Phân tích nhân vật Thị Nở hay nhất (6 mẫu)

Phân tích nhân vật Thị Nở 1

Chí Phèo là truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao và nhanh chóng trở thành tác phẩm đỉnh cao của văn học hiện thực phê phán. Tác phẩm xoay quanh nhân vật Chí Phèo cùng bi kịch bị tha hóa và bị chối bỏ quyền làm người. Chính xã hội phong kiến đen tối cùng với định kiến nghiệt ngã của xã hội đã đẩy Chí đến con đường cùng không lối thoát. Đại diện cho những định kiến của người dân làng Vũ Đại chính là bà cô Thị Nở, người đã kiên quyết phản đối chuyện tình của Chí Phèo, Thị Nở.

Bà cô Thị Nở không được Nam Cao tập trung miêu tả mà chỉ xuất hiện thoáng qua ở phần cuối của tác phẩm. Tuy không xuất hiện nhiều nhưng bà cô Thị Nở lại đóng vai trò nút thắt, bằng những câu nói vô tình, cay nghiệt, bà cô Thị Nở không chỉ dập tắt ước mơ về hạnh phúc gia đình của đứa cháu ( Thị Nở) mà còn đẩy bi kịch của Chí Phèo lên đến đỉnh điểm và cuối cùng buộc Chí phải lựa chọn cái chết đầy đau đớn.

Bà cô Thị Nở là người đàn bà ế chồng, bà ta cũng là người thân duy nhất của Thị Nở. Tuy mang hoàn cảnh và số phận đáng thương như Thị Nở nhưng bà ta lại không có chút yêu thương, đồng cảm với người cháu mà thường trực suy nghĩ đố kị, ghen ghét. Khi nghe Thị Nở nói về ý định lấy chồng, sự đố kị đã bộc phát thành những lời mắng chửi đầy cay nghiệt. Bà ta không chỉ chửi mắng thậm tệ đứa cháu gái duy nhất của mình mà còn miệt thị gay gắt đối với Chí Phèo.

Thái độ gay gắt của bà cô Thị Nở xuất phát từ sự ích kỉ đến cực đoan trước hạnh phúc Thị  , thứ hạnh phúc mà cả cuộc đời bà ta mãi chẳng thể có được. Có lẽ rằng bà cô ấy mong muốn người cháu phải giống như mình, phải sống đơn độc đến hết cuộc đời. Bên cạnh những suy nghĩ cá nhân ích kỉ, thái độ của bà cô Thị Nở còn là đại diện cho những định kiến của người dân làng Vũ Đại. Bà cô Thị Nở từng ném vào mặt cháu những lời cay nghiệt: “Đàn ông đã chết hết hay sao mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy chồng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”.

Trong mắt bà cô Thị Nở hay chính là cái nhìn định kiến của người dân làng Vũ Đại thì Chí Phèo chỉ là kẻ không cha không mẹ, một con quỷ dữ cần phải loại bỏ khỏi cộng đồng. Không một ai biết được sự thay đổi của Chí Phèo ngoài Thị Nở, dù có nói rằng Chí đã hoàn lương, Chí muốn trở về với cuộc đời lương thiện thì cũng không ai tin. Cái chết của Chí Phèo tuy là cái kết bi kịch nhất, đau thương nhất nhưng cũng lời phê phán sâu sắc nhất với xã hội phong kiến đen tối, nơi mà con người khao khát sống lương thiện cũng là một điều xa xỉ không thể thực hiện.

Bà cô Thị Nở không xấu nhưng bà ta lại là người ích kỉ, lạnh lùng. Cũng giống như bao người dân làng Vũ Đại, bà ta có quyền không công nhận Chí Phèo bởi những tội lỗi mà Chí gây ra không dễ dàng xóa bỏ nhưng bà ta không có quyền chà đạp, dập tắt hi vọng, hạnh phúc của người khác, nhất là khi người đó lại là đứa cháu duy nhất của bà ta. Có lẽ bà cô Thị Nở cũng không thể lường trước được cái chết đầy bi thảm của Chí Phèo nhưng việc phản đối quyết liệt cuộc hôn nhân của Thị Nở cũng đồng nghĩa với việc đẩy đứa cháu vào cuộc sống đau khổ, đơn độc đến hết cuộc đời, bởi ngoài Chí Phèo liệu có người đàn ông nào thật lòng yêu thương, dám yêu thương đối với người đàn bà như Thị.

Bà cô Thị Nở không phải nhân vật chính nhưng sự xuất hiện của bà ta lại mang tính quyết định đến sự phát triển của mạch truyện. Bà cô Thị Nở không chỉ xuất hiện với tư cách là một cá nhân mà còn là đại diện cho định kiến nghiệt ngã của cả một xã hội đen tối.

Phân tích nhân vật Thị Nở 2

Một tác phẩm tự sự thành công cần có sự góp mặt của rất nhiều yếu tố như cốt truyện, tình huống, sự kiện, chi tiết, ... và một yếu tố không thể thiếu đó chính là nhân vật. Trong truyện ngắn "Chí Phèo", Nam Cao đã khắc họa nên nhân vật thị Nở, một nhân vật xuất hiện bên cạnh Chí để đánh thức lương tâm, nhân tính của con qủy dữ. Đây cũng là nhân vật gây được nhiều xúc cảm trong lòng bạn đọc.

Bằng bút pháp tả thực, nhà văn Nam Cao đã miêu tả thị là một người phụ nữ xấu ma chê quỷ hờn với cái mặt "ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn". Cái mũi thị "vừa to, vừa ngắn, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra". Thị lại "ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách". "Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu". Đó quả là "một sự mỉa mai của hóa công". Nam Cao không dùng biện pháp nói giảm, nói tránh mà ông luôn miêu tả đối tượng với cái nhìn hiện thực, chân thật nhất.

Không chỉ xấu xí về ngoại hình, thị Nở còn là một người đà bà ngẩn ngơ, ế chồng, gia đình có nguồn gốc mả hủi. Thị sống cùng với bà cô cũng ế chồng bởi "con người ấy năm mươi tuổi rồi, năm mươi tuổi còn ai lấy chồng". Vì tính hay quên mà thị Nở đã ngủ quên trong tư thế hai tay trần buông xuôi, cái mồm "há hốc lên trăng mà ngủ", "đôi chân thì duỗi thẳng ra trước mặt, cái váy đen xộc xệch" khi đi ra sông kín nước. Đêm ấy, thị và Chí Phèo "ăn nằm với nhau rồi cùng ngủ say dưới trăng". Thiên nhiên thơ mộng đã chắp cánh cho một mối tình đôi lứa xứng đôi, có một không hai trong lịch sử văn học.

Ngỡ tưởng, thị đã xấu xí về ngoại hình, tâm hồn bị bóp méo nhưng ở con người ấy vẫn ngời sáng một tình thương dành cho Chí Phèo. Điều ấy được thể hiện qua chi tiết: "Đến nửa đêm, Chí Phèo đau bụng, nôn mửa. Thị Nở dìu hắn vào trong lều, đặt lên chõng, đắp chiếu cho hắn rồi ra về". Sau đó, thị nấu cho Chí bát cháo hành để giải cảm. Thị thấy Chí đáng thương, "còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình". Thị đã nghĩ rằng: "Mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc" vì hai người đã ăn nằm với nhau.

Thị Nở nhận thấy dường như mình yêu Chí Phèo, "đó là cái lòng yêu của một người làm ơn". Người đàn bà dở hơi đó lại biết yêu, yêu một cách đúng nghĩa. Thị đến với Chí Phèo mà không bận tâm chuyện hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, hắn đã rạch mặt mà đâm chém biết bao nhiêu người. Thị thấy hắn hiền, khác hẳn với những hung dữ thường ngày. Dường như trong xã hội ấy chỉ có thị Nở công nhận Chí Phèo là con người. Thị hết lòng chăm sóc khi hắn ốm và ở nhà hắn năm ngày chẵn. Chí Phèo và thị Nở sẽ là một cặp rất xứng đôi.

Nhờ bát cháo hành của thị mà Chí có khao khát trở về làm người lương thiện. Thị là cái phao cứu sinh cho cuộc đời Chí khi hắn đang ngấp ngoải, vùng vẫy giữa dòng xoáy nước. Thị Nở sẽ mở đường cho hắn làm hòa với tất cả mọi người. Tình thương, tình yêu và tình người của thị Nở khiến Chí Phèo cảm động, "mắt ươn ướt" bởi chưa bao giờ "hắn được một người đàn bà cho" và "muốn làm nũng với thị như với mẹ". Hai người sẽ lấy nhau để Chí có thể thực hiện ước mơ nho nhỏ với cuộc sống chồng cày thuê, cuốc mướn, vợ dệt vải của mình.

Nhưng vì định kiến xã hội, thị Nở không thể lấy Chí Phèo. Lời nói của bà cô đã khiến thị từ chối và cự tuyệt tình yêu của Chí một cách thẳng thừng: "Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ". Vì những lí do đó mà thị "dớn cái môi vĩ đại lên", trút vào mặt Chí Phèo lời của bà cô rồi "ngoay ngoáy cái mông đít đi ra về". Thị thương Chí Phèo là thật, thị yêu Chí và muốn về chung một nhà với Chí để gọi tiếng "vợ chồng" cũng là thật. Con người ngớ ngẩn ấy cũng có khát khao hạnh phúc như bao người bình thường khác. Thị biết quan tâm Chí, biết dùng tình thương để cảm hóa con quỷ dữ thức tỉnh. Đây là điều mà bao người dân Làng Vũ Đại không ai làm được. Họ chỉ thấy Chí lưu manh, tha hóa, mất hết nhân hình và nhân tính. Thị Nở như một luồng gió mới thổi sự sống vào cuộc đời Chí, vào tâm hồn của con người tưởng như đã chai sạn đi vì những lần rạch mặt ăn vạ, làm tay sai cho bá Kiến. Khi ở bên cạnh thị Nở, Chí Phèo là một người lương thiện.

Ngòi bút hiện thực sắc sảo của Nam Cao đã khắc họa nhân vật thị Nở với ngoại hình và những nét tính cách chân thật nhất. Con người bị người ta tránh như tránh "một con vật rất tởm" ấy lại có tình người, tình yêu với Chí Phèo. Giọng điệu của nhà văn Nam Cao hết sức lạnh lùng nhưng ẩn sâu trong đó là những trang văn thấm nhuần tư tưởng nhân đạo.

Thị Nở là nhân vật góp phần làm ngời sáng tư tưởng nhân đạo của nhà văn hiện thực chủ nghĩa, gây được ấn tượng khó phai mờ trong lòng độc giả. Ngoại hình dù có xấu xí, thô kệch nhưng hình ảnh của thị đã in dấu trong chúng ta bởi vẻ đẹp của lòng thương, vẻ đẹp của tình người. Phải chăng xây dựng nhân vật thị Nở là dụng ý của nhà văn trong việc khắc họa bi kịch bị lưu manh, tha hóa của anh canh điền lương thiện?

Phân tích nhân vật Thị Nở 3

Là một nhà văn hiện thực cho nên Nam Cao không hề tô vẽ những cuộc đời, những số phận của người nông dân. Những nhân vật của ông luôn là những con người bình dị, chân quê và có phần xấu xí. Trong đó có thể kể đến Thị Nở trong truyện ngắn "Chí Phèo" là một người đàn bà xấu xí và dở hơi có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Vậy mà người đàn bà ấy lại có khả năng đánh thức con người lương thiện trong hình hài quỷ dữ Chí Phèo. Có lẽ, điều kì diệu ấy chắc chỉ có Thị Nở mới làm được và chắc cũng chỉ có Nam Cao mới có thể biến hóa được.

Xây dựng nhân vật Thị Nở xấu xí không phải nhà văn muốn bôi bác người phụ nữ Việt Nam, mà ngược lại, tác giả chính là muốn nói đến vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn của họ, mặc dù hình hài của họ có phần xấu xí. Mà Thị Nở thì xấu thật "cái mặt của thị thực là một sự mỉa mai của hóa công: Nó ngắn đến nỗi mà bề ngang hơn bề dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại, nếu hai má nó phinh phính thì mặt thị lại còn được hao hao như mặt lợn...Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành..." Với những dòng miêu tả đầy chân thực như thế này, người đọc có cảm tưởng cả trong văn học lẫn ngoài đời thực thì không có ai có thể xấu hơn Thị Nở được nữa. "Đã thế thị lại dở hơi...Và thị lại nghèo...Và thị lại là dòng giống của một nhà có mả hủi...". Thế nên, Thị Nở không có chồng và "người ta tránh thị như tránh một con vật rất tởm".

Vậy mà Thị Nở lại có tình cảm với Chí Phèo - con quỷ của làng Vũ Đại mà ai ai cũng xa lánh. Có lẽ đây cũng là một dụng ý của nhà văn Nam Cao khi để cho một kẻ dở hơi xấu xí và một kẻ cùng đường lưu manh đến với nhau và yêu nhau. Chính tình yêu ấy đã làm thức tỉnh những vẻ đẹp trong sâu thẳm tâm hồn con người.

Thị từ một người đàn bà xấu xí dở hơi đã trở thành một người phụ nữ biết quan tâm và lo lắng cho người khác: "Mình mà bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như vợ chồng...Đêm qua thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi hôm nay nhọc đừ. Phải cho hắn ăn tí gì mới được. Đang ốm thế thì chỉ ăn cháo hành. Ra được mồ hôi thì là nhẹ nhõm người ngay đó mà...". Không những thế, khi Thị tự tay nấu cháo rồi đem đến cho Chí Phèo, Thị đã coi đó là người đàn ông của đời mình cho nên hết sức lo lắng và thương yêu. Ánh mắt và nụ cười toe toét của Thị tưởng chừng như rất vô duyên nhưng kì thực nó lại khiến cho Chí cảm thấy Thị thật có duyên.

Bát cháo hành mà Thị nở mang sang cùng những quan tâm mà Thị dành cho Chí đã khiến cho hắn thực sự xúc động. Hắn nghĩ đến những mơ ước thời trai trẻ, hắn ăn năn và hối hận về những việc mình đã làm. Chính vì thế hắn muốn được trở lại làm người lương thiện, muốn sống một cuộc đời bình dị mà hạnh phúc với Thị Nở. Có thể nói tình yêu của người đàn bà dù xấu xí nhưng vẫn có thể khiến cho con người ta rung động. Không những thế, có lẽ, cả làng Vũ Đại không ai có thể cảm hóa được con quỷ dữ Chí Phèo, vậy mà chỉ một người phụ nữ xấu xí, dở hơi bằng tình yêu chân thành của mình lại có thể làm được.

Quả thật Nam Cao đã rất thành công khi xây dựng hình ảnh con quỷ dũ làng Vũ Đại và còn thành công hơn nữa khi xây dựng nhân vật Thị Nở - người phụ nữ đầy tình thương yêu và bao dung đã đánh thức phần con người lương thiện trong Chí Phèo. Tình yêu của người đàn bà xấu xí là tình yêu chân thành, xuất phát tự trái tim, từ lòng cảm thông sâu sắc, không vụ lợi cho nên nó là một tình yêu đẹp và rất đáng trân trọng. Thị chính là tia sáng, là niềm hy vọng, là cầu nối để Chí Phèo trở về làm người, sống với cộng đồng. Mặc dù sau này Chí Phèo có tự kết liễu đời mình thì nhân vật Thị Nở và chi tiết bát cháo hành vẫn có ý nghĩa to lớn đối với một cuộc đời, một số phận. Để cho ngay cả những kẻ cùng đường, lạc lối vẫn biết hy vọng về tương lai tốt đẹp, vẫn khao khát được sống và được yêu.

Với tác phẩm "Chí Phèo", người đọc có thể thấy rằng, không phải chỉ những người phụ nữ xinh đẹp mới có thể để lại những ấn tượng tốt đẹp. Những người phụ nữ có hình hài xấu xí nhưng có tấm lòng yêu thương, nhân hậu như Thị Nở cũng khiến cho người đọc nhớ mãi. Tuy rằng xấu xí nhưng chính cái nét duyên thầm của người phụ nữ đã làm cảm hóa được một "con quỷ dữ", thổi bùng lên ngọn lửa thương yêu giữa những con người với nhau. Đó chính là giá trị nhân văn, nhân đạo mà Nam Cao muốn gửi gắm trong tác phẩm.

Phân tích nhân vật Thị Nở 4

Cùng với Lão Hạc, truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của Nam Cao viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám 1945. Cả hai truyện ngắn xuất sắc này đều được chọn đưa vào chương trình phổ thông (Ngữ văn 8 và Ngữ văn 11, tập 1) cùng với nhiều truyện ngắn khác, từng đem đến cho Nam Cao vinh dự là tác gia có số lượng truyện ngắn trong nhà trường phổ thông nhiều nhất.

Lâu nay, nhắc đến hình tượng nhân vật điển hình của truyện ngắn Chí Phèo, người ta nghĩ ngay đến nhân vật chính mà tác giả lấy làm nhan đề tác phẩm mình lúc đầu được Nam Cao đặt tên là Cái lò gạch cũ. Khi in thành sách lần đầu (1941), Nhà xuất bản Đời mới đổi tên là Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội Văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), Nam Cao đặt lại tên là Chí Phèo (Ngữ văn 11 Nâng cao, tập 1, NXB Giáo dục, H., 2007, tr. 178). Đã có không ít những công trình, bài viết về nhân vật độc đáo, có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam này. Đây là điều tất yếu. Bởi toàn bộ ý nghĩa của nội dung truyện ngắn hầu như toát ra từ hình tượng nhân vật Chí Phèo (Trần Tuấn Lộ trong bài viết Qua truyện ngắn "Chí Phèo" bàn thêm về cái nhìn hiện thực của Nam Cao, T/c Văn học, số 4/1964) và Chí Phèo là kết tinh những thành công của Nam Cao trong đề tài nông dân.

Bên cạnh Chí Phèo, theo chúng tôi, còn có một hình tượng nhân vật điển hình nữa mà ta vẫn ít nhắc tới. Nhân vật này xuất hiện không nhiều, chỉ có mặt ở gần cuối truyện, là một nhân vật phụ nhưng có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạch truyện. Sự xuất hiện của nhân vật này là một bước ngoặt đối với sự chuyển biến của câu chuyện cũng như đối với cuộc đời, số phận của nhân vật trung tâm. Hơn nữa, nhân vật này còn mang tính điển hình rất rõ nét. Đó là nhân vật bà cô Thị Nở.

Quả thật, nhân vật bà cô Thị Nở chỉ là một nhân vật phụ. Trong truyện, Nam Cao miêu tả nhân vật bà cô ấy không nhiều, chỉ phát thảo sơ lược vài nét. Về lai lịch, tác giả chỉ kể ngắn gọn: "trừ một người cô đã có thể gọi được là già, và đã không chồng như thị...Người cô làm thuê cho một người đàn bà buôn chuối và trầu không xếp tàu đi Hải Phòng, có khi đi tận Hòn Gia, Cẩm Phả". Ngay cả cái tên nhân vật này cũng không có, chỉ được gọi theo quan hệ họ hàng với nhân vật chính. Ở gần cuối truyện, khi Thị Nở sau năm ngày ăn ở với Chí, đến ngày thứ sáu, sực nhớ mình còn người cô và "nghĩ bụng: Hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã" thì nhân vật bà cô này mới hiện lên qua một ít suy nghĩ và hai lời thoại. Tất cả chỉ có vậy. Cho nên rất khó để dựng chân dung nhân vật này.

Tuy chỉ là nhân vật rất phụ nhưng có thể nói, nhân vật bà cô này lại là một tình tiết bất ngờ, vô cùng quan trọng làm xoay chuyển toàn bộ câu chuyện cũng như cuộc đời nhân vật Chí Phèo. Chỉ một câu nói tàn nhẫn "Đã nhịn được đến bằng tuổi này thì nhịn hẳn, ai lại đi lấy thằng Chí Phèo" đã đụng chạm đến tận cùng đến lòng tự ái của một người đàn bà đã quá ba mươi, "ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn" và dở hơi, ế chồng. Chính câu nói cay độc vô ấy đã đoạn tuyệt một cách đau đớn một tình yêu vừa mới chớm, đã lạnh lùng cắt đứt sợi dây liên lạc cuối cùng giữa Chí với loài người. Bát cháo hành "mới thơm làm sao" chưa kịp đưa Chí từ thế giới loài quỷ quay về xã hội con người thì một câu nói cay nghiệt ấy coi như là dấu chấm hết cho mọi quá trình tái sinh trong Chí, đẩy Chí xuống tận cùng vực thẳm khổ đau và cái chết dữ dội. Có người bảo phải chi Nam Cao đừng xây dựng nhân vật này, hay ít nhất đừng để bà cô Thị Nở không xuất hiện ở cuối truyện thì câu chuyện sẽ kết thúc có hậu hơn biết mấy. Có thể là như vậy. Nhưng theo chúng tôi, nếu cắt đi chi tiết này thì Nam Cao không còn là chính ông nữa. Giá trị của Chí Phèo cũng vì thế giảm sút rất nhiều. Bởi cái chết của Chí với nhiều nguyên nhân, trong đó trực tiếp nhất là sự khước từ một cách thô bạo của bà cô Thị Nở, mang nhiều ý nghĩa. Riêng ở nhân vật người cô này cũng mang nhiều giá trị điển hình.

Trước hết nhân vật này rất tiêu biểu cho câu thành ngữ của dân gian "giặc bên ngô không bằng bà cô không chồng" (Còn có dị bản "giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng"). Bà cô Thị Nở đã ngoài năm mươi, hơn nửa cuộc đời mà vẫn không tìm được một tấm chồng. Trong mắt của người đàn bà khốn khổ ấy, chuyện chồng con của "con cháu gái ba mươi tuổi mà chưa trót đời" "sao mà đĩ thế! Thật đốn mạt...Nhục nhã ơi là nhục nhã". Thái độ giãy nảy lên, những lời cay độc, "xỉa xói vào mặt con cháu gái" đã có hiệu quả ngay lập tức. Bởi bà cô này tự ái, uất ức bao nhiêu thì cháu bà càng tự ái, uất ức bấy nhiêu. Thậm chí cả khi Chí chết đi rồi, bà vẫn không tha cho cháu mình mà còn "chỉ vào mặt cháu mà đay nghiến". Rõ ràng, thái độ, lời nói của nhân vật rất tiêu biểu cho những nét tính cách của những người phụ nữ lớn tuổi lận đận trong chuyện tình duyên. Xét cho cùng, nó mang nỗi ẩn ức tính nữ cả về tâm lí lẫn sinh lí mà biểu hiện rõ nhất là thái độ "không ăn được thì đạp đổ", "trâu buộc ghét trâu ăn". Bà cô không chồng trong truyện, xét ở phương diện nào đó, có thể xem là một điển hình. Tuy vậy, ở nhân vật này cũng có những điểm làm cho người đọc xót xa, tội nghiệp, thấy đáng thương hơn là đáng ghét. Ngòi bút nhân đạo Nam Cao không dừng lại ở lời nói, hành động nhân vật mà còn đi sâu mổ xẻ tâm trạng khi nhân vật rơi vào hoàn cảnh trớ trêu trên. Nhà văn viết : "Cũng có lẽ tủi cho thân bà. Bà nghĩ đến cái đời dằng dặc của bà, không có chồng. Bà thấy chua xót lắm..." Chỉ từng ấy thôi, ta cũng hiểu hết được nỗi đau thân phận phụ nữ không chồng trong xã hội cũ - xã hội thực dân nửa phong kiến cũng bất công, ngang trái không thua gì xã hội trước đó.

Đặc biệt, nhân vật bà cô Thị Nở rất điển hình cho người nông dân ở làng Vũ Đại ngày ấy nói riêng và làng quê nông thôn Bắc Bộ trước Cách mạng 1945 nói chung. Đó là một xã hội bị tha hóa toàn diện (tha hóa vì quyền lực, tha hóa vì cùng cực cùng đường, tha hóa vì bản thân). Quan hệ xã hội ở đây là quan hệ giữa các đơn vị đã bị tha hóa (cá nhân với cá nhân, nhóm loại với nhóm loại) (Đức Mậu trong bài Các mối quan hệ xã hội trong làng Vũ Đại, in trong Nghĩ tiếp về Nam Cao, NXB Hội Nhà văn, H., 1992). Nghiêm trọng nhất, đó là xã hội sống trong những định kiến nghiệt ngã. Trong cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ (Đức Mậu, tài liệu đã dẫn) ấy, người ta sống quẩn quanh, đói nghèo, bế tắc đã đành, họ lại còn tỏ ra lạnh lùng, tàn nhẫn, định kiến với người xung quanh. Với một đứa con hoang, một thằng không cha không mẹ, không tấc đất cắm dùi, một con quỷ dữ chuyên sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ Chí Phèo, chẳng một ai trong cái làng Vũ Đại chấp nhận. Người làng dường như loại bỏ Chí ra khỏi quan hệ của mình, mặc thây cha nó, coi như Chí không hề tồn tại trong cộng đồng "người" ấy. Cái định kiến hẹp hòi về nguồn gốc, gia cảnh, về những quãng đời u ám của Chí này có một sức mạnh ghê gớm, như bức tường vô hình cao ngất mà Chí khi được tình yêu Thị Nở tái sinh trở nên "thèm lương thiện", "muốn làm hòa với mọi người biết bao", tìm mọi cách vượt qua nhưng mãi không phá bỏ được. Ngay cả khi Chí chết đi một cách thảm khốc, người làng chẳng một ai tỏ ra xót xa cho Chí, dẫu một giọt nước mắt thương hại. Làng Vũ Đại là một điển hình cho làng quê nông thôn miền Bắc trước 1945. Trong cái làng quê nghèo nàn, tù túng và đầy những định kiến hẹp hòi, lạc hậu ấy, nhân vật bà cô Thị Nở được Nam Cao xây dựng thành công mang giá trị điển hình rõ nét. Những suy nghĩ của bà cô khi đứa cháu thưa chuyện "vợ chồng" với Chí (Đàn ông chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có một nghề là đi rạch mặt ra ăn vạ) cũng như câu nói đay nghiến của bà cuối truyện với Thị Nở trước cái chết không ai ngờ được của Chí "Phúc đời nhà mày, con nhé. Chả ôm lấy ông Chí Phèo" đã nói lên tất cả. Bà cô không được mô tả nhiều nhưng qua những suy nghĩ, thái độ, ngôn ngữ của nhân vật này, hiện thực làng quê nông thôn Bắc Bộ trước 1945 còn mang nhiều định kiến nặng nề, lạc hậu đã được phản ánh, khái quát rất thành công.

Tóm lại, không được miêu tả cụ thể, đầy đủ nhưng nhân vật bà cô Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nam Cao. Bên cạnh Chí Phèo, Thị Nở, Bá Kiến, nhân vật này cũng mang trong mình nhiều ý nghĩa điển hình như trên đã phân tích, do đó mang nhiều giá trị nội dung của tác phẩm. Xây dựng nhân vật này, Nam Cao đã sử dụng một ngòi bút sắc sảo, không tả nhiều nhưng giàu sức ám ảnh. Nhiều người thường nghĩ về nhân vật này với cái nhìn ác cảm, ghét bỏ. Tuy nhiên, theo chúng tôi, suy cho cùng nhân vật bà cô Thị Nở cũng chỉ là nạn nhân của số phận, của chế độ xã hội cũ đen tối mà thôi. Nhân vật náy đáng thương hơn là đáng ghét. Đây cũng là một biểu hiện của ngòi bút lấp lánh tình người, sáng ngời giá trị nhân văn của Nam Cao.

Phân tích nhân vật Thị Nở 5

Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng trước cách mạng tháng tám, nó được sáng tác để phản ánh giá trị hiện thực sâu sắc của xã hội lúc bấy giờ, trong câu chuyện mỗi nhân vật đều được tác giả miêu tả tinh tế, phản ánh sâu sắc được hiện thực cuộc sống. Nhân vật nổi bật truyền tải giá trị nhân vật trong tác phẩm đó là nhân vật Thị Nở.

Thi Nở là nhân vật phụ, tuy nhiên nhân vật này được tác giả Nam Cao đặt cho trọng trách khá lớn trong tác phẩm, một nhân vật truyền tải giá trị yêu thương trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện sâu sắc, mang đậm giá trị nhân văn, nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm đó.

Thị Nở được tác giả miêu tả là một người có có bề ngoài xấu xí, ngôn ngữ mà Nam Cao thể hiện trong tác phẩm đó là "xấu ma chê quỷ hờn". Với diện mạo được tác giả miêu tả "Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố to cho không thua cái mũi: có lẽ vì cố quá cho nên chúng nứt nở như rạn ra. Ðã thế thị lại ăn trầu thuốc, hai môi dày được bồi cho dày thêm một lần, cũng may quết trầu sánh lại, che được cái màu thịt trâu xám ngoách. Ðã thế những cái răng rất to lại chìa ra: ý hẳn chúng nghĩ sự cân đối chữa được một vài phần cho sự xấu". Chính ngay trong chi tiết này tác giả đã thể hiện được ngoại hình của Thị Nở với những nét bề ngoài cực xấu xí.

Người đọc thường lấy Thị Nở ra để ví " xấu như Thị Nở", chính với diện mạo đó không ai có thể mơ mộng được với bề ngoại, với ngoại hình của Thị Nở. Tuy nhiên với việc xây dựng cho nhân vật một nhiệm vụ đặc biệt, sâu sắc, hình ảnh đó đã thể hiện được sâu sắc qua những chi tiết hiện thực, hấp dẫn, mang đến cho người đọc những tiếng cười sảng khoái.

Thị Nở ngay trong hoàn cảnh xã hội đen tối này cũng là nạn nhân của sự áp bức, của sự nghèo khổ, ngay trong chính chi tiết gặp Chí Phèo, Thị Nở dường như trở thành nhân vật truyền tải giá trị nhân đạo trong tác phẩm. Sự gặp gỡ của Chí Phèo phải chăng đây chính là sự sắp xếp của tác giả để nói lên hoàn cảnh của hai người, một kẻ có diện mạo bề ngoài xấu xí, một kẻ thì bị xã hội lưu manh, tha hóa.

Ngay trong đem trăng gió mát đây là thời điểm mà Chí Phèo và Thị Nở gặp nhau, chính tình yêu thương làm cho hai người đến với nhau, và chi tiết bát cháo hành của Chí Phèo là chi tiết thể hiện rõ tình yêu thương, giá trị nhân đạo được thể hiện trong tác phẩm. Hơn nữa chính tình yêu thương cũng giúp Thị Nở và Chí Phèo đến với nhau, nó giúp cảm hóa tâm hồn của hai nhân vật trong tác phẩm.

Tình yêu thương, sự quan tâm chăm sóc của Thị khiến Chí mong muốn có một gia đình, bởi Chí được sinh ra ở lò gạch hoang, cũng không có gia đình, người thân, chính vì thế sự quan tâm của Thị Nở dường như làm cho Chí thức tỉnh, Chí hiểu được sự quan tâm, yêu thương của Thị Nở dành cho mình. Mỗi chi tiết miêu tả đều được Nam Cao chau chuốt để thể hiện những cảm xúc riêng, sâu sắc, mang đến cho người đọc những cảm xúc đặc biệt tinh tế, bởi những ngôn ngữ trong sáng, mang đậm giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo xuất hiện trong tác phẩm.

Nam Cao với tài năng phản ánh giá trị hiện thực tinh tế, ông đã xâu dựng lên cho mình những nhân vật mang nhiều cảm xúc, tinh tế, truyền tải được sâu sắc giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm, mỗi chi tiết đều được biểu hiện những nét riêng, mang những cảm xúc tinh tế, đậm giá trị nội dung, phản ánh sâu sắc được ý nghĩa trong cuộc sống của mỗi nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Thị Nở là nhân vật đã được tác giả truyền tải những tình yêu thương sâu sắc trong câu chuyện.

Phân tích nhân vật Thị Nở 6

Nghèo, xấu, ngẩn ngơ như bộ mặt của một lô cốt hình tam giác chóp, nơi tác giả đã nhốt chặt nhân vật Thị Nở của mình vào trong đó. Nhưng có thật thị chỉ có ba điều ấy không? Nhà văn Nam Cao đã xử lý như thế nào trong quá trình triển khai "dự án thiết kế ban đầu" này?

Tôi cho rằng nhân vật Thị Nở ngay từ đầu là một biểu hiện nguyên khối của con người tự nhiên, thuộc về tự nhiên, chứ không hề sắm vai con người xã hội. Thị xấu ma chê quỷ hờn ư? Trong biết bao nhiêu thành phẩm của tạo hóa có phải thứ nào cũng đẹp cả đâu! Đã là giới tự nhiên thì vừa có cái hoàn toàn đẹp, có cái hoàn toàn xấu, lại có cái vừa đẹp vừa xấu. Thị Nở xấu xí như thể một bộ phận của tự nhiên xấu xí, là chuyện có thực. Hơn nữa, thị ăn ngủ, yếm áo, nghĩ ngợi... lúc nào cũng cứ "vô tâm" như không vậy, thì đó chẳng phải là đặc tính hồn nhiên bậc nhất của tự nhiên đó sao! Cho nên trước sau, toàn bộ con người Thị Nở hiện diện với tư cách là cả một khối tự nhiên thô mộc. Mà đã là tự nhiên thì dù thế nào đi nữa, tự nó có vị trí, quyền năng riêng của nó. Nam Cao đã xây dựng chân dung Thị Nở dưới sự chỉ đạo của luồng ánh sáng tư tưởng này (cũng xin lưu ý điều đang nói ở đây hoàn toàn khác với thứ chủ nghĩa tự nhiên, cái mà Nam Cao đã từng bị mang tiếng).

Thì đây, sau lần "ăn nằm" với Chí, tức là sau cái hành động tạo hóa đầy màu nhiệm này, cả Thị Nở lẫn Chí đều được thay đổi. Thị Nở đã hoàn toàn chìm đắm trong cơn đam mê tột cùng của bản năng thiên tạo. Thị đã quên hết thấy mọi ràng buộc của đời sống thường nhật, quên bà cô, quên bặt cả những định kiến tầng tầng lớp lớp của cái xã hội làng Vũ Đại. Khi mà cả làng Vũ Đại quay lưng với Chí, thì chỉ duy nhất mình thị đến với Chí một cách hồn nhiên hết mực. Thế là cái thiên chức (sự chăm lo), thiên lương (tình thương, lòng tốt), những gì gọi là năng lực đàn bà trong thị bỗng động đậy, đòi được thể hiện. Nhưng khác với thị, trong khi hưởng thụ Chí lại là người không hẳn vô tư. Trong con người anh ta cũng bắt đầu xuất hiện ý thức sở hữu duy nhất, triệt để đối với thị, một ý thức về tình yêu của giống người: Vừa dâng hiến vừa đòi hỏi. Chính vì thế mà Chí đã nghĩ xa xôi đến một tổ ấm, thứ hạnh phúc bình dị theo kiểu con người. Chí đã khóc khi ăn bát cháo hành, tức là đã khóc vì cái hạnh phúc lần đầu tiên được hưởng thụ theo cung cách của một tổ ấm. Vì không thể vô tư được nên khi phải chờ đợi Thị Nở, Chí Phèo đã sốt ruột, tức tối. Trong khi đó, cuối cùng thị đã đến để trút giận, rồi "ngoay ngoáy cái mông đít" ra về cũng theo một cách vô tâm nhất, không mảy may băn khoăn tiếc nuối, không tính toán xem lợi hại thế nào, bỏ lại Chí trong nỗi đau phụ bạc (theo cách nghĩ của Chí). Vậy là, cái khối tự nhiên vô tâm Thị Nở kia va đụng vào con người xã hội Chí Phèo vụ lợi này thành ra ắt phải đổ vỡ. Quan hệ Thị Nở - Chí Phèo đến đây đã trở thành hạt nổ quyết định bắn vào quả nổ lớn tiếp theo - tấn kịch ắt phải bùng nổ, đẫm máu, vỡ nát (như đã thấy ở phần cuối truyện). Đây là một quan hệ có tính cách khai sáng. Nhờ đó mà cái đầu mụ mị và đầy thù địch của Chí bỗng thay đổi hẳn. Chí Phèo bắt đầu thấy "thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao". Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Không còn nghi ngờ gì nữa, thị đã can dự sâu sắc vào cuộc đời Chí, đánh thức toàn bộ tâm hồn Chí, làm cho đời sống tâm hồn của hắn rung lên từng nếp xếp bấy nay nằm ngủ. Thị Nở đã mang quyền lực của thiên tạo - chiếc đũa thần yêu thương gõ vào cái hộp tối đen đầy bất trắc ấy, thổi vào đó những đốm lửa nhân văn ấm áp, và trên thực tế đã kéo được Chí ra khỏi cõi rồ dại ấy rồi. Đi theo tiếng gọi cảm động của tình yêu, Chí đã bước những bước chập chững, non nớt về với cõi người. Tội đồ bất đắc dĩ mang về nước chúa phục thiện. Ai ngờ, ngoắt một cái, Chí lại nốc rượu, lại xách dao đi... Thế là cả một công trình do thị tạo dựng bỗng chốc đổ vỡ tan tành. Tại thị cả, người chỉ biết cho, chứ không biết giữ mà, khổ thế!

Xét toàn bộ tâm trạng của Chí có hai sự kiện mang tính bước ngoặt: lần một - đi ở tù, lần hai - tình yêu với Thị Nở. Sự kiện lần một không được miêu tả mà chỉ nhắc đến như một dữ kiện. Tác giả chỉ chú tâm khai thác triệt để sự kiện lần hai, và trên thực tế số trang dành cho nó chiếm hơn một phần ba truyện. Nói như thế để thấy rằng sự có mặt của Thị Nở trong cuộc đời Chí (tuy mới chỉ vẻn vẹn có năm ngày sau chót) thực sự có nghĩa lý và quan trọng đến ngần nào. Giả dụ vắng bóng Thị Nở, thì nhân vật Chí Phèo chả có gì đáng nói đáng bàn lắm.

Vậy thì, với tư cách là một khối tự nhiên thô mộc, khiếm khuyết về hình thể, Thị Nở đã bảo toàn trong mình những phẩm chất "nhân chi sơ, tính bản thiện" của giống người: thiên lương, thiên chức, thiên năng - lớp bản chất nằm ở bề sâu khuất chưa bị tha hóa. Cho nên Thị Nở đã thoát ra khỏi cái lốt bọc xấu xí ấy để trở thành một người đàn bà đáng trọng.