Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Bài văn mẫu số 1

Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình ảnh người nông dân trong văn học mà trong suốt các thời gian qua chưa được nhắc đến thông qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.Trong bài văn tế, hình ảnh người nông dân được khắc hoạ rõ ràng. Hình ảnh người nông dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, cần cù lao động. Họ là những người nông dân yêu ghét rõ ràng, căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi thực dân Pháp xâm lược. Họ đã anh dũng chiến đấu và anh dũng hi sinh, trong lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng không hề rơi nước mắt. Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công... Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ mà là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên chiến đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân. Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.

Như chúng ta biết thì "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một "tác phẩm nghệ thuật" hiếm có. "Bi tráng" là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc.

Mở đầu bài văn tế là hai tiếng "Hỡi ôi!" vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:

"Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ" có ý nghĩa là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương .

Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của bài văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.

Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời "côi cút" sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:

"Nhớ linh xưa:

Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó"

Cui cút làm ăn: có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp. Dù mệt mỏi hay vất vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựng một mình mà chẳng nói với ai. "Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó" đã hiện lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người "dân ấp dân lân" Nam Bộ. Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó. Họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.

"Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ".

Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, "chưa hề ngó tới" việc binh và vũ khí đánh giặc:

"Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó".

Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ "mến" là đeo đuổi:

"Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ".

Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có một thái độ: "ăn gan" và "cắn cổ",chỉ có một chí hướng: "phen này xin ra sức đoạn kình..., chuyến này dốc ra tay bộ hổ".

Trong bài văn tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có "tàu thiếc, tàu đồng", "bắn đạn nhỏ, đạn to", có bọn lính đánh thuê "mã tà, ma ní" thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là "một manh áo vải". Vũ khí chỉ có "một ngọn tầm vông", hoặc "một lưỡi dao phay", một súng hoả mai khai hoả "bằng rơm con cúi". Thế mà họ vẫn lập được chiến công: "đốt xong nhà dạy đạo kia" và "chém rớt đầu quan hai nọ".

Bài văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:

"Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có."

"Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ".

Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, "có bọn hè trước, lũ ó sau" vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: "đạp rào lướt tới", "xô cửa xông vào", "đâm ngang chém ngược", "hè trước, ó sau". Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của các nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc. Ông cũng thể hiện rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân. Từ trước đến nay, đây là tác phẩm đầu tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân.

Trong bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" còn có tiếng khóc của mẹ già nơi quê nhà trông chờ con về, vợ thương nhớ về chồng, con ngóng cha về nghe thống thiết, bi ai. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng:

"Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ".

Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một không gian rông lớn bùi ngùi, đau đớn:

"Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ".

Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ, nỗi nhớ thương của con cái được nói đến vô cùng xúc động:

"Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ".

Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng chiến đấu, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là để ta biết rằng đất nước nào cũng là độc lập, tự chủ, không ai được quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng rất đáng tự hào:

"Ôi!

Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ"

Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu mà họ đã để lại: Thà chết vinh còn hơn sống nhục. Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt Nam noi theo mà làm, là ngọn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam.

"Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;...".

Công lao của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẽ đời đời nằm trong lòng mỗi người dân Việt Nam về tấm gương anh dũng, sẵn sàng xả thân vì độc lập Tổ Quốc.

"Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ".

Tóm lại, "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" khẳng định tấm lòng yêu thương dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu. "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ "nó" rất quan trọng trong cuộc đời. Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để cho các thế hệ đi sau khi đọc được bài văn tế này mà noi theo để xây dựng đất nước càng ngày giàu mạnh hơn.

Bài văn mẫu số 2

Nguyễn Đình Chiểu - một con người được mệnh danh là ngôi sao sáng trên bầu trời dân tộc. Ông không chỉ là một người thầy giáo mẫu mực, một người thầy lang y đức mà còn là một nhà thơ, nhà văn tài năng. Ông luôn dùng văn chương để chiến đấu vì chính nghĩa. Ta có thể thấy rõ sự chính nghĩa ấy thông qua tác phẩm nổi tiếng và vang mãi sau này của ông " Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc". Ông đã dựng lên bức tượng đài bất tử về nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác phẩm là tiếng khóc bi tráng trong thời kỳ lịch sử bi thương của dân tộc.

Mở đầu tác phẩm nhà văn đã kết hợp một câu cảm thán với nghệ thuật đối lập:

"Hỡi ôi!

Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ

Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy mà mất tiếng vang như mõ."

Phần đầu lung khởi của bài tế đã luận chung về lẽ sống chết. Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng biện pháp nghệ thuật đối: "Súng giặc đất rền" với " lòng dân trời tỏ". Nghệ thuật ấy đã mở ra một hoàn cảnh tình thế bão táp của lịch sử. Đó là một sự đụng độ quyết liệt giữa thế lực xâm lăng tàn bạo với ý chí, nghị lực, kiên cường bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta. Tiếp đó tác giả lại sử dụng nghệ thuật đối về thời gian: "mười năm công vỡ ruộng" và "một trận nghĩa đánh Tây", chính "mười" và "một" ấy đã khẳng định ý chí cao quý, những hy sinh oanh liệt của chiến sĩ Cần Giuộc.

Với những người nghĩa sĩ, nông dân mộc mạc ấy đã dâng hiến cả cuộc đời mình cho đất nước kể từ lúc chưa có chiến tranh hay điểm diễn ra chiến tranh xảy ra . Qua phần thích thực, tác giả đã ca ngợi công đức phẩm hạnh của người nông dân- anh hùng dân tộc.

"Nhớ linh xưa:

Cui cút làm ăn; lo toan nghèo khó....."

Nguồn gốc xuất thân của những nghĩa sĩ ấy là những người nông dân cui cút làm ăn, chịu thương chịu khó, sống cuộc sống của mình với đồng ruộng xóm làng với công việc quen thuộc: cuốc, cày, bừa, cấy... đâu biết đến "cung ngựa, trường nhung", đâu biết tập khiên súng gì. Nghe thấy "phong hạc", họ ngóng trông triều đình đưa ra kế sách để chống lại quân giặc, thế mà triều đình nhu nhược, không lo toan được việc nước, làm lòng dân càng thêm căm phẫn: " Bữa thấy bòng bong, che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ."

Trước khi cầm vũ khí đánh giặc, họ đều là những người nông dân xa lạ với chiến tranh, nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược đã làm nên một sự chuyển biến trong tâm hồn họ, họ đã trở thành những người lính can trường, yêu nước căm thù giặc, tự nguyện đứng lên chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực sinh động gần gũi với tiếng ăn tiếng nói của người nông dân lao động. Họ ra trận chiến đấu mà chỉ được trang bị những dụng cụ thô sơ, thiếu thốn (manh áo vải, ngọn tầm vông, dao tu, nón gõ) và nó đối lập hoàn toàn với những vũ khí hiện đại tối tân của kẻ xâm lược (tàu thiếc, tàu đồng, đạn to, đạn nhỏ). Thử hỏi hai thứ vũ khí đối lập ấy khi tham gia trận chiến bên nào sẽ thiệt thòi và chịu cái kết đau thương? Thiệt thòi là thế, ấy vậy mà tinh thần của người nghĩa sĩ ấy sắt thép kiên cường, khí thế tấn công như vũ bão, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Bằng loạt ngôn ngữ góc cạnh, động từ mạnh: đốt, chém, đạp, xô, xông,.. Nguyễn Đình Chiểu đã cho thấy khí thế xông lên trận chiến của người dân với tinh thần bất khuất, xả thân vì nghĩa lớn của dân tộc. Cái chết- sự thật phũ phàng- nó là một tấn bi kịch đối với đất nước ta trong thời kỳ lịch sử đen tối ấy.

Trong phần cuối của bài văn tế, đó là tiếng ai vãn, tiếc thương của dân tộc trước sự hi sinh của những người đã ngã xuống. Tác giả đã bày tỏ nỗi đau đớn của người dân của chính tác giả qua từng câu chữ thấm đượm tình của mình. Những nghĩa sĩ ấy đã dùng cái chết của mình để làm sáng tỏ ra một chân lý "chết vinh còn hơn sống nhục", đấu tranh tới cùng dù chết, còn hơn chung sống làm nô lệ cho bọn ngoại xâm. Những dòng cuối là những tiếng khóc thể hiện niềm tiếc thương ấy, bi mà không lụy, nó tiếp tục ca ngợi công lao của chiến binh , nó còn cổ động, thúc giục, khích lệ những người còn sống sẽ tiếp tục sự nghiệp chiến đấu của các chiến sĩ Cần Giuộc.

Nguyễn Đình Chiểu đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật, những nghĩa sĩ giản dị, mộc mạc mà sắt thép, kết hợp với chất trữ tình, tính hiện thực, ngôn ngữ trong sáng, đậm chất Nam Bộ đã tạo ra một bài ca không tuổi, ca ngợi về tinh thần oanh liệt của nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Bài văn tế đã kể lại công đức phẩm hạnh của những người đã mất đồng thời cũng bày tỏ lòng tiếc thương của người sống đối với họ với âm hưởng bi tráng. Những người chiến binh Cần Giuộc ấy sẽ sống mãi trong câu chữ của Nguyễn Đình Chiểu, sẽ mãi là là bức tượng đài bất tử của của dân tộc Việt Nam ta.

Bài văn mẫu số 3

Thời gian cứ thế trôi qua nhưng những gì là giá trị, là vẻ đẹp cao quý thì luôn còn mãi. Lịch sử dân tộc ta đã trải qua biết bao cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, oanh liệt có những mất mát cũng quá nhiều. Trong cuộc nổi dậy chống Pháp, những người nghĩa sĩ Cần Giuộc tuy đã hi sinh nhưng vẻ đẹp hào hùng, bi tráng của họ mãi trường tồn cùng thời gian. Bởi vậy, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là áng văn bất hủ ca ngợi vẻ đẹp của những người nghĩa sĩ nông dân.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta. Trong nước, nổi lên những cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Đến năm 1861, những người nghĩa sĩ nông dân quả cảm đã tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc, khiến một số quan quân của giặc và tên tri huyện tay sai bị tiêu diệt. Song thật không may, đã có khoảng hơn 20 nghĩa sĩ đã hi sinh. Xúc động trước tình cảnh đó, Nguyễn Đình Chiểu đã làm bài văn tế để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ hy sinh trong trận này.

Mở đầu tác phẩm, trong phần Lung khởi, tác giả tái hiện tình cảnh đau thương của dân tộc với tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp: “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Tác giả đã ca ngợi tấm lòng của nhân dân tỏa sáng dù vũ khí quân đội vắng mặt. Đồng thời, nhà thơ cũng khái quát về hai quãng đời của người nông dân nghĩa sĩ: “Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tuy quãng thời gian làm nông dân rất dài, sống một cuộc sống bình yên, song họ sẵn sàng làm nghĩa sĩ chống giặc trong thời gian ngắn, để rồi danh thơm còn mãi với muôn đời. Họ là những người trượng nghĩa, mang tinh thần xả thân sẵn sàng đứng lên chống lại quân giặc.

Trong phần Thích thực từ câu 3 đến câu 15, tác giả ca ngợi vẻ đẹp của người nghĩa sĩ nông dân trong cuộc sống đời thường và trong chiến tranh. Họ vốn xuất thân là những người nông dân quanh năm ngày tháng chỉ biết “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, nhưng khi giặc xâm lược, họ giờ đây không còn “trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Vẻ đẹp bình dị của những người nông dân chân lấm tay bùn giờ đây trở nên huy hoàng hơn bao giờ hết bởi tinh thần căm thù giặc sâu sắc ngùn ngụt chất chồng. Họ bày tỏ cảm xúc của mình một cách chân thật “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”. Họ nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của mình trong công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc – đó là tham gia chiến đấu. Họ vào trận với “manh áo vải làm đồng” và những dụng cụ lao động thô sơ như ngọn tầm vông, rơm con cúi, lưỡi dao phay,… Vậy mà, chỉ với tinh thần dũng cảm, họ có thể tham gia trận công đồn: “Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”. Họ chiến đấu với hành động dứt khoát, mạnh mẽ: “đốt”, “chém”, “đạp rào”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang chém ngược”,… Bởi vậy, họ khiến cho kẻ thù phải khiếp sợ: “mã tà ma ní hồn kinh, bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ”.

Phần Ai vãn từ câu 16 đến câu 25 bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và của nhân dân đối với người nông dân nghĩa sĩ. Đó là nỗi đau đớn khôn nguôi của thân nhân nghĩa sĩ: “Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Đó còn là nỗi căm giận tội ác kẻ thù hòa chung tiếng khóc nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước: “Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó”. Xót xa là thế nhưng Nguyễn Đình Chiểu vẫn khẳng định sự hi sinh của những nghĩa sĩ Cần Giuộc là anh dũng, là cao cả: “Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ”.

Năm câu thơ kết đã ca ngợi công lao bất diệt của những người nghĩa sĩ. Họ là những người “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ bình, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó”. Thái độ tôn kính mà đau xót của tác giả không chỉ thể hiện qua từ ngữ trang trọng mà còn ở giọng điệu trầm buồn. Sự mặc niệm, nấc nghẹn đau đớn của Nguyễn Đình Chiểu ở cuối bài: “Hỡi ôi thương thay/ Có linh xin hưởng” cũng thể hiện tấm lòng ngợi ca công đức theo hướng vĩnh viễn, muôn đời.

Qua việc sử dụng thủ pháp tương phản đối lập, bút pháp hiện thực cùng giọng điệu trữ tình thống thiết, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tượng đài ca ngợi người nghĩa sĩ Cần Giuộc, đồng thời cũng là tiếng khóc lớn của tác giả dành cho những người hi sinh và cho cả tình cảnh đau thương của đất nước. Bởi vậy, tác phẩm luôn song hành cùng thời gian bởi giá trị vĩnh hằng mà nó đóng góp.