành như cục đất Chí Phèo bị đẩy vào tù. Không tội lỗi gì, bất ngờ Chí bị đẩy vào vòng lao lí, bị tước đoạt quyền sống. Bước ra khỏi nhà tù, Chí Phèo trở thành một "con quỷ" gớm ghiếc, côn đồ và tàn bạo.
Thứ hai, khi Thị Nở đánh thức khát vọng sống lương thiện và mong muốn trở lại với mọi người, Chí Phèo lại hiền lành như lúc ban đầu. Cánh cửa bước vào cuộc đời rộng mở trước mắt Chí Phèo. Thế nhưng, trớ trêu thay, chỉ vì sự cản trở của bà cô, Thị Nở đã đoạn tuyệt tình nghĩa với Chí sau năm ngày chung sống hạnh phúc. Chí Phèo hụt hẫng, bất lực và bế tắc. Cánh cửa phục thiện đóng sầm trước mặt hắn, lạnh lùng và tàn nhẫn. Một lần nữa, Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người. Bi kịch cuộc đời Chí Phèo bị đẩy đến mức cùng cực.
Khắc họa tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã tỏ ra rất vững vàng và bản lĩnh. Lần đầu tiên trên trang văn, người ta thấy một kẻ dị dạng nhân hình bước ngật ngưỡng trong cơn say. Lần đầu tiên, người ta thấy một nhân vật bị hủy hoại tàn bạo và khủng khiếp đến như vậy. Nhân vật Chí Phèo đã thực sự mất hết tính người, sống bằng kiếp thú vật, hoàn toàn bản năng. Chí Phèo ngập ngụa trong cơn say triền miên từ ngày này qua ngày khác. Không có sự đê hèn và tàn ác nào mà Chí Phèo không dám làm.
Nam Cao đã dũng cảm ghi nhận hiện thực cuộc sống dù biết rằng dó là một hiện thực tàn nhẫn có thể khiến người ta thấy đau lòng và khiếp sợ. Ông không hề lảng tránh hay tô vẽ nó bằng sắc màu giả tạo của nghệ thuật ngôn từ. Ông muốn mỗi trang văn phải là "cái sự thật ở đời" chân thực và chính xác.
Không để nhân vật rơi vào sự tầm thường, dung tục, Nam Cao đã phát hiện vẻ đẹp ẩn sâu bên trong họ. Bên trong cái điên cuồng của Chí Phèo là khát vọng lương thiện bị đè nén khủng khiếp. Nó thôi thúc con người vươn lên tìm kiếm nguồn sống. Nhưng trước những trở lực quá lớn của xã hội thực dân nửa phong kiến, nó không có cách nào khác là phản kháng một cách tiêu cực. Sự phản kháng tự phát ấy không mang lại kết quả tốt đẹp nào. Cuối cùng, nhân vật thực sự rơi vào tuyệt vọng.
Trước đây, Chí Phèo là một chàng trai nông dân hiền lành, lương thiện và có lòng tự trọng. Chỉ vì cái thói ghen bóng ghen gió của cụ Bá Kiến, Chí Phèo đã bị cụ thẳng tay đẩy vào nhà tù. Trải qua bảy, tám năm bị đầy đọa, chung sống với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí Phèo hiền lành, lương thiện, ra tù biến thành Chí Phèo với bộ mặt gớm giếc, linh hồn chất đầy thù hận và tội lỗi. Phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột đi. Từ mặt mũi, nhân cách đều biến tướng thật đáng sợ. Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng cỡn, cái mặt thì đen và rất câng câng, hai mắt gườm gườm gớm giếc.
Trong cái xã hội tàn bạo ấy, càng hiền lành,nhẫn nhục bao nhiêu thì lại càng bị chà đạp bấy nhiêu. Hắn muốn sống thì phải cướp giật, ăn vạ, gây gổ với mọi người. Muốn thế thì phải cao, phải mạnh, phải hung bạo. Thế là Chí Phèo tìm đến rượu như một cứu cánh giúp hắn quên đi cuộc đời. Hắn sống trong những cơn say triền miên và làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm. Cùng với thời gian, Chí Phèo mất đi khả năng nhận thức. Hắn không còn nhận ra nổi cái bóng của mình, không nhớ nổi mình là ai, bao nhiêu tuổi. Mọi người đều cho Chí Phèo là một con vật chứ không phải là con người nữa.
Những chuỗi ngày say sưa vô tận, những tiếng chửi vô lí,những hành động liều lĩnh hung hãn chính là sự giãy dụa tuyệt vọng của một con người muốn tìm về con đường lương thiện mà không được.
Trước những hành động điên cuồng và hình dáng quái dị của Chí Phèo, ta chỉ thấy đáng thương hơn là đáng giận. Bởi lẽ chính nhà tù thực dân, sự áp bức bốc lột nặng nề của giai cấp thống trị, những định kiến tồi tệ và thái độ hắt hủi nhục mạ của những người xung quanh đã đẩy Chí Phèo đến con đường đó. Đẻ ra anh Chi Phèo hiền lành là một bà mẹ tội nghiệp và khốn nạn đã lén lút vứt con mình ở cái lò gạch cũ. Còn đẻ ra thằng lưu manh Chí Phèo , mất hết tính người là cái xã hội thực dân phong kiến đầy rẫy bất công, vô nhân đạo.
Nếu nhân vật chị Dậu trong tác phẩm "Tắt đèn" của Ngô Tất Tố đã phải bán con, bán sữa nhưng chị còn được là con người, còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỹ dữ của làng Vũ Đại. Tất cả chỉ để được tồn tại mà thôi.
Nhưng, ở đáy sâu của tâm hồn cằn cõi và lạnh lẽo ấy vẫn còn có những mầm mống tốt đẹp mà hoàn cảnh phủ phàng của xã hội kia chưa đủ sức làm thui chột hết. Nam Cao đã không bỏ rơi nhân vật của mình. Ông dõi theo từng bước chân của Chí Phèo trong đêm tối, trong cơn say, trong giấc ngủ, nhìn ngắm nhân vật bằng tấm lòng đồng cảm sâu sắc. Trong cái thân xác đáng thương ấy, Nam Cao đã phát hiện ra có một mầm lương thiện hãy còn thổn thức. Nó muốn vực dậy, muốn trào ra nhưng không thể tự mình làm được.
Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở sau cuộc rượu say ở nhà Tư Lãng phải chăng là sắp đặt của tạo hóa? Tình cờ mà như là định mệnh đã sẵn bày. Cái tình mềm mại của Thị Nở và bát cháo hành ấm nóng tình người đã đánh thức dậy những tình cảm tốt đẹp, những khát khao ước mơ khi xưa của Chí Phèo về một gia đình đầm ấm, hạnh phúc. Nó như một thứ phép màu xoa dịu mọi khổ đau, hàn gắn mọi vết thương và làm rung động mọi tế bào của Chí Phèo. Sau cái đêm hạnh phúc, Chí phèo cứ thấy có cái gì đó lâng lâng khắp người khó lí giải.
Thì ra, đó là cảm giác hạnh phúc. Hắn hạnh phúc vì có một người phụ nữ ở bên canh, dịu dàng và yêu thương. hắn hạnh phúc vì lần đầu tiên có một người không sợ hãi, không chạy trốn khỏi hắn. Cũng là lần đầu tiên có một người cho hắn một bữa ăn ngon lành mà trước đây hắn phải rạch mặt ăn vạ hoặc cướp giật mới có được. Những quyền lợi ấy có gì to tát đối với con người đâu? Nhưng chao ôi, đối với Chí Phèo thì đó là cả một ân huệ lớn lao.
Chút tình thương yêu mộc mạc của Thị Nỡ đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng của Chí Phèo, đánh thức dậy bản chất lương thiện vốn có trong hắn. Con người xấu xí "ma chê quỹ hờn" ấy kì lạ thay lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo. Thức tỉnh, gợi dậy bản tính người ở hắn, thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao tháng ngày bị dập vùi, hắt hủi.
Một thành công nổi bật của Nam Cao trong tác phẩm "Chí Phèo" là đã phát hiện, miêu tả được những phẩm chất tốt đẹp của Chí ngay khi hắn đã bị biến chất, tha hóa.
Ngay khi Chí Phèo điên cuồng như một con thú, tưởng chừng như lòng thương đã cạn kiệt thì vẫn còn có một người biết thương cảm hắn. Ở cái làng Vũ Đại, Thị Nở là người duy nhất hiểu Chí Phèo, đồng cảm với Chí Phèo. Thị vốn là người xấu xí, đã gánh chịu nhiều điều miệt thị, khinh bỉ của con người nên dễ dàng thấu cảm cho nỗi khổ đau đang cuộn xé trong con người của Chí - một kẻ cô đơn, bị người đời ruồng bỏ.
Bát cháo hành của Thị Nở, Chí Phèo xúc động và muốn khóc, giúp Chí Phèo nhận ra: cái đau khổ lớn nhất của con người, không phải là sự đói cơm rách áo, mà sự thiếu thốn tình thương. Bát cháo hành chính là liều thuốc thần làm sống dậy sự rung cảm mà bấy lâu tưởng chừng như đã chất trong tim Chí phèo, đánh thức dậy trong hắn khát vọng sống và sống tốt đẹp.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã thức tỉnh ở Chí Phèo niềm mơ ước của một thuở xa xưa chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, cố dồn vốn để nuôi thêm con lợn. Chí Phèo mong muốn Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối, đưa Chí Phèo trở về, hòa nhập với cộng đồng xã hội.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, tâm trạng Chí Phèo hoàn toàn thay đổi. Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao. Nghe thấy tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng cười nói bàn tán của những người đàn bà đi chợ về... bao nhiêu âm thanh quen thuộc của cuộc sống bấy lâu nay vậy mà giờ đây Chí Phèo mới nghe thấy bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say.
Hôm nay, những âm thanh ấy, vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi của sức sông và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo. Trái tim tưởng chừng như trái đá của hắn đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí Phèo cũng hồi sinh "hắn thèm lương thiện, hắn khao khát làm hòa hòa với mọi người". Từ một "con quỷ dữ", nhờ có tình thương yêu của Thị Nở - dù đó là tình thương của một con người xấu xa, thô kệch, dở hơi cũng đủ để làm sống dậy một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết, sức cảm hóa của tình thương kì diệu đến chừng nào.
Nhưng đau đớn thay, chút tình thương của Thị Nở không đủ mạnh để cứu lấy Chí Phèo. Bởi ngoài Thị Nở ra, không hề có lấy một cơ manh nào, chẳng hề có một bàn tay thân thiện nào chìa ra dắt Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện. Con đường trở lại làm người của hắn vừa mới hé mở đã bị đóng sầm lại. Một chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Khắc nghiệt làm sao khi bản tính người trổi dậy nơi Chí Phèo cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Xã hội đã cướp đi của Chí Phèo quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại.
Những vết dọc ngang trên mặt - kết quả bao cơn say, bao lần đâm thuê chém mướn, rạch mặt ăn vạ,... đã ngăn cản Chí trở về với cuộc đời lương thiện. Những định kiến của xã hội đã không cho phép Chí đặt chân lên nhịp độ hi vọng. Con đường trở về với cuộc sống lương thiện vừa mới kịp lóe lên trong đầu hắn, như một ngọn lửa chỉ kịp le lói đã bị cuộc đời dội gáo nước lạnh làm cho tắt ngầm.
Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi và ruồng bỏ một cách phủ phàng. Chí đã bị chính Thị Nở cự tuyệt, người mà hắn nghĩ sẽ là cây cầu duy nhất đưa hắn về với cuộc sống lương thiện. Thị Nở không phải không yêu hắn, không phải không muốn lấy hắn nhưng vì bà cô và những định kiến xã hội đã níu giữ lấy Thị, không cho Thị được kết duyên với Chí Phèo. Chí Phèo đã cố níu lấy tay Thị Nở lúc Thị vùng vằng ra về nhưng bất lực. Hắn hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng: "ôm mặt khóc rưng rức".
Một lần nữa, Chí Phèo tìm đến rượu. Nhưng lần này Chí Phèo càng uống lại càng tỉnh Càng tỉnh lại càng thấm thía sâu sắc nổi đau bi kịch của mình. Trong cơn đau đớn phẫn uất, Chí Phéo quyết định trả thù. Hắn vác dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện. Đau đớn và thống thiết thay, là tiếng phẫn uất của Chí Phèo: "Ta muốn làm người lương thiện, ai cho ta lương thiện. Làm thế nào cho mất được những vết mảnh trại trên mặt này. Tao không thể là người lương thiện được nữa. Biết không, chỉ còn một cách... biết không...". Căm thù cao độ và không còn lối thoát nào khác, Chí Phèo đã giết Bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết bế tắc của số phận.
Qua truyện ngắn Chí Phèo Nam Cao đã khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước năm 1945, một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thể xác và tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay trong khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.
Chí Phèo chính là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh; là tiếng nói bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện; là mong ước được sống và sống hạnh phúc, không còn những thế lực đen tối của xã hội đẩy họ vào chỗ khốn cùng, bế tắc, đầy bi kịch xót xa của lớp người nông dân khốn cùng.
Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 3
Bình luận về nhân vật Chí Phèo một nhà phê bình văn học viết: "Khi chị Dậu, anh Pha xuất hiện trên những trang sách của dòng văn học hiện thực phê phán, người ta cứ nghĩ nỗi khổ của người nông dân ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đến như thế là cùng. Nhưng khi Chí Phèo khật khưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, người ta liền mới nhận ra rằng đây là hiện thân của những gì khốn khổ, tủi nhục nhất". Chị Dậu phải bán chó, bán con, bán cả dòng sữa ngọt ngào của đời mình nhưng dầu sao chị vẫn được gọi là người. Còn Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Và khi ý thức nhân phẩm được trở về thì lại bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt để phải tìm đến cái chết thảm thương. Tấn bi kịch thê thảm và độc đáo của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên được Nam Cao diễn tả thấm thía và cảm động là ở chỗ đó.
Lai lịch = đoạn đời 1 - xuất thân của Chí Phèo là một người nông dân lương thiện.
Lai lịch của Chí Phèo là một số không tròn trĩnh. Hắn là một thằng không cha, không mẹ, không bà con thân thích, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi mới sinh ra, hắn đã bị vứt bên cái lò gạch cũ bỏ không. Hắn được một người thả ống lươn mang về nuôi, sau đó cho người đàn bà goá mù. Và người đàn bà goá mù bán cho bác Phó Cối. Suốt quãng đời niên thiếu, Chí Phèo không có tuổi thơ. Hắn phải sống kiếp bơ vơ đi ở cho hết nhà này sang nhà nọ. Đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo làm anh canh điền cho nhà Bá Kiến, một tên địa chủ kiêm cường hào khét tiếng độc ác, gian hùng. Tuy phải làm thân trâu ngựa, bị áp bức bóc lột thậm tệ nhưng đã có một thời Chí Phèo là người nông dân lương thiện, khoẻ mạnh về thể xác, lành mạnh về tâm hồn.
Bi kịch 1 = đoạn đời 2 - Chí Phèo đặt ra vấn đề xã hội: người nông dân bị tha hoá, đầy đoạ, lăng nhục...
Nhưng quãng đời lương thiện của Chí Phèo đã bị chấm dứt nhanh chóng bởi bàn tay độc ác của giai cấp thống trị. Chỉ vì một cớ ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Mỉa mai thay, nhà tù, cái công cụ cải tạo con người của chế độ thực dân đã tiếp tay cho bọn cường hào phong kiến để giết chết phần người trong Chí Phèo. Từ làng Vũ Đại vào tù, Chí Phèo là một con người; ở tù ra, về làng Vũ Đại, Chí Phèo là một con quỷ. Sau bảy, tám năm biệt tích trở về, Chí Phèo xuất hiện trước mắt dân làng với một bộ dạng rất kì quái: "cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, hai con mắt gườm gườm trông gớm chết. Nhìn mặt hắn người ta nghĩ là mặt của một con vật lạ".
Nam Cao vốn là một nhà văn chú trọng đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật hơn là chú trọng vẻ bề ngoại, rất ít khi ông tả ngoại hình nhân vật kĩ lưỡng như tả Chí Phèo lúc này. Bởi một khi đã trở thành quỷ dữ, Chí Phèo không thể mang khuôn mặt khoẻ mạnh và lành như đất của anh Chí ngày nào. Quá trình tha hoá, lưu manh hoá của hắn là quá trình diễn ra trên cả hai phương diện: ngoại hình và tính cách, nhân hình và nhân tính. Trên đường đến nhà Bá Kiến, tay cầm cổ chai, Chí Phèo vừa đi vừa chửi bới, nguyền rủa nhưng dường như đằng sau tiếng chửi lảm nhảm của Chí Phèo là ý thức mơ hồ về bi kịch về cuộc đời mình, là nỗi căm phẫn vật vã, tuyệt vọng của một con người thèm khát được giao tiếp với đồng loại. Mà tội nghiệp thay, khát khao được giao tiếp của Chí đơn giản chỉ là có được một tiếng người chửi lại hắn. Làng Vũ Đại để mặc hắn trong sự im lặng đáng sợ. Trong nỗi cô đơn, đáp lại hắn hoạ may chỉ có mấy con chó. Thành ra Chí Phèo cũng chỉ là một con vật sống giữa sự lạnh nhạt của xã hội loài người.
Giờ đây, để tồn tại với bọn cường hào (ăn thịt người không biết tanh), Chí Phèo không thể hiền lành nhẫn nhục như trước nữa. Bởi càng hiền lành, nhẫn nhục thì càng bị nhấn xuống bùn. Muốn sống phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ, muốn thế phải liều lĩnh, mạnh mẽ, những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Cho nên, cuộc đời Chí Phèo giờ đây được tính bằng những cơn say, những tội ác. Đó là một cuộc đời sống vô thức, một công cụ tội ác trong tay bọn thống trị... "Hắn say thì hắn làm bất cứ việc gì người ta sai hắn làm... Hắn tác oai tác quái cho bao nhiêu dân lành, phá bỏ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người dân lương thiện". Mọi hành động, tội ác của Chí Phèo là sự phản ứng gay gắt, quyết liệt của người nông dân lương thiện bị dồn tới bước đường cùng. Nhưng tính chất tha hoá, lưu manh của Chí Phèo đã làm cho những phản ứng đó trở nên mất phương hướng, tiêu cực, rất nguy hiểm, dễ bị kẻ thù mua chuộc, lợi dụng. Càng ngày, Chí Phèo càng rơi sâu vào vực thẳm của đau thương và tội lỗi, trượt dài trên con đường tha hoá, lưu manh không lối thoát. Hắn lâm vào một tấn bi kịch đầy nghịch lí: vừa là nạn nhân đau thương của giai cấp thống trị, vừa là con quỷ dữ đối với dân làng Vũ Đại. Mọi người đều sợ và tránh mặt Chí Phèo mỗi lần hắn đi qua.
Như vậy, đẻ ra người nông dân lương thiện là một bà mẹ hiền lành, tội nghiệp nào đó lén lút vứt đứa con vào một cái lò gạch bỏ không. Nhưng đẻ ra một thằng Chí Phèo lưu manh, tha hoá bị đầy đoạ, lăng nhục, bị cướp cả nhân tính và nhân hình, bị đối xử như một con vật là toàn bộ xã hội thực dân phong kiến bất công, tàn bạo, vô nhân đạo thời bấy giờ.
Bi kịch 3 = đoạn đời 3: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
Nhưng bi kịch của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó. Chí Phèo còn lâm vào một tấn bi kịch đau đớn hơn: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Giữa bóng tối mênh mông của cuộc đời, vào một đêm trăng thơ mộng, Chí Phèo được gặp Thị Nở, một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn. Được sự săn sóc giản dị bằng tình yêu thương mộc mạc, chân thành không tính toán của người đàn bà khốn khổ là Thị Nở, bản chất người nông dân lao động lương thiện trong Chí Phèo đã thức dậy. Nam Cao đã giành cho Chí Phèo những trang văn xuôi cảm động đầy chất thơ để miêu tả tình yêu và qúa trình thức tỉnh chất người trong hắn. Lần đầu tiên tỉnh dậy sau những cơn say vô tận, Chí Phèo lắng nghe từng âm thanh náo nức của cuộc sống vang động vào tâm hồn mình: những âm thanh quen thuộc như tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo anh thuyền chài đuổi cá trên sông, tiếng chuyện trò của mấy người đàn bà đi chợ về... Đó là âm thanh cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày nào cũng diễn ra nhưng chỉ hôm nay Chí Phèo mới nghe thấy. Bởi sau một thời gian dài, Chí Phèo bị xã hội thực dân phong kiến với bọn cường hào độc ác, nhà tù tàn bạo làm cho mù điếc tâm hồn. Giờ đây tâm hồn hắn đã được Thị Nở với bát cháo hành chứa đựng bên trong hương vị của tình yêu chân thành và hạnh phúc giản dị thấm thía làm cho sáng tỏ. Lần đầu tiên hắn biết buồn vì sự cô độc; cũng là lần đầu tiên hắn biết nhớ, biết hồi tưởng về quá khứ với ước mơ một gia đình hạnh phúc, yên vui, bình dị. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở có ý nghĩa như một tia chớp loé lên trong cuộc đời tăm tối triền miên của Chí Phèo. Nó giúp Chí Phèo nhận ra tình trạng bi đát và tuyệt vọng của số phận mình:
"Nhìn phía trước người thân chẳng có
Ngó sau lưng quá khứ rợn ghê người"
Tình yêu thương đã thức tỉnh con người, khơi dậy trong hắn nỗi khát khao lương thiện. Chí Phèo rưng rưng cảm động. Chí Phèo muốn làm hoà với mọi người biết bao, nghĩa là hắn vô cùng tha thiết muốn kết nạp trở lại cái xã hội bằng phẳng của những con người lương thiện. Thị Nở là cái cầu đưa Chí Phèo trở về cuộc sống lương thiện và câu trả lời của Thị Nở quyết định số phận của Chí: được kết nạp trở lại xã hội loài người hay vĩnh viễn bị đầy đoạ trong kiếp sống thù hận. Chí Phèo hồi hộp hi vọng. Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì lại bị đóng sầm ngay lại vì bà cô của Thị không cho Thị đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Nhưng trách gì bà cô - bà cô là hiện thân của thành kiến, định kiến bất công, vô nhân đạo của làng Vũ Đại, của xã hội cũ. Lâu nay, mọi người trong làng quen coi hắn là quỷ dữ mất rồi! Chí Phèo đã sống những giây phút hạnh phúc nhất của cuộc đời trong tình yêu, lại rơi vào những giây phút đau đớn nhất của tấn bi kịch tinh thần. Rượu không thể làm hắn say... "hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành" - cái hương vị của tình người, tình thương yêu mà Chí không thể quên được dù chỉ nếm trải trong một lần ngắn ngủi; hắn ôm mặt khóc rưng rức. Giọt nước mắt của Chí Phèo là sự thể hiện cao nhất đỉnh điểm của nỗi đau đớn khi nhận ra mình đã bị cự tuyệt quyền làm người.
Chí Phèo lại uống rượu và xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà Thị Nở như dự định ban đầu mà đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong cơn đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo trở thành người nô lệ thức tỉnh, một đầu óc sáng suốt nhất làng Vũ Đại, hắn hiểu ra, thấm thía tội ác của kẻ đã cướp cả hình người và hồn người của mình là Bá Kiến. Chí Phèo lần này quyết đến để trả thù. Đứng trước Bá Kiến, Chí Phèo đã chỉ tay vào mặt lão và dõng dạc đòi quyền làm người, đòi được làm lương thiện. Chí Phèo đã vung dao lên giết chết Bá Kiến. Giết xong Bá Kiến, Chí Phèo quay lại tự giết mình. Chí Phèo chết vì không tìm được lối thoát, vì xã hội không cho hắn sống. Ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng kiếp sống thú vật nữa nên đã tìm đến cái chết. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống và cái chết của Chí cũng là một cái chết thê thảm của một con vật. Nó có ý nghĩa tố cáo xã hội một cách sâu sắc và mãnh liệt.
Trước đây để bám lấy cuộc sống, Chí Phèo đã từ bỏ nhân phẩm. Giờ đây ý thức nhân phẩm đã trở về thì Chí Phèo lại phải thù tiêu cuộc sống của mình. Gấp trang sách lại ta còn nghe văng vẳng đâu đây câu hỏi của Chí Phèo: "Ai cho tao lương thiện?". Đó là một câu hỏi chứa chất phẫn uất đau đớn làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc: làm thế nào để cho con người được sống cuộc sống con người trong cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy? Câu hỏi của Chí Phèo là "Một câu hỏi lớn. Không lời đáp" thật ai oán, tuyệt vọng! Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.
Từ số phận nhân vật Chí Phèo, Nam Cao muốn khái quát một hiện tượng phổ biến ở nông thôn nước ta trước Cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá.
Sáng tạo ra nhân vật Chí phèo với gương mặt không tuổi, chằng chịt đầy vết sẹo và với tâm hồn mang nỗi đau quằn quại của một con người bị cự tuyệt quyền làm người,Nam Cao đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới, ở một góc độ mới về nông dân: cái nhìn vào cõi tinh thần, vào chiều sâu bi kịch. Viết những trang văn đau đớn thấm đẫm nước mắt về bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã cắm cho mình một cái mốc vinh quang trên con đường trở thành nhà văn lớn của văn học hiện thực và văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX.
Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 4
Khi Chí Phèo: "Ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cày ở một nước thuộc địa, bị cào xé, bị hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình. Chị Dậu bán con, bán chó, bán sữa nhưng chị vẫn còn được là con người. Chí Phèo phải bán cả diện mạo và linh hồn của mình để trở thành con quỷ dữ" (Nguyễn Đăng Mạnh). Trong muôn vàn nỗi khốn khổ tủi nhục mà Chí đã nếm trải, không thể không chú ý đến cái bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của y. Đó cũng là chủ đề xuyên suốt tạo nên giá trị nhân đạo, giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo.
"Bi kịch là tình cảnh éo le đầy đau thương, bế tắc chưa có lối thoát mà con người phải chịu đựng". Hiểu theo nghĩa ấy, số phận Chí Phèo là một chuỗi dài bi kịch mà bi kịch sau bao giờ cũng đau đớn hơn bi kịch trước. Nhiều người khẳng định, Chí xuất hiện sau tiếng chửi, điều ấy đúng! Nhưng có lẽ chưa đủ. Nam Cao thường giới thiệu với người đọc ở giai đoạn quan trọng nhất của số phận nhân vật. Đọc những dòng đầu tiên của tác phẩm, độc giả thấy xuất hiện một nhân vật chưa nêu tên, dường như chỉ có một hành động, một cuộc độc thoại. Nhờ biện pháp nghệ thuật tăng cấp nhờ những câu văn ngắn, nhịp văn vấp tưởng chừng như các câu văn bị xé rách, bị cắt vụn mà người đọc có cảm giác được chứng kiến tận mắt sự quằn quại của Chí trong cơn đau bị cự tuyệt quyền làm người. Chí chửi trời (đấng tối cao của muôn loài), Chí chửi làng "cái cộng đồng gần gũi, thiêng liêng của con người"... Nhưng không ai lên tiếng cả. Người ta không lên tiếng vì người ta không công nhận Chí là người. Cả làng Vũ Đại không ai hiểu Chí, giá có một người để chửi nhau, có lẽ Chí còn đỡ khổ. Bởi vì người ta sống dù là để chửi nhau cũng không thể chửi một mình. Chí chỉ còn biết chửi người đẻ ra y. Chửi người đẻ ra mình thì cũng là chửi chính bản thân mình. Tiếng chửi của Chí thể hiện sự vật vã, dẫu là vô ý thức, để tìm căn nguyên của đau khổ. Nhưng khốn khổ thay, Chí càng bế tắc.
Giá như ngày ấy ở làng Vũ Đại có một người lên tiếng cũng như sau đó, thị Nở "Không chỉ biết cho mà còn biết giữ"… giá như… giá như… chỉ cần một lần giá như xảy ra, chỉ cần một trong hàng nghìn người làng Vũ Đại coi Chí là người thì tấn bi kịch của đời Chí sẽ không có cơ hội xảy ra. Nhưng chuyện gì đã xảy ra thì nó đã xảy ra. Nam Cao ngược dòng thời gian trở lại với quá khứ để dẫn dắt người đọc, giúp họ thấu hiểu quá trình bị cự tuyệt quyền làm người từ thấp đến cao của Chí, đồng thời ông cũng chỉ rõ căn nguyên dẫn Chí đến tình trạng ấy.
Chí là "một đứa con hoang", "một anh đi thả ống lươn một buổi sáng đã thấy hắn trần truồng và xám ngắt trong cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không; anh ta rước lấy và mang cho một người đàn bà góa bụa". Năm từ "một" tồn tại trong câu văn dài, dường như đã báo trước cuộc đời cô độc triền miên của Chí. Ngay từ khi cất tiếng khóc chào đời, Chí đã bị người mẹ, người đời cự tuyệt quyền làm người. Chí trở thành kẻ không cha, không mẹ, cũng may cho đời Chí, có lẽ vì lớn lên cùng những người lao động, Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh, biết tự trọng, "biết không thích những cái gì mà người ta khinh". Anh khát khao có "một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải". Nhưng đời đã không dành cho Chí cái mà anh có thể với trong tầm tay.
Một cơn ghen vu vơ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Cái thế lực phong kiến cấu kết với nhà tù thực dân tước bỏ quyền tự do của Chí gần bảy - tám năm. Đấy là lần thứ hai Chí bị cự tuyệt quyền làm người. Nhà tù đã biến Chí thành con người khác. "Hắn về lần này trông khác hẳn". Quyền làm người của Chí đã bị cự tuyệt bởi nhà tù đã cướp đi của y một phần nhân hình. Ở tù ra trông hắn như một thằng "săng đá" (lính tẩy), đầu trọc lốc răng cạo trắng hớn, mặt đen lại rất "cơng cơng" - "câng câng" thì còn ra cái mặt người. "Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng, cái ngực phanh ra đầy những nét chạm trổ phượng với một ông tướng cầm trùy trông gớm chết". Đó là hình dạng của kẻ côn đồ, hung hãn chỉ biết gây gổ, đâm chém, về làng hôm trước, hôm sau. Chí đã uống rượu say nhè, điên cuồng lao vào trả thù Bá Kiến bằng cách ăn vạ, chửi đổng. Nếu như trả thù là cái quyền thông thường (oán thì trả oán, ân thì trả ân) thì Bá Kiến lại cũng đã khéo léo tước luôn quyền ấy của Chí. Không trả được thù, Chí lại từng bước trở thành tay sai cho kẻ thù, trở thành công cụ mù quáng của Bá Kiến. Hắn chỉ còn biết rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với chính kẻ thù.
Từ đó, hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, "Hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đạp vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện". Cứ như thế đời hắn trượt dài. Nhìn vào mặt hắn, người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Đời hắn đã xem như đời bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt, mỗi lần hắn qua. Ngay bản thân hắn cũng đã quên sự có mặt của hắn ở trên đời. Có thể nói trước khi gặp thị Nở, Chí đã bị cự tuyệt quyền làm người đến cao độ. Nhưng có lẽ hắn không nhận ra điều ấy hoặc nhận ra một cách vô thức, không tìm thấy lối thoát. Chí đành phải dấn thân vào cuộc đời say rượu, chửi đổng, ăn vạ, đâm thuê, chém mướn.
Người ta sẽ đỡ khổ, nếu không biết mình sống trong cái khổ. Người ta sẽ đỡ đau đớn khi bị tước quyền làm người mà không hề hay biết. Trước khi gặp thị Nở, Chí Phèo chưa nhận thức được tấn bi kịch của đời mình. Chí đâu có biết cái cách người ta sản sinh ra hắn là tước đoạt dần quyền làm người của hắn. Đúng lúc Chí dấn thân đến chỗ tột cùng của sự tha hóa, đúng lúc người ta tưởng Chí sẽ triền miên trong cuộc đời một con quỷ dữ thì Nam Cao đã phát hiện trong chiều sâu tâm linh nhân vật một đốm lửa nhỏ nhoi bừng sáng. Chí ao ước trở thành người lương thiện.
Vai trò, vị trí của thị Nở trong tác phẩm là rất quan trọng. Con người "dở hơi, xấu ma chê quỷ hờn", lại là nguồn sáng duy nhất ở làng Vũ Đại có thể chiếu sáng cõi đời tăm tối của Chí. Cơ thể đàn bà của thị không khơi gợi bản năng thú vật ở y. Tình thương của thị đã khơi dậy cái tính người mà lâu nay Chí đã đánh mất. Sau cuộc tình ngắn ngủi với thị Nở. Chí nghe được âm thanh của cuộc sống mà lâu nay hắn không để ý. Sau bao nhiêu năm, bây giờ hắn mới nghe thấy tiếng chim hót, ngoài kia vui vẻ quá, tiếng cười nói của người đi chợ, tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh đó gợi nhớ trong Chí những ước mơ rất người đã có từ thuở xa xưa. Lần đầu tiên Chí cảm thấy buồn, rồi hắn "sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và cô độc - cô độc còn sợ hơn đói rét và ốm đau".
Bát cháo hành của thị Nở đã đánh thức trong Chí những tình cảm lành mạnh. Ăn cháo mà hắn thấy mắt ươn ướt. Chỉ cần một sự thương yêu - dù là tình yêu của kẻ dở hơi, của một người con gái quá lứa lỡ thì, có dòng giống mả hủi, cũng đủ làm sống lại bản tính người đã chết. Sức cảm hóa của tình thương thật vô biên. Nam Cao đã thực sự hóa thân vào nhân vật để cảm thông, để chia sẻ những giây phút hạnh phúc rất người của Chí. Thế là sau hơn hai mươi năm bị cự tuyệt quyền làm người. Chí Phèo đã tự tìm cho mình con đường trở lại làm người. Chí đã tạo ra chiếc cầu nối để làm hòa với thế giới người. Chiếc cầu nối ấy chính là thị Nở. Thị có thể sống chung với hắn thì làng Vũ Đại cũng có thể chấp nhận hắn. Nhưng bi kịch và đau đớn thay cho Chí, Thị Nở không thể gắn bó với Chí. Vì theo bà cô Thị, "đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ".
Thế là một chút hạnh phúc nhỏ nhoi Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở là chiếc cầu vồng sau cơn mưa, Chí đau đớn nghĩ ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Không ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí đòi làm người lương thiện. Chí không thể xóa được những vết sẹo đã vạch lên trên mặt mình, Chí đau xót cảm thấy: "Không được nữa rồi chỉ còn cách này". Chỉ còn cách chết trong, hơn sống đục. Chí đã nói những câu cuối cùng "đòi lương thiện" với Bá Kiến và cũng là tự nói với bản thân mình. Hành động giết Bá Kiến và tự sát của Chí cho người đọc thấy cuối cùng rồi Chí cũng trả được mối thù. Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội vô nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền làm con người.
Chí chết, mồm ngáp ngáp trong vũng máu, nhưng Chí không tuyệt tự. Sức sống, sức mở và giá trị điển hình của nhân vật này là vô biên. Chí không chỉ đại diện cho nỗi khổ của người nông dân thời kì nước ta còn sống trong vòng nô lệ. Chí còn đại diện cho cái phần khùng điên khuất tối mà sinh ra trên cõi đời này, ai cũng có thể, nếu không biết tự kiềm chế và nếu bị các thế lực hắc ám "nuôi dưỡng".
Bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo do nhiều căn nguyên. Có căn nguyên từ xã hội cũng có căn nguyên từ bản thân Chí. Khi quyền con người còn bị xúc phạm thì bi kịch của đời Chí Phèo còn được nhắc đến như một nỗi đau của toàn nhân loại.
Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 5
Soi vào cuộc đời nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao, ta chỉ thấy một bức tranh u tối mà người họa sĩ vẽ ra nó mang tên bi kịch. Có thể nói, con số không đã gói trùm lên lá số tử vi của cuộc đời Chí. Bi kịch về cuộc đời Chí đã xuyên suốt toàn tác phẩm và nếu như phải chọn một nhan đề khác, có lẽ Nam Cao đã đặt tên tác phẩm của mình là “Bi kịch”. Và đỉnh điểm bi kịch mà Chí Phèo phải chịu đựng ấy là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Trước tiên, ta cần hiểu bi kịch là gì? Bi kịch là mâu thuẫn giữa hiện tại và khát vọng. Hiện tại không có khả năng giúp cá nhân thực hiện khát vọng từ đó đẩy những cá nhân đến hoàn cảnh bi đát. Chí Phèo muốn được trở thành người lương thiện nhưng sau khi ra tù, hắn đã bị gạt phăng ra khỏi cuộc đời bằng phẳng. Đau đớn hơn, cuộc đời ấy có những người đã từng cưu mang Chí. Cái tên “Chí Phèo” chứa đầy sự coi thường, khinh bỉ. Trong con mắt ghê sợ của dân làng Vũ Đại, Chí Phèo quái đản với người, lạc loài với vật, hắn không phải là một con người. Trong tiếng chửi mở đầu tác phẩm, đối tượng tiếng chửi ngày càng thu hẹp dần. Như vậy có thể thấy, con người triền miên say ấy vẫn ý thức rõ về sự đơn độc của mình. Hắn thèm được ai đó chửi vì chửi hắn có nghĩa là vẫn có người còn công nhận hắn là con người. Ta có thể hình dung ra một kẻ cô đơn, một kẻ khốn khổ cứ đi giữa cuộc đời để mà chửi, để mà kêu gào, để mà được công nhận. Nhưng cuộc đời tuyệt nhiên vẫn im lặng với hắn. Sự im lặng ấy thật đáng sợ vì đó là sự im lặng của đoạn tuyệt và ruồng bỏ. Nhưng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người chỉ được đẩy đến đỉnh điểm khi Thị Nở cũng ruồng bỏ Chí.
Có thể nói, nguyên nhân của sự ruồng bỏ ấy là do bà cô. Nhân vật đại diện cho định kiến. Cuộc đời bằng phẳng mà Chí muốn quay về chứa đựng đầy rẫy những định kiến và chính những định kiến ấy đã chặn đứng con đường về của Chí. Qua những lời chửi mắng Thị Nở, bà cô đã cự tuyệt lại khao khát hoàn lương của Chí Phèo. Như vậy, nếu cái ác đã đẩy Chí Phèo vào con đường lưu manh hóa, thì nay định kiến đã đẩy Chí Phèo vào bi kịch thứ hai của cuộc đời.
Nếu như muốn tìm hiểu về bi kịch bị cự tuyệt, ta không thể không tìm hiểu về Thị Nở. Thị là một người xấu, nghèo, vô duyên, lại có mả hủi. Nhiều người đã nhận xét rằng Nam Cao đã xây dựng một hàng rào dây thép và rắc vôi xung quanh nhân vật này. Nam Cao gọi Thị Nở là “con vật rất tởm”. Thế nhưng, con vật ấy cũng ruồng bỏ Chí. Đây chính là bi kịch. Nhiều người từng nói Nam Cao đã quá tay trong việc miêu tả Thị Nở xấu như vậy. Nhưng Thị Nở càng xấu, tính bi kịch càng tăng. Vốn dĩ Nam Cao xây dựng nhân vật Thị Nở không phải để cười cợt mà là để cảm thông.
Khi Chí Phèo hiểu những gì Thị Nở nói với mình, hắn ngây người choáng choáng. Cái cảm giác của một người đang bay bổng trong hạnh phúc tình yêu bỗng bị rơi xuống đáy sâu tuyệt vọng. Điều đó khiến Chí bị tê liệt mọi cảm giác. Qua đây, người đọc cũng phần nào thấy được sự am hiểu của Nam Cao trong việc miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Khi Thị Nở bỏ đi, Chí Phèo đuổi theo, gọi lại, thậm chí còn cầm tay Thị Nở. Điều này làm dâng lên trong người đọc nỗi xót xa. Chí Phèo ý thức được mình giống như một người sắp chết đuối trên dòng sông tuyệt vọng. Hắn luôn khao khát được trở về cuộc đời bằng phẳng. Và đối với Chí, Thị Nở đóng vai trò như chiếc phao cứu sinh, như một cây cầu, một cánh cửa để đưa hắn về với cộng đồng - nơi mà hắn đã từng bước chân ra đi. Nhưng phao cứu sinh đã bị cướp mất, cây cầu đã bị rút lại, cánh cửa đã bị đóng sầm trước mặt Chí. Mọi sự như đã được đặt một dấu chấm hết. Chí Phèo uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh, càng uống càng đau và càng uống thì hơi cháo hành càng hiện ra. Hơi cháo hành đại diện cho tình thương, nó cứ hiện lên trong lòng Chí một nỗi day dứt không nguôi. Và như thể có điều gì đau đớn không chịu nổi khi nhà văn miêu tả một người đàn ông mà trước đó được biết đến như một con quỷ nay lại bơ vơ, cô độc trên con sông tuyệt vọng mà ôm lấy mặt mình khóc rưng rức.
Và từ tuyệt vọng, Chí đã cầm dao giết Bá Kiến bởi hắn biết cả bà cô và Thị Nở đều không có lỗi. Ta vẫn nhớ rằng Nam Cao đã từng nói: “Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia xuất phát từ cuộc sống lầm than”. Vậy phải chăng “tiếng đau khổ” ấy lại chính là câu hỏi “Ai cho tao lương thiện” của Chí Phèo. Câu hỏi ấy là câu hỏi mang tính thời đại, gieo vào lòng người biết bao xót xa, đau đớn, day dứt và ám ảnh vô cùng. Cái chết của Chí Phèo là cái chết đầy bi thảm. Chí Phèo sinh ra không ai vui vẻ, khi chết đi không ai khóc thương. Đây chính là bi kịch. Và bi kịch lại chồng lên bi kịch khi Chí Phèo phải chết trên ngưỡng cửa trở thành con người lương thiện. Đây là bi kịch lớn nhất trong cuộc đời của Chí. Qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí, Nam Cao đã tố cáo xã hội tàn ác bất công khi không chỉ cướp đi những điều Chí Phèo có mà còn cướp đi những gì Chí Phèo muốn. Cùng với đó, ta cũng có thể thấy được khát vọng của tác giả về việc nhân dân có thể vùng dậy đấu tranh và niềm tin vào bản chất lương thiện của con người.
Với tất cả những điều trên, người đọc dù có gấp lại trang sách thì những xót xa, những day dứt về một con người khốn khổ khi bị cự tuyệt quyền làm người vẫn không thể nguôi ngoai. Bằng tài năng của mình, Nam Cao đã tạo ra một kiệt tác không chỉ trong văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945 mà còn là kiệt tác của văn học Việt Nam hiện đại.
Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 6
Nam Cao đã từng tuyên ngôn rằng: "Sống đã rồi hãy viết" . Nhà văn này quan niệm "muốn viết những tác phẩm nhân văn nhân đạo, thì trước tiên anh phải sống sao cho nhân văn nhân đạo đã. Vì chính cuộc đời anh sẽ ảnh hưởng đến văn chương". Với quan niệm này của mình, Nam Cao cầm bút sáng tác, những tác phẩm của ông chứa chan tình người của một nhà văn yêu thương con người từ tận trong cốt tủy. Ta biết rằng, đề tài về người nông dân đã được khai thác rất nhiều. Làm sao ta có thể quên được chị Dậu - trong tác phẩm Tắt đèn của nhà văn Ngô Tất Tố. Bán con, bán chó, bán sữa, suýt bị hiếp và chạy đi trong đêm tối như cái cuộc đời nhá nhem của chị vì cái nạn sưu thuế. Ta tưởng rằng chị Dậu đã là khổ nhất rồi. Không! Chỉ đến khi thằng Chí Phèo nó bước ngất ngưỡng ra từ trong trang văn của Nam Cao. Ta mới biết rằng đây mới chính là người nông dân khổ nhất trong xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Và vẻ đẹp của Chí Phèo còn tồn tại đến ngày hôm nay. Đó chính là tấm bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Từ đó ta thấy, Nam Cao thực sự là một nhà văn nhân văn nhân đạo sâu sắc. Bởi Nam Cao đã từng nói: Chao ơi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than... ". Vậy, bi kịch là gì?
Nhiều người cho rằng bi kịch là một hoàn cảnh thảm thương. Hiểu như vậy là sai. Bi kịch nhiều khi là đấu tranh dai dẳng không khoan nhượng. Ánh sáng và bóng tối, giữa thiện và ác, giữa cao thượng và thấp hèn nó xảy ra ngay trong đời sống tinh thần của con người.Hoặc ta có hiểu rằng , bi kịch là những khát khao, những ước mơ chân chính nhưng không được thực hiện trong hiện tại. Và cuối cùng rơi vào một thảm kịch. Đó chính là bi kịch của cuộc đời con người. Đọc Chí Phèo ta thấy, cả một tấm bi kịch lớn diễn ra với cuộc sống của Chí Phèo. Anh sinh ra là một con người, nhưng cuối cùng anh lại chết trên chặng đường trở về lương thiện. Anh sinh ra là con người nhưng cuối cùng lại trở thành con quỷ của làng Vũ Đại, là một kẻ côn đồ hung ác, là một thằng lưu manh, là một kẻ không một ai muốn dây vào.
Trước tiên, ta tìm hiểu lai lịch của Chí Phèo. Cuộc đời của Chí có thể chia ra làm hai chặng đường. Chặng đường đầu tiên, từ khi sinh cho đến khi 20 tuổi về ở đợ cho nhà Bá Kiến rồi bị tống vào tù. Ở chặng đường thứ hai, Chí ra tù gặp được Thị Nở và cuối cùng là chết trên chặng đường trở về với lương thiện. Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi được bọc trong cái váy đụp và được vứt tại một lò gạch bỏ hoang. Chí Phèo không dừng lại ở một nhân vật trong văn học, mà Chí Phèo thực sự là nhân vật điển hình trong văn chương. Anh là đại diện cho rất nhiều con người bị tha hóa, biến chất. Anh được một người thả ống lươn đem về nuôi, đi ở đợ từ nhà này đến nhà khác, từ ông phó gối cho tới bà góa mù. Chí Phèo mặc dù là một đứa không cha không mẹ, không người thân ruột thịt, không bà con thân thích. Thế nhưng, anh lớn lên không trở thành một đứa trẻ hư hỏng , mà trái lại anh trở thành một người nông dân thuần hậu, chất phát, hiền lành như cục đất. Khi muốn nhìn ra bản chất của một người, ta có thể nhìn vào ước mơ của họ. Ước mơ thì bao giờ cũng nói lên được một phần bản chất của người ấy. Ước mơ của Chí đơn giản chỉ là "có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăn ba sào ruộng làm". Ước mơ chân chính, khát khao cháy bỏng của Chí Phèo, là một người lương thiện, là anh nông dân nghèo, là một người cần cù, hiền lành chất phát. Người ta nhận thấy rặng, Chí Phèo thực sự là một người hiền như cục đất. Nhân vật Bá Kiên không dừng lại là một nhân vật trong văn học mà là nhân vật đại diện cho tầng lớp địa chủ phong kiến. Chí Phèo ngoài việc là một nông dân thuần chất phát, anh thường xuyên bị Bà vợ Bá Kiến gọi lên bóp chân, và đòi bóp lên chỗ cao. Chí Phèo - trái tim anh đã 20 tuổi đời, anh biết đâu là tình yêu chân chính và đâu là thói dâm ô của một người đàn bà bất chính. Bị gọi lên để phục dịch cho những cơn thèm khát của người đàn bà này. Chí Phèo không cảm thấy sung sướng, chỉ thấy nhục, thấy sợ. Anh là một người trọng danh dự vì cơn ghen tuông bóng gió mà anh bị Bá Kiến tống vào chốn lao tù. Và kể từ đây là một chặng đường khác của cuộc đời anh. Khi ra tù, anh thay đổi từ nhân hình cho tới nhân tính. Cái chúng ta cần lên án ở đây đó chính là nhà tù thực dân, nhà tù này đi ngược lại mới mong đợi của loài người. Nhà tù trong mong đợi của loài người là khi chúng ta vào chúng ta là kẻ xấu, chúng ta vào tù là để trả giá cho những gì mình đã gây ra, cải tạo tốt để trở lại hòa nhập với cộng đồng. Nhưng đọc tác phẩm ta có thể thấy, nhà tù này là một nhà tù bất công. Khi vào tù Chí là một người nông dân hiền lành, chất phát như cục đất, nhào nặn bảy tám năm tù, giờ đây anh trở thành con quỷ của làng vũ đại. Thay đổi từ nhân hình cho đến nhân tính. Cái đầu cạo trọc lốc, răng cười trắng hớn, mặt thì câng câng, mắt thì gườm gườm, người xăm trổ đầy hình rộng phượng, ngực có một ông tướng cầm trị, sống bằng nghề cạo mặt ăn vạ và trở thành tay sai cho Bá Kiến chuyên trị những thằng đầu bưu đầu bò trong làng. Ta đồng ý rằng, đẻ ra Chí trên cõi đời này là một bà mẹ nông dân nghèo và có phần nhẫn tâm. Thế nhưng, để tạo ra một con quỷ của làng Vũ Đại như thế này thì phải là một nhà tù thực dân cấu kết với lão Bá Kiến để tha hóa con người nông dân. Đây chính là sản phẩm của nhà tù thực dân. Chúng ta có thể nhận thấy, ở đây không chỉ thay đổi về ngoại hình mà còn là tính cách. Chí Phèo sống bằng nghề cạo mặt ăn vạ, luôn chìm đắm trong những cơn say và lúc nào cũng vừa đi vừa chửi. Chửi ai đã đẻ ra nó, chửi cả làng Vũ Đại và cuối cùng không có một ai đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo. Cuối cùng chỉ còn lại một thằng Chí Phèo say rượu và ba con chó dữ.
Ở chặng thứ hai, ra tù gặp được Thị Nở - người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, rất vô duyên. Thế nhưng khi ăn nằm trong buồng chuối với Nở, Chí Phèo đã bị cảm lạnh. Vì thương tình Chí nên Thị nấu cho Chí bát cháo hành. Đọc tác phẩm ta thấy, bát cháo hành chỉ là một chi tiết nghệ thuật, nhưng nó là mui vàng của một tác phẩm văn chương. Nó là một giọt sương có thể mang lại cả một đại dương mệnh mông, là giọt hạnh phúc mà nhà văn gửi gắm cho nhân vật của ông. Thử hỏi, nếu không có bát cháo hành thì bao giờ Chí Phèo mới thức tỉnh? Đến bao giờ Chí Phèo mới tìm ra được kẻ thù đích thực của đời mình? Bao giờ mới trở lại lương thiện? Nó là một liều thuốc giải cảm , một liều thuốc giải độc. Chí Phèo tỉnh rượu sau những cơn say dài triền miên. Nó muốn làm hòa với mọi người biết bao, nó nhận ra tội lỗi, nó càng hối hận. Nó muốn trở lại với lương thiện. Nhưng không được rồi. Bà cô Thị Nở không cho Thị đến với Chí,bởi vậy Chí Phèo lại trở lại với hình ảnh con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Tìm tới rượu, xách dao lên, đi tìm Bá Kiến tính sổ. Nhưng cuối cùng Chí lại đâm chết Bá Kiến và chết trên con đường trở về lương thiện. Tại sao lại phải giết Bá Kiến? Bởi Bá Kiến mới là bản chất của vấn đề. Xử lí vấn đề ta không xử lí từ hiện tượng, không xử lí từ bà cô mà phải xử lí từ bản chất của vấn đề. Đó là lí do tại sao Nam Cao để cho Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát trên con đường trở về với lương thiện. Thông qua đó, câu chuyện này không chỉ dừng lại ở nhân vật Chí Phèo - một nhân vật trong văn học mà nó là một hiện tượng có tính chất giai tầng của người nông dân trong xã hội ngày nay trước cách mạng tháng Tám. Đó là lưu manh hóa, bần cùng hóa, tha hóa biến chất người nông dân. Trước Chí Phèo đã từng có Binh Chức, Nam Thọ, sau Chí Phèo lại sẽ có một thằng Chí Phèo con ra đời. Khi mà cuối tác phẩm này, nhà văn đã khép lại tác phẩm theo lối kết thúc mở: "Thị Nở nhìn ngay xuống chiếc váy đụp, và nhìn về lò gạch bỏ hoang", một ngày nào đó nó sẽ vượt ra chốn đồng không mông quạnh là một thằng Chí Phèo con sẽ lại xuất hiên trong quãng đời này.
Nhà văn xót thương cho số phận người nông dân Việt Nam, ông thực sự là một nhà văn có vẻ ngoài lạnh lùng, thờ ơ, nhưng thực chất lại là một nhà văn nhân đạo sâu sắc từ tận trong cốt tủy. Một xã hội mà nhà văn lên án đó là nhà tù thực dân cấu kết với tầng lớp phong kiến để tha hóa biến chất người nông dân, một xã hội quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé, người ăn thịt người, muốn tồn tại được phải trở thành kẻ ác. Nói như Vũ Trọng Phụng: "Một xã hội toàn những con đĩ, đẻ xứng nhà thằng ăn cắp, một xã hội tây tàu nhố nhăng, một xã hội chó đểu..." đó chính là cuộc sống của người nông dân bất hạnh, lam lũ, lầm than trước cách mạng tháng Tám. Đó chính là tấm bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Và từ đó chúng ta có thể thấy, chừng nào vẫn còn những con người có cuộc sống đau khổ muốn được sống cuộc sống tốt hơn thì chừng đó những tác phẩm như Chí Phèo này vẫn giữ nguyên vẹn được giá trị của nó. Lên án tố cáo xã hội áp bức bất công, thương xót cho số phận người nông dân, bởi người nông dân luôn luôn là những con người thấp cổ bé họng nhất trong xã hội. Họ thường xuyên là nạn nhân của hoàn cảnh. Tác phẩm khép lại để lại cho ta nhiều suy ngẫm...
Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 7
Trong giai đoạn văn học 1930-1945, chủ yếu các tác giả đều viết về số phận những người nông dân, nhưng mỗi người đều có lối viết, lối khai thác các nhân vật của riêng mình. Còn riêng Nam Cao, ông lại muốn tìm tòi, khai thác về nỗi khổ của những người nông dân lương thiện. Nam Cao sinh ra trong 1 gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, cả cuộc đời ông vất vả lận đận, ông là người giàu tình yêu thương, nặng ân tình đặc biệt là đối với những người nông dân nghèo khổ bị áp bức. Năm 1951, Nam Cao hy sinh, ông xứng đáng là 1 nhà văn- chiến sĩ, có thể coi là ngòi bút đại thụ của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm " Chí Phèo " đã trải qua 3 lần đổi tên, nhan đề đầu tiên là " Cái lò gạch cũ ", sau khi được in thành sách nhà xuất bản đã tự ý đổi tên thành " Đôi lứa xứng đôi ", sau này, Nam Cao mới đổi lại tên thành " Chí Phèo ", tác phẩm được coi là kiệt tác của nhà văn
Để hiểu rõ được bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí phèo, người đọc phải hiểu được bi kịch là gì? Bi kịch là nỗi buồn, các nhà văn thường khai thác từ những mẫu thuẫn xung đột gay gắt và thường kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính. Trong truyện ngắn " Chí phèo ", tác giả không chỉ đi sâu vào khai thác mẫu thuẫn giai cấp mà còn khai thác cả mâu thuẫn trong chính nhân vật. Chí phèo được sinh ra là con người với đầy đủ các bản chất của 1 người bình thường, có dự đinh, ước mơ, là 1 người nông dân hiền lành lương thiện, biết phân biệt tốt xấu đúng sai. Nhưng rồi sau đó, Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, tha hóa, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loài người. Để rồi sau đó, khi hắn muốn quay trở lại làm 1 con người lương thiện thì lại bị từ chối phũ phàng và cuối cùng hắn chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời
Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị bỏ rơi, được 1 anh thả ống lươn nhặt được trong buổi sáng sớm tinh sương ở lò gạch bị bỏ không ngoài đồng vằng. Con người đến với cuộc đời như bị quẳng ra đấy, bơ vơ, trơ trọi. May thay, nhờ sự cưu mang, đùm bọc của người dân làng Vũ Đại mà hắn đã được sống, được trở thành người nông dân hiền lành lương thiện, giàu tự trọng. Nhưng vì ghen tuông vu vơ mà lí Kiến đã đẩy hắn đi tù, nhà tù thực dân đã biến hắn trở thành kẻ " trông đặc như 1 thằng sắng đá " rồi sau đó bá Kiến thực hiện nốt công đoạn cuối cùng là biến Chí trở thành tay sai của mình. Chí Phèo bị lợi dụng, trở thành kẻ chuyên đi đâm thuê chém mướn, mỗi ngày hẳn bán rẻ linh hồn mình cho quỷ bằng vài đồng vài hào để rồi cuối cùng hắn biến mình thành 1 con quỷ thật sự " Nhìn mặt hắn người ta không đoán được là bao nhiêu tuổi, nó vàng vàng mà lại sạm màu gio, nó lằn ngang lằn dọc không biết bao nhiêu là vết sẹo " rồi hắn còn suốt ngày sau rượu " cứ rượu vào là hắn chửi ". Trong tiếng chửi lảm nhảm của Chí còn lã nỗi cô độc, hắn khao khát được giao tiếp với mọi người dù chỉ là tiếng chửi, nhưng chẳng ai đáp lại hẳn, chẳng đi chấp nhận hẳn, bởi vì " hắn đã đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, đập nát biết bao cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu con người lương thiện " Nhưng hắn làm nhiều điều ác như vậy bỏi vì hắn lúc nào cũng say. Cũng viết về những người nông dân nhưng Nam Cao không khái thác theo lối mòn cũ là khổ vì sưu cao thuế nặng, khổ vì nghèo đói mà Nam Cao khai thác nỗi đau tinh thần của con người. Bị tàn phá mất nhân hình, bị tước đoạt mất nhân tính, bị loại ra khỏi xã hội loại người.
Và có lẽ, cuộc đời hắn sẽ cứ như vậy nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở đã đến với hắn, cho hắn cảm nhận được tình yêu thương, cho hắn biết yêu và được yêu, lần đầu tiên hắn được " 1 người đàn bà cho ". Hắn yêu thị, muốn làm nũng với thị như với mẹ, và lúc này hắn đã hoàn toàn tỉnh táo, phần linh hồn người của hắn đã trở về nhờ có thị Nở. " Chao ôi! Muốn làm hòa với mọi người biết bao " hắn lập luận rất đơn giản là lại chặt chẽ, hắn hi vọng thị sẽ là cầu nối cho hắn trở về với cuộc đời bằng phẳng lương thiện. " Thị Nở có thể sống yên ổn với hẵn thì tại sao mọi người lại không thể, rồi mọi người sẽ thấy hắn chả làm hại ai rồi sẽ từ từ tiếp nhận hắn trở về với cuộc sống bằng phẳng ". Hắn lại hy vọng, lại ước mơ về 1 gia đình hạnh mà có thị Nở. Nhưng hy vọng chẳng kéo dài được lâu, thị chợt nhớ ra ở nhà còn có 1 bà cô và thị muốn quay trở về để hỏi ý kiến bà cô. Nhưng bà cô đã không chấp nhận Chí bởi nghĩ hắn là thằng không cha không mẹ, suốt ngày chỉ đi ăn vạ, đâm thuê chém mướn. Cầu nối đưa hắn đến với cuộc đời đã gãy, cánh của cuộc đời đóng sầm lại ngay trước mặt hắn. Ở đây, Nam Cao đã khéo léo lồng bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người vào bị kịch bị cự tuyệt tình yêu. Nếu như lúc trước hắn khổ nhưng ít nhất lúc đó hẳn cũng say, không nhận thức được. Còn bây giờ hắn đã tỉnh, nỗi khổ nhân lên thành niềm thống khổ, chẳng còn 1 ai có thể đón hắn đến với cuộc đời nữa rồi
Tác giả đã sử dụng ngòi bút diễn tả tâm lí nhân vật bậc thầy, tác giả còn đưa cả ngòi bút của mình cho chính nhân vật, để nhân vật có thể tự nói lên được sự đau khổ. Lúc nghe thị trút hết tức giận lên đầu hắn, hẳn từ từ hiểu rồi " ngẩn người " , hắn hụt hẫng bàng hoàng, thoáng thấy 1 hương cháo hành thoảng qua mũi. Rồi khi thị đi, hắn đã nắm tay níu kéo thị, hắn níu kéo sợi dây cuối cùng cứu vớt cuộc đời hắn nhưng thị Nở lại dứt khoát tuyệt tình, hắn rơi vào tình trang tuyệt vọng, hắn đau đớn mà khóc lóc. Rồi hắn lại tìm tới rượu, nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh, hương rượu hòa lẫn mới mùi thơm cháo hành khiến hắn càng đau đớn. Rồi hắn quyết định vác dao ra đi, hăn lảm nhảm là sẽ đi tới nhà thị để giết bà cô nhưng cuối cùng hắn lại đi tới nhà bá Kiến, có lẽ bởi vì hắn ý thức được ai mới là người đẩy hắn tới nước này. Trước mặt tên cáo già bá Kiến, Chí đã nói những lời hoàn toàn tỉnh táo, dõng dạc " Tao muốn làm người lương thiện ", câu nói thể hiện được khát vọng muốn hoàn lương, trở về với xã hội loài người. Tuy nhiên, chính lúc này, Chí đã thấm thía được bi kịch của cuộc đời mình rằng hắn sẽ không bao giờ có thể quay trở về cuộc đời lương thiện được nữa rồi. Ai sẽ cho hắn lương thiện? Ai sẽ giúp hắn làm người lương thiện? Đau đớn căm thù kẻ đã hại mình, Chí rút dao ra, " chém túi bụi vào người bá Kiến " rồi hắn cũng tự tử, Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời
Có thể nói, Nam Cao đã rất thành công trong việc khai thác nỗi khổ về mặt tinh thần, nỗi đau về thể xác của những người nông dân xưa. Kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên mà sống động càng làm tôn lên tài năng của Nam Cao. Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm lòng đồng cảm sâu sắc với bi kịch của nhân vật, niềm tin về bản chất hiền lành lương thiên của con người sẽ luôn còn đó. Hơn nữa, tác phẩm được viết lên như 1 lời kêu cứu, cứu lấy quyền làm người, cứu lấy quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc lứa đối của con người.
Phân tích tấn bi kịch cự tuyệt quyền làm người của “Chí Phèo” 8
Đọc Chí Phèo, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét: “Khi Chí Phèo ngột ngưỡng bước ra từ trang sách của Nam Cao, người ta mới thấy đây là hiện thân đầy đủ nhất cho những gì gọi là cùng khổ của người dân cày trong một xã hội thuộc địa: bị đày đọa, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình”. Có thể nói bi kịch cuộc đời, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo là một trong những trang viết khố liệt và đau đớn nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX.
Thật vậy, trong tuyệt tác “Chí Phèo”, Nam Cao đã khắc hoạ rõ nét một nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình: nhân vật Chí Phèo từ một chàng trai trẻ lương thiện, bị xã hội thực dân phong kiến đày đọa đến biến dạng cả tính cách lẫn ngoại hình. “Chí Phèo” như một bản án cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến đầy bất công đã đấy người nông dân vào con đường bần cùng hoá. Nối bật là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, hắn muốn hoàn lương nhưng không một ai chấp nhân. Chính những đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, Chí Phèo trở thành thiên truyện có một không hai của văn học Việt Nam.
Qua bi kịch của nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã lí giải thành công quá trình bị tha hoá của người nông dân hiền lành, lương thiện, chịu khó làm ăn. Thế nhưng, Chí bất ngờ bị đẩy vào tù vì cái tính ghen hiểm ác của cụ bá Kiến oai trấn làng Vũ Đại. Bước ra khỏi nhà tù, Chí thay đổi đến đáng sợ trở thành một “con quý dữ” gớm ghiếc, côn đồ và tàn bạo. Dáng chú ý hơn, Chí lại trở thành tay sai cho bá Kiến, hằng ngày ăn cơm của kẻ đã đưa hắn vào tù. Công việc của Chí là đời nợ và rạch mặt ăn vạ. Rồi trong một cơn say, hắn gặp Thị Nở – một người phụ nữ dở hơi, ế chồng, xấu đến “ma chê quỷ hờn”. Bằng sự quan tâm, chăm sóc và hương vị thơm nồng của bát cháo hành, Thị đã đánh thức phần người bị chôn vùi bấy lâu nay của Chí. Trong tình yêu thương của Thị Nở, hắn ao ước về một gia đình nhỏ với Thị và khao khát trở về làm người lương thiện.
Thế nhưng bi kịch lại đến với Chí một lần nữa: bà cô của Thị Nở ngăn cấm cuộc tình duyên, cánh cửa trở về với cuộc đời đóng sập trước mặt, đưa Chí trở lại vị trí của kẻ lưu manh bị xã hội ruồng bỏ. Chí nhận ra bi kịch của đời mình, tìm đến với rượu rồi trong cơn say khướt, Chí xách dao đến nhà bá Kiến để đòi nợ.
Càng đọc “Chí Phèo”, ta càng đồng cảm với nỗi đau khốn cùng của nhân vật. Chí Phèo sinh ra là một con người tuy không hạnh phúc hoàn toàn nhưng là một con người tốt đẹp. Thế mà, cuộc dời nghiệt ngã đã đảy Chí vào con đường lưu manh hóa rồi chết trên con đường trở về với nhân tính. Suốt quãng thời gian dài phải sống là thân phận một “con quỷ dữ”, một thằng lưu manh không ai muốn dây vào, Chí hoàn toàn mát hết lí trí, mất hết lương tri, lương năng, làm biết bao việc tàn ác, những việc vốn không bao giờ xảy ra với một chàng nông dân hiền lành như cục đất. Chí nhận ra sai lầm nhưng không có cơ hội để sửa sai, bị cả xã hội ruồng bỏ đến cùng cực.
Bi kịch đau đớn của Chí có lẽ bắt đầu từ cơ duyên gặp gỡ và yêu Thị Nở. Sau đêm ăn nằm cùng nhau dưới bụi chuối, bản năng sống của Chí đã trở về. Hắn không còn u mê như một con thú. Rồi chính tình yêu thương mộc mạc, sự chăm sóc chân thành của Thị, bát cháo hành thơm nức tình người đánh bay hơi rượu, giải cảm trên thân thể, giải độc trong tâm hồn và khơi dậy khát vọng sống của Chí. Hắn muốn trở lại làm người. và hơn thế, là một con người lương thiện, hòa nhã, thân thiện với mọi người. Đó là một khát vọng chính đáng, thật đáng trân trọng.
Chí tỉnh dậy sau cơn say và cảm thấy lòng “bâng khuân mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên sau nhiều năm, Chí mới nghe thấy âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót vui vẻ, tiếng cười nói của những người đi chợ về, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuối cá. Những âm thanh bình dị của cuộc sống ngày nào chả có nhưng hôm nay bỗng vang động sâu xa trong lòng Chí Phèo và trở thành tiếng gọi của sự sống, của cuộc đời vẳng đến đôi tai lần đầu tiên biết nghe của hắn.
Bấy lâu nay, dường như Chí chưa bao giờ tỉnh táo để nhận thấy sự tồn tại của bản thân hắn trong cuộc đời này. Nhờ tiếng gọi của trái tim, hắn nhìn lại cuộc đời, nhớ tới ngày xa xưa: “một cái gì đó rất xa xôi”, rồi nghĩ đến hiện tại đáng buồn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời và nhận ra sự cô độc còn đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau. Nghĩa là hắn sợ cái chết, nỗi sợ hãi cố hữu trong con người. Hắn không muốn chết như một con vật cô độc mà muốn chết như một con người, có người thân bên cạnh.
Nam Cao đã lột tả độc đáo từng phút giây bừng thức của nhân vật. Cả quá khứ, hiện tại và tương lai của Chí mở mịt như một ngày mưa, như bóng tối của vũ trụ. Hắn bâng khuâng về thực tại, về cuộc đời mình, lần dầu tiên linh hồn ấy trở về, biết nghĩ suy và đối mặt với chính mình, nhận ra sự tuyệt vọng cua bản thân.
Có thể nói, con đường từ trái tim đến trái tim thực sự cảm hoá được một con người, một con quỷ dữ mất hết nhân tính. Bát cháo hành giản dị, đơn sơ và chân thành của Thị Nở nhiệm màu như dòng nước cam lồ của Quan Âm đem đến cho trái tim Chí Phèo nguồn sống mạnh mẽ, làm hồi sinh những rung động đầu tiên, le lói ngọn lửa của tình yêu chân thành với Thị. Hương vị của bát cháo hành không chỉ là tình thương, sự đồng cảm của nhân loại mà còn là tình cảm, là hạnh phúc lứa đôi, có sức mạnh xoá tan vùng kí ức đen tối, làm sáng lên niềm tin ở ngày mai. Ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật của Nam Cao hết sức tinh tế và nhạy cảm khi mô tả quá trình hoàn lương của Chí.
Cảm động quá, Chí như muốn khốc. Đó như tiếng khóc hạnh phúc bắt đầu lại cuộc đòi mới: “Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hoà với mọi người biết bao”, hắn còn mong được nhận vào cái xã hội bằng phẳng, lương thiện của những người lương thiện. Chí đã trở lại là anh canh điền hiền lành của năm xưa. Ấy là bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi, chôn vùi trong tận thẳm sâu tiềm thức. Như bao người, hắn từng có ước mơ về một gia đình nhỏ: chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải.
Tưởng chừng Thị Nở sẽ cùng Chí Phèo thực hiện những ước nguyện giản dị, vẽ lại cuộc đời mới để được sống hạnh phúc, sống là chính mình. Nhưng không, cánh cửa trở lại làm người lương thiện vừa được hé mở đã bị đóng sập lại ngay trước mặt hắn. Bà cô Thị Nở dứt khoát không cho cháu bà “lấy ai không lấy, ai đời đi lấy thằng Chí Phèo”- một kẻ chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ. Bị Thị Nở dứt tình, Chí đau đớn tận cùng. Giá mà Thị Nở không đến với hắn, cứ để hắn say như lúc trước thì có lẽ hắn sẽ bớt khổ hơn lúc này.
Chí tìm đến với rượu như một thói quen. Chí hi vọng rượu có thể khiến hắn say rồi quên đi tất cả mọi chuyện. Hay đơn giản là dũng cảm bước qua lằn ranh lương thiện trở về với cái ác mà hắn vừa vạch ra. Thế nhưng, càng uống hắn càng tĩnh, càng cảm nhận nỗi đau, thấm thìa về cuộc đời mình. “Hắn ôm mặt khóc rung rúc. Rồi lại nôn”. Trong con quằn quại, đau khổ và tuyệt vọng, Chí quyết định trả thù, cũng là mọt thói quen, một việc quen thuộc mà hắn thường làm trước đây. Hắn định đến nhà bà cô Thị Nở trả cho bà món hận trong lòng.
Bước chân định mệnh đã đưa Chí đến nhá Bá Kiến. Trong cơn say, Chí mơ hồ nhận ra kẻ thù đích thực, kẻ đã gây ra cho cuộc đời hắn, nỗi đau của hắn là Bá Kiến chứ không phải Thị hay bà cô. Chi tiết hắn đứng chửi cùng với tiếng chó inh ỏi thật đắc địa. Tiếng Chí chửi nhà Bá Kiến, chửi cuộc đời, trong tiếng bầy chó sủa chan chát. Không ai muốn nghe, không ai dám đứng gần để nghe. Lúc này, là Chí hay là chó không ai còn phân biệt được nữa. Và cũng không cần phân biệt bởi đối với người làng Vũ Đại tiếng chửi của Chí Phèo hay tiếng chó sửa của nhà Bá Kiến đều đáng sợ.
Bá Kiến trở về, với bản lĩnh của con cáo già sừng sỏ, hắn tỏ ra bình tĩnh lắm. Thế nhưng, lúc này, mọi lời giáo huấn hay tranh luận với Chí đều trở nên vô nghĩa. Lưỡi dao công lí trong tay Chí Phèo đã kết thúc cuộc đời của Bá Kiến và cả cuộc đời Chí.
Cái chết bi thảm của Chí Phèo cho thấy khát khao cháy bỏng được sống lương thiện của người nông dân. Đây là bi kịch tất yếu của một con người sinh ra là người nhưng lại bị xã hội từ chối, xua đuổi. Từ đó, nhà văn tố cáo xã hội phong kiến nửa thực dân đã đẩy người nông dân lương thiện, hiền lành vào con đường tha hóa, bần cùng hoá và lưu manh hoá. Bằng bút pháp xây dựng nhân vật sống động, có cá tính độc đáo, lối kể chuyện mới mẻ, Nam Cao đã chạm khắc rõ cái bản chất “chó đểu” và tàn bạo của xã hội và khẳng định tâm hồn cao dẹp của người nông dân ngay khi họ đã biến thành “con quỷ dữ”.
Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, Nam Cao lên án sâu sắc xã hội tàn bạo chà đạp nhân phẩm con người của Chí Phèo phản ánh hiện thực mang tính quy luật: còn xã hội vô nhân đạo thì vẫn còn hiện tượng Chí Phèo hay rộng hơn là hiện tượng người thiện lương bị tha hóa rồi phải chết một cách thê thảm. Từ đó, ta nhận ra phải ngăn chặn xã hội vô nhân đạo làm tha hóa con người, phải thay đổi, cải tạo xã hội để nó nhân đạo hơn. Chỉ khi đó lương thiện mới được xác lập, con người mói được nhìn nhận.
Qua số phận bi thảm và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo, Nam Cao lên án sâu sắc xã hội tàn bạo chà đạp nhân phẩm con người, vạch ra mối mâu thuẫn gay gắt không thể điều hòa ở nông thôn Việt Nam đương thời và tình trạng tha hóa phổ biến trong xã hội. Đồng thời Nam Cao thể hiện tư tưởng nhân đạo tốt đẹp, niềm tin vào bản chất lương thiện của con người. Bi kịch của Chí Phèo chính là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh, là tiếng nói đấu tranh, đòi quyền được sống và được làm người lương thiện.