Bài văn mẫu số 1
"Nhật kí trong tù" gồm 133 bài thơ chữ Hán, phần lớn viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Tập nhật kí bằng thơ này ra đời trong một hoàn cảnh rất đặc biệt, từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943, khi lãnh tụ Hồ Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam một cách vô cứ, dày đọa và giải lui giải tới khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc:
"Quảng Tây giải khắp mười ba huyện,
Mười tám nhà lao đã ở qua"...
"Nhật kí trong tù" biểu hiện một cách cảm động vẻ đẹp của một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn và một dũng khí lớn của người chiến sĩ vĩ đại trong cảnh tù đày.
Bài thơ "Giải đi sớm" (Tảo giải) rút trong "Nhật kí trong tù" ghi lại một lần chuyển lao vô cùng gian khổ mà Bác phải nếm trải, qua đó ta thấy hình ảnh tuyệt đẹp của "ông tiên trong tù".
Hai câu thơ đầu nói về thời điểm cuộc chuyển lao diễn ra lúc nửa đêm về sáng:
"Nhất thứ kê đề dạ vị lan".
Tiếng gà gáy một lần, đêm chuyển canh, trời chưa sáng. Tiếng gà gáy, cái âm thanh dân dã thân thuộc ấy đêm nay lại vang lên nơi đất khách quê người, gợi lên trong lòng người tù bị giải đi bao nỗi niềm. Câu thứ hai tả cảnh bầu trời một đêm thu phương Bắc:
"Quần tinh ủng nguyệt thượng thu san".
Trăng sao được nhân hóa: Chòm sao nâng vầng trăng lên đỉnh núi mùa thu. Một nét vẽ tạo hình trong trạng thái động của thiên nhiên, làm cho cảnh trăng sao càng trở nên hữu tình. Trong khổ ải "chinh nhân" không cảm thấy cô đơn, vẫn ngước mắt nhìn lên bầu trời, hướng về "thu san" để tận hưởng vẻ đẹp của vũ trụ. Trăng sao như cùng đồng hành với Bác trên chặng đường khổ ải. Đây là một nét vẽ rất tinh tế mang vẻ đẹp cổ điển: chấm phá cảnh trăng sao, lấy ngoại cảnh để biểu hiện tâm cảnh của nhân vật trữ tình: nhà thơ - chinh nhân.
Phải có một tình yêu đời tha thiết, một bản lĩnh phi thường, một hồn thơ dào dạt tình yêu thiên nhiên, người tù mới làm chủ hoàn cảnh gian khổ, đọa đày để cảm thụ vẻ đẹp đêm thu. Một nét vẽ, một câu thơ đầy ánh sáng trong một cuộc đời còn nhiều tăm tối và cay đắng. "Chinh nhân" đang hướng về ánh sáng mà đi tới:
"Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn"
(Người đi cất bước trên đường thẳm
Rút mặt đêm thu trận gió hàn).
Hai câu 3, 4 miêu tả cảnh người đi đày - người đi xa đang bước đi trên con đường xa (chinh đồ thượng). Lúc bấy giờ, Bác đã trải qua những ngày dài bị đày ải, phải đắp chăn giấy, áo quần rách tả tơi. Thân hình tiều tụy, đôi chân mang xiềng xích, lê bước đi trước mũi súng bọn lính áp giải. Từng trận... từng trận gió thu phương Bắc lạnh lẽo tới tấp thổi vào mặt Bác. Hai câu thơ này, có nhà phê bình văn học rất thú vị ở chữ "nghênh diện" vì nó gợi tả tư thế hiên ngang, bất khuất của Bác trên bước đường khổ ải. Cũng có ý kiến khác chú ý nhiều hơn đến các từ "chinh nhân" - "chinh đồ" ở câu thứ ba và hai chữ "trận" trong hình ảnh "trận trận hàn" ở câu 4. Bốn tiếng ấy hòa nhịp với nhau tạo nên âm hưởng trầm hùng. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã viết: "... Nhịp điệu ấy, âm hưởng ấy khiến cho bài thơ không phải là tiếng hát đi đày mà là hành khúc trầm hùng".
Phần hai của bài thơ nói về cảnh rạng đông, cả trời đất bừng sáng trong khoảnh khắc, bầu trời từ màu trắng (bạch sắc) chuyển sang màu hồng (dĩ thành hồng). Bao la một màu hồng. Cảnh bình minh hiện lên vô cùng tráng lệ:
"Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng, u ám tàn dư tảo nhất không!"
Ánh sáng chuyển hóa: "bạch sắc" - "thành hồng", màu sắc tương phản đối lập: "hồng" / "u ám". Một đêm thu lạnh lẽo đã trôi qua. Thơ viết về rạng đông đầy màu sắc rạng rỡ. Đúng là "thi trung hữu họa". Sau này, trong bài thơ "Đi thuyền trên sông Đáy", Bác cũng viết:
"Thuyền về trời đã rạng đông,
Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi".
Một đằng là cảnh rạng đông khi bị lưu đày, một đằng là cảnh rạng đông trên chiến khu thời kháng chiến, cảnh ngộ tuy khác nhau nhưng đều biểu hiện một tâm hồn yêu thiên nhiên, một tâm thế lạc quan yêu đời của người chiến sĩ vĩ đại.
Hai câu cuối toát lên một phong thái, một cốt cách thi sĩ rất đẹp:
"Noãn khí bao la toàn vũ trụ,
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng".
Hơi ấm bao la bao trùm cả vũ trụ lúc rạng đông bỗng chốc hồn thơ của người đi đường càng thêm đượm nồng. "Chinh nhân" trở thành "hành nhân”. "Bác như quên hết mọi đau khổ, lồng ấm lên, vui lên cùng vạn vật". “ Thi hứng " dâng lên: dào dạt trong lòng. Câu thơ tràn đầy xúc cảm. Bác không nói đến "thép" mà vẫn sáng ngời chất thép vì vần thơ đã thể hiện một cách tuyệt đẹp phong thái ung dung, tâm hồn thư thái lạc quan của người chiến sĩ vĩ đại trong khổ ải.
Đọc "Nhật kí trong tù" ta bắt gặp nhiều cảnh chuyển lao. Có trường hợp bỉ giải đi trong mưa gió: "Năm mươi ba cây số một ngày - Áo mũ đầm mưa, rách hét giày". Lại có lần bị đày đọa: "Hôm nay xiềng xích thay dây trói – Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung". Có cảnh "Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình...". Thật trăm lần khổ ải, nghìn điều đắng cay! Tuy nhiên, trong khổ cực đày đọa, lúc nào phong thái của Bác cũng hết sức ung dung tự tại, lạc quan, làm chủ hoàn cảnh: "Vật chất uy đau khổ - Không nao núng tinh thần".
Tóm lại, "Giải đi sớm" là một bài thơ đặc sắc. Tính nhật kí và hướng nội của bài thơ rất rõ nét. Cảnh đêm thu gió rét. Con đường đi đày xa lắc. Có sương sa trên núi thu. Có cảnh bình minh tráng lệ và ấm áp. Và có tâm cảnh: "Hành nhân thi hứng hốt gia nồng".
Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng bị quân thù giải đi trong gió rét trên con đường xa, với tâm thế ung dung, lạc quan và yêu đời... là một hình ảnh đẹp mà người đọc cảm nhận được qua bài thơ này. Nét vẽ chấm phá về trăng sao, về rạng đông đã tô đậm chất trữ tình và sắc thái cổ điển của bài thơ"Tảo giải".
Bài thơ "Tảo giải" là bài hát đi đày của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Chân tay bị xiềng xích mà vẫn ung dung lạc quan. Nó giúp ta khám phá vẻ đẹp tâm hồn Hồ Chí Minh:
"... Mười bốn trăng tê tái gong cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ hay... cánh hạc ung dung!".
(Tố Hữu)
Bài văn mẫu số 2
Trong bài thơ "Khai quyển", chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
"Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây?
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do".
Tuy Bác "không ham" làm thơ nhưng những vần thơ được Bác sáng tác trong chốn ngục tù với mục đích "ngâm ngợi cho khuây" đã trở thành những vần thơ "thép", gây ấn tượng với bạn đọc bao thế hệ. Nhắc đến tập thơ "Nhật kí trong tù", chúng ta không thể không nhắc đến bài thơ "Tảo giải". Tác phẩm này không chỉ miêu tả cảnh chuyển lao đơn thuần mà nó còn khắc họa tinh thần lạc quan của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh.
Bài thơ mở ra một không gian buổi đêm với bóng tối bao trùm:
"Nhất thứ kê đề dạ vị lan,
Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san".
(Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao đưa nguyệt vượt lên ngàn)
Trời còn chưa sáng nhưng người tù đã bị áp giải di chuyển từ nhà lao này đến nhà lao khác của tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc. Tiếng gà gáy một lần đã giúp chúng ta xác định được thời gian Người bị chuyển lao vào khoảng một giờ sáng, lúc đó mới chỉ quá nửa đêm. Thời khắc con người chìm sâu trong giấc ngủ thì Bác phải chịu cảnh khổ cực, gió rét. Giữa không gian tối tăm như vậy, tiếng gà gáy vang lên như một sự thân thuộc. Chắc hẳn người chiến sĩ cộng sản ấy đang nhớ về quê hương, nhớ về nhân dân tha thiết. Tiếng gà vang lên một lần rồi cũng bị sự tĩnh mịch của màn đêm nhấn chìm. Đặt mình trong hoàn cảnh ấy có ai lại không cảm thấy đơn lẻ? Nhưng với tâm hồn luôn hướng đến thiên nhiên, Bác Hồ đã tìm được niềm vui khi có chòm sao và ánh trăng bầu bạn. Con đường chuyển lao như trở nên gần hơn, không gian cũng được mở rộng lên đỉnh núi và có chút ánh sáng của trăng, sao mang lại. Câu thơ "Quần tinh ủng nguyệt thướng thu san" tuy chưa được dịch sát nghĩa nhưng cũng khiến chúng ta phần nào thấy được sự hòa hợp, nâng đỡ cho nhau của trăng và sao. Dường như chúng muốn vượt khỏi bóng đêm u tối cũng giống như người tù nhân muốn vượt thoát khỏi cảnh tù đày để đến với tự do.
Nổi bật ở hai câu thơ tiếp theo là hình ảnh con người hiện lên thật hiên ngang và ung dung, đầy khí phách:
"Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng,
Nghênh diện thu phong trận trận hàn".
(Người đi cất bước trên đường thẳm
Rát mặt đêm thu trận gió hàn).
Đáng lẽ người tù phải cảm thấy mệt mỏi khi bị giải đi từ rất sớm và phải đối mặt với sự khắc nghiệt của hoàn cảnh nhưng đối với Bác Hồ thì khác. Người đi xa không trốn tránh gió rét mà lại đối mặt, "nghênh diện" với nó. Người đọc có thể cảm nhận được thời tiết khắc nghiệt được thể hiện qua từ "trận trận hàn" để hình dung được cái lạnh của đêm thu. Nhưng người chiến sĩ kiên cường ấy không hề nao núng trước hoàn cảnh. "Nghênh diện" thể hiện một tư thế oai hùng của người quân tử, luôn hiên ngang bền chí đối diện và vượt qua khó khăn. Ta có thể thấy được sự chủ động và tâm thế làm chủ hoàn cảnh của Bác. Dù trong gian khổ hay hiểm nguy thì Bác vẫn không hề run sợ. Hình ảnh người "chinh nhân" hiện lên thật bất khuất. Sự kết hợp giữa điệp từ "chinh" và ba tiếng "trận trận hàn" đã tạo nên âm hưởng trầm hùng cho bài thơ. Bản dịch thơ chưa lột tả được tư thế chủ động của "chinh nhân" và làm giảm bớt đi sự lạnh giá của trận gió. Tuy vậy, Bác vẫn hiện lên với ý chí quyết tâm chiến thắng mọi thử thách trên con đường giải phóng đất nước, mang lại cuộc sống no ấm cho nhân dân.
Sang khổ thơ thứ II, cảnh vật đã có sự vận động:
"Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng,
U ám tàn dư tảo nhất không.
(Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đến tàn, quét sạch không)
"Đông phương" đã được bao trùm bởi một màu hồng tươi mới, sau đêm tối sẽ là bình minh rực rỡ. Người tù thật tinh tế khi cảm nhận được sự chuyển mình của vạn vật. Dư âm của bóng tối không còn nữa, sự lạnh lẽo của gió thu được thay thế bằng hơi ấm của ánh bình minh. Đây cũng là ẩn dụ cho ánh sáng của cách mạng, của lí tưởng cộng sản. Từ "hồng" mang giá trị biểu đạt lớn. Nó biểu hiện niềm lạc quan, hi vọng của Bác vào sự chiến thắng của cuộc cách mạng dân tộc. Chúng ta cũng đã từng bắt gặp từ "hồng" trong bài thơ "Mộ" được coi là nhãn tự của bài thơ, làm cho khung cảnh thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người tràn đầy sức sống:
"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không.
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng".
Đồng thời màu hồng cũng gợi sự ấm áp lan tỏa khắp không gian:
"Noãn khí bao la toàn vũ trụ"
(Hơi ấm bao la trùm vũ trụ)
Sự lạnh lẽo của màn đêm, sự mỏi mệt của người tù bị áp giải như đã tan biến hết khi gặp ánh sáng. Nó cũng có sức mạnh giúp con người phấn chấn , khí thế hơn. Bác đã không bận tâm với trói buộc của hiện tại mà hòa mình vào thiên nhiên, vũ trụ để tận hưởng vẻ đẹp tươi mới đó. Trên con đường chuyển lao mấy khi có giây phút thảnh thơi như vậy? Hơi ấm đó không chỉ khiến thiên nhiên như được hồi sinh sau đêm tối mà còn khiến con người cũng có thêm sức sống, thêm sự lạc quan vào tương lai.
Chính điều ấy đã tạo nên cảm hứng trong tâm hồn Bác:
"Hành nhân thi hứng hốt gia nồng".
(Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng)
Không gian tươi mới đã khiến cảm hứng trong Bác càng dâng cao. Hình tượng người chiến sĩ đã hòa nhập với con người thi sĩ tạo nên một tâm hồn lãng mạn. Từ "hành nhân" gợi sự thư thái trong tâm trạng của người chiến sĩ. Là một người yêu thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên nên Hồ Chí Minh không thể bỏ qua sự biến chuyển của thiên nhiên dù là nhỏ nhất. Hơi ấm bao trùm toàn vũ trụ, ánh bình minh xua tan đi bóng đêm khiến nguồn thi hứng dào dạt trong Bác bật lên thành những tiếng thơ trữ tình mà đậm chất "thép". Đây cũng là đặc điểm độc đáo riêng tạo nên phong cách thơ Hồ Chí Minh. Con người chiến sĩ và thi sĩ trong Bác đã chiến thắng hoàn cảnh để tạo nên những vần thơ tuyệt đẹp. Ta cũng đã từng thấy tinh thần lạc quan ấy của Người thể hiện qua bài thơ "Trên đường":
"Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng
Vui say, ai cấm ta đừng,
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu".
Có thể nói, với bài thơ "Tảo giải" bạn đọc vừa cảm nhận được vẻ đẹp cổ điển cũng như vẻ đẹp hiện đại của tác phẩm. Ngoài ra, ta còn thấy ngời sáng một tinh thần lạc quan, phong thái ung dung và tâm thế làm chủ hoàn cảnh của Bác. Bác đã dùng sự hiên ngang, oai hùng cùng ý chí kiên cường không bỏ cuộc để đối mặt với mọi gian nan, khắc nghiệt.