Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến hay nhất (5 mẫu)

Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê 1

Trong lịch sử văn học Việt Nam, bài thơ Khóc Dương Khuê của nhà thơ Nguyễn Khuyến được xếp vào hàng những tác phẩm xuất sắc nhất viết về đề tài tình bạn.

   Bao trùm bài thơ này là nỗi lòng đau xót khôn nguôi của tác giả, trước việc bạn qua đời.

   Nguyễn Khuyến mở đầu bài thơ bằng một tiếng than thảng thốt:

"Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta!

   Tin bạn mất đột ngột quá, bất ngờ quá khiến nhà thơ sững sờ. Cách xưng hô ở câu thơ đầu khiến người đọc ít nhiều có thể đoán được đây là mối quan hệ bạn bè giữa những người cao tuổi.  Đúng vậy, khi Dương Khuê mất, Nguyễn Khuyến đã ngót 70 tuổi. Nỗi đau của người già, hơn nữa lại là một nhà nho luôn quen sống chừng mực, thâm trầm tất phải lận vào trong lòng, phải xoáy vào trong tim, ít khi phô ra bên ngoài. Bằng cách sử dụng nhiều tình thái từ một cách tự nhiên gợi cảm, nhà thơ không nói trực tiếp đến việc bạn mất, nhưng người đọc ai cũng hiểu. Đây là một cách nói giảm, dường như nhà thơ sợ không nhắc trực tiếp đến một sự thực phũ phàng. Hơn nữa, cụm từ “thôi đã thôi rồi” còn thể hiện tình cảm nuối tiếc lẫn sự bất lực của nhà thơ trước sự thật đau đớn. Mất bạn, Nguyễn Khuyến thấy không gian rộng lớn dàn trải, “nước mây" đâu cũng thấm đượm một nỗi buồn thầm lặng khôn nguôi: "Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”.

   Sau phút giây hàng hoàng ban đầu, dường như nhà thơ có phần trấn tĩnh. Nguyễn Khuyến nhớ lại những kỉ niệm gắn bó giữa hai người: những ngày thời đi học, đi thi, đỗ đạt... Nhà thơ cảm thấy sự gắn bó giữa mình và Dương Khuê như đã có “duyên trời định sẵn". Nguyễn Khuyến và bạn đã từng đặt chân đến những vùng đất xa lạ, có tiếng suối “róc rách lưng đèo”, cùng thưởng thức thú đi hát ả đào “thú vui con hát lựa chiều cầm xoang”, cùng nhau uống rượu và bàn luận văn chương. Đặc biệt, họ đã cùng nhau sống trong cảnh đau khổ của đất nước: “Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn - Phận đẩu thăng chẳng dám than trời". Viết câu thơ trên, khẳng định sự đồng cảnh giữa hai người, chứng tỏ Nguyễn Khuyến cảm thông sâu sắc nỗi lòng của bạn: cho dù vẫn làm quan với tân triều, nhưng đâu phải Dương Khuê không có ít nhiều nỗi chán ngán trước thế cuộc?

   Bằng đoạn hồi tưởng này, người đọc có thể hình dung ra đôi bạn Nguyễn - Dương đều là những “tao nhân mặc khách" gắn bó keo sơn với nhau lâu bền từ lúc hàn vi tới khi vinh hiển. Những kỉ niệm được trình bày theo trình tự thời gian tạo nên ở người đọc ấn tượng về mối quan hệ liên tục bền vững trong toàn bộ cuộc đời của hai người. Trong tình bạn ấy có cả sự kính trọng, lẫn tình yêu mến “kính yêu”, thủy chung “từ trước đến sau”.

   Nhà thơ còn nhớ rất rõ lần cuối cùng gặp gỡ người bạn già cách đây đã ba năm. Tác giả chỉ mô tả lần gặp gỡ này bằng một vài chi tiết:

“Cầm tay hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can”

   Người đọc đủ hình dung ra hình ảnh thật xúc động của Nguyễn Khuyến đối với Dương Khuê. Nhà thơ ân cần hỏi han bạn đủ điều và mừng rỡ khi thấy bạn tuổi đã cao, song vẫn minh mẫn, tỉnh táo. Đây chính là nét đáng quý trong con người Nguyễn Khuyến, dù đã có khi đạt tới đỉnh cao danh vọng, tâm hồn nhà thơ vẫn bình dị, gần gũi, thương mến vợ con, bè bạn, xóm giềng... Chẳng cứ đối với Dương Khuê, tình cảm nhà thơ đối với Bùi Văn Quế (tức ông nghè Châu Cầu) cũng đằm thắm không kém. Nhân nước lụt, nhà thơ hỏi thăm bạn thật kĩ lưỡng, tỉ mỉ tựa hồ như một nhà nông chính cống thăm hỏi người ruột thịt cùng cảnh ngộ:

     “Ai lên nhắn hỏi bác Châu cầu,

  Lụt lội năm nay bác ở đâu?

 Mấy ổ lợn con rày lớn bé ?

           Vài gian nếp cái ngập nông sâu?

   Thế rồi, Cụ Tam Nguyên tự xưng “Em” với ông bạn Châu Cầu và kể chuyện về mình một cách hóm hỉnh, dí dỏm:

Em cũng chẳng no mà chẳng đói,

Thung thăng chiếc lá rượu lưng bầu

(Lụt, hỏi thăm bạn)

   Tình cảm chân thành, nồng hậu, chu đáo, lời lẽ mộc mạc... là những yếu tố quan trọng làm cho những bài thơ viết về tình bạn của Nguyễn Khuyến lay động trái tim người đọc. Ở bài Khóc Dương Khuê, tình cảm này tập trung ở phần cuối.

   Hình ảnh Dương Khuê trong lần gặp gỡ cuối cùng vẫn sâu đậm trong tâm trí Nguyễn Khuyến. Nhà thơ cảm thấy việc bạn mất là phi lí. Tác giả tự hỏi:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,

Tôi lại đau trước bác mấy ngày,

Lùm sao bác vội về ngay”.

   Nhưng tiếc rằng điều phi lí, điều trái lẽ thường ấy đã là một sự thật. Chính vì phi lí nên sự đau xót, nuối tiếc càng được nhân lên gấp bội:

"Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”.

   Câu thơ buông ra một cách tự nhiên, khó có thể thấy đâu là kĩ thuật đặt câu dùng từ, nhưng đã diễn đạt thành công nỗi đau to lớn ập đến bất ngờ.

   Cái chết của bạn làm cho nhà thơ thêm chán chường. Cuộc đời đầy những điều ngang trái, tuổi cao, lên tiên cũng là lẽ thường tình. Có điều, sao bạn nỡ vội vàng để người bạn già ở lại phải chịu sự trống vắng không gì bù đắp nổi? “Ai chẳng biết chán đời là phải - Vội vàng chi đã mải lên tiên”. Câu thơ có ý trách bạn, nhưng đằng sau đó còn là một tâm trạng khôn nguôi về thế sự. Tâm trạng này không những bàng bạc trong tiếng khóc Dương Khuê, mà có khi còn được bộc bạch một cách trực tiếp hơn qua những câu thơ như: "Đời loạn đi về như hạc độc - Tuổi già hình bóng tựa mây côi” (Cảm túc), hay " Bạn già lớp trước nay còn mấy? - Chuyện cũ mười phần chín chẳng như” (Cảm hứng)...

Tuổi già, mắt lòa, chân chậm, mối quan hệ vốn đã hạn hẹp; nay, mất bạn, nhà thơ càng đơn độc, chơ vơ:

“Rượu ngon không có bạn hiền,

Không mua không phải không tiền không mua”.

“Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai ai biết mà đưa?".

   Ở đây nghệ thuật điệp từ đã mang lại hiệu quả đáng kể. Trong ba dòng thơ tổng cộng 21 chữ, "không" xuất hiện đến 6 lần, diễn tả tài tình tâm trạng trống vắng ghê gớm của con người. Đồng thời, cách kết cấu trùng điệp ở những câu thơ nói trên tạo được cảm giác nghe tiếng khóc nức nở không dứt.
Mất bạn, nhà thơ mất tất cả những gì hứng thú và thay đổi cả nếp sinh hoạt trong cuộc sống thường nhật: không uống rượu, không làm thơ, đàn không muốn gảy, giường phải treo lên. Như vậy, hỏi còn gì đáng sống? Những thay đổi ấy, chứng tỏ tác giả đã phải trải qua một cuộc khủng hoảng tinh thần quá sức chịu đựng bởi cái chết của bạn. Điều đó khẳng định tình bạn giữa hai người thật keo sơn gắn bó.

   Nghệ thuật trùng điệp còn tiếp tục phát huy được hiệu quả cao hơn ở một số câu tiếp theo: “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở - Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương”, tạo cho câu thơ có âm điệu tựa hồ như sóng biển từng đợt tràn lên rồi rút xuống, rồi lại tràn lên mạnh mẽ hơn diễn đạt thành công nỗi đau của nhà thơ càng về sau càng sâu xa, thống thiết.

   Mở đầu bài thơ là tiếng kêu ngạc nhiên, kết thúc bài thơ là tiếng khóc:

“Tuổi già giọt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”

   Sau bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời đen bạc nay sắp trở thành người “cổ lai hi" (xưa nay hiếm), cụ Yên Đổ làm gì còn đủ nước mắt mà khóc bạn? Nỗi đau không tràn ra ngoài được, ắt phải lặn âm thầm vào bên trong trái tim nhà thơ. Nhà thơ nói là mình không khóc, nhưng dường như hai câu kết thấm ướt nước mắt nóng hổi xót thương!

   Bằng tài năng kiệt xuất, Nguyễn Khuyến đã để lại cho hậu thế một bài thơ khóc bạn chan chứa nước mắt, qua những lời diễn đạt chân tình thống thiết.

Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê 2

     Bên cạnh chủ đề tình yêu quê hương đất nước, tình cảm lứa đôi được nhắc tới qua rất nhiều tác phẩm thì ta cũng chẳng thể nào quên được những bài thơ viết về một thứ tình cảm rất đỗi thiêng liêng khác - đó chính là tình bạn. Trong nền văn học Việt Nam, chắc hẳn những người yêu thơ ca chẳng thể nào được bài thơ “Khóc Dương Khuê” của nhà thơ Nguyễn Khuyến viết dành tặng người bạn hiền của mình đã khiến bao trái tim phải thổn thức.

     Bắt nguồn cảm hứng từ nỗi lòng thương tiếc khôn nguôi của tác giả trước tin bạn qua đời, Nguyễn Khuyến đã gửi những tâm tình của mình qua những lời thơ sau:

“Bác Dương thôi đã thôi rồi,

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”

     Còn nỗi đau nào xót xa hơn khi hay tin người bạn, người thân của mình đột ngột qua đời. Người sống kẻ chết, biết còn gì đây. Ngay khi hay “bác Dương" qua đời, tác giả đã chợt thốt lên một tiếng lòng thảng thốt, tiếc nuối. Hai tiếng "thôi” như một lời buông xuôi, chẳng thể nào cứu vãn được sự thật đắng cay ấy đây. Tác giả dường như muốn phủ nhận cái chết của người bạn ấy mà chẳng nhắc đến một từ “chết” trong câu. Chỉ là tiếng “thôi đã thôi rồi” càng thể hiện nỗi bất lực, một nỗi đau đến vô thức, nỗi đau chèn nén giữa lồng ngực mà chẳng thể nào bật lên tiếng khóc. Mất bạn rồi, không gian nơi đây càng trở nên trống trải, vắng vẻ biết nhường nào “nước mây” cũng thấm đượm một nỗi buồn khôn nguôi. Tựa như câu thơ của nguyễn Du “Người buồn cảnh có bao giờ vui đâu”.

     Sau những phút giây khiến con người ta phải giật mình, thảng thốt, Nguyễn Khuyến ngồi đây và nhớ lại những kỉ niệm thuở người còn sống. Còn nhớ những ngày chúng ta cùng đi thi, đi học, đỗ đạt.

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau

Kính yêu từ trước đến sau

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời”

     Tác giả nhớ lại khoa thi năm Giáp Tí, hai người đã cùng nhau “đăng khoa”, Nguyễn Khuyến đậu giải Trạng nguyên nhưng "tôi" và "bác" vẫn sớm hôm cùng nhau, tâm sự bàn thế sự đời. Cuộc gặp gỡ ấy tựa như duyên trời định, cảm thấy chẳng bao giờ có thể tách rời. Những kỉ niệm được tác giả sắp xếp, giãi bày từ những giây phút đầu tiên gặp gỡ, cho đến ngày ta cùng nhau tiến bước, góp mặt trong những giai đoạn cuộc đời của nhau khiến cho mối quan hệ ấy càng trở nên quan trọng, gắn bó. Trong tình bạn ấy có cả sự kính trọng, tin tưởng và thề suốt đời thủy chung bên nhau.

“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách;

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo.

Có khi từng gác cheo leo, 

Khúc vui con hát lựa chiều cầm xoang.

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp:

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích điển phần trước sau”

     Nguyễn Khuyến và người bạn ấy đã cùng nhau chu du đến những vùng đất mới, nơi có tiếng suối reo lưng đèo, từng hòa chung niềm vui trong nhịp hát ả đào, cùng nhau uống rượu đầy ắp khí xuân thực là mãn nguyện. Sung sướng biết bao khi tôi và bác còn được bàn luận văn chương, chữ nghĩa của đức thánh hiền để sống sao cho phải đạo làm người.

     Tác giả còn hồi tưởng lại những thời khắc mà ông và Dương Khuê cùng sống trong bối cảnh đất nước hoạn nạn nhưng vẫn cùng nhau giúp đỡ, chia sẻ những khó khăn vất vả:

“Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đấu thăng chẳng dám than trời

Bác già tôi cùng già rồi

Biết thôi thôi thế thì thôi mới là”

     Khi đất nước lâm vào cảnh lầm than, nhân dân bị bóc lột đô hộ, phận là những người làm quan thật khiến lòng xót xa khi phải chứng kiến những cảnh ấy. Sau đó, Nguyễn Khuyến đã từ quan về ở ẩn, tránh xa những cảnh tham quan bóc lột, đánh đập tôi tớ. Sống trong cảnh hoạn nạn ấy, tác giả chẳng dám mong được hưởng danh vọng, bổng lộc cao sang. Sau bao năm cống hiến tuổi trẻ cho đất nước, giờ đây cáo phó chức quan về với chốn quê nhà, ngẫm lại thật khiến cho người xót xa khi giờ đây, đôi ta phải trở thành nạn nhân của thời thế hoạn nạn.

Đường đi lại, tuổi già thêm nhác,

Trước ba năm, gặp bác một lần,

Cầm tay, hỏi hết xa gần,

Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.

     Tuy xa nhau nhưng lòng vẫn luôn hướng về nhau. Tuổi tác giờ đây đã chẳng thể khiến cho tôi và bác được cùng nhau rong ruổi trên những miền đất mới. Biết bao năm ta mới được hàn huyên, tâm sự đôi lần, thế nhưng nhìn thấy bác vẫn mạnh khỏe, tâm tính vẫn thanh cao trong sạch thật khiến cho Nguyễn Khuyến thấy an lòng.

     Vậy nên, sau biết bao lời thăm hỏi gần xa, bỗng nhiên hay tin bác ra đi, thật khiến cho tác giả không thể tin được. Nhà thơ tự đặt ra câu hỏi rằng:

“Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác

Tôi lại đau trước bác mấy ngày

Làm sao bác vội về ngay

Chợt nghe tôi những chân tay rụng rời”

     Cái chết đến đâu có phân biệt già trẻ trước sau, bác đi trước rồi sẽ được an nghỉ nơi đất mẹ, nhưng nỗi đau của người sống biết lời nào diễn tả cho hết. Nghe tin đột ngột như sét đánh ngang trời, thật khiến cho người ta bủn rủn, rụng rời. Cảm xúc chân thực của tác giả khi nghe tin như vậy thật chân thực, sâu sắc biết bao.

“Ai chả biết chán đời là phải,

Vội vàng chi đã mải lên tiên.

Rượu ngon, không có bạn hiền, 

Không mua, không phải không tiền không mua.”

     Sự ra đi của người bạn hiền khiến cuộc đời tác giả trở nên chán chường, buồn tủi biết bao. Cớ sao tuổi chưa phải quá già, mà bạn đã vội vàng rời xa trốn trần tục để đến một nơi thật xa. Biết lấy gì đây bù đắp lại nỗi trống vắng mà người đã khuất để lại. Câu thơ để lại một lời trách móc, nhưng đằng sau đó là một lời thổn thức về những tâm trạng đang ngổn ngang trong lòng tác giả. Tuổi ta đã già, sống ở ẩn ở chốn yên bình này, giờ đây mất đi người bạn tâm giao thật khiến cảm thấy cô quạnh biết nhường nào. Rượu ngon, nhưng không có bạn hiền bầu bạn thì uống để làm gì. Uống rồi chỉ càng thêm sầu thương, nhớ bạn mà thôi.

“Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,

Viết đưa ai, ai biết mà đưa.

Giường kia treo những hững hờ,

Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn !”

     Bao lời chất chứa trong lòng nay muốn được viết thành tràng thơ, nhưng viết rồi biết đưa ai để còn bình luận, tâm tình như những ngày tháng trước đây. Mất bạn rồi, những hứng thú trước đây cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Không uống rượu, không làm thơ, đàn cũng không muốn gảy, giường phải treo lên, những thứ đã gắn bó biết bao năm tháng trong suốt cuộc đời Nguyễn Khuyến giờ đây cũng đã chẳng còn quan trọng nữa. Chắc hẳn, tác giả đã phải trải qua một cú sốc thật lớn trước những mất mát mà cái chết của người bạn hiền mang tới. Thật buồn!

     Sau điệp từ “không” được nhắc lại tới 11 lần trong các câu thơ, tác giả một lần nữa sử dụng nghệ thuật trùng điệp ở trong khổ thơ cuối:

“Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở;

Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương,

Tuổi già, hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan ?

     Tuy thương, tuy nhớ biết bao nhưng bác cũng chẳng thể ở lại chốn nhân gian, để bầu bạn cùng tôi. Câu thơ mang những dòng cảm xúc dồn dập, hối hả để diễn tả ước mong của Nguyễn Khuyến như muốn níu giữ sự sống của Dương Khuê. Thế nhưng kết thúc bài thơ bằng tiếng khóc, đã được kìm nén biết bao lâu “hạt lệ như sương”. Sau bao thăng trầm biến cố, Nguyễn Khuyến tưởng rằng đâu còn nước mắt để khóc bạn. Nỗi đau đớn nhất của lòng người chính là chẳng thể nào thể hiện qua được những giọt nước mắt. Một người đã từng giữ chức ở chốn quan trường, mạnh mẽ là thế nhưng giờ đây đang ướt đẫm hai hàng nước mắt nóng hổi gửi tới sự ra đi của người bạn tri kỉ.

     Bằng tài năng của mình, tác giả đã để lại cho đời một bài thơ khiến cho biết bao trái tim độc giả cũng cảm nhận được nỗi đau thương, mất mát khi mất đi những người thân yêu của mình. Biện pháp so sánh, ẩn dụ, điệp từ được sử dụng khéo léo tài tình, những tình cảm chân thành của Nguyễn Khuyến dành cho Dương Khuê đã được lưu danh tới muôn đời qua bài thơ "Khóc Dương Khuê”.

Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê 3

     Nguyễn Khuyến được xem là một tác giả nổi bật trong thi ca Việt Nam. Những tác phẩm của ông luôn chứa đựng nhiều tình cảm tha thiết, dạt dào, tiêu biểu là bài thơ Khóc Dương Khuê. Có thể nói, cho đến nay chưa có một bài thơ nào thể hiện được tình bạn đẹp đẽ, chân thành đến vậy. 

     Tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê xét cho cùng cũng không phải là một tình bạn thật hoàn mỹ. Tuy nhiên Dương Khuê mất đi cũng đã để lại một nỗi đau cho Nguyễn Khuyến. Khi đó ông không còn biết gì cả, ông đau đớn khi mất đi một người bạn thân, mất một nguồn tình cảm quý giá không thế lấy gì thay thế được. Khi nỗi đau trở nên quá sức chịu đựng, Nguyễn Khuyến đã chợt kêu lên những tiếng kêu thảng thốt:

Bác Dương thôi đã, thôi rồi,

Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.

     Hai tiếng “thôi” tưởng như tự nhiên và dân dã nhưng lại làm bật lên nỗi đau khổ đến tột cùng. Nói đến cái chết, nhưng Nguyễn Khuyến lại không dám động đến từ “chết”. “Thôi đã… thôi rồi”, nghĩa là hết, nghĩa là kết thúc một cuộc đời. Không đau nỗi đau thật, làm sao có thể khóc một tiếng khóc thật như thế được. Chỉ có điều Nguyễn Khuyến không thét lên, tiếng khóc của người là khóc với mình, tiếng khóc lắng vào lòng, khóc cho tự mình nghe.

     Lúc này ông chỉ muốn ngồi một mình, đối diện với người bạn tri kỷ, cùng nhắc lại tình bạn, ôn lại những gì đã từng có giữa hai người.

Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước

Những sớm hôm tôi bác cùng nhau

Kính yêu từ trước đến sau

Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời

     Hai người vốn chẳng quen biết gì nhau, Nguyễn Khuyến quê ở Bình Lục - Hà Nam, Dương Khuê quê ở Vân Đình - Hà Đông, lần đầu gặp nhau trong khoa thi Hương và cùng thi đỗ, thế mà cứ như duyên trời định sẵn, tình bạn bắt đầu từ đây. Nào “lúc sớm hôm”, rồi “tôi bác”,… sao mà bình dị, sao mà nôm na, thân mật đến thế.

     Mới gặp lần đầu nhưng Dương Khuê đã để lại một ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhà thơ, đó là sự “kính yêu từ trước đến sau”. Một cảm giác mà chỉ có tri âm mới nhận ra được. Cùng với giọng kể lể chân thành đó, nhà thơ nhắc lại với bạn về những kỉ niệm khác:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo

Có khi từng gác cheo leo

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.

     Họ đã từng cùng nhau trải qua những giờ phút thú vị, họ đều có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui thanh cao của kẻ tao nhân mặc khách. 

     Nhà thơ như đang cùng người bạn quá cố của mình sống lại với những cảm giác thích thú “nơi từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng hát, tiếng đàn hay rung cảm vì tiếng suối “róc rách lưng đèo” nơi “dặm khách”. Ông không thể quên được những thú vui “lựa chiều cầm xoang” để trải lòng mình theo tiếng đàn, tiếng hát xa xôi.

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp

Chén quỳnh tương ấm áp bầu xuân

Có khi bàn soạn câu văn

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.

     Sự tinh tế của nhà thơ được thể hiện qua việc nhà thơ dùng từ “cùng nhấp”, chính là theo lối cùng nhâm nhi đối thơ trò chuyện của các bậc thánh nhân, chứ không thô tục như những kiểu xuống suồng sã, bợm rượu.

     Thật là những ngày vui không sao kể hết, nhưng cũng có khi hai người cùng trải qua những ngày buồn, rất buồn. Đó là những ngày nước mất, nhà tan:

Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn

Phận đấu thăng chẳng dám than trời

Bác già, tôi cũng già rồi

Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!

     “Buổi dương cửu” nghĩa là để chỉ thời kỳ loạn lạc khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhà thơ coi đó như là một vận hạn mà đất nước và con người hay chính ông và Dương Khuê đang phải trải qua. 

     Qua 16 dòng thơ, Nguyễn Khuyến đã nhắc lại một cách cô đọng và đầy đủ nhất về tình bạn giữa hai người. Có rất nhiều kỷ niệm đang nhờ khiến ông chưa bao giờ hình dung ra sự mất mát có thể xảy đến vào lúc này.

Muốn đi lại tuổi già thêm nhác

Trước ba năm gặp bác một lần

Cầm tay hỏi hết xa gần

Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.

     Nguyễn Khuyến không phải đang làm văn, mà ông đang bộc lộ cảm xúc của mình, vì thế mỗi câu đều có sự bình dị, đơn sơ đến chua chát, như một lời não nề nào đó của ông lão quê mùa.

Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác

Tôi lại đau trước bác mấy ngày

Làm sao bác vội về ngay

Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!

     Chỉ khi người ta đau đớn thật lòng, người ta mới có thể lý sự với ông bạn già như vậy. Rằng là tại sao bác lại chết trước tôi, đáng lẽ ra người chết phải là tôi chứ, cái lý sự thật chân thành và ai oán “Chợt nghe, tôi bỗng tay chân rụng rời!”. Càng cố chấp nhận nỗi đau đó thì lại càng thấy nó thật vô lý:

Ai chẳng biết chán đời là phải

Vội vàng chi đã mải lên tiên

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua.

     Cái chết của người bạn đã đến một cách vội vã quá, nó đã cướp đi một người bạn hiền của ông và có nghĩa là nó cũng cướp mất của ông tất cả mọi niềm vui trong cuộc sống. 

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

     Không còn bạn, không còn biết uống rượu cùng ai và cũng không thiết uống nữa. Không còn bạn, cũng không còn hứng để làm thơ nữa:

Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa?

     Thơ viết ra nhưng không có ai thưởng thức được, cảm thông được, thì còn viết để làm gì. Sự mất mát của ông sau cái chết của Dương Khuê là sự mất mát không thể bù đắp được.

Giường kia treo cũng hững hờ

Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn

     Và ông đành phải tự an ủi mình rằng người chết không thể sống lại được, rằng có khóc lóc cũng chẳng giải quyết được gì.

Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương

     Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:

Tuổi già hạt lệ như sương

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!

     Mỗi chữ trong thơ ông đều đẫm nước mắt, những giọt nước mắt của một nỗi đau quá lớn vì một tình bạn lớn.

     Những trải lòng trong bài Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến đã diễn đạt bằng một thứ ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, đầy tính dân tộc nhưng lại để trong lòng người đọc sự xót xa vô cùng. Thế mới nói thơ ca Việt Nam vẫn luôn chạm đến trái tim con người.

Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê 4

Trong cuộc đời mỗi con người để tìm cho mình một người bạn tri âm, tri kỷ có thể cùng nhau chia sẻ chuyện thế gian, cùng trân trọng lẫn nhau là điều không hề dễ dàng. Thế nên lúc đã may mắn có được rồi, thì khi họ mất đi lại càng khiến con người ta thêm đau xót không cùng. Nguyễn Khuyến đã rất may mắn khi có một tri kỷ ở đời là Dương Khuê, tuy nhiên sinh lão bệnh tử ở đời là chuyện khó tránh khỏi. Dương Khuê về với cõi tây thiên cực lạc, đau buồn trước tin bạn mất, Nguyễn Khuyến đã viết bài thơ Khóc Dương Khuê để thể hiện tấm lòng xót đau cho người bạn tri kỷ, đồng thời hồi tưởng về những ký ức đẹp đẽ thuở sinh thời của Dương Khuê với mình.

Dương Khuê (1839-1932), hiệu là Vân Trì, quê ở tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), là người học rộng tài cao, cùng đỗ cử nhân với Nguyễn Khuyến, và đỗ Tiến sĩ vào năm 1868, sinh thời đã làm quan đến chức Tổng đốc Nam Định, Ninh Bình. Là một trong những người bạn tri âm, tri kỷ nhất của Nguyễn Khuyến. Khóc Dương Khuê được Nguyễn Khuyến viết vào năm 1902 khi Dương Khuê bệnh mất, nguyên mẫu là chữ Hán sau này được chính tác giả dịch ra thành chữ Nôm, và trở nên phổ biến hơn cả. Bài thơ được viết theo thể song thất lục gồm 38 câu.

Mở đầu bài thơ Nguyễn Khuyến thể hiện sự buồn thương, bàng hoàng khi người bạn tri kỷ của ông bỗng nhiên bệnh mất.

"Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta."

Nguyễn Khuyến dùng cách gọi thân mật "bác Dương", cũng thể hiện tấm lòng kính trọng của tác giả với người bạn đã khuất. "Bác Dương thôi đã thôi rồi", chữ "thôi" ở đây là cách nói giảm nói tránh tinh tế về cái chết của Dương Khuê, một chữ "thôi" buông lơi như vậy lại thể hiện hết được cái hụt hẫng, bàng hoàng, là tiếng than nhẹ nhàng đầy suy tư của Nguyễn Khuyến trước hung tin bạn mất. Nỗi đau trong lòng tác giả được lột tả bằng các từ láy "man mác", "ngậm ngùi", bằng hình ảnh "nước mây" mênh mang, vô định, rộng lớn bộc bạch những nỗi buồn chơi vơi, khi đã ở tuổi xế chiều lại nghe người tri kỷ bước trước một bước. m điệu câu thơ như chùng hẳn xuống, là tiếng lòng buồn thương, lạc lõng, bơ vơ của tác giả, là nỗi đau khi để vụt mất thứ mà bản thân trân trọng vô cùng, và nỗi buồn ấy không chỉ khu trú riêng tâm hồn tác giả mà còn vượt ra phủ khắp mây trời, biển nước. Điều đó càng chứng minh rằng nỗi đau mất bạn này là nỗi đau quá lớn, mà một tấm lòng nhỏ của riêng tác giả chẳng thể nào chứa đựng hết đành phải san sẻ cho mây trời, để nguôi ngoai phần nào.

Trong nỗi buồn thương, tiếc nuối bao la ấy, dòng suy nghĩ của Nguyễn Khuyến dần dẫn lối đưa tác giả trở về với những kỷ xưa xa xăm, là giấc mơ thuở tráng niên của hai con người vốn là tri âm, tri kỷ.

"Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau;
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời?"

Nguyễn Khuyến hồi tưởng về thuở còn chung một khoa thi, cùng chung một sở nguyện, nhớ những "sớm hôm tôi bác cùng nhau", cả hai cùng có những tình cảm trân trọng, kính yêu thân tình, thấu hiểu lẫn nhau. Nguyễn Khuyến trân trọng cuộc kỳ ngộ này mà đem so sánh với "duyên trời" sắp đặt, đó dường như là một món quà quý giá mà cuộc đời đã ban tặng cho ông, ban cho ông một tri kỷ bầu bạn giữa thời thế có nhiều rối ren nhũng nhiễu, những nhà trí thức phải đau đáu về nỗi lo thời cuộc. May sao rằng vẫn có người chịu sẻ chia, tâm tình chia sẻ những nỗi day dứt, đó chính là may mắn lớn nhất với cuộc đời của một nhà nho đương thời. Cuộc sống của Nguyễn Khuyến khi gặp được tri kỷ thường có những thú vui khuây khỏa của bậc cao nhân, hiền triết, thoát khỏi chốn quan trường lắm thị phi cùng Dương Khuê, đó là niềm hạnh phúc mà bao người mơ cũng khó có được.

"Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo;
Có khi tầng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang;
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,
Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân.
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau."

Đó là những thú vui tao nhã của thi nhân đương thời, cùng nhau ngao du thiên hạ, ngắm cảnh sắc nhân gian, nghe "Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo", rồi cũng có những lúc đứng trên thành lâu mà nhìn, mà nghe "con hát lựa chiều cầm xoang", cũng có những lúc thưởng chung rượu ngon, say sưa men nồng, rồi lại cùng nhau sáng tác, bàn luận những câu văn tâm đắc, cùng lắng nghe ý kiến khen chê, suy nghĩ của nhau, cùng nhau bao lần trong phòng sách, lật Tam phần ngũ điển mà nghiền ngẫm, nghiên cứu. Tất cả những kỷ niệm ấy đều in dấu sâu đậm trong lòng Nguyễn Khuyến, là những thú vui, là những hạnh phúc dẫu thông thường, giản dị thế nhưng lại mang nhiều ý nghĩa sâu sắc với tác giả.

Không chỉ chung vui trong cảnh thái bình mà tình nghĩa giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê còn được thể hiện qua những buổi loạn lạc, mất nước, giữa chốn quan trường hung hiểm, rối ren.

"Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn,
Phận đấu thăng chẳng dám tham trời"

Lúc còn tại thế, dẫu khác cách sống cách suy nghĩ nhưng lúc nào giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê cũng tồn tại sự thấu hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của nhau, luôn ủng hộ bạn mình trong mọi quyết định, dẫu rơi vào cảnh thất thế, nước mất nhà tan thì tình bạn ấy vẫn chẳng hề suy chuyển. Có những lúc chốn quan trường nhiều sự rối ren, nhiều nhũng nhiễu, "phận đấu thăng" có nhiều trắc trở, khiến các bậc trí thức đương thời thấy lòng uất hận, chán chường, cũng may thay ít ra còn có người bạn tri kỷ, tri âm để sẻ chia, để bớt cái nỗi bức bối trong lòng.

Sau những dòng hồi tưởng xa xôi thời còn tráng niên, Nguyễn Khuyến dời dòng ký ức về những năm tháng khi đã từ quan, lui về ở ẩn, thì tình cảm giữa ông và Dương Khuê lại càng trở nên thân thiết, sâu sắc, bởi đã bớt đi cái gánh nặng của chốn quan trường.

"Bác già, tôi cũng già rồi,
Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!"

Hai con người đã ở tuổi gần đất xa trời, câu thơ mang âm điệu của một tâm hồn đượm chất suy tư, cảm thán về những năm tháng đã đi qua, là nỗi buồn thầm kín trong tâm hồn của một trí thức đã xa rời chốn quan trường nhũng nhiễu, nỗi bận tâm còn lại là người tri kỷ, thì nay cũng đã đi trước một bước. Còn gì xót xa hơn? Nguyễn Khuyến bỗng nhớ về lần gặp cuối đầy xót xa, nuối tiếc.

"Muốn đi lại tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm gặp bác một lần;
Cầm tay hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can,"

Nỗi ân hận, lực bất tòng tâm khi thân thể đã không còn như buổi tráng niên, không có nhiều sức khỏe để qua lại thăm hỏi bạn già, chỉ có thể "ba năm gặp bác một lần", và lần gặp ấy xen lẫn mừng, lẫn tủi vì quá lâu mới được tái kiến bạn hiền. Niềm vui mừng khôn xiết ấy thể hiện qua những cử chỉ "cầm tay", rồi "hỏi hết xa gần", dường như biết bao chuyện bấy lâu nay cách xa chỉ trực được giãi bày ra hết. Và sâu sắc hơn cả, tình cảm ấy còn thể hiện ở việc Nguyễn Khuyến cảm thấy mừng vui, khi Dương Khuê "vẫn tinh thần chưa can", vẫn còn khỏe mạnh hơn bản thân mình, mừng rằng bạn hiền vẫn còn sức khỏe để có thể bầu bạn với mình thêm quãng đường nữa. Đó là sự yên lòng của một tri kỷ dành cho người bằng hữu khi đã ở tuổi gần đất xa trời, bởi càng ý thức được sự chảy trôi của thời gian con người ta lại càng sợ thời gian sẽ cướp đi của bản thân những gì quý giá nhất, lưu luyến nhất.

Và chính sự yên tâm, an lòng vè sức khỏe, về tinh thần của bằng hữu như thế, thì khi hay tin Dương Khuê mất tác giả lại càng thêm bàng hoàng xót xa, không thể tin vào sự thật rằng mình đã mãi mãi mất đi người tri âm tri kỷ.

"Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày;
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời."

Nguyễn Khuyến mãi băn khoăn một nỗi, vì sao Dương Khuê vốn có thân thể khỏe mạnh, luận về tuổi tác, về bệnh tật thì bản thân tác giả còn hơn gấp mấy lần, vậy mà ông trời nghiệt ngã lại đưa Dương Khuê về trời sớm hơn mình. Để ông ở lại chịu nỗi xót xa, tiếc nuối vì mất đi tri kỷ, vì không thể thấy bạn mình thêm lần nào nữa, rồi mai đây, ai sẽ cùng ông chia sẻ chuyện đời, ai cùng nhắm rượu ngâm thơ, cùng vui thú hát ả đào? Không một ai nữa rồi, ngẫm mà thấy xót xa, thấy "chân tay rụng rời".

Nguyễn Khuyến đau buồn, lời thơ thốt ra vừa đau xót, vừa than trách rằng "Ai chẳng biết chán đời là phải/Vội vàng sao đã mải lên tiên", dẫu biết rằng thời thế thay đổi, lòng người thay đổi, nhưng chẳng phải vẫn còn một tấm chân tình Nguyễn Khuyến sao, cớ sao kẻ làm tri kỷ lại vội về với cõi tiên, để giải thoát khỏi nỗi khổ ải trần gian như thế, thân già như ông biết phải đối mặt làm sao với trần đời vốn đã thành vô nghĩa này. Người đã mất, đứng trước những thú vui vốn là tao nhã, là thú vị khi xưa thì hôm nay nó cũng trở nên nhạt nhòa, không còn hứng thú.

"Rượu ngon không có bạn hiền,
Không mua không phải không tiền không mua.
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưa;
Giường kia treo những hững hờ,
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn."

Rượu dẫu có là rượu tiên thì cũng chẳng còn ngon nếu thiếu người tri kỷ cùng thưởng thức, cái hứng thú làm thơ, nghe đàn giờ đã trở nên nhạt nhẽo, chán nản, bởi không có người cùng sẻ chia, cùng bình phẩm, thì dẫu có thú vị, có hay đến mấy Nguyễn Khuyến ông cũng lấy làm "hững hờ", cũng "ngẩn ngơ" không niềm vui thú. Bởi xưa kia có vui là bởi có người tri kỷ, thấu hiểu lòng nhau, thơ ca nhạc họa chỉ làm nền, làm bước đệm cho hai tâm hồn được thư thả, được sóng đôi tâm tình thế sự, giờ đây người đã mất rồi, thì còn cần chi thứ nền nã, chêm đệm nữa, chỉ còn lại sự trống rỗng đến tột cùng trong tâm hồn tác giả mà không một âm điệu, không một vần thơ, không một thứ rượu ngon nào có thể bù đắp. Nguyễn Khuyến tinh tế, khéo léo sử dụng những điển tích, điển cố nổi tiếng như "giường", như "đàn", để ví tình bạn tri âm của mình với Dương Khuê cũng sáng ngang với tình bạn của Trần Phồn -Từ Trĩ, hay của Bá Nha - Tử Kỳ trong sử sách. Đặc biệt ngôn từ điêu luyện, âm điệu đậm những nỗi trầm buồn, nuối tiếc xa xăm càng thể hiện được tình nghĩa thắm thiết, sâu sắc của mình với người tri kỷ đã khuất.

Dứt dòng hồi tưởng, tiếc thương, Nguyễn Khuyến đưa tiễn bạn bằng lòng thương tiếc chân thành, bằng tình bằng hữu tri kỷ, thấu hiểu lẫn nhau.

"Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương;
Tuổi già hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!"

Nguyễn Khuyến cũng thấu hiểu rằng, vận khí tri âm đã tuyệt, thôi thì về chầu trời, đoàn tụ với tổ tiên âu cũng là phần phước, còn bản thân ông dẫu đớn đau, dẫu tiếc thương, nhưng tuổi đã già, sức đã yếu "lệ như sương", mọi nỗi đau, mọi nỗi nhớ dường như đã ép cả vào lòng, chôn giấu vào tim, chẳng thể khóc thành tiếng, nước mắt cũng không thể "chứa chan" mà đều chảy cả vào tâm hồn của thi sĩ. Đó là nỗi đau tận cùng, tột bậc không khóc thành tiếng, không thể nói thành lời được nữa.

Bài thơ là những nỗi niềm xót thương vô tận, là những hồi tưởng đẹp đẽ, nhiều kỷ niệm của một thi sĩ tài năng với người bạn tri kỷ đã khuất, đó là những tình cảm thiêng liêng, cao cả, đáng trân trọng nhất. Đồng thời bài thơ còn đề cao, ca ngợi tình bạn gắn bó, keo sơn, thấu hiểu lẫn nhau, không chỉ thắm thiết trong thời bình, mà những buổi loạn lạc họ cũng chẳng hề quên nhau. Về nghệ thuật bài thơ được viết theo thể thơ song thất lục bát, với ngôn ngữ giản dị, thân tình, trong sáng, đậm chất suy tưởng, trầm ngâm, với nhiều những điển tích, điển cố sâu sắc, thể hiện được tài thơ tinh tế, uyên bác của Nguyễn Khuyến trong nền văn học trung đại Việt Nam.

Cảm nhận về bài thơ Khóc Dương Khuê 5

Chúng ta từng biết đến và thật cảm động trước tình bạn của Trần Phồn và Từ Trĩ, của Bá Nha và Tử Kì, của Lưu Bình và Dương Lễ... Bây giờ đây là của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê, Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là hai người bạn thân thiết, cùng đậu cử nhân, làm quan và sống bên cạnh nhau. Họ là tri âm, tri kỉ. Khi Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn, tuy khoảng cách xa nhau nhưng tình bạn hai người vẫn nguyên vẹn như xưa. Mới đây thôi gặp bạn còn khỏe, mà bỗng dưng tin bạn mất ở bên tai, Nguyễn Khuyến nghe như là tiếng sét. Tiếng khóc bạn vỡ òa ra trong muôn vàn nhớ thương, luyến tiếc, xót đau. Bài thơ Khóc Dương Khuê cũng có từ ngày đó.

Chúng ta đã từng gặp một Nguyễn Khuyến mía đời, cười đời. Và giờ đây ta lại gặp một Nguyễn Khuyến khác, nặng nghĩa, nặng tình, âm thầm khóc cho đất nước, khóc cho nhân dân và khác bạn. Chúng ta cũng đã từng gặp trong thơ ca, tiếng khóc của Phạm Thải dành cho Trương Quỳnh Như, của Hồ Xuân Hương dành cho ông Phủ Vĩnh Tường, Tổng Cóc... Và giờ đây là của Nguyễn Khuyến dành cho Dương Khuê. Có gì khác chẳng giữa những tiếng khóc ấy?

Có thể nói rằng, tiếng khóc của Nguyễn Khuyến dành cho Dương Khuê là tiếng khóc của một người bạn già đối với một người bạn già, tiếng khóc của sự trải nghiệm sâu sắc trong cuộc đời. Cả Nguyễn Khuyến và Dương Khuê đã gần độ tuổi “xưa nay hiếm”, cái chết đến với họ phải là lẽ thường tình chứ! Thế nhưng, đối với Nguyễn Khuyến đây là mất mát quá lớn, mất đi tri âm tri kỉ, mất đi người bạn của tuổi già. Tiếng khóc của ông không dữ dội, vật mình vẫy gió tuôn mưa mà thâm trầm sâu sắc, mà thắm thiết - rất Nguyễn Khuyến,

Bác Dương thôi đã thôi rồi

Nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta.

Lời thân não nề ấy góp phần thể hiện cho một tâm trạng đang rất bàng hoàng, ngạc nhiên, sững sờ trước sự thật vô cùng đau xót. Nỗi đau gặm nhấm hồn người và dường như lan tỏa khắp không gian, vũ trụ. Tiếng thơ như tiếng nấc nghẹn ngào không thể phát ra thành tiếng. Với tác giả, cải tin bạn mất quá đột ngột và phi lí:

Làm sao bác vội về ngay

Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời.

Nguyễn Khuyến cảm thấy như mất đi một phần cơ thể, hoang mang và sửng sốt. Không thể thế được! Bởi mới đây thôi nhà thơ đang còn gặp bạn, mừng vì thấy bạn còn khỏe hơn mình. Vậy làm sao có thể như thế được, nhà thơ không muốn tin vào tai mình nữa. Quả bất ngờ và đau xót, ông thầm trách bạn:

Ai chẳng biết chán đời là phải

Vội vàng chi đã mải lên tiên.

Lời trách ấy như càng xoáy sâu vào vết thương lòng khiến nó nhức nhối hơn, mất mát dường như nặng nề hơn. Những từ ngữ làm sao, vội vàng chi vang lên khiến cho tiếng khóc bạn da diết hơn, day dứt, ám ảnh tâm hồn nhà thơ.

Chới với trước thực tại đau lòng, ông tìm về với dĩ vãng của một thời xa xôi. Tiếng khóc bạn càng sâu sắc hơn khi hàng chuỗi sự kiện trở thành lời kể về những ngày tháng cùng hàn huyên, vui buồn có nhau làm xua tan đi bầu không khí ảm đạm, thê lương của thực tại. Nhà thơ tìm về quá khứ làm tìm về với kỉ niệm, để thấy hình bóng của bạn trong ngày cùng đăng khoa, sớm hôm tôi bác cùng nhau. Nhà thơ đã dành hai mươi câu thơ cho hồi ức quá khứ, để sống với quá khứ. Các từ ngữ lại cũng, cùng, có khi... đã minh chứng và thể hiện cho tình bạn gắn bó sâu sắc, sự tri âm giữa hai người:

Cũng có lúc chơi nơi dặm khách

...Có khi từng gác cheo leo

Thú vui Con hát lụa chiều cảm xoang

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp

...Có khi bàn soạn câu văn

...Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn.

Quá khứ êm đẹp ấy giờ đã xa rồi. Sự thật vẫn là sự thật. Sự đối lập của không gian và thời gian đã nói lên sự mất mát không gì bù đắp nổi. Trở lại với mảnh đất thực tại, tâm hồn nhà thơ ngay lập tức đụng chạm vào vết thương lòng đang rỉ máu, ông không sao có thể chấp nhận được. Tất cả với ông giờ đây đã trở thành vô nghĩa:

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua

Câu thơ nghĩ đắn đo chưa viết

Viết đưa ai, ai biết mà đưa.

Trước đây, hai chúng ta đã từng cùng nhau uống rượu, ngâm thơ. Giờ đây, khi bạn đã mất, những việc làm trở thành phù phiếm, vô nghĩa. Bạn đâu nữa, trị âm còn đâu nữa, rượu mua về ai uống với mình, thợ làm ra ai hiểu? Năm từ không trong hai câu thơ như để nhấn mạnh cái đó, đó là sự cô đơn, đó là nỗi mất mát đau thương. Từ ai vang lên sao mà day dứt, thương tâm quá! Nỗi đau xót đã lên đến đỉnh điểm! Nguyễn Khuyến đã vô tình bạn của mình giống Trần Phồn và Từ Trĩ, Bá Nha và Tử Kì. Trần Phồn dành cho bạn một cái giường để bạn ngồi, khi bạn về thì treo giường lên. Còn Bá Nha thì cho rằng chỉ có Tử Kì hiểu được tiếng đàn của mình, khi Tử Kì mất, Bá Nha đập vỡ cây đàn và không chơi nữa. Và với Nguyễn Khuyến, Dương Khuê mất đi ông cũng không muốn uống rượu nữa, không muốn làm thơ nữa. Tất cả đều vô nghĩa khi tri âm không còn. Trạng thái ngẩn ngơ đã chuyển sang thống thiết.

Bác chằng ở dẫu van chẳng ở

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương.

Các câu thơ của Nguyễn Khuyến không có nước mắt nhưng lại đầm đìa nước mắt:

Tuổi già hạt lệ như sương

Hơi đâu ép lấy hai hàng chúa chan.

Hai câu kết tưởng như vô tình mà thực ra chứa chất nỗi đau rất đỗi chân thành, nỗi đau như lặn vào bên trong. Cần gì phải khóc mới là chân thành? Nước mắt chảy vào trong mới là đau xót, nỗi đau âm ỉ và dai dẳng. Tiếng khóc này như một lời thanh minh, một lời ngậm ngùi của một thân phận cô đơn. Và có thể đây là lời thầm trách bạn sớm ra đi để lại thân già cô đơn, hiu quạnh.

Kết cấu trùng điệp của bài thơ, đặc biệt ở phần cuối bài đã giúp cho việc biểu đạt cảm xúc dạt dào, thắm thiết của tác giả, đồng thời biểu đạt được tiếng khóc nức nở của lời khóc bạn. Cả bài thơ là tiếng khóc buồn đau viếng bạn, là tiếng nấc nghẹn ngào trước một nỗi đau vô hạn. Tiếng khóc của Nguyễn Khuyến trong Khóc Dương Khuê sẽ còn ngân vang mãi mãi. Tiếng khóc ấy là minh chứng rõ ràng nhất cho tình bạn chân thành, gắn bó, tri âm của Nguyễn Khuyến và Dương Khuê.