Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo 1
Nam Cao là một nhà văn lớn của dân tộc. Ông chuyên viết về người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Họ không những nghèo mà thậm chí còn bị đẩy vào bước đường cùng, bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính. Điển hình trong đó là tác phẩm Chí Phèo. Qua những biến cố nghiệt ngã trong cuộc đời Chí từ một chàng thanh niên hiền lành chịu khó trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, Nam Cao không những nói lên sự thật cay đắng về số phận của những người nông dân bất hạnh và bất lực dưới ách thống trị tàn ác của thực dân phong kiến, mà còn thể hiện giá trị nhân đạo rất sâu sắc. Ông cảm thương và xót xa cho những mảnh đời cơ cực.
Trung tâm của tác phẩm là Chí Phèo – đại diện cho những người nông dân bị bần cùng hóa tới mức đánh mất chính bản thân mình, lao vào con đường tội lỗi và tối tăm. Chí dù không cha không mẹ nhưng Chí vẫn trở thành một con người tốt. Chí làm thuê làm mướn, chịu thương chịu khó kiếm sống nuôi thân. Nhưng đường đời vốn dĩ lắm truân chuyên, Chí bị gia đình Bá Kiến đẩy vào tù. Năm tháng tù đày và lòng hận thù biến Chí trở thành một con người hoàn toàn khác từ ngoại hình cho đến tính cách. Chí xăm trổ những hình thù quái dị, cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn… trông gớm chết. Trước đây Chí tốt đẹp bao nhiêu thì giờ đây lại xấu xa, tồi tệ bấy nhiêu. Con đường tha hóa của Chí tỉ lệ thuận với sự tàn ác, bất nhân của chế độ phong kiến. Trong xã hội ấy còn rất nhiều người giống như Chí. Chí chỉ là một nhân vật điển hình trong phần người đông đảo ấy. Họ bị như vậy không phải vì bản thân quá yếu hèn, không có nghị lực vươn lên, mà vì sự tàn ác của chế độ quá lớn. Trong khi đó họ lại chỉ là những người nông dân thấp cổ bé họng, không tiền, không địa vị, không học thức. Làm sao có thể chống lại được với giai cấp đầy quyền lực và tàn nhẫn? Nam Cao bày tỏ sự xót thương và đồng cảm sâu sắc với Chí và những con người bất hạnh như Chí.
Trong chuỗi ngày dài dằng dặc với những niềm cay đắng chồng chất giống như những vết sẹo chằng chịt trên khuôn mặt trong những lần vạch mặt ăn vạ, nhà văn đã đưa thị Nở đến với Chí. Sự kiện này đã làm Chí tỉnh thức và tìm lại được chính mình. Sau đêm gặp thị, Chí tỉnh táo và nhận thức được mọi thứ xung quanh mình. Cuộc sống thật giản đơn mà lại hạnh phúc đến vậy. Tiếng mái chèo gõ cá, tiếng chim hót, tiếng người nói lao xao đi chợ, và dáng dấp của một người đàn bà ngay cạnh bên, tất cả đã mang đến cho Chí sự quyết tâm trở lại làm người lương thiện. Đằng sau những tiếng chửi chua ngoa, sau những trận rượu say xỉn triền miên, ta lại thấy một Chí Phèo đầy lòng nhân ái và giàu tình yêu thương. Có thể thị dở hơi nên thị không ý thức được điều mình đang làm là sống cùng với một thằng không cha không mẹ, chuyên đi rạch mặt ăn vạ nhưng Chí đang hoàn toàn tỉnh táo.
Trước mặt Chí là người đàn bà ế chồng, xấu xí và ngờ nghệch nhưng điều đó có là gì khi Chí cảm nhận được tình cảm rất chân thật và trong sáng của thị. Thị chẳng hề đắn đo suy nghĩ hay có bất kì một thành kiến nào đối với một kẻ đi ở tù về như Chí. Thị dở nhưng tấm lòng của thị rất thánh thiện. Bát cháo hành thị nấu được nêm gia vị bằng sự đồng cảm, bằng tình yêu thương rất chân thật. Bát cháo ấy đã đánh thức phần người trong Chí trỗi dậy. Chí muốn cùng thị thực hiện ước mơ ngày nào của mình: có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải thêu thùa. Ước mơ ấy không chỉ của riêng Chí mà của rất nhiều người. Chí không chê thị dở, lại càng không chê thị xấu. Có thể do tình yêu mù quáng, nhưng ước mơ kia của Chí là điều rất đúng đắn và nghiêm túc. Sau bao nhiêu biến cố xảy ra, sau những vết sẹo kéo dài trên mặt, Chí lại trở về là một con người rất hiền lành, rất tốt tính. Mối tình của Chí với thị như một ân huệ mà Nam Cao muốn dành cho đứa con đẻ của mình, để Chí được một lần trong đời sống hạnh phúc dù chỉ là ít ỏi. Bởi ngay sau đó, thị đã nghe lời bà cô cự tuyệt Chí.
Thêm lần nữa Chí chìm vào cơn say. Nhưng cơn say này khác với những cơn say trước. Bởi nó có lẫn men rượu với hơi cháo hành thoang thoảng. Sự tuyệt vọng và lòng hận thù lại trào dâng trong Chí, dẫn bước chân Chí tới thẳng nhà Bá Kiến dù trong đầu xác định đến nhà thị Nở để giết chết con khọm già nhà nó. Nhưng họ đâu có tội tình gì. Chí ra nông nỗi này đều do Bá Kiến gây nên. Chí giết chết hắn rồi tự tử. Chí không muốn sống tiếp cuộc đời đằng đẵng những khổ đau này nữa. Ngay cả một ước mơ giản đơn nhất Chí cũng không được quyền thực hiện. Chí được sinh là làm người nhưng lại sống như một con quỷ dữ, chẳng ai dám lại gần Chí. Cho tới khi thị đến nhưng cuối cùng thị cũng quay lưng lại với Chí. Chí cảm thấy cô đơn và lạc lõng giữa biển người mênh mông. Chí sợ rằng tuổi già của mình sẽ trở nên cô độc và đau khổ… Chí chết, Chí sẽ không còn phải tiếp tục chìm trong men say nữa, cũng chẳng phải xuất hiện trước mặt mọi người với dáng dấp trông gớm chết.
Dù Chí chết, nhưng còn có một Chí Phèo con trong bụng thị Nở. Thị cúi xuống và nghĩ tới cái lò gạch xa xa. Bá Kiến chết còn có Lý Cường. Hắn cũng gian ác và xảo trá như cha hắn.
Chí chết, câu chuyện kết thúc nhưng những bất công và những số phận bất hạnh như Chí Phèo vẫn còn tồn tại nhiều trong xã hội. Không biết rằng có bao nhiêu thị Nở để mang đến niềm hạnh phúc dù là ít ỏi cho những cuộc đời ấy. Qua đó, nhà văn Nam Cao muốn gửi gắm và bày tỏ niềm xót thương, sự đồng cảm của mình đối với người nông dân cùng khổ. Đồng thời ông cũng ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp, những tấm lòng lương thiện còn sót lại sau những xô bồ, bon chen của cuộc sống lao đao, lận đận.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, Nam Cao đã dựng lên một Chí Phèo mang giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc.
Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo Bài văn mẫu số 2
Truyện ngắn Chí Phèo là một trong những kiệt tác của văn học hiện thực khi viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Trong tác phẩm, nhà văn Nam Cao không chỉ phơi bày nỗi khổ của con người, khổ vì đói nghèo, khổ vì tha hóa nhân cách mà còn thể hiện sự đồng cảm, trân trọng với những giá trị “người” bên trong những con người đầy khổ đau, những nạn nhân đáng thương của xã hội ấy. Tinh thần nhân đạo sâu sắc cũng là một trong những giá trị nổi bật làm nên sức sống mạnh mẽ của Chí Phèo trong lòng của mỗi độc giả.
Giá trị nhân đạo hiểu một cách đơn giản nhất, đó chính là sự cảm thông, đồng cảm trước nỗi đau của con người, là sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn của những con người bé nhỏ; giá trị nhân đạo còn thể hiện trong thái độ bênh vực con người, lên án những thế lực bạo tàn đã chà đạp, tước lên quyền tự do, quyền sống của họ.
Trong truyện ngắn Chí Phèo, tư tưởng nhân đạo của nhà văn Nam Cao được thể hiện ở chỗ hướng ngòi bút khám phá đời sống bị đọa đày cả về thể xác và tinh thần của những người lao động lương thiện. Chí Phèo là anh canh điền hiền lành, lương thiện nhưng cuộc sống bất công đã đẩy Chí đến con đường lưu manh hóa, trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại. Thế nhưng, tác giả Nam Cao không lên án Chí như một thứ người- vật như bao người dân làng Vũ Đại mà ông đã hướng ngòi bút đến khám phá đến nội tâm sâu thẳm của con quỷ dữ ấy.
Bên ngoài vẻ bất cần, liều lĩnh của kẻ chỉ biết “rạch mặt ăn vạ” lại là bản chất của một người nông dân lương thiện với những khát khao bình dị “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải”. Và khi ý thức được bi kịch khủng khiếp của cuộc đời mình, khi biết không thể quay lại con đường lương thiện như mình khao khát thì Chí thà lựa chọn cái chết chứ kiên quyết không chịu làm con quỷ dữ nữa.
Thế mới thấy bên trong những con người bị tha hóa cả về nhân hình lẫn nhân tính như Chí Phèo vẫn tồn tại những phần rất người, đó là bản chất lương thiện sáng trong mà hoàn cảnh đen tối của xã hội không thể diệt trừ mà chỉ có thể làm nó bị tê liệt.
Thị Nở là người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, lại dở hơi, nhà có mả hủi nhưng bên trong diện mạo xù xì, gớm ghiếc ấy lại là tình thương đầy ấm áp, là tấm lòng thiện lương đáng quý. Và cùng chính sự quan tâm, thương yêu chân thành của Thị Nở đã cảm hóa và thức tỉnh phần nhân tính còn lại bên trong Chí Phèo. Cũng từ khi gặp được Thị, Chí Phèo đã nhớ về những mơ ước bình dị khi còn trẻ, khát khao được lương thiện và làm hòa với mọi người.
Cũng qua tấn bi kịch tha hóa của Chí Phèo, tác giả Nam Cao đã cất lên tiếng kêu cứu đầy thảm thiết và phẫn uất khi giá trị của con người bị cái đen tối, bất công của xã hội chà đạp, tha hóa. Từ đó tác giả đặt ra vấn đề nhức nhối: làm thế nào để cứu con người khỏi cái xã hội vùi dập vô nhân tính ấy, mang đến cuộc sống chính đáng để con người được sống lương thiện. Cần phải tiêu diệt xã hội bất công không tình người ấy để con người được sống nhân đạo hơn.
Không chỉ phơi bày bi kịch của người lương thiện khi bị chà đạp, tha hóa về nhân hình, nhân tính tác giả Nam Cao còn lên án gay gắt hiện thực xã hội phong kiến bạo tàn đã gây nên bao bi kịch cho con người. Đại diện cho giai cấp thống trị ở đây chính là Bá Kiến, lão cường hào ma mãnh, xảo quyệt của làng Vũ Đại, một tay hắn đã đẩy bao kẻ vào con đường tha hóa, phá nát bao cơ nghiệp của những người dân bất hạnh. Đến cuối tác phẩm, tác giả Nam Cao đã để cho Chí Phèo vung dao lên để giết chết Bá Kiến, thể hiện thái độ phẫn uất trước sự tồn tại của cái bạo tàn, xấu xa.
Tuy nhiên, Bá Kiến chết thì vẫn còn Lí Cường, Chí Phèo chết thì cũng sẽ còn bao kẻ lương thiện khác cũng có thể tiếp tục bị đẩy đến con đường lưu manh hóa. Chỉ có thể bảo vệ cuộc sống lương thiện của con người khi xã hội phong kiến bạo tàn, chế độ người bóc lột người bị tiêu diệt.
Tư tưởng nhân đạo của nhà văn Nam Cao còn được thể hiện thông qua thái độ đồng cảm, trân trọng đối với giá trị của con người. Đó là phần lương thiện bên trong con người Chí Phèo, tình thương yêu đáng trân trọng bên trong Thị Nở. Nam Cao đã thể hiện thái độ trân trọng đối với những con người ở đáy sâu tăm tối của xã hội để thấy được ánh sáng tình người bên trong con người họ.
Có thể nói Chí Phèo là truyện ngắn mang giá trị nhân đạo sâu sắc khi hướng đến đồng cảm, trân trọng giá trị bên trong tâm hồn của những con người bất hạnh, nạn nhân của xã hội.
Phân tích giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo 3
Nói về người nông dân trong xã hội cũ, không thể không nhắc tới tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Ông đã xây dựng nhân vật điển hình là Chí Phèo và Thị Nở để hình tượng hóa những người nông dân sống bần cùng, khổ cực dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực dân phong kiến. Bằng lối viết chân thực và ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã mang đến cho người đọc một tác phẩm có giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc.
Giá trị hiện thực là những sự thật được phản ánh thông qua nhân vật và những sự kiện mà tác giả đề cập đến. Trong Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên một Chí Phèo với những bước ngoặt đầy nghiệt ngã và một thị Nở xấu đến mức ma chê quỷ hờn, nhưng chính thị lại là người tác động mạnh mẽ đến Chí Phèo. Chí Phèo bị bà ba dâm đãng của Bá Kiến lợi dụng, rồi bị đẩy vào tù. Chí ôm lòng hận thù theo mình suốt những năm tháng tù đày. Ra tù, Chí trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, suốt ngày ôm chai rượu say xỉn. Chí đi tới đâu là chửi tới đó. Vô tình, Chí lại rơi vào tay Bá Kiến và làm tay sai đắc lực cho hắn, chuyên đi đâm thuê chém mướn cho hắn. Chí trở nên “nổi tiếng” khiến ai cũng khiếp sợ. Sau đêm vô tình gặp thị Nở bên gốc chuối, hai người đã ở với nhau như vợ chồng. Bát cháo của thị như một ân nghĩa cao đẹp mà cả đời Chí lần đầu tiên được nhận. Nhưng được vài ngày, thị nghe lời bà cô quay lại cự tuyệt Chí. Chí đau khổ và lại rơi vào tuyệt vọng một lần nữa. Trong cơn uất hận, Chí cầm dao đến nhà Bá Kiến giết chết hắn rồi tự tử.
Có lẽ nhà văn cũng rất buồn, rất đau khổ khi khái quát số phận nghiệt ngã của người nông dân qua nhân vật Chí Phèo. Là nhà văn, ông không thiếu những ngôn từ hoa mỹ. Nhưng với ông, văn chương chính là nơi để nói lên sự thật chứ không phải đánh bóng sự thật. Chí là một đứa trẻ mồ côi. Chí cũng rất hiền lành, chịu khó làm thuê làm mướn để kiếm sống. Nhưng xã hội bất công và giai cấp gian ác đã không cho Chí được sống yên bình trong kiếp người nông dân. Chí bị đẩy vào tù. Lòng uất hận vì bị tù oan khiến Chí thay đổi tính nết và cả ngoại hình. Chí ra tù với dáng dấp của một thằng “săng đá” và được Nam Cao cảm nhận bằng ba từ “trông gớm chết”. Chí xăm trổ, cái mặt câng câng, cái đầu cạo trọc lốc, cái răng trắng hếu… Những từ ngữ ấy quá đủ cho ta thấy Chí hiện giờ mang dáng hình của một kẻ “đầu gấu”. Đã thế, Chí còn chìm trong cơn say triền miên. Chí đi tới đâu là chửi tới đó. Nhưng không một ai thèm đáp lại tiếng chửi của Chí. Chí chỉ mong ai đó nói lên một tiếng để Chí biết rằng Chí vẫn được coi là người. Nhưng chỉ có tiếng lũ chó sủa inh ỏi và tiếng trẻ con nô đùa chạy theo trêu ghẹo Chí. Dường như Chí bị loại bỏ khỏi xã hội làm người.
Hình ảnh của Chí lúc này là hình ảnh của những người nông dân bị bần cùng hóa như Chí. Họ rơi vào hoàn cảnh khó khăn, tới bước đường cùng và đánh mất nhân cách của chính mình. Qua đó, Nam Cao muốn phơi bày tội ác của bọn thực dân phong kiến đã đẩy người nông dân vào tình cảnh này. Nếu không bị đẩy vào tù, Chí vẫn là một con người rất lương thiện, hiền lành và chịu khó. Chí vẫn sống với vai trò là một kẻ đi làm thuê làm mướn để tự nuôi thân. Và nếu xã hội không thành kiến với những kẻ ở tù về, có lẽ Chí cũng không phải chìm đắm trong những cơn say, cũng không phải gào thét lên những lời chửi rủa chua ngoa để mong có ai đó đáp lại lời mình, để Chí biết rằng Chí vẫn được coi là một con người thực sự. Nhưng bản chất xã hội lúc bấy giờ quá tàn ác, quá bất nhân. Chí đã trở thành con quỷ dữ, bọn chúng vẫn không tha.
Dù Chí được gặp thị Nở nhưng đó cũng chỉ là một tình huống để Nam Cao dẫn dắt bước chân Chí đến nhà Bá Kiến, giết chết hắn để xóa tan đi phần nào sự phẫn nộ trong lòng. Thị Nở cũng là một nhân vật điển hình cho người nông dân. Dù thị dở hơi, xấu xí, xấu tới mức ma chê quỷ hờn nhưng đó lại là những nét thô sơ nhất của tự nhiên. Tạo hóa đã không ưu ái thị về vẻ bề ngoài nhưng lại đặt vào thị tấm lòng nhân hậu vô cùng lớn lao. Thị và Chí vô tình gặp nhau trong đêm tối. Sau cơn mê về xác thịt, tình yêu trong hai con người bần cùng nhất của xã hội đã nhen nhóm và trở thành ngọn lửa rực sáng. Chí được thị ban tặng cho bát cháo hành mà cả đời Chí cũng chẳng bao giờ dám mơ tới. Chí sống giữa cuộc đời nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên Chí tỉnh táo và cảm nhận được những hương vị của cuộc sống đời thường. Rất giản dị nhưng thật đẹp làm sao. Tiếng chèo thuyền, tiếng chim hót, tiếng mọi người đi chợ nói chuyện với nhau… Những âm thanh ấy ngày nào chẳng có, vậy mà hôm nay Chí mới để ý. Những tình tiết trong cuộc tình ngắn ngủi của Chí đã phản ánh một sự thật về bản chất của người nông dân. Dù họ đã phải trải qua bao cay đắng, nhưng sau cùng lòng lương thiện vẫn luôn tồn tại, chỉ là có những lúc nó bị nhấn chìm bởi hoàn cảnh sống. Chính thị Nở đã làm cho bản chất của Chí sống lại. Nhưng cũng lại là thị đẩy Chí vào bước đường cùng thêm một lần nữa khi thị chối từ tình cảm của Chí.
Sự kiện này nói lên một sự thật cay đắng về thành kiến, về quan niệm của dân làng Vũ Đại đối với những kẻ đã bị tha hóa như Chí. Họ nhìn Chí bằng ánh mắt khinh thường và họ không còn coi Chí là người nữa. Dù trước đó thị đã yêu Chí, đã có cảm giảm thinh thích khi khắc đến hai chữ vợ chồng, nhưng vì thị chỉ là người đàn bà ế chồng và dở hơi. Hơn nữa thị lại bị người bà cô của mình quán xuyến. Sự thật đau đớn khi bị người yêu cự tuyệt khiến Chí rơi vào đau khổ tột cùng. Những tưởng cuộc đời từ nay sẽ được yên ấm nhưng bi kịch lại đến. Chút hi vọng mong manh cuối cùng của Chí đã nhanh chóng bị dập tắt bởi thành kiến của xã hội. Lúc này Chí đã quyết định đến nhà Bá Kiến, giết chết hắn rồi tự kết liễu cuộc đời mình.
Bá Kiến và cả gia đình hắn là đại diện cho tầng lớp thống trị tàn ác, bất nhân. Chính bọn chúng đã lợi dụng những người nông dân lương thiện như Chí, biến họ trở thành con quỷ dữ và không còn cơ hội được quay trở lại làm người nữa, khiến họ phải đi vào ngõ cụt và tận cùng là cái chết. Nhưng một kẻ liều lĩnh và đã trải qua quá nhiều biến cố như Chí, cái chết không còn là nỗi sợ hãi nữa. Chí chết nhưng trước khi chết, Chí muốn kéo theo cả kẻ đã làm mình ra nông nỗi này.
Còn thị, dù thị dở hơi, nhưng khi Chí chết thị vẫn đủ tỉnh táo để nhìn xuống bụng và nghĩ đến một cái lò gạch bỏ hoang. Nam Cao không viết tiếp nhưng người đọc vẫn hiểu ý định của thị. Và đứa con trong bụng thị sẽ là một Chí Phèo con. Cuộc đời người nông dân vẫn còn nhiều người phải khổ. Chí Phèo chết chưa phải là đã hết. Bá Kiến chết cũng vẫn còn Lý Cường. Thậm chí hắn còn lạnh lùng và ác độc hơn Bá Kiến. Quá dễ dàng để Nam Cao viết lên cái kết có hậu nhưng ông trân trọng sự thật, và ông cũng muốn phơi bày sự thật về xã hội đương thời để người đọc thấy rằng cuộc sống người nông dân rất khổ cực. Họ vừa phải đương đầu với cuộc sống mưu sinh, vừa phải gồng mình lên gìn giữ lấy nhân phẩm của mình. Nhiều người đã gục ngã trước hoàn cảnh, lâm vào con đường tội lỗi và bị tha hóa nhân cách như Chí.
Bằng nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình và những lời văn chân thực, giàu cảm xúc, nhà văn đã bày vẽ lại cuộc sống thực tế của những người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ. Đồng thời ông cũng vạch tội bọn thực dân phong kiến đã tàn nhẫn đẩy người nông dân vào cảnh sống lầm than. Chúng không những bóc lột tiền bạc, sức lao động của dân nghèo mà còn trà đạp lên tâm hồn và nhân cách cao cả của họ, biến họ thành những con quỷ dữ giữa cuộc đời.
Phân tích giá trị hiện thực của tác phẩm Chí Phèo 4
Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, Nam Cao là người đến sau, trước đó đã có những cây bút như Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Nhưng có lẽ với Chí Phèo, Nam Cao đã đem lại cho chúng ta những ấn tượng mạnh mẽ không thể quên về bức tranh đen tối ngột ngạt, bế tắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời thức tỉnh phần lương tri tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy lòng căm ghét xã hội thực dân phong kiến tàn ác đã chà đạp lên nhân phẩm của con người; thương xót, cảm thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa.
Với Chí Phèo, Nam Cao xuất hiện như một tác giả tiêu biểu nhất của dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945, thời kì mới đầy thử thách. Cũng như các cây bút lớp trước, Nam Cao đặc biệt quan tâm thể hiện số phận khốn khổ trăm chiều của những người bị áp bức bóc lột đương thời. Có điều, trong cảm hứng “vạch khổ” chung của mọi nhà văn hiện thực, ngòi bút Nam Cao có những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, bị tha hóa về nhân hình lẫn nhân tính. Hình tượng nhân vật Chí Phèo – một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam – đã thể hiện đầy đủ cái nhìn mới mẻ, độc đáo, có chiều sâu của Nam Cao trong việc thể hiện nỗi khổ của người bần cố nông.
Ở Việt Nam, những tác phẩm của văn học trung đại như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, thơ Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến… đã phơi bày hiện thực khách quan của cuộc sống. Nhưng phải đến Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn… mới khơi dòng cho khuynh hướng hiện thực rõ nét khi các tác phẩm thể hiện màu sắc phong tục, nếp sống của một số miền đất, một số mảnh đời khốn cùng. Đến khoảng những năm ba mươi của thế kỉ XX cây bút hiện thực phê phán Nguyễn Công Hoan là người bắt đầu đi theo khuynh hướng tả chân, lấy cuộc sống hiện thời, lấy cái đã và đang xảy ra làm nội dung tác phẩm. Và từ những năm 1930 đến trước 1945 khuynh hướng văn học hiện thực phát triển rầm rộ, quy mô, nhiều cây bút tài năng đã xuất hiện như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đình Lạp… và Nam Cao được đánh giá là người có công đưa văn học hiện thực lên một trình độ mới, trình độ miêu tả tâm lí, khái quát hiện thực.
Căm ghét xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội, trên cơ sở cảm thông, yêu thương con người, nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945. Tuy nhiên, trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã khám phá hiện thực ấy bằng một cái nhìn riêng biệt. Nam Cao không trực tiếp miêu tả quá trình bần cùng, đói cơm, rách áo dù đó là một hiện thực phổ biến lúc bấy giờ. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực con người: con người không được là chính mình, thậm chí không còn được là con người mà trở thành con “quỷ dữ”, do những âm mưu thâm độc và sự chà đạp của một thế lực thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lí giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái chan chứa yêu thương, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm với những giá trị hiện thực và nhân đạo đặc sắc không thể tìm thấy ở các nhà văn cùng thời.
Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm văn học, tùy vào ý đồ sáng tác mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau.
Cùng viết về đề tài người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến các nhà văn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan hay Nam Cao đều phản ánh sâu sắc và chân thật tình trạng khốn cùng của người nông dân Việt Nam trên con đường bị bần cùng hóa. Chí Phèo nằm trong quy luật ấy. Không có tiếng trống dồn sưu, thúc thuế vang lên dồn dập, không có cảnh tranh ruộng cướp đất đẩy con người vào cơn túng quẫn, cùng đường phải bán vợ đợ con, xã hội của văn Nam Cao trong Chí Phèo là sự thu nhỏ ở làng quê – một không gian tù túng, ngột ngạt mà bọn phong kiến có thể đẩy con người vào cảnh cùng đường tuyệt lộ phải bán nhân phẩm, nhân cách của mình, bán đi nhân hình nhân tính.
Nhưng khác với Ngô Tất Tố hay Nguyễn Công Hoan tập trung vào nỗi khổ tột cùng về vật chất của người nông dân thì với Chí Phèo – người nông dân còn đau đớn hơn với nỗi khổ về tinh thần. Nam Cao đã ném ra giữa cuộc đời một thằng cùng hơn cả dân cùng, là điển hình cho những gì tủi cực nhất của người nông dân trong xã hội thực dân phong kiến, không chỉ vậy còn là điển hình cho những gì tủi cực khổ đau nhất cho một kiếp người trên cõi đời này.
Có thể nói, với Chí Phèo, Nam Cao đã khái quát hóa tìm ra hình tượng mang bản chất xã hội, cá tính hóa nhân vật đến cao độ giúp cho nhà văn có cái nhìn tiêu biểu nhất, quan trọng nhất, toàn diện nhất cho một kiểu người, lớp người trong xã hội, đồng thời tạo nên diện mạo riêng cho Chí Phèo. Chí Phèo là “nhân vật lạ mà quen biết”. Chính điều đó làm nên sức sống lâu bền cho nhân vật điển hình. Chí Phèo như một chiếc chìa khóa để nhà văn khám phá cuộc đời, đề tài xây dựng nên một nhân vật điển hình không chỉ của một xã hội mà đó là điển hình của cả một nhân loại: Người nông dân hiền lành, lương thiện, giàu lòng tự trọng và có ước mơ trong sáng, nhưng sống trong cái xã hội “quần ngư tranh thực” họ đã bị đẩy đến bước đường cùng: Làm quỷ thì sống mà làm người thì tất yếu phải chết (ThS. Nguyễn Thành Huân).
Chí Phèo – điển hình cho nỗi khổ về vật chất của người nông dân
Hành trang bước vào đời của Chí là một số “0” tròn trĩnh: là một đứa con hoang, không cha, không mẹ, không một tấc đất cắm dùi. Đến năm hai mươi tuổi Chí Phèo làm canh điền cho nhà bá Kiến, tiếp tục cuộc sống làm kiếp trâu ngựa của người cố nông lao động nghèo khổ ở nông thôn. Đến lúc có tài sản là một túp lều cuối làng thì Chí cũng đã phải chà đạp lên biết bao số phận khốn khổ khác, được lấy từ nỗi đau của người khác. Nam Cao đã để Chí phát biểu một câu tiêu biểu cho nỗi khổ cùng cực của người nông dân dưới chế độ thực dân phong kiến: Xin cụ cho con đi ở tù. Ở tù mới có cơm mà ăn. Thật đau xót khi có miếng ăn Chí phải giành giật, dọa nạt, đâm thuê chém mướn, xin đi ở tù và cuối cùng phải bán dần, bán lẻ nhân hình, nhân tính của mình. Chị Dậu khốn khổ cùng cực nhưng chị còn được làm người, và Chí muốn sống trong làng “quần ngư tranh thực” ấy thì phải trở thành con quỷ dữ.
Chí Phèo đã trượt dài trên con đường tha hóa. Đọc Tắt đèn ta cảm thông sâu sắc với nỗi khổ đè nặng trên đôi vai gầy yếu, nỗi đau xé lòng của chị Dậu, tưởng như chị đã là nỗi đau tột cùng nhưng khi đến với Chí Phèo qua tiếng chửi tục tĩu, khuôn mặt đầy vết sẹo, bước chân ngật ngưỡng đi trên những trang văn của Nam Cao thì ta mới thấy rằng: đó là kẻ khốn cùng nhất của nông dân Việt Nam ngày trước. Nam Cao đã khái quát được một quy luật mà các tác phẩm hiện thực phê phán khác chưa đề cập được đó là hiện tượng người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh hóa và tha hóa.
Chí Phèo – điển hình cho nỗi đau về tinh thần của người nông dân
Những tưởng đã cùng cực với nỗi đau về vật chất thì Chí Phèo còn là điển hình cho nỗi đau về tinh thần của người nông dân. Chị Dậu trong Tắt đèn phải bán con bán chó để cứu chồng, âu cũng là trắng tay tưởng không còn gì để bòn kiếm hơn nhưng Chí Phèo còn tìm kiếm được cái quý giá nhất của mình đó là nhân tính, linh hồn. Chị Dậu – người nông dân dù nghèo xác xơ nhưng vẫn được mọi người coi là người, còn với Chí khi bán dần đi linh hồn của mình thì đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Con quỷ dữ ấy đã bị xã hội dứt khoát, lạnh lùng cự tuyệt, gạt bỏ ra ngoài đồng loại. Trong con mắt của làng Vũ Đại Chí Phèo là thằng không cha, không mẹ, chỉ có một nghề là nghề rạch mặt ăn vạ. Tất cả dân làng đều sợ hắn đến nỗi không ai coi hắn tồn tại trên đời thành ra mỗi lần Chí chửi bới, la làng, người ta “mặc thây cha nó”, không ai thèm lên tiếng, đáp lại hắn chỉ có mấy con chó xao lên trong xóm. Người ta khinh bỉ Chí đến mức hắn chỉ mong có kẻ chửi nhau với hắn mà không được. Chí chửi cũng là một cách mong người đời giao tiếp với hắn nhưng thật đau xót cuối cùng chỉ có Chí với mấy con chó sủa ầm ĩ cả làng.
Cuộc đời Chí càng chìm sâu xuống vũng bùn tăm tối – một cuộc sống không linh hồn, mất hết ý niệm về thời gian, không biết cuộc đời mình đã dài bao nhiêu năm rồi. Chí cũng không ý thức được hành động tội lỗi của mình: có lẽ hắn không biết rằng hắn là quỷ dữ của làng Vũ Đại, đã tác quái bao nhiêu dân làng… Chí triền miên trong những cơn say, cơn nàychưa qua thì cơn khác lại tràn đến, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu, dọa nạt trong lúc say… Cuộc đời Chí tưởng như cứ chết dần chết mòn trong sự ruồng bỏ của người dân làng Vũ Đại, trong tăm tối và tội lỗi nhưng cuộc gặp gỡ với thị Nở – một người đàn bà xấu đến nỗi “ma chê quỷ hờn” sẽ như chiếc phao nhỏ mong manh cứu vớt cuộc đời Chí, sẽ là cầu nối giữa Chí và loài người. Chí nhớ lại những ước mơ thuở xưa, nhớ lại cuộc đời lương thiện và thèm làm hòa với mọi người biết bao nhưng Chí đã bị rơi vào bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người khi thị Nở đã trút vào y tất cả những lời thậm tệ của bà cô, đã vùng vằng ra về mặc cho Chí sửng sốt đứng lên gọi lại, rồi đuổi theo nắm lấy tay thị. Tủi nhục ê chề, Chí lại lao vào rượu. Nhưng lạ lùng thay Chí càng uống lại càng tỉnh ra, và cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành – dư vị của tình thương lần đầu Chí được hưởng. Chí ôm mặt khóc rưng rức. Trong cái dáng vẻ ấy chất chứa biết bao nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Bi kịch của Chí đã đạt đến mức tột cùng của sự bi thảm. Như vậy theo Nam Cao con người đau khổ nhất không phải là đói cơm rách áo mà là bị đồng loại ruồng bỏ.
Với Chí Phèo, Nam Cao đã khái quát được những vấn đề bức xúc của con người trong thời kì 1930 – 1945. Ngật ngưỡng bước ra từ trang văn của Nam Cao, Chí Phèo là điển hình cho số phận của bao người dân An Nam xưa. Trong làng Vũ Đại không chỉ có một mình Chí Phèo mà còn có những Năm Thọ, Binh Chức… bị xô đẩy vào con đường tội lỗi như là hiện tượng đầy ám ảnh về sự thật tàn nhẫn tre già, măng mọc, bao giờ hết những thằng du côn. Và hình ảnh cái lò gạch cũ xuất hiện đầu cuối tác phẩm góp phần cùng với điển hình Chí Phèo đã khái quát một hiện tượng xã hội trước Cách mạng, hiện tượng có tính quy luật khủng khiếp: chừng nào còn áp bức bóc lột nặng nề chừng ấy những người dân lương thiện sẽ bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, tha hóa. Tuy nhiên hình ảnh đó cũng gợi về một cách kết thúc chưa hoàn kết, chưa xong xuôi gợi ra mâu thuẫn, xung đột chưa kết thúc. Nó gợi nhiều suy tư về hiện thực xã hội, về thân phận người nông dân trong thời kì xã hội trước Cách mạng tháng Tám.
Chí Phèo – sự sáng tạo độc đáo của Nam Cao
Nếu như chỉ dừng lại xây dựng Chí Phèo với những điển hình cho nỗi đau khốn cùng của người nông dân đẩy dần họ vào tăm tối, u mê, vào con đường phải thành “đầu trộm đuôi cướp” mới tồn tại được thì chắc rằng tác phẩm ấy, nhân vật ấy sẽ không có sức sống lâu bền như thế. Bản thân Nam Cao luôn trăn trở về nghề viết văn của mình, luôn tâm niệm một điều – tác phẩm có giá trị là khi nhà văn biết biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có (Đời thừa). Ông không chấp nhận cái nhìn giản đơn đối với hiện thực cuộc sống, luôn khai thác thế giới nội tâm sâu kín của nhân vật phát giác sự vật ở những bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa (Chế Lan Viên). Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã làm được điều đó – là sự sáng tạo độc đáo của người nghệ sĩ luôn ấp ủ hoài bão với nghề. Ông đã dùng tình thương để cảm hóa kẻ lầm đường ấy và để thức tỉnh xã hội vô tình. Ông đã tìm thấy và khẳng định bản chất lương thiện đẹp đẽ, bền vững của con người, ngay cả khi họ đã vùi dập tới mức méo mó cả nhân hình lẫn nhân tính.
Nam Cao đã xây dựng nên một Chí Phèo có xuất thân đặc biệt. Đau đớn cho Chí ngay cả những kẻ sinh ra hắn cũng không hề muốn hắn làm người: Một người đi thả ông lươn nhặt được Chí Phèo “trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không”, sau đó, chuyền tay cho người làn nuôi… Họ vứt hắn đi như một thứ tội nợ, mặc dù hắn chẳng có tội tình gì. Rồi Chí cứ bị xã hội ấy “quăng quật” đến tàn nhẫn khi bị người đàn bà góa mù “bán” cho một bác phó cối không con… Với những chữ như “nhặt”, “chuyền”, “bán”, “cho” Nam Cao đã miêu tả nhân vật của mình giống như một thứ đồ vật bị người ta chuyển tay. Khi bác phó cối chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Thật khó có thể thấy trên đời này có đứa trẻ nào khốn khổ tủi nhục hơn thế. Mặc dù sinh ra trong một cảnh ngộ cay đắng tủi nhục như vậy, nhưng lại được nuôi dưỡng bởi những con người nghèo khổ, lương thiện những phẩm chất tốt đẹp của Chí cũng được khơi dậy và lớn lên. Nam Cao đã khẳng định chân lí: Tính cách là con đẻ của hoàn cảnh, hoàn cảnh lương thiện sẽ sinh ra những tính cách tốt đẹp.
Chí sẽ vẫn là anh canh điền “hiền lành như đất” nếu như sống trong hoàn cảnh lương thiện nhưng chỉ vì cơn ghen vô cớ, bá Kiến đã kiếm cớ đẩy Chí vào nhà tù. Nhà tù đã “đẻ ra” một anh Chí Phèo khác hẳn. Nam Cao đã dụng công miêu tả Chí trong bộ dạng giống như một quái nhân mà chưa tác phẩm trước đó hay cùng thời có, nếu đọc thoáng qua sẽ có người quy chụp ông bị ảnh hưởng của chủ nghĩa tự nhiên. Nhưng không, ngoại hình của Chí xấu xa, gớm ghiếc bao nhiêu thì càng khiến tiếng nói tố cáo hiện thực của Nam Cao thêm sâu sắc. Ngoại hình của hắn làm cho người dân làng Vũ Đại phát khiếp: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy. Chính nhà tù đã biến Chí thành kẻ du côn, lưu manh. Nam Cao đã tô đậm quãng đời làm con quỷ dữ ở làng Vũ Đại của Chí bằng hai chi tiết chân thực nhất đó là “những cơn say” và “tiếng chửi”. Chưa có kẻ lưu manh trong các tác phẩm văn học Việt Nam lại chửi như Chí: Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ờ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Mẹ kiếp! Thế có phí rượu không? Thế thì có khổ hắn không?… Với bài chửi độc đáo của mình Chí Phèo đã tỏ ra rất tỉnh táo giữa những cơn say. Hắn đã sắp xếp các đối tượng mình chửi theo một trật tự đầy ý nghĩa: từ “trời”, đến “đời”, đến cả “làng Vũ Đại”, đến “đứa nào không chửi nhau với hắn”… Đây là một trật tự từ cao tới thấp, từ xa tới gần, từ trừu tượng vu vơ đến cụ thể trực tiếp. Thật ra, Chí Phèo đang cố gắng đi tìm ai là kẻ đã đẩy đời mình đến nông nỗi này. Hắn muốn có lời giải đáp cho câu hỏi: Đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này?Qua tiếng chửi không có người đáp lại của Chí, ta hình dung ra một số phận khốn khổ. Chí Phèo là một kẻ không cha, không mẹ, lại bị cả làng Vũ Đại ruồng bỏ.
Không ai thèm lên tiếng đáp lại hắn. Chí tự chửi, tự nghe. Điều ấy chứng tỏ hắn là một kẻ lạc loài, là một số phận vô cùng cô đơn trong xã hội làng Vũ Đại. Trong tiếng chửi của Chí Phèo vừa có nỗi uất hận, vừa có một nhu cầu tha thiết. Chí mong có người chửi lại mình cũng có nghĩa là muốn được mọi người đối xử với mình như với một con người. Chí Phèo cứ trượt dài trên con đường tha hóa của mình nếu như không gặp thị Nở. Thị Nở là một sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao. Thị cũng là một công trình nhỡ tay của tạo hóa. Tuy thuộc về phái đẹp nhưng thị lại có tất cả những gì mà một người phụ nữ không bao giờ muốn có. Mối tình giữa thị và Chí Phèo không phải là mối tình của hai kẻ nửa người nửa ngợm như nhan đề Đôi lứa xứng đôi mà một nhà xuất bản đã đặt tên. Đó là một tình yêu thông thường vì có đầy đủ các cung bậc của tình yêu như: gặp gỡ – tỏ tình – cầu hôn – thất tình. Thậm chí đây còn là tình yêu đẹp vì nó làm cho hai cuộc đời trở nên tốt đẹp hơn. Từ khi gặp thị Nở, Chí Phèo dần dần từ con vật trở lại kiếp con người. Lần đầu tiên hắn thấy “sợ rượu”, cũng là lần đầu tiên hắn tỉnh rượu để nghe thấy tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những âm thanh quen thuộc, thường nhật ngày nào mà chẳng có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy. Cuộc đời bình dị, thậm chí còn nhiều nhọc nhằn, vất vả nhưng đáng yêu và đáng sống biết bao. Tiếng hai người đàn bà hỏi nhau về giá vải gợi nhắc cho Chí nhớ lại ước mơ thời hắn hai mươi tuổi: Có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Cái giấc mơ ấy đơn sơ mà sao mãi đến bây giờ hắn chưa thực hiện nổi. Nghĩ đến đây hắn thấy “buồn”. Nỗi buồn này làm cho tâm hồn Chí trong trẻo hơn. Nhớ về quá khứ hắn thấy “buồn” còn nhìn về tương lai hắn thấy “sợ”: sợ tuổi già, đói rét, ốm đau và sợ nhất là cô độc. Từ chỗ nghe thấy âm thanh bình dị của cuộc sống, nhớ lại ước mơ thuở hai mươi tuổi đến chỗ biết buồn, biết sợ chính là quá trình nhân tính dần dần trở về trong Chí. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật tài tình của Nam Cao, tạo ra bước ngoặt lớn trong tâm lí và số phận của Chí Phèo. Khi nhận được bát cháo hành của thị Nở lúc đầu Chí “ngạc nhiên”, sau thấy “mắt hình như ươn ướt”. Bát cháo hành tuy đơn sơ nhưng lại là tình người lần đầu tiên Chí được đón nhận. Với bát cháo hành, Nam Cao đã xúc động khẳng định: Nhân tình của con người rất bền vững, chỉ có thể bị vùi lấp chứ không thể bị hủy diệt. Chỉ cần nhỏ vào tâm hồn u tối một giọt tình thương lập tức tính người sẽ thức dậy.
Chính tình thương của thị đã khơi dậy phần người trong Chí. Từ chỗ “tỉnh rượu” bát cháo hành đã làm Chí “tỉnh ngộ”. Chí khao khát hoàn lương, khao khát mãnh liệt: Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao. Thị sẽ mở đường cho hắn về với loài người. Như người chết đuối vớ được cọc Chí đã nói với thị bằng những lời chân tình tha thiết nhất: Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?… Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui.Năm ngày ngắn ngủi ở bên thị, hắn đã sống như một con người: hắn đã cố uống ít rượu và không làm một điều gì có hại cho những người xung quanh. Khát vọng hoàn lương thật cháy bỏng trong Chí. Nhưng định kiến xã hội đã chặn đứng sự trở về với xã hội loài người của Chí. Thị Nở xét đến cùng tuy sống ở rìa làng, tuy bị coi là “một vật rất tởm” nhưng thị vẫn thuộc vào xã hội loài người. Thị như một thứ đồ phế thải của làng Vũ Đại nhưng khi Chí Phèo nhặt lấy, định coi là của riêng mình thì họ lại xông đến cướp lại. Làng Vũ Đại chủ yếu là những người nông dân thất học, đầy những thành kiến, định kiến độc ác mà bà cô thị Nở là người đại diện phát ngôn đã tuyên bố thẳng thừng: Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ… Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!
Cánh cửa duy nhất để hắn có thể trở về với xã hội loài người đã đóng sầm lại. Chí định trở lại con đường cũ, bản tính lưu manh trỗi dậy nhưng hương vị tình thương của bát cháo hành, nhân tính vừa thức dậy đã ngăn hắn lại. Trong cơn tuyệt vọng, hắn lấy rượu ra uống nhưng lần này lạ thay càng uống lại càng tỉnh ra. Hắn không thấy hơi rượu mà cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hương vị của tình người cứ ám ảnh dày vò Chí. Hắn ôm mặt khóc rưng rức –những giọt nước mắt của Chí lúc này chứng tỏ nhân tính đã trở về trọn vẹn trong hắn.
Chí Phèo đến nhà bá Kiến sau khi uống rất nhiều rượu. Hành động của Chí lúc này đã được Nam Cao khắc họa rõ nét. Lúc đầu Chí định đến nhà thị Nở nhưng không hiểu sao chân hắn lại đưa hắn đến nhà bá Kiến. Có lẽ trong sâu thẳm tiềm thức hắn đã nhận ra kẻ hủy hoại đời mình chính là bá Kiến chứ không phải bà cô thị Nở. Chí đã đi chệch đường nhưng đúng hướng. Bá Kiến có lúc cả giận mất khôn đã cư xử với Chí như một con vật, đã mỉa mai khát vọng lương thiện của Chí. Vừa đau đớn, vừa căm giận, Chí trợn mắt lên, dõng dạc đòi lại cái quý nhất của đời mình đã bị bá Kiến cướp mất: Tao muốn làm người lương thiện. Chí cũng tỉnh táo nhận ra tình thế bế tắc của mình. Hắn chỉ rõ hai nguyên nhân đẩy hắn vào bước đường cùng: Ai cho tao lương thiện? chính là ám chỉ bá Kiến, kẻ đã đẻ ra con của quỷ dữ làng Vũ Đại. Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? chính là ám chỉ những định kiến tàn ác của xã hội làng Vũ Đại đã chặn đứng khát vọng hoàn lương của Chí. Để bảo toàn tính người vừa trở về Chí đã hành động đột ngột nhưng hoàn toàn lôgic: đâm chết bá Kiến và sau đó tự sát. Bá Kiến chết đau đớn đúng với quy luật của kẻ gieo gió ắt gặt bão. Hành động này dự báo mâu thuẫn giữa hai tầng lớp nông dân và địa chủ trong xã hội Việt Nam đã gay gắt tới mức không điều hòa nổi. Người ta thấy Cách mạng tháng Tám có mầm mống từ tia chớp của lưỡi dao Chí Phèo. Còn Chí, nhờ lưỡi dao mà khẳng định rằng: Thà chết là một con người còn hơn sống như một con vật (ThS. Nguyễn Thành Huân). Hành động có giá trị tố cáo sâu sắc. Nam Cao đã xây dựng Chí Phèo với những đặc tính cá biệt, cá biệt từ tính cách đến hành động. Chí Phèo đã được khắc họa cả ngoại hiện bên ngoài lẫn chiều sâu bên trong. Vốn là anh nông dân hiền lành như đất thế nhưng qua bốn bức tường lao lí ra cuộc đời Chí đã trở thành con quỷ dữ. Chí cứ đắm chìm mãi trong những cơn say dài, tiếng chửi của Chí ám ảnh tâm can người đọc và Chí phản kháng bằng con đường lưu manh. Chí vừa là con quỷ dữ, vừa là quân cờ trong bàn tay kẻ thống trị, và cũng là nô lệ thức tỉnh khi đâm chết bá Kiến lấy máu để rửa thù rồi tự sát để bảo toàn nhân phẩm mới trở về.
Bằng một cái nhìn tinh tế, một trí tuệ sâu sắc và tinh thần sáng tạo của người nghệ sĩ, Nam Cao đã khắc họa thành công một thực tế đã trở thành quy luật ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: một bộ phận nông dân bị lưu manh hóa, tha hóa, tức là bị các thế lực tàn bạo cướp đi cả nhân hình lẫn nhân tính. Đồng thời, Nam Cao đã phát hiện và khẳng định thiên tính đẹp đẽ, sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của con người ngay cả khi họ bị xã hội phi nhân tính chà đạp, cướp đi hồn người. Nhà văn khẳng định một chân lí: Dù ở trong hoàn cảnh nào thì bản chất lương thiện của con người vẫn tồn tại. Hướng thiện và tìm đến những điều tốt đẹp – đó là bản tính tự nhiên và ước muốn vĩnh hằng của loài người. Tuy nhiên, Nam Cao chưa thể hiện được sự đổi đời của người nông dân mà bi quan về tiền đồ của họ. Đây là hạn chế chung của thời đại và văn học hiện thực trước năm 1945.
Chí Phèo là đại diện cho người nông dân An Nam thời thuộc địa bị bần cùng hóa và lưu manh hóa nhưng cũng là một sáng tạo độc đáo của nhà văn Nam Cao. Ông khẳng định tình thương cứu rỗi con người, khẳng định bản chất lương thiện, bền vững của con người ngay cả khi bị vùi dập đến méo mó cả nhân hình và nhân tính.
Chí Phèo là một trong những tác phẩm như trải qua biết bao thời gian đến nay vẫn là một tác phẩm được người đọc yêu thích. Tác phẩm không phải là những ngôn từ như sáo rỗng mà nó được viết lên từ chất liệu hiện thực của cuộc sống và tính nhân văn cao đẹp của tác giả cũng như chính nhân vật lan tỏa ra trong lòng người đọc.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 5
Là nhà văn trung thành với chủ nghĩa hiện thực, cũng như các cây bút tả chân đương thời, Nam Cao quan tâm trước hết tới việc đi sâu thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nghèo bị áp bức, trong đó có Chí Phèo. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về bức tranh đời sống xã hội nông thôn. Đó là hệ thống tôn ti trật tự của làng Vũ Đại; là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt nó đã phơi bày các mối quan hệ xã hội phức tạp của hiện thực, đã miêu tả trung thực những quan hệ thực (Ăng-ghen). Đồng thời là tình thương đối với những con người bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, bị hắt hủi... Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của Chí Phèo.
Nam Cao được coi là nhà văn của nông dân trước hết vì ông có Chí Phèo. Chí Phèo có phạm vi hiện thực phản ánh trải ra cả bề rộng không gian và bề dài thời gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ của xả hội nông dân Việt Nam đương thời.
Ngòi bút Nam Cao tỏ ra sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ thực trạng nội bộ bọn cường hào. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế quần ngư tranh thực như lời ông thầy địa lí nói nên bọn cường hào chia năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà do chúng là một đàn cá tranh mồi, mồi thì ngon đấy, nhưng năm bè bảy mối. Ngoài mặt tử tế với nhau nhưng trong bụng muốn cho nhau lụi bại. Đây là hiện tượng có tính quy luật ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội - ruồi muỗi phải chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.
Dựng nên bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật xung đột giai cấp giữa địa chủ cường hào với người nông dân bị áp bức - phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm nên giá trị nhận thức và sức mạnh phê phán to lớn.
Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình về giai cấp thống trị ở nông thôn: Bá Kiến - lão cường hào cáo già với giọng quái rất sang, cái cười Tào Tháo cho thấy bản chất gian hùng, khôn róc đời. Và tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: thói ghen tuông, Bá Kiến nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra phương châm: mềm nắn, rắn buông, bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân... Với chính sách: lấy thằng đầu bò trị thằng đầu bò, thu dụng những thằng bạt mạng, không sợ chết, không sợ đi tù.
Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, tô tức, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam Cao đi vào phương diện: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt về nhân tính, bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo không phải ở chỗ cuộc đời Chí Phèo chỉ là số không: không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi... mà chính là ở chỗ Chí Phèo bị xã hội rạch nát bộ mặt, cướp đi linh hồn, bị loại khỏi xã hội loài người, sống kiếp quỷ dữ.
Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau chân dung gã say rượu có cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Tuy say, nhưng vẫn mơ hồ thấm thìa nỗi khổ của thân phận. Chí Phèo là điển hình cho một bộ phận cố nông bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Chí Phèo trước hết là hiện tượng có tính quy luật của tình trạng áp bức bóc lột tàn bạo ở nông thôn Việt Nam. Lúc bây giờ. Đó là hiện tượng những người nông dân bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Nam Cao khốn khổ giành lấy sự tồn tại bằng việc bán cả nhân phẩm đã trở thành lực lượng mù quáng dễ dàng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, Chí Phèo từ chỗ liều chết với bố con lão, chỉ cần lời nói và mấy hào chỉ trở thành tay sai mới của lão. Sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết đã làm nổi bật hiện tượng có quy luật diễn ra ở nông thôn - hiện tượng lưu manh hóa. Song ý nghĩa khái quát của hình tượng Chí Phèo còn ở cấp độ cao hơn: sự hủy diệt, nhân tính trong xã hội độc ác, không cho con người được làm người.
Tác phẩm Chí Phèo không dừng ở đó mà với câu chuyện về mối tình Chí - Thị, bằng giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu chuyện tình của hạng nửa người nửa ngợm thì đây vẫn là chuyện có nội dung nghiêm túc, chứa đựng tư tường nhân đạo mới mẻ.
Giữa lúc cả làng Vũ Đại không chấp nhận giao tiếp, xem Chí như quỷ dữ, thì một người đàn bà thuộc dòng giống ma hủi, xấu đến ma chê quỷ hờn lại có tấm lòng vàng, thấy Chí hiền lành, Thị Nở chính là chiếc cầu nối đưa Chí ở đáy sâu của sự tha hóa thức tỉnh bản chất người lao động. Bằng sự chăm sóc giản dị, tình yêu thương mộc mạc mà chân thành của người đàn bà khốn khổ đã khơi dậy linh hồn Chí Phèo. Chí nghe thấy những âm thanh cuộc sống thường ngày mà bấy lâu nay vùi trong những cơn say nên Chí không biết đến. Nó vang động sâu xa trong lòng Chí, trở thành tiếng gọi cuộc sống khẩn thiết, làm Chí nhớ đến ước mơ nho nhỏ ngày xưa. Có lẽ đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí tỉnh táo để tự ý thức về thân phận. Để rồi nhận ra sự tác oai, tác quái của mình bấy lâu nay. Và mong muốn giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?... Hay mình sang ở với tớ một nhà cho vui? Khi Thị Nở bê bát cháo hành đến hắn ngạc nhiên bởi đây là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Hắn nhận ra hương cháo hành - hương vị tình yêu thương chân thành, hạnh phúc giản dị mà có thật. Hắn thèm lương thiện, làm hòa với mọi người. Tình yêu của Thị Nở cũng sẽ hé mở cho hắn con dường trở lại làm người. Hai con người bị làng Vũ Đại xua đuổi đã đến với nhau, tình yêu chân chính đã nhân đạo hóa con người. Chẳng phải tình yêu có phần thô lỗ của người đàn bà xấu xí đã gọi dậy linh hồn người trong con quỷ dữ đó sao?
Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người. Khi hiểu ra xã hội không công nhận mình, bà cô Thị Nở - định kiến xã hội đã không chấp nhận cho cháu bà đến với Chí. Chí vật vã đau đớn. Hắn càng uống càng tỉnh hắn ôm mặt khóc rưng rức. Chí quằn quại, đau đớn vì tuyệt vọng, thấm thía về tội ác kẻ thù. Chí Phèo trợn mắt chỉ tay vào Bá Kiến đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát. Kẻ thù bị đền tội, và sau đó Chí tự sát. Chí phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, không chấp nhận kiếp thú vật. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, Chí chết quằn quại trong vũng máu, trong khao khát được làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện là lời nói đanh thép, phẫn nộ, làm người đọc sững sờ và day dứt. Đó vẫn là một câu hỏi lớn không lời đáp.
Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao chính ở giá trị tố cáo. Thông qua số phận Chí Phèo, Nam Cao phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực trạng người nông dân bị đày đọa, đè nén và âm thầm chịu đựng rồi tuyệt vọng, liều lĩnh phản ứng cực đoan. Nam Cao cũng bày tỏ niềm cảm thông, tình thương yêu đối với người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, phát hiện bản chất tốt đẹp vốn có của họ. Song cũng như các nhà văn hiện thực cùng thời, chưa tìm được cho nhân vật của mình lối thoát. Sau này, bằng con đường cách mạng, Tô Hoài, Kim Lân đã tìm cho nhân vật mình một hướng đi riêng.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 6
Truyện ngắn Chi Phèo in lần đầu có tên là Cái lò gạch cũ (Nhà xuất bản Đời mới, Hà Nội, 1941). Sau đó đổi thành Đôi lứa xứng đôi. Đến khi in lại trong tập Luống cày (Hội văn hóa cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), tác giả đặt lại tên truyện là Chí Phèo. Đây"là thành công tiêu biểu của Nam Cao về đề tài nông dân, được đánh giá là một kiệt tác trong giai đoạn văn học trước cách mạng tháng Tám. Nội dung truyện Chí Phèo phản ánh xã hội nông thôn ở khía cạnh đấu tranh giai cấp.
Qua hình tượng Chí Phèo - một nông dân bị lưu manh hóa - Nam Cao đã miêu tả chân thực và sinh động cuộc sống bị đè nén, bóc lột đến cùng cực của người nông dân và khẳng định nhân phẩm của họ không bạo lực nào tiêu diệt được.
Suy nghĩ về số phận bi thảm của nhân vật Chí Phèo, người ta thường nói đó là tấn bi kịch của một nông dân nghèo bị tha hoá trong xã hội cũ. Cuộc đời Chí Phèo là cuộc đời khốn khổ của kẻ cùng đinh ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Ở phần đầu truyện, tác giả kể về tuổi thơ của Chí. Từ lúc lọt lòng, Chí đã bị mẹ bỏ rơi trong cái lò gạch cũ giữa đồng. Rồi nó lớn lên như cây cỏ, bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ. Không người thân thích, không một tấc đất cắm dùi, nó không được ai ban cho một chút tình thương.
Nhưng điều bất hạnh lớn nhất của Chí Phèo là không được sống bình thường một đời sống dù nghèo khổ nhưng lương thiện như bao người khác. Chí vốn là chàng trai nông dân khỏe mạnh, hiền lành. Chỉ vì những cơn ghen bóng gió của lí Kiến mà Chí bị đẩy vào tù. Bảy, tám năm đoạ đày trong tù, chung đụng với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí đã bị nhuộm đen. Từ mặt mũi đến tính cách hắn đều trở nên dị dạng, đáng sợ. Chí Phèo đã bị xã hội đương thời rạch nát cả bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, biến thành con quỷ dữ để rồi bị gạt bỏ không thương tiếc ra khỏi cộng đồng làng Vũ Đại.
Chí Phèo là hiện thân của nỗi khổ đau khôn cùng: sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi nỗi bất hạnh ấy, Chí Phèo uống rượu. Hắn say triền miên, bởi thế hầu như hắn bị tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú vật. Nhưng đến khi tỉnh rượu thì hắn lại cảm nhận sâu sắc thân phận bi đát của mình. Dường như trong những cơn say triền miên, Chí Phèo vẫn tỉnh. Chí luôn ở trạng thái say - tỉnh bất phân. Sự độc đáo của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.
Mở đầu tác phẩm, tác giả không chỉ giới thiệu nét độc đáo, hấp dẫn trong tính cách nhân vật mà còn hé mở cho người đọc thấy tình trạng bất hạnh của một số phận. Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi... Chính lúc điên rồ nhất cũng là lúc Chí Phèo tỉnh nhất. Cách thu hẹp dần đối tượng chửi cho thấy hắn tỉnh chứ không say. Từ đối tượng xa xôi, vu vơ, không đụng chạm đến ai là trời: Bắt đầu hắn chửi trời, có hề gì? Trời có của riêng nhà nào ? Đến đối tượng gần hơn là đời: Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức quá, hắn chửi tất cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn và hắn giận dữ điên cuồng khi không ai lên tiếng cả. Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thìa nỗi khốn khổ của thân phận mình. Đó là nỗi khổ bị khinh bỉ, né tránh, ghẻ lạnh. Không có người nào chịu chửi nhau với hắn. Không có ai thèm dây vào hắn. Có nghĩa là dân làng Vũ Đại đã dứt khoát không coi hắn là người. Chửi lại là còn chịu giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng với hi vọng được nghe người nào đó chửi lại, nhưng hắn chi nhận được sự im lặng đáng sợ. Hắn cô độc, chửi rồi lại nghe, chi có ba con chỏ dữ với một thằng say rượu.
Nam Cao đau xót nhận xét: Giá hắn biết hát thì có lẽ hắn không cần chửi. Nếu hát được thì đau khổ sẽ vơi bớt. Khổ cho hắn và khổ cho mọi người là trời không phú cho hắn giọng hát. Không biết hát thì hắn chửi, vậy những tiếng chửi rủa kia cũng là một bài hát đặc biệt của riêng Chí Phèo chứ sao? Bài hát lộn ngược của một linh hồn méo mó và đau khổ.
Trong cách chửi của Chí Phèo có cái lôgic của một tâm lí tỉnh táo - tỉnh táo trong đau khổ cùng cực. Chí Phèo muốn cạy miệng thiên hạ nhưng không được. Hắn đau khổ vì bị tẩy chay trong khi muốn hòa đồng với mọi người. Cuộc đời Chí Phèo có thể chia làm hai chặng lớn: trước và sau khi gặp Thị Nở. Trước khi gặp Thị Nở, đời Chí cũng diễn ra hai chặng nhỏ mà cái mốc của nó là nhà tù. Nhà tù thực dân đã biến một chàng trai lương thiện thành một tên lưu manh. Sau khi ra tù, Chí về làng thì cả thế lực hắc ám như bá Kiến đã hoàn thành nốt cái công đoạn cuối cùng của quy trình tha hóa là biến một tên lưu manh thành con quỷ dữ.
Nam Cao miêu tả cuộc đời Chí Phèo là một cơn say dài, và có lẽ hắn chưa bao giờ tỉnh táo, để nhớ rằng có hắn ở trên đời. Chí Phèo rơi vào một tình huống bi thảm. Lúc bấy giờ, nếu sự tỉnh táo có hiện ra thấp thoáng sau những cơn say thì đấy mới là tỉnh rượu chứ chưa phải tỉnh ngộ. Mà tỉnh rượu thì chưa mấy ý nghĩa. Chỉ sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo mới có sự bừng tỉnh của lương tri. Hắn thực sự đau đớn vì đã ý thức được về nỗi khổ của mình. Ý thức càng sâu sắc thì nỗi khổ càng thấm thía. Thị Nở đóng vai trò là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời mà trước nhất là trong tâm lí của Chí Phèo.
Trong một lần say rượu, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở - một người đàn bà xấu xí đần độn và quá lứa lỡ thì. Chút tình yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã khơi lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng Chí. Đoạn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao là bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật.
Sớm hôm ấy, Chí Phèo bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài, lòng mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót ríu rít, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói của những người đi chợ... Những tiếng quen thuộc đó hôm nào chẳng có nhưng bấy lâu nay, Chí Phèo đâu có nghe thấy, bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say. Giờ đây, những âm thanh ấy vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi thiết tha của sự sống, gợi dậy cái ước mơ chính đáng một thời: Hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm... Đó cũng là mong muốn một cuộc sống hạnh phúc giản đơn của bao nông dân nghèo trong xã hội cũ.
Khi thấy Thị Nở bưng nồi cháo hành nóng hổi đến, Chí Phèo ngạc nhiên và xúc động. Ăn bát cháo từ tay Thị Nở, hắn bỗng nhận ra rằng cháo hành rất ngon; bát cháo của Thị Nở làm hắn suy nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn được, sao lại chi gây thù? Hương vị cháo hành lúc này chính là hương vị của tình yêu thương chân chất, của hạnh phúc giản dị mà lần đầu tiên trong đời Chí Phèo được hưởng.
Lần đầu tiên, mắt hắn như ươn ướt. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chi Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người? Lúc này, Chí Phèo đã trở tại con người thật của mình, trở lại là anh canh điền chất phác, thật thà năm xưa.
Trái tim tưởng chừng như chai đá của Chí Phèo đã dần dần sống dậy. Cái phần người trong Chí cũng hồi sinh. Hắn khao khát được trở lại với cuộc đời bình thường: Trời ơi Ị Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao Ị Thị Nở sẽ mở đường cho hắn, sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại... Chí băn khoăn, háo hức nghỉ tới một tương tai tốt đẹp: mọi người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện.
Vậy Thị Nở là ai? Đó là hiện thân của tình người. Chỉ có tình người mới cứu được tính người. Tình người là một sức mạnh nhưng tình người cùng thật mong manh. Đối diện với một định kiến hà khắc, tình người rất dễ tiêu tan, Chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ khả năng để cứu Chí Phèo. Con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở đã bị đóng sầm lại. Định kiến ghê gớm của xã hội (thông qua bà cô Thị Nở) không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Chí Phèo một lần nữa lại bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Bị từ chối, bị bỏ rơi, Chí Phèo đau đớn, uất ức cùng cực và lại mang rượu ra uống.
Trạng thái tâm lí phức tạp của Chí Phèo ở đoạn này được Nam Cao miêu tả thật sống động với những diễn biến tinh vi nhất bằng độc thoại bên trong, bằng hành động bên ngoài, bằng lời bình trực tiếp của người kể chuyện... Tuy nhiên, độc đáo nhất vẫn là dùng chi tiết. Đó là chi tiết hơi cháo hành. Hơi cháo hành là dư vị của tình thương ít ỏi mà Chí Phèo đang rất cần, rất khát khao: Và hắn uống. Nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoáng hơi cháo hành...
Lần này khác mọi lần, càng uống vào Chí Phèo lại càng tỉnh ra. Rượu cũng bất lực, không thể làm lương tri đau đớn của Chí Phèo tê liệt được. Hắn cứ ôm mặt khóc rưng rức. Đã bao lâu nay hắn mới có được cử chi và những giọt nước mắt của con người?! Từ hi vọng đến tuyệt vọng, khởi đầu là nước mắt cảm động khi hắn bưng bát cháo hành trên tay và kết thúc lại là nước mắt đau khổ vì bị Thị Nở bỏ rơi. Vào lúc tuyệt vọng nhất, hơi cháo hành cứ thoang thoáng khiến cho hắn chìm sâu hơn vào nỗi tuyệt vọng. Sang bên kia dốc cuộc đời rồi mà lần đầu tiên hắn mới được ăn cháo hành. Muộn màng, nhưng còn là có. Cháo hành tuy được nấu bằng bàn tay Thị Nở... nhưng dẫu sao có còn hơn không. Đã tưởng đời mình từ nay đã có hơi cháo hành của riêng mình rồi, nào ngờ Chí Phèo không có quyền được hưởng. Cuộc đời nhẫn tâm cướp nốt của hắn. Mất Thị Nở, Chí mất luôn hơi cháo hành. Mất hơi cháo hành là mất cái hi vọng cuối cùng của hắn vào cuộc đời này. Nhưng tại sao nó lại thoang thoáng hiện lên vào lúc này? Để trêu ngươi, để chọc tức Chí Phèo chăng?! Nó cứ chờn vờn đâu đó. Hạnh phúc nhỏ bé ấy, hắn ngỡ trong tầm tay nhưng không sao giữ được vì nó quá đỗi mong manh. Nó cứ thoang thoáng hiện lên để làm cho Chí Phèo thêm tủi, thêm đau; để đẩy tấn bi kịch của hắn lên đến tột cùng. Mất hơi cháo hành - tình thương đồng nghĩa với sự bấu víu cuối cùng cũng hết. Chẳng còn gì để hi vọng nữa. Lòng Chí tan hoang!
Không gì bình thường đến vô nghĩa như hơi cháo hành, vậy mà qua cái nhìn và tấm lòng nhân hậu sâu thẳm của Nam Cao, hơi cháo hành thoáng qua ấy đã hằn như một vết cứa rớm máu trong tâm linh con người. Viết được như vậy chỉ có thể là bút lực tài hoa của một thiên tài!
Bản chất lương thiện của Chí Phèo bị vùi lấp bấy lâu nay giờ đã trỗi dậy lương tri con người đã trở về. Nhưng sự trở về của lương tri, trớ trêu thay, lại nhanh chóng đẩy bi kịch tha hóa của Chí Phèo lên đến điểm đỉnh của nó. Từ tận cùng tuyệt vọng, Chí Phèo đã chuyển sang tột cùng căm uất và hắn đã giắt dao đi... Cũng như mọi lần, Chí Phèo vừa đi vừa chửi... Chí Phèo đau đớn vì tuyệt vọng, đồng thời hiểu rõ hơn bao giờ hết tội ác của kẻ đã huỷ hoại đời hắn. Chí Phèo đã đến thẳng nhà bá Kiến, trợn mắt, chi tay vào mặt lão, dõng dạc đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát của mình. Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo ở cuối tác phẩm: Tao muốn làm người lương thiện!... Ai cho tao lương thiện ?... Tao không thể là người lương thiện được nữa! Biết không! Chi có một cách... biết không... Lời nói của Chí Phèo đanh thép và phẫn nộ, âm điệu bi thống đầy ám ảnh, làm người đọc sững sờ và day dứt.
Kẻ thù đã bị đền tội nhưng ngay sau đó, Chí Phèo tự sát. Chí Phèo phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí không thể chấp nhận trở lại kiếp sống thú hoang. Chí Phèo đã chết trước ngưỡng cửa trở về cuộc sống bình thường, chết trong tâm trạng bi kịch đau đớn. Trước đây, để được tồn tại, Chí Phèo phải từ bỏ nhân phẩm, phải bán linh hồn cho quỷ dữ. Giờ đây, khi ý thức nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về thì Chí Phèo lại phải từ bỏ cuộc sống của mình. Chí Phèo chết quằn quại giữa vũng máu trong niềm đau thương tột độ vì mong ước giản dị, chính đáng và được làm người lương thiện không thể trở thành hiện thực.
Chí Phèo chết nhưng chưa hết chuyện. Khi nghe tin hắn chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không xa nhà cửa và vắng người lại qua... Một "Chí Phèo con" sắp ra đời?! Nam Cao đã gióng một hồi chuông cảnh báo: Còn những "cái lò gạch cũ" trong xã hội ấy thì vẫn còn có những Chí Phèo khác ra đời. Nghĩa là tuy Chí Phèo đã chết nhưng bi kịch Chí Phèo vẫn còn, nếu không xoá bỏ cái xã hội thối nát ấy đi.
Từ hình tượng Chí Phèo, tác phẩm toát lên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Thứ nhất là giá trị hiện thực. Câu chuyện là bức tranh phản ánh sự tha hoá của người nông dân nghèo khổ dưới ách thống trị của thực dân phong kiến thời Pháp thuộc. Phản ánh nỗi khổ của nông dân, Nam Cao không đi sâu vào nạn sưu thuế, nạn chiếm đoạt ruộng đất, nạn tô tức, quan lại tham nhũng, thiên tai địch hoạ,..
mà ở truyện ngắn Chí Phèo, tác giả tập trung khai thác trên phương diện người, nông dân nghèo bị bạo lực đen tối tàn phá về tâm hồn, huỷ hoại nhân tính, phu định giá trị và tư cách làm người.
Chí Phèo phản ứng quyết liệt, gay gắt bằng thái độ ngang ngược, liều mạng, gây gổ, chửi bới... Lúc nào hắn cũng say, lúc nào cũng sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, kêu làng. Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm. Hắn biết đâu vì hắn làm tất cả lúc say, hắn say thì hắn làm bất cứ thứ gì người ta sai hắn làm. Dân làng sợ hãi xa lánh và ghê tởm hắn. Từ anh Chí lương thiện, bị hai thế lực cường quyền và định kiến làm cho tha hoá, đã biến thành Chí Phèo, con quỷ làng Vũ Đại. Chí Phèo sống cũng như chết. Sinh ra ở làng Vũ Đại nhưng hắn lại bị chính dân làng Vũ Đại từ chối, ruồng bỏ. Không những Chí Phèo khổ về vật chất mà còn phải sống kiếp sống tối tăm như thú vật. Chí Phèo đã bị xã hội rạch nát cả bộ mặt người, bị cướp đi linh hồn người để rồi bị loại khỏi cộng đồng xã hội.
Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách của nhân vật Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo sự huỷ hoại ghê gớm của cái xã hội suy đồi đối với phẩm chất, nhân cách của người nông dân cùng khổ.
Tác phẩm Chi Phèo là bức tranh phản ánh chân thực và sâu sắc bộ mặt nông thôn Việt Nam trong xã hội thực dân, phong kiến trên bình diện đấu tranh giai cấp. Hành động Chí Phèo vung dao đâm chết bá Kiến không phải là vô thức, càng không phải là vụ giết người của gã Chí Phèo lưu manh mà cao hơn thế, đó là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân cùng khổ đã thức tỉnh về quyền sống, uất ức vùng lên. Nhà văn Nam Cao đã khẳng định tính chất khốc liệt của mối xung đột giai cấp ở nông thôn là không thể hòa giải được. Xung đột ấy càng nén xuống càng dễ bùng nổ. Mâu thuẫn giai cấp dường như đã lên tới đỉnh điểm, cần phải được giải quyết theo chiều hướng tích cực nhất.
Hình tượng Chí Phèo còn thể hiện giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm. Nhà văn Nam Cao đã phản ánh sự cùng cực không lối thoát của nông dân trong xã hội đương thời bằng ngòi bút hiện thực sắc sảo và sự thông cảm, thương xót chân thành. Nam Cao đi sâu thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nông dân nghèo bị áp bức, mà Chí Phèo là đại diện.
Hổi trẻ, Chí là người thấp cổ bé họng nhất và cũng bị ức hiếp nhiều nhất ở làng Vũ Đại. Càng ở hiền thì càng không gặp lành, Chí bị hắt hủi, bị xúc phạm về nhân phẩm, bị lăng nhục một cách bất công. Chí khốn cùng hơn cả hạng cùng đinh. Vốn hiền như đất, nhưng càng hiền thì hắn lại càng bị đạp sâu xuống bùn đen và cuối cùng thì không còn được coi là con người, phải sống kiếp thú hoang. Tuy nhiên, Chí Phèo vẫn mong muốn được sống một cuộc đời bình thường, được hưởng hạnh phúc đơn sơ như mọi người. Chất nhân văn thấm đẫm trong ngòi bút của nhà văn toát lên từ những chi tiết ấy.
Đoạn viết về sự thức tỉnh của tính người trong lương tri Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ, thể hiện tư tưởng nhân đạo cao cả của ngòi bút Nam Cao: khi cái ác gặp tình thương thì nó sẽ được hoá giải và bản tính lương thiện sẽ trở về.
Tư tưởng nhân đạo còn thể hiện ở đoạn văn miêu tả điểm đỉnh tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Tuy là con quỷ của làng Vũ Đại nhưng tính thiện trong con người Chí Phèo chưa chết hẳn. Chí Phèo thà chết chứ quyết không chịu quay về kiếp sống thú vật nữa. Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn đặt ra một vấn đề lớn về quyền sống của con người: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời? Đó là câu hỏi mà xã hội khi ấy chưa thể có lời giải đáp.
Nam Cao đã thành công xuất sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ để diễn tả quá trình tâm lí phức tạp và khắc hoạ tính cách nhân vật vừa độc đáo vừa có ý nghĩa điển hình cao độ. Với giá trị nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật độc đáo, truyện ngắn Chí Phèo được coi là một trong những tác phẩm hay nhất của nền văn xuôi hiện đại và Nam Cao xứng đáng là nhà văn hiện thực nổi tiếng của giai đoạn văn học trước Cách mạng tháng Tám.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 7
Truyện ngắn Chí phèo là một trong những tác phẩm nổi bậc nhất viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Tác phẩm có giá trị phản ánh hiện thực và giá trị nhân đạo hết sức to lớn. Một góc nhìn khác biệt về hiện thực cuộc sống giúp Nam Cao phát hiện và kịp thời ời phản ánh chân thực xã hội Việt Nam trong đêm trước Cách mạng.
Giá trị hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo
Tác phẩm phản ánh những mâu thuẫn, xung đột gay gắt ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám trên bình diện rộng lớn và tầm khát quát lớn hơn.
Trước hết là mâu thuẫn giữa nội bộ giai cấp thống trị ở cấp làng xã. Cụ thể là mâu thuẫn sống còn giữa phe cánh Bá Kiến và những kẻ có thế lực khác. Tại làng Vũ Đại - một mảnh đất "quần ngư tranh thực", các phe nhóm tìm cách thanh trừng lẫn nhau. Chúng lún nhau xuống bùn và luôn ra sức tác oai tác oái. Chúng không trừ bất kì thủ đoạn nào để có thể hạ bệ lẫn nhau. Càng xung đột, chúng lại càng mạnh lên vì không ngừng tăng cường lực lượng và sức mạnh của mình để sinh tồn. Điều đáng nói là chính mâu thuẫn gay gắt giữa hai phe là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai ương cho những người dân lương thiện.
Tiếp đến là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp nông dân. Đây là mâu thuẫn xã hội quyết liệt nhất.
Tiêu biểu cho giai cấp thống trị là nhân vật Bá Kiến. Bá Kiến hội tụ đủ những điều xấu xa và tàn bạo của một kẻ thống trị điển hình. Lão không những gian manh mà còn xằng bậy hết sức. Lão không những tàn bạo, độc đoán mà còn hết sức khôn ngoan, quỷ quyệt.
Đây là một góc nhìn sâu sắc của nhà văn về giai cấp thống trị trong xã hội. Bá Kiến khác với một số nhân vật khác như Nghị Quế (trong Tắt đền - Ngô Tất Tố) hay Nghị Lại (trong Bước đường cùng - Nguyễn Công Hoan ), dù có tham lam nhưng không xảo trá. Bá Kiến giỏi che đậy. Lão sinh ra trong gia đình sáu đời làm lý trưởng. Lão giỏi trong việc trị dân. Trời phú cho lão cái giọng quát rất sang và nụ cười Tào Tháo.
Trong phép trị người, lão có phương sách thống trị hẳn hoi: mềm nắn rắn buông, túm thằng có tóc chứ không túm thằng trọc đầu, lấy thằng đầu bò trị thằng đầu bò, dùng thằng liều trị thằng liều. Lão lại hết sức khôn ngoan, lọc lõi róc đời. Lão tìm mọi cách đẩy người khác xuống nước rồi giả vờ vớt lên. Hãm hại người ta nhưng cuối cùng lại để người ta mang ơn mà làm việc cho lão. Từ tội nhân mà lão biến thành ân nhân. Còn nạn nhân thì biến thành tội nhân phải ghi ơn cứu vớt của lão. Thật là cách đối nhân xử thế thâm hiểm vô cùng.
Chí Phèo tiêu biểu cho số phận người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện nhưng xui rủi bị đẩy vào con đường tha hóa để rồi bị loại ra khỏi xã hội loài người và khi thức tỉnh lương tâm phải chết một cách thảm khốc.
Cuộc đời Chí Phèo là chuỗi dài của những khổ đau cùng cực. Không chỉ Bá Kiến là kẻ trực tiếp tước đoạt quyền sống, quyền làm người của hắn mà xung quanh Chí còn có biết bao thế lực khác. Không Bá Kiến thì kẻ khác cũng gây ra những bất hạnh đối với cuộc đời hắn thôi. Sự chuyển biến của Chí Phèo cũng là sự chuyển biến của người nông dân trước Cách mạng. Trong bước đường cùng, họ cũng làm liều, họ cũng vùng lên tìm lối thoát. Nhưng càng phản khán, cái dây ràng buộc của giai cấp thống trị như chiếc thòng lọng càng xiết chặt hơn. Cuối cùng cũng đi vào bế tắc, tuyệt vọng.
Nam Cao cũng phát hiện ra mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị thực dân và giai cấp nông dân là mâu thuẫn không thể điều hòa được. Giai cấp thống trị với tham vọng vơ vét thật nhiều tài sản và không ngừng đàn áp nông dân để củng có quyền thống trị của mình. Còn giai cấp nông dân trong cảnh sống bức bối, ngột ngạt không ngừng phản kháng mãnh liệt. Đó là một quy luật tất yếu của xã hôi. Hễ còn xã hội bất công, vô nhân đạo thì vẫn còn hiện tượng Chí Phèo. Hay rộng hơn là hiện tượng người thiện lương bị tha hóa rồi phải chết một cách thê thảm.
Giá trị nhân đạo của truyện ngắn Chí Phèo
Chí Phèo là một bài ca cảm động về tình yêu thương con người
Qua cuộc đời và số phận đầy bi thảm của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao thể hiện sâu sắc tình yêu thương vô hạn của mình đối với những số phận khổ đau trong cuộc đời. Dù xuyên suốt tác phẩm chỉ là một giọng kể khách quan sắc lạnh. Nhưng ẩn sâu trong đó là một nỗi đau và niềm thương sót đối với bi kịch con người bị tước đoạt cả quyền được sống và quyền được làm người một cách chính đáng. Đó là nỗi đâu về hiện trạng con người bị chà đạp, bị hủy hoại cả nhân hình lẫn nhân tính. Từ tư cách con người phải sống như một con vật vô tri và đơn độc.
Không những ở nhân vật Chí Phèo, cả nhân vật Thị Nở cũng là một thành công của Nam Cao. Bên trong con người đàn bà xấu xí đến "ma chê quỷ hờn" kia lại có một sự cảm thông cao quý mà những người bình thường, đẹp đẽ khác không có được. Trong người đàn bà ngờ nghệch, dở dở ương ương ấy lại có một tình yêu thánh thiện, vô tư đến thế. Có lẽ, chỉ có một tría tim không toan tính như Thị Nở mới thấu hiểu, mới không sợ hãi, thù ghét, mới có thể cảm hóa được con quỷ tàn bạo trong con người Chí Phèo.
Chí Phèo là một bản cáo trạng đanh thép xã hội bất nhân đã chà đạp lên nhân phẩm con người, đẩy người nông dân hiền lành vào bước đường cùng không lối thoát.
Chính cái xã hội vô nhân đạo và giai cấp thống trị bất nhân ấy đẩy những người nông dân lương thiện vào con đường tha hóa, biến dạng đến khủng khiếp. Bá kiến là một đại diện điển hình và hết sức sinh động cho cái xã hội "chó đểu" ấy. Hằng ngày, hắn cưỡng đoạt, cướp bóc, vun vét cho thật đầy túi tham của hắn. Ghét ai thì hắn làm cho điêu đứng. Thâm hiểm nhất là cái mưu trị người của hắn. Hắn âm thầm xô cho người ta ngã rồi đưa tây đỡ họ dậy để họ phải mang ơn. Mấy thằng cứng đầu không trị được thì hắn dùng, lấy "đầu bò trị mấy thằng đầu bò". Quả thực, hắn là tên cáo già thâm hiểm, xảo quyệt và gian manh lừng lẫy.
Xã hội ấy cũng tìm cách tiêu diệt tận cùng quyền sống của con người, hủy hoại cả nhân hình lẫn tính của họ. Bất kì một sự phản kháng, thậm chí là hiền lành nào cũng đều bị tiêu diệt. Cái giai cấp thống trị ấy không muốn để ai được yên. Chí Phèo hiền như cục đất, tưởng chừng như một cuộc đời êm đẹp sẽ đến với Chí để bù đắp cho cái thân phận mồ côi, hèn nhục của hắn. Có ai ngờ, một ngày, người ta bắt giải hắn lên huyện không rõ vì lí do gì. Rồi hắn bặt vô âm tính luôn từ đó.
Bảy, tám năm sau hắn trở về làng, cái anh Chí hiền lành ngày xưa giờ không còn nữa. Hắn trở nên thô lỗ, ngang ngược và thích rạch mặt ăn vạ như bao kẻ côn đồ khác.
Lần thứ nhất, Chí Phèo bị tước đoạt quyền sống và quyền làm người một cách trắng trợn và tàn bạo. Trong lòng Chí Phèo chất chứa hận thù. Nhưng hắn không thể nhận ra ai mới là kẻ thù đích thực của mình. Thế nên hắn mới chửi mọi thứ có liên quan tới hắn và hi vọng trong đó có cả kẻ thù của mình. Đó là một sự phản kháng mù quáng và tuyệt vọng của người nông dân trong bóng tối cuộc đời. Họ quá khổ nhưng không biết vì sao họ khổ, ai làm họ khổ?
Lần thứ hai, khi tình yêu của Thị Nở đánh thức lương tri và khát vọng sống lương thiện của hắn trong chuỗi ngày say sỉn, Chí Phèo lại bị cướp mất đi cơ hội duy nhất. Thị Nở rời đi, cánh cửa bước vào cuộc đời đóng sầm lại trước mắt. Hắn rơi vào tuyệt vọng cùng cực. Trong phẫn uất, Chí nhận ra cái nguyên nhân đích thực gây nên bi kịch cho cuộc đời hắn. Đó chính là Bá Kiến. Và một kết cục bi thảm đã xảy ra như một quy luật tất yếu. Chí Phèo cầm dao đâm chết Bá Kiến rồi tự vẫn sau đó. Hắn chết trước ngưỡng cửa bước vào cuộc đời.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo là một minh chứng sinh động cho cái hiện thực tàn khốc của xã hội Việt Nam trước Cách mạng. Muốn tồn tại bằng nhân hình thì nhân tính mất đi, phải bán đi linh hồn của mình để tồn tại. Một khi nhân tính trở về thì nó không thể chấp nhận cái nhân hình ấy. Nó cự tuyệt, nó xua đuổi một cách quyết liệt. Cái chết của Chí Phèo là tất yếu, không thể khác được.
Tác phẩm trân trọng, khẳng định và đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người
Dù sống trong bối cảnh ngột ngạt nhưng bản chất lương thiện vẫn tiềm tàng trong những con người nghèo khổ.
Trước hết là bản chất lương thiện ở những con người xấu xí, kệch cỡm chưa hẳn đã mất đi. Chí Phèo bị chà đạp nhân hình lẫn nhân tính. Bá Kiến nhuộm đen nhân tính Chí Phèo. Trong con người tưởng như cả xác lẫn hồn đều mất đi nhưng vẫn tồn tại bản chất lương thiện.
Xã hội dù khô héo tình người nhưng nhân tính trong Chí vẫn chưa cạn. Chí khóc khi được ăn cháo hành của thị Nở chính là minh chứng sinh động cho bản chất lương thiện trỗi dậy của y. Chí trở lại lương thiện bằng nước mắt. Tình thương của thị giúp bản tính thiện lương của Chí hiện hình. Rồi Chí lại khóc khi không níu kéo được Thị Nở ở lại. Một khi còn biết khóc, còn biết sợ hãi thì cái nhan tính con người hãy còn đó.
Chính Thị Nở là phát hiện lớn nhất về Chí Phèo của nhà văn Nam Cao. Thị dở hơi, đần độn. Người đàn bà ấy là sản phẩm không hoàn thiện của tạo hóa nhưng ở thị có cái mà cả một xã hội lạnh lùng kia không có: ấy chính là tình thương. Tình thương của thị đánh thức lương tâm Chí, cứu vớt số phận Chí. Chính thị đã mang đến cho Chí cuộc sống đúng nghĩa một kiếp người, dù chỉ có năm ngày ngắn ngủi.
Sự thức tỉnh lương tâm của con người lầm lỗi là nguồn cội của sức mạnh phản kháng quyết liệt, dữ dội như vũ bão. Cái chết của Chí chính là sự chiến thắng của lương tâm. Chí Phèo gắng gượng về với xã hội con người. Hắn đã rất cố gắng. Chỉ cần mở được cánh cửa là trở về. Nhưng nó lại đóng sầm lại trước mặt Chí. Nếu Chí không chết, Chí lại sẽ trở về cuộc sống của loài quỹ dữ. Chí chết trên ngưỡng cửa trở về với xã hội loài người.
Sự thức tỉnh khiến y nhận ra được giá trị của sự lương thiện, thà chọn cái chết còn hơn là quay về cuộc sống loài quỹ, loài thú như trước đây.
Tác phẩm Chí Phèo đặt ra một câu hỏi lớn: làm sao để con người được sống trong lương thiện?
Ai cũng muốn sống lương thiện. Đó không chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi chính đáng của con người. Nhưng trong xã hội tàn bạo ấy, họ không thể có được một cuộc sống yên ổn như chính bản chất của họ. Bá Kiến và những phe cánh đối địch liên tiếp gây nên những nghịch cảnh đớn đau đối với người nông dân. Không chỉ Chí Phèo bị tha hóa, mà trước đó đã có những Binh Chức, Binh Thọ, Tư Lãng,... Một khi còn có những tên như Bá Kiến thì vẫn xuất hiện những người như Chí Phèo. Bởi thế, tìm kiếm sự lương thiện trong xã hội đen tối ấy quả thực còn khó hơn cả cái chết.
Qua tác phẩm, Nam Cao đã chỉ ra, hãy ngăn chặn xã hội vô nhân đạo làm tha hóa con người là phải thay đổi, cải tạo xã hội để nó nhân đạo hơn. Chỉ khi đó lương thiện mới được xác lập.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 8
Chí Phèo là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao. Chính truyện ngắn này đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945. Trước khi Chí Phèo ra đời đã có hàng loạt tác phẩm hiện thực viết về người nông dân bị áp bức, bóc lột đương thời mà tiêu biểu là Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Nhưng khi viết Chí Phèo, quả thật là Nam Cao đã "khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có". Mà một trong những sáng tạo độc đáo của Nam Cao là xây dựng nhân vật hình tượng Chí Phèo.
Chí Phèo sinh ra đã là một đứa trẻ vô thừa nhận. Một buổi sáng, một anh đi thả ống lươn bắt gặp đứa trẻ trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp để bén cái lò gạch bỏ không. Anh ta đem về cho một người đàn bà góa mù. Người này bán hắn cho một bác phó cối không con. Mặc dù bị mua đi bán lại, nhưng ít ra tuổi thơ của Chí Phèo cũng còn được sông trong bàn tay cưu mang của người lao động. Khi đến tuổi trưởng thành, Chí Phèo đi làm canh điền cho nhà bá Kiến. Có thế nói khởi điểm cuộc đời Chí Phèo là một con người lương thiện. Nhưng vì sao từ một con người hiền lành, nhút nhát và có lòng tự trọng. Chí Phèo lại trở thành một ke đâm thuê chém mướn, "một con quỷ dữ của làng Vũ Đại". Nguyên nhân của sự tha hóa là sự ghen tuông của bá Kiên. Hắn đã bò tù Chí Pheo với một lí do hết sức tầm thường là ghen với anh canh điền hiền lành, khỏe mạnh nhưng lại được lòng bà Ba. Nếu như sự ghen tuông của bá Kiến là sự khởi đầu thì nhà tù thực dân phong kiến là bước tiếp theo nhào nặn Chí Phèo trở thành một con người biên chất, tha hóa. Lúc bước chán vào nhà tù, Chí Phèo chỉ là một anh chàng nông dân hiền lành, ngờ nghệch. Nhưng lúc ra khỏi nhà tù, hắn đã trỞ thành một con người khác hẳn - khác từ cái vỏ bề ngoài cho tới tính cách bên trong. "Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng cá, cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mật thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trong gớm chết. Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trố rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay củng thế! Trông gớm chết". Sự thay đối về ngoại hình này chỉ là bước đầu tiên đổ Nam Cao miêu tả sự biên đổi, tha hóa bên trong Chí Phèo, "hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa dến xế chiều".
Cuộc đời của Chí Phèo cứ say tràn từ cơn này sang cơn khác. Chí gây sự với cha con bá Kiến, đội Tảo, nhưng Chí Phòo cũng dọa đốt quán bà hàng rượu và đem tai họa đến cho nhiều người dân vô tội khác. Lý giải quá trình biến chất này của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã chí ra được nguyên nhân chính: Đó là do những kẻ như bá Kiến, và sâu xa hơn, là xã hội thực dân phong kiến gây nôn. Chí vừa là nạn nhân khốn khô của bọn cường hào, địa chủ vừa là "con quỷ dữ" đối với nhân dân làng Vũ Đại. Chí Phèo sông cô độc giữa làng, trong sự ghê rợn xa lánh của toàn thể loài người, trong những thành kiên nặng nề của xã hội. Chí Phèo tức tối, đau khổ không ai biết, Chí Phèo chửi bới, kêu làng chẳng ai nghe. Chúng ta tưởng rồi Chí Phèo sẽ sông và chết đi trong cái hoang mạc cô đơn của chính mình. Thế nhưng thị Nở đã xuất hiện và mang đến tình vêu. Sự xuất hiện của thị Nở như một tia chớp làm sáng lên cuộc đời tăm tôi dằng dặc của Chí Phèo. Và chính thị Nở đã vựt Chí Phèo đứng dậy từ vực sâu của sự tha hóa. Thật bất hạnh cho một người con gái nêu như sinh ra trong đời đã không là một cô gái đẹp. Và nhân vật thị Nở lại càng bất hạnh hơn khi thị Nở chẳng có gì ngoài ba thư nghèo, xấu, ngán ngơ. Ba điều ấy như ba mặt của một lô cốt hình tam giác mà Nam Cao đã nhốt chặt nhân vật thị Nở vào trong đó. Nhưng bên trong cái xấu xí ấy là cả một tấm lòng biết cảm thông và chia sỏ. Lòng tốt và sự cảm thông của thị Nở tuy rằng không thể làm thay đổi một số phận nhưng cũng đã cứu được tâm hồn một con người.
Và môi tình Chí Phèo - thị Nở là một môi tình rất mực trần trụi nhưng cũng rất thực lãng mạn. Trần trụi bới vì họ là hai con người sống tận đáy xã hội, đều bị xã hội miệt thị và khinh ré như nhau. Ban đầu họ đến với nhau chỉ đơn thuần là do nhu cầu xác thịt, do nhu cầu của bản năng tầm thường và sự gặp gỡ ấy chỉ là sự gặp gỡ giữa hai thế xằc, hai c.on thú. Nhưng nếu như chỉ có hiện thực trần trụi ấy thôi thì Nam Cao đã không còn là Nam Cao và môi tình này cũng không có gì đáng nói. Dưới ngòi bút tưởng chừng như cười cợt, tàn nhẫn của tác giả là cả một tấm lòng nhân đạo. Đó là tình yêu thương chân chính rất được ông cảm thông và bênh vực. Thực ra, trong giai đoạn văn học 1930 - 1945 có nhiều mối tình rất đẹp nhưng nghiêm chỉnh mà nói thì có mối tình Chí Phèo - thị Nở là môi tình đẹp nhất, ở những mối tình khác, trai gái trao cho nhau sự sống tinh thần đã có sẵn. Còn ở môi tình này, họ đã trao cho nhau sự sông được chắt chiu từ cõi chết, từ đám rong rêu gỗ mục của một đời thống khố mênh mông này.
Sau đém gặp gỡ với thị Nở, Chí Phèo cầm thấy bâng khuâng mơ hồ buồn và lắng nghe những âm thanh của cuộc sống. Nếu như lâu nay say vô tận, "có lẽ chưa bao giờ tỉnh táo để nhỞ rằng có hắn ở trên đời" thì sáng nay lần đầu tiên hắn đã tỉnh táo. Và hắn tỉnh táo để nhìn lại cuộc đời mình. Từ những ngày xưa rất đổi xa xôi, đến hiện tại đáng buồn và nhất là tương lai chắc chắn sẽ là "đói rét, ốm đau và cô độc". Lần đầu
tiên Chí Phèo đốì diện với chính mình và nhận ra tình trạng tuyệt vọng của bản thân. Và bát cháo hành bình dị mà thị Nở đem đến đã có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với Chí. Nó đã góp phần đánh thức tâm hồn Chí Phèo, giúp Chí Phèo trở lại đúng bản chất của mình, trở lại là một anh canh điền trong sáng, lương thiện năm xưa. "Đó là cái bản tính thường ngày bị lấp đi". Hắn ao ước được làm người, được vào địa hạt những tương giao nhân loại, được trở về với cuộc sống như mọi người.
Nhưng cánh cửa cuộc đời đã đóng chặt, không cho Chí Phèo trở lại làm người. Xã hội - qua thái độ của bà cô thị Nở và của cả thị Nở nữa đã quá phũ phàng cự tuyệt khát vọng làm người của Chí Phèo. Con đường sông lương thiện mà Chí Phèo tưởng như đã trải ra trước mắt mình thực ra không hề có. Nó cũng như cái mặt hồ ảo ảnh trong sa mạc mênh mông một buổi trưa nắng cháy đối với người lữ hành đang khát nước. Và Chí Phèo đã kết thúc bi kịch cuộc đời mình khi vác dao đến đâm chết bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời mình. Trước đây để sông thì Chí phải từ bỏ nhân phẩm, bán linh hồn cho quỷ dữ. Đến khi ý thức về nhân phẩm thức dậy, linh hồn trở về thì lại phải thủ tiêu cuộc sống của mình. Có thể nó đã chết ngay trên ngưỡng cửa trở về sự sông.
Trong trạng thái chập chờn say tỉnh, chưa nhận thức được ngay kẻ thù của mình. Những người đầu tiên mà Chí nghĩ đến đã là bà cô thị Nở và thị Nở - kẻ trực tiếp gây nên sự đổ vỡ của môi tình. Nhưng trên con đường dẫn đến nhà thị Nở, điều gì đã khiến Chí Phèo rẽ vào nhà bá Kiên? Có người lí giải hành động này chỉ là sự quon chân của Chí Phèo. Nhưng thực ra không hẳn vậy. Trong trạng thái chập chờn say tỉnh đã từng bước lần ra đầu mối của vấn đề. Đối mặt với bá Kiến, Chí dõng dạc: "Tao muôn làm người lương thiện". Hai chữ "lương thiện" thót ra từ cửa miệng của Chí Phèo với biết bao nỗi niềm và tâm trạng đau đớn. Nó vừa là niềm khát khao đòi hỏi, đồng thời cũng là tiếng kêu đầy tuyệt vọng. Và động lực thúc đẩy giết bá Kiến không trực tiếp từ bi kịch tha hóa mà từ bi kịch bị cự tuyệt quyền được làm người lương thiện, từ nỗi đau khổ vì đã biết ý thức về nhân phẩm của mình. Cái chết của Chí Phèo ít nhiều mang một ý nghĩa giai cấp và ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nó là bản cáo trạng bọn địa chủ cường hào gian ác và luận tội cả chế độ xà hội tàn bạo đen tối, xã hội thực dân phong kiến.
Tác phẩm Chí Pheo của Nam Cao được dư luận đánh giá cao chính là ở giá tri hiện thực của nó. Thông qua số phận Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một cách sâu sắc hiện thực xà hội Việt Nam những năm 1940 -1945 và thực trạng đời sống người nông dân Ở những năm đen tối, ngột ngạt nhất.
Giá trị nhân đạo của Chí Phèo được nhà văn thê hiện với một bút pháp hết sức độc đáo, khác hẳn với các nhà văn đương thời. Đọc tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố hay Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, người đọc dỗ dàng cảm nhận được những rung cảm, xót thương của nhà văn trước sô phận của các nhân vật. Nhưng với Chí Phèo của Nam Cao thì khác hẳn.
Ngòi bút của Nam Cao ở đây thật sắc sảo, lạnh lùng, đối lúc cười cợt, thậm chí có khi phũ phàng đối với nhân vật của mình. Nhưng thật ra đây chỉ là cảm giác bên ngoài. Đọc kĩ lại tác phẩm, ngẫm nghĩ sâu hơn vào cuộc đời, số phận nhân vật của Nam Cao, chúng ta mới thấu hiểu được tấm lòng nhân đạo rất mực sâu sắc và lớn lao của nhà văn. Nội dung nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo mang tính triết lí cao. Nó đã đật ra một vấn đề xã hội nóng bỏng, bức xúc: đó là tình trạng nhân tính con người đang bị chà đạp, bị biến chất. Số phận đau khổ của Chí Phèo không phải là cá biệt và sự biến chất, tha hóa của Chí Phèo là do xã hội thực dân phong kiến gây ra. Với tác phẩm Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã thỉnh lên một tiếng chuông báo động, lưu ý mọi người về cuộc sống của một tầng lớp người cùng khổ nhất trong xã hội.
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã từng viết: "Sông trên đời này cần có một tấm lòng". Một tấm lòng để gió sẽ cuốn đi, ra sông, ra bể, lên núi, xuống vàng và rồi ở đâu cũng cảm nhận được "Những gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim". Thật vậy, Nam Cao đã xây dựng hình tượng nhân vật Chí Phèo với tất cả tấm lòng nhân đạo và niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người cùng khổ. Và người đọc hôm nay đã hiểu thêm về thân phận con người trong xã hội cũ, từ đó càng thêm trân trọng và bảo vệ những gì hạnh phúc của mình đang có được. Chí Phèo mãi mãi là một tác phẩm văn học hiện thực xuất sắc nhất của dòng văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 9
Trong nền văn học hiện thực nước ta ngoài những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng...thì cái tên Nam Cao được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá rất cao về những tác phẩm tố cáo hiện thực của nhà văn này. Với nhưng quan điểm tích cực về văn chương Nam Cao đã cho ra đời những tác phẩm "khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Hẳn ai cũng biết đến tác phẩm nổi tiếng của ông đó chính là Chí Phèo, vẫn là một đề tài về người nông dân trong xã hội phong kiến thế nhưng Nam Cao không đi khám phá nhân vật về cuộc sống nghèo khooe phải bán chó bán con mà nhà văn nói về những số phận nông dân bị tước đoạt quyền làm người. Đặc biệt qua truyện ngắn này ta thấy được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Trước hết là giá trị hiện thực, vậy giá trị hiện thực là gì?. Có thể tạm định nghĩa là giá trị nói lên những bộ mặt hiện thực của cuộc sống mà từ đó khi nhìn vào đấy người ta biết rằng hiện thực nước ta lúc bấy giờ phải sống như thế nào. Chính vì thế nhà văn hiện thực Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí Phèo để từ một con số không tròn trĩnh để từ đó ta thấy được những bi kịch mà xã hội phong kiến thực dân đã gây nên cho một người dân lương thiện hiền lành.
Giá trị hiện thực trong truyện ngắn đó là phản ảnh quy luật ở nước ta thời Pháp thuộc, người dân lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng trở thành lưu manh hóa bần cùng hóa, thành một con quỷ dữ và không thể quay trở lại làm người được nữa. Tất cả những điều nói trên được thể hiện rõ qua cuộc đời đầy những đau thương bi kịch của nhân vật Chí Phèo.
Cách mở đầu câu chuyện của tác giả cũng góp phần thể hiện được hiện thực cuộc sống những năm ấy. Chí Phèo xuất hiện với dáng vẻ của một thằng say rượu vừa đi vừa chửi. Đó là cách mà hắn giao tiếp với mọi người xung quanh. Thế nhưng nào có ai tiếp chuyện Chí, họ không thèm chấp Chí Phèo khi chửi cả làng Vũ Đại.Cứ say là Chí chửi "bắt đầu hắn chửi trời, có hề gì trời có của riêng nhà nào, sau đó hắn chửi đời, đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình lên hắn chửi cả làng Vũ Đại nhưng làng Vũ Đại ai cũng nghĩ chắc nó chừa mình ra". Cứ thế chỉ một thằng say rượu với ba con chó cũng làm inh ỏi cả làng nước lên rồi. Câu văn chua chát ấy giúp cho chúng ta thấy được Chí vốn là một con người nhưng lại được so ví đồng loại với ba con chó. Những điều Chí nói không ai thèm đáp lại. Người ta đâu coi Chí là con người.
Ngay từ nhỏ Chí sinh ra đã mang bi kịch lớn. Là một đứa bé mới đỏ hỏn vậy mà đã bị mẹ bỏ rơi. Chí chỉ được bọc trong một cái khăn, người tím ngắt lại và bỏ ở chỗ lò gạch cũ. Dẫu có may mắn được một anh nông dân cứu về đem lại sự sống cho Chí nhưng cuộc đời Chí lại chẳng một chút nào tươi sáng. Sống ở mảnh đất nghèo khó lại "quần ngư tranh thực" Chí được một người nhận nuôi nhưng vì nghèo mà Chí cũng phải đi ở đợ cho nhà người ta. Chí quả là một con người bất hạnh.
Không những tuổi thơ thiếu tình thương cha mẹ đến khi lớn lên anh cũng vẫn không thoát khỏi bi kịch. Chí lớn lên thành một chàng trai khỏe mạnh hiền lành. Chí ở đợ cho nhà Bá Kiến thế nhưng bà ba nhà Bá Kiến lại cứ thích Chí đấm bóp cho. Khổ một nỗi là Bà cứ bắt bóp lên cao cao mãi. Chí chỉ thấy nhục chú chẳng thấy yêu thương gì. Thế rồi Bá Kiến phát hiện và đã đẩy anh chàng lương thiện vào nhà tù thưc dân. Thế là quãng cuộc đời nghèo khổ nhưng bình yên của Chí cứ thế mà kết thúc một cách nhanh chóng.
Chí đi tù ra cánh cửa của nhà tù thực dân đã nhuộm đen tâm hồn chí. Anh không còn là một chàng thanh niên khỏe mạnh lương thiện nữa mà trở thành một con quỷ dữ. Người dân cứ thấy anh ở đâu là tránh xa. Nam Cao đã thành công khi miêu tả ngoại hình Chí Phèo ở tù ra. Nào là cái răng trắng hếu, cái đầu cạo trọc lóc, cái mặt thì cong cong lên, hai mắt gườm. Trang phục mà Chí mặc trên người là chiếc quần nái đen và cái áo tây vàng.
Không những thế hình ảnh ông tướng cầm chùy còn được xăm ở cánh tay hắn. Vậy là hắn trông chẳng còn vẻ gì là một người lương thiện nữa rồi. Từ đây cuộc đời Chí trải dài trên những cơn say, ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, rạch mặt ăn vạ trong lúc say. Chí trở thành một tay sai đắc lực của Bá Kiến. Và kết cục thì Chí vẫn cứ không được làm người. cho đến khi chết thì cả làng Vũ Đai cũng không ai coi Chí là người cả. Đó phải chăng là bi kịch tinh thần đau đớn nhất mà một con người phải gánh chịu. Sống là kiếp con người mà cũng không được trọn kiếp con người.
Không chỉ nói lên quy luật người nông dân lương thiện bị tước quyền làm người nhà văn còn tố cáo mạnh mẽ chế độ thực dân phong kiến đã cướp đi quyền làm người của những người nông dân lương thiện. Xã hội ấy đã biến Chí thành một con quỷ dữ và tuyệt đối không cho Chí quay lại làm người. Chí chỉ còn có cái chết để kết thúc cuộc sống quỷ dữ ấy chứ không thể nào trở lại làm người được.
Ngoài giá trị hiện thực sâu sắc tác phẩm còn lấp lánh những giá trị nhân đạo cao cả. Giá trị nhân đao chính là cái nhìn hướng thiện của con người, nhìn vào những điểm tốt của con người, yêu thương con người và hướng cho họ đến một tương lai tươi sáng hơn.
Thứ nhất giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua sự đồng cảm của nhà văn dành cho nhân vật của mình. Nhà văn miêu tả Chí Phèo là một con quỷ dữ không một chút thương tiếc, Nam Cao nhìn nhận vấn đề và nói thật vấn đề thế nhưng không phải ông không thương nhân vật của mình. Nhà văn càng nói rõ cái tàn ác của Chí bao nhiêu thì càng thể hiện được tấm lòng thương cảm sâu sắc bấy nhiêu. Bởi vì tô đậm được cái xấu biểu hiện bên ngoài Chí là nhà văn tố cáo được xã hội tàn ác kia. Chính bởi đồng cảm với số phận ấy cho nên nhà văn mới dành nhiều tình cảm cho Chí đến thế. Nam Cao hiểu hết được những suy nghĩ của chí cả lúc say cho đến lúc tỉnh.
Thứ hai giá trị nhân đạo của tác phẩm là sự yêu thương con người. Nhà văn khẳng định chính tình yêu thương con người sẽ sưởi ấm và làm trỗi dậy bản chất tốt đẹp trong Chí. Có thể nói Thị Nở là một món quà mà nhà văn dành cho Chí. Cô ta là một người xấu ma chê quỷ hờn ế chồng, mả hủi thế nhưng lại có công thức tỉnh Chí. Tình yêu dù là bồng bột của Thị đã làm cho Chí kết thúc những tháng ngày say xỉn của mình. Đặc biệt là bát cháo hành của Thị Nở càng làm cho Chí ấm lòng và thấy thị giống như là mẹ mình vậy. Lần đầu tiên Chí khóc sau khi ra tù.
Thứ ba, nhà văn còn giúp chúng ta thấy được bản chất tốt đẹp của người nông dân qua hình tượng Chí Phèo. Đồng thời nhà văn hướng cho nhân vật của mình đến một tương lai tươi sáng hơn. Chí thức tỉnh và nhớ đến ước mơ giản đơn của mình.Đó là vợ chồng có một ngôi nhà để ở hàng ngày chồng cuộc thuê cày mướn vợ ở nhà đan sợi nuôi tằm. ước mơ ấy cho thấy Chí là một người nông dân rất lương thiện. Kể cả khi ra tù thành quỷ dữ, Chí vẫn biết rung động trước một người đàn bà là Thị nở. Điều đó chứng tỏ Chí biết yêu thương. Chí cảm động trước những hành động săn sóc của Thị. Chí khóc và mong muốn Thi sang ở nhà Chí một nhà cho vui. Và cái viễn cảnh sẽ diễn ra giống như ước mơ của Chí. Đó chẳng phải là bản chất tốt đẹp bấy lâu nay của Chí, và anh đang hướng đến một tương lai tươi sáng hay sao?. Chí muốn làm hòa với mọi người và từ đó phần người trong Chí được trỗi dậy. Ngay đến khi cái kết cục thảm khốc kia Chí vẫn cứ khẳng định sự thức tỉnh và đòi quyền làm người của mình. Giá trị nhân đạo là ở đấy.
Chí Phèo trải qua biết bao thời gian đến nay vẫn là một tác phẩm được người đọc yêu thích. Nó không hấp dẫn bởi những lời hoa mĩ sáo rỗng, không cầu kì nhân vật mà chỉ với giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc Chí Phèo đã lôi cuốn biết bao nhiêu thế hệ bạn đọc. Quả thật nhà văn Nam Cao đã có công rất lớn trong việc phản ánh số phận người nông dân trong xã hội cũ.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 10
Trong dòng văn học hiện thực phê phán 1930-1945 Nam Cao là người đến sau, trước đó đã có những cây bút như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan.Nhưng có lẽ với Chí Phèo, Nam Cao đã đem lại cho chúng ta những ấn tượng mạnh mẽ không thể quên về bức tranh đen tối ngột ngạt ,bế tắc của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, đồng thời thức tỉnh cái phần lương tri tốt đẹp nhất của con người, khơi dậy lòng căm ghét cái xã hội tàn ác đã chà đạp lên nhân phẩm cuả con người, thương xót, cảm thông với những thân phận cùng đinh bị giày vò, tha hóa trong chế độ cũ.
Căm ghét xã hôi thực dân phong kiến thối nát, phê phán mãnh liệt các thế lực thống trị xã hội, trên cơ sở cảm thông,yêu thương con người, nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp, đó là cảm hứng chung của các nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn 30-45. Tuy nhiên,trong tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã khám phá hiện thực ấy bằng một cái nhìn riêng biệt. Nam Cao không trực tiếp miêu tả quá trình bần cùng, đói cơm, rách áo dù đó là một hiện thực phổ biến lúc bấy giờ. Nhà văn trăn trở, suy ngẫm nhiều hơn đến một hiện thực con người : con người không được là chính mình, thậm chí không cò được là con người mà trở thành con "quỉ dữ" , do những âm mưu thâm độc và sự chà đạp của một thế lực thống trị tàn bạo. Với một cái nhìn sắc bén, đầy tính nhân văn, bằng khả năng phân tích lý giải hiện thực hết sức tinh tế, bằng vốn sống dồi dào và trái tim nhân ái chan chứa yêu thương, nhà văn đã xây dựng nên một tác phẩm với những giá trị hiện thực và nhân đạo đặc sắc không thể tìm thấy ở các nhà văn cùng thời.
Phải nói rằng trong bất cứ tác phẩm nghệ thuật chân chính nào, giá trị hiện thực bao giờ cũng đi liền với giá trị nhân đạo. Tác phẩm càng xuất sắc, những giá trị ấy càng thẫm thấu và thống nhất với nhau khó tách rời. Chí Phèo của Nam Cao cũng không nằn ngoài quy luật ấy .
Đi vào tác phẩm mở đầu là cảnh Chí Phèo ngất ngưỡng trên đường vừa đi vừa chửi, từ trời đến người đã sinh ra hắn, tiếng chửi hằn học, cay độc và chua xót. Kết thúc là cảnh Chí Phèo giãy đành đạch giữa bao nhiêu là máu tươi. Bao trùm lên tất cả, tác phẩm ám ảnh ta một không khí ngột ngạt, bế tắc đến khủng khiếp, đầy những mâu thuẫn không thể dung hòa của một làng quê Việt Nam trước Cách mạng, với bao cảnh cướp bóc, dọa nạt,giết chóc,ăn vạ gây gỗ v.v..trong đó Chí Phèo hiện lên như một hiện tượng điển hình. Ta hãy lắng nghe nhà văn miêu tả: " Bây giờ thì hắn trở thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín ? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi. Cái mặt hắn không trẻ cũng không già ; nó không phải là mặt người : nó là một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?. Sau khi ở tù về, hắn đã trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên. Hắn ăn trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt, chửi bới , dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nưa, say vô tận. Chưa bao giờ hắn tỉnh và có lẽ chưa bao giờ hắn tỉnh để nhớ hắn có ở đời .....Hắn đâu biết hắn đã phá biết bao cơ nghiệp, đập bao cảnh yên vui ,đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện ...Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn ..." Đoạn văn chất chứ bao nỗi thống khổ của một thân phận đã không còn có được cuộc sống của một con người . Những năng lực nhận biết vốn có của một con người hầu như bị phá hủy , chỉ còn lại năng lực đâm chém,phá phách. Chí Phèo đã bị phá hủy nhân hình lẫn nhân tính như thế là bởi do đâu? Chúng ta thấy nhà văn không tập trung miêu tả dông dài quá trình tha hóa đó mà dường như ông thiên về lí giải và phân tích đâu là cái cội nguồn sâu xa dẫn đến bi kịch đó, chỉ bằng một số phác thảo đơn sơ về Bá kiến,về nhà tù thực dân, về bà cô Thị nở, về dư luận xã hội ...Tong hàng loạt mối liên kết ấy, chúng ta dễ dàng nhận ra : sở dĩ Chí Phèo từ một thanh niên hiền lành như cục đất hóa thành con quỷ dữ là bởi vì Chí, ngay từ thủa lọt lòng đã thiếu hẳn tình ấp ủ yêu thương ,đặc biệt khi lớn lên chỉ được đối xử bằng rẻ khinh, thô bạo và tàn nhẫn. Thủ phạm trực tiếp là Bá Kiến được nhà văn miêu tả là một con cáo già " khôn rốc đời" , "kẻ ném đá giấu tay", " già đời trong nghề đục khoét" , biết thế nào là " mềm nắn rắn buông" ," Hay ngấm ngầm đẫy người ta xuống sông, nhưng lại dắt nó lên để nó đền ơn . Hay đập bàn đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng rồi vứt lại trả năm hào vì thương anh túng quá!". Chính hắn đã lập mưu đẫy Chí Phèo vào tù và sau đó sử dụng Chí Phèo như một tay sai đắc lực phục vụ cho lợi ích và mưu đồ đen tối của mình. Không có Bá Kiến thì không có chí Phèo ,Chí Phèo không chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà còn là phương tiện tối ưu để thống trị : " Không có mấy thằng đầu bò thì lấy ai mà trị mấy thằng đầu bò" ,Chính Bá Kiến đã rút ra kết luận mà theo hắn rất chí lí ấy . Là một kẻ nham hiểm ,nhẫn tâm nhưng Bá Kiến lại hiện ra bên ngoài là một kẻ ôn hòa, xởi lởi ,biết điều , khiến người đời phải nhìn hắn bằng cặp mắt " kính cẩn" ... Vì thế mà hắn lường gạt không biết bao nhiêu người dân chất phát lương thiện . Chí Phèo trở thành tay chân đắc lực của hắn ; thật sự bị biến thành công cụ , phương tiện thống trị cho kẻ thù của mình mà không tự biết .Bá Kiến hiện ra trong tác phẩm như một nhân vật điển hình cho một bộ phận của giai cấp thống trị .Cùng với hắn là Lí Cường ,Chánh Tổng, Đội Tảo,Bát Tùng ...chính chúng đem lại không khí ngột ngạt khó thở cho nông thôn Việt Nam . ...như một sự hỗ trợ gián tiếp nhưng tích cực là hệ thống nhà tù dã man, bẩn thỉu .Quá trình Chí Phèo ở tù không được miêu tả trực tiếp, chỉ biết khi vào tù Chí Phèo là người hiền lành lương thiện. Ra khởi tù, hắn trở làng với cái vẻ hung đồ ,ương ngạnh được học từ đó. Với bấy nhiêu thôi cũng đã quá đủ để ta cảm nhận. Bằng bút pháp độc đáo, tài hoa linh hoạt, giàu biến hóa, Nam Cao khi tả, khi kể theo một kết cấu tâm lí và mạch dẫn dắt của câu chuyện với một cách thức bề ngoài tưởng chừng như khách quan, lạnh lùng và tàn nhẫn nhưng chất chứa bên trong biết bai nỗi niềm quằn quại,đau đớn trước thân phận của kiếp người .Lồng vào bức tranh hiện thực đó là thái độ yêu ghét, là cách phân tích và dánh giá những vấn đề về hiện thực mà nhà văn đặt ra . ngay việc lựa chọn một nhân vật cùng đinh thống khổ nhất của xã hội làm đối tượng miêu tả và gửi gắm biết bao thông cảm, suy tư thương xót ... tự nó đã mang nội dung nhân đạo .Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn nhận của nhà văn đối với nhân vật tha hóa đến tận cùng . Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn dĩ ,chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết .Sự xuất hiện của Thị Nở có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến "ma chê quỷ hờn" ,lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tăm tối của tâm hồn Chí Phèo , làm gợi dậy tính người ở nơi Chí Phèo . Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở , Chí Phèo giờ đây đã cảm nhận được ánh sáng, âm thanh của cuộc đời - tiếng chim vui vẻ , tiếng anh thuyền chèo gõ mái gọi cá , tiếng lao xao của của người đi chợ bán vải ... Đó là những âm thanh quen thuộc ngày nào chả có nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy . Chao ôi là buồn , trong cái phút tỉnh táo ấy Chí Phèo như đã trông thấy tuổi già ,đói rét và cô độc - cái này còn sợ hơn cả ốm đau. Cũng may Thị Nở mang bát cháo tới ,nhìn bát cháo hành bốc khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng : Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con , hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ ...Ôi sao mà hắn hiền ! " Hắn thèm lương thiện - Hắn khao khát làm hòa với mọi người " ... Từ một con quỷ dữ , nhờ Thị Nở , nói đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở , Chí thực sự trở lại làm người ,với tất cả những năng lực vốn có . Một chút tình thương ,dù là tình thương của một người dở hơi, bệnh hoạn,thô kệch,xấu xí ... cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo . thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào ! Bằng chi tiết này, Nhà văn Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ .
Thế nhưng đau đớn thay, rốt cuộc cái mơ ước nhỏ nhoi được làm người lương thiện đó của Chí không đến được với Chí - Ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí - Chí hiểu mình không còn trở về với cuộc sống của cộng đồng lương thiện được nữa .Xã hội đã cướp đi của Chí quyền làm người vĩnh viễn và không trả lại .Những vết dọc ngang trên mặt, kết quả của bao nhiêu cơn say ,bao nhiêu lần đâm chém ...đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời . Cái chết của Chí là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đao ,và cũng là tiếng kêu cứu về quyền làm người , cũng là tiếng gọi thảm thiết : Hãy yêu thương con người , Hãy cứu lấy con người . Đó là tư tưởng và tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo sâu sắc mà chúng ta cảm nhận từ những trang sách của nhà văn Nam Cao.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 11
Nam Cao được biết đến trong lịch sử văn học Việt Nam là một nhà văn hiện thực xuất sắc. Ông để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị trên cả hai đề tài về người trí thức tiểu tư sản và người nông dân nghèo. Nhưng tên tuổi của ông vẫn gắn liền với tác phẩm Chí Phèo - một kiệt tác của Nam Cao, một tác phẩm mang đậm giá trị nhân đạo sâu sắc, đồng thời cũng phê phán cái xã hội thối nát bấy giờ.
Xây dựng nên hình tượng người nông dân bị tha hóa trong xã hội thực dân trước Cách mạng tháng Tám là một sáng tạo mới trong nền văn xuôi nước nhà nói chung và của Nam Cao nói riêng. Nhà văn đã cảm nhận được cái vẻ đẹp chất phác, bình dị ẩn chứa trong cái vẻ bề ngoài thô ráp, xù xì của họ, mà tiêu biểu là nhân vật Chí Phèo - một điển hình nghệ thuật về người nông dân bị xô đẩy chà đạp đến mức tha hóa. Chí không may mắn khi được sinh ra trong một gia đình không đàng hoàng, không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi. Có một hoàn cảnh sống tội nghiệp, nhưng Chí lớn lên khá khỏe mạnh, hiền lành, lương thiện,… Có một ước mơ giản dị như bao người nông dân khác: một gia đình nhỏ, chồng cày cấy, vợ dệt vải… Vốn từng mang trong mình bản chất của một con người đúng nghĩa, Chí phân biệt được đúng sai, tốt xấu qua hành động bóp chân cho bà Ba- “Hắn cảm thấy nhục hơn là thích”. Sống ở một cái xã hội bình thường, người như Chí hoàn toàn có thể sống một cách lương thiện yên ổn. Nhưng cuộc đời nào có hai chữ
Bằng ngòi bút lạnh lùng nhưng đa cảm, Nam Cao đã cho thấy tất cả nỗi thống khổ ghê gớm của nhân vật Chí Phèo. Nỗi thống khổ đó không phải là không cha không mẹ, không nhà không cửa, không họ hàng thân thích… mà chính là Chí Phèo bị xã hội vằm nát của cả bộ mặt người, cướp đi lình hồn người phải sống kiếp sống tối tăm của con vật lạ. Đó là nỗi thống khổ của cá thể sinh ra là hình hài của một con người nhưng lại không được làm người và bị xã hội từ chối, xua đuổi. Tình trạng bi thảm này được tác giả mình chứng cho đoạn mở đầu giới thiệu một chân dung, một tính cách “hấp dẫn”, vừa hé cho thấy một số phẩn bi đát. Dù say rượu đến điên khùng, Chí Phèo vẫn như cảm nhận thấm thía” nông nỗi” khốn khổ của thân phận mình. Anh chửi trời, chửi đời rồi chuyển sang chửi tất cả làng Vũ Đại, cuối cùng ảnh chửi cái thằng cha con mẹ nào đẻ ra thằng Chí Phèo. Không ai chửi lại vì rất đơn giản là không ai coi anh như là một con người. Nam Cao có vài cái nhìn đầy chiều sâu nhân đạo khi đi vào nội tâm nhân vật để phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của những con người khốn khổ.
Chí Phèo đến với Thị Nở trong một đêm say rượu. Như điều kì diệu là Thị Nở không phải chỉ khơi dậy bản năng ở gã đàn ông say, mà lòng yêu thương mộc mạc, chân thành, sự chăm sóc giản dị của người đàn bà xấu xí, vô duyên và ngớ ngẩn ấy đã làm thức tỉnh Chí Phèo. Trong tâm hồn tưởng chừng như đã chai sạn, thậm chí bị hủy hoại của Chí Phèo, phần lương thiện ngày thường bị lấp đi vẫn le lói một ánh sáng lương tri, sẽ bừng sáng lên lúc gặp cơ hội. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, anh bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng đập mái chèo đuổi cá , tiếng cười nói của những người đi chợ, thì niềm ao ước một gia đình nhỏ lại trỗi dậy trong lòng anh sau những tháng ngày dài chìm trong cơn say khướt. Nam Cao đã phát hiện ra ngọn đóm đỏ đang hắt hiu le lói, việc cuối cùng là cho nó chút mồi để nó bùng lên. Nhưng còn đường đời của Chí lại bị chắn đứng lại. Bà cô của Thị Nở – nhân vật đại diện cho suy nghĩ của dân làng Vũ Đại đã nhất quyết không cho cháu mình đi lấy một “thằng chỉ có nghề là rạch mặt ăn vạ”. Cánh cửa quay về lương thiện đã đóng xập trước mặt Chí. Đau khổ Chí Phèo phải cất lên tiếng thét “Tao muốn làm người lương thiện…”, “Ai cho tao lương thiện?..” Chí đã nhận thức được bản chất con người của mình thì không còn nguyên cớ nào lại có thể biến anh sống trở lại kiếp quỷ dữ, không thể tiếp tục rạch mặt ăn vạ, giết người đốt nhà. Chí đã đâm chết Bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình. Đó là một kết cục bi thảm nhất, đồng thời cũng là chiếc chìa khóa giải thoát Chí Phèo khỏi kiếp đời trớ trêu, cái kiếp số muốn sống như một con người nhưng không thể được.
Chính cái xã hội thối nát thời bấy giờ đã tạo ra những sản phẩm như Chí Phèo - hình ảnh tiêu biểu của người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tôi lội dần dần bị tha hóa về thể xác lẫn tâm hồn. Mà đại diện cho giai cấp thống trị chính là Bá Kiến - một tên cường hào cáo già trong nghề thống trị dân đen, được khắc họa qua những chi tiết ngoại hình độc đáo, từ “giọng nói rất sang”, lối nói ngọt ngào đến cái cười Tào Tháo…Vì sự hờn ghen vớ vẩn của hắn đã đẩy Chí vào con đường tù tội. Chốn lao ngục ấy của bọn thực dân đã tiếp tay cho lão cường hào thâm độc để giết chết phần người trong Chí Phèo, biến Chí thành Phèo, biến người nông dân lương thiện thành quỷ dữ. Sự tha hóa ấy không chỉ có Bá Kiến, nhà tù thực dân gây ra, mà còn những người dân sống ở làng Vũ Đại mà tiêu biếu nhất là bà cô của Thị Nở - con người đã tạo ra bức tường vô hình ngắn cách Chí đến với cuộc sống đích thực của một người lương thiện. Kết thúc câu truyện là một tình tiết đầy ngụ ý, biết đâu lại chẳng có một “Chí Phèo con” bước ra từ cái lò gạch cũ vào đời để “nối nghiệp bố”. Hiện tượng Chí Phèo chưa thể hết khi xã hội tàn bạo vẫn không cho con người được sống hiền lành, tử tế, vẫn còn những người dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Sức mạnh của tác phẩm là vạch ra được cái quy luật tàn bạo, bi thảm này trong cái xã hội tối tăm của nông thôn nước ta thời đó.
Tác phẩm Chí Phèo mang đậm giá trị nhân đạo đặc sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương của NC đối với những người khốn khổ. Chí Phèo còn là tiếng kêu cứu thiết tha của những người bất hạnh. Hãy bảo vệ và đấu tranh cho quyền được làm người của những con người lương thiện.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 12
Nam cao được mệnh danh là “Ông hoàng của truyện ngắn” quả không sai chút nào, bởi trong các truyện ngắn hiện thực của ông có thể kể đến là “Chi Phèo” là một mẫu mực về thể loại này. Bên cạnh đó còn chính là nội dung đặc sắc mang lại được cả giá trị nhân văn cũng như giá trị hiện thực thật sâu sắc biết bao.
Nói về giá trị hiện thực, thì giá trị hiện thực được hiểu là giá trị nói lên những bộ mặt hiện thực của cuộc sống mà cũng xuất phát từ đó khi nhìn vào đấy người ta biết rằng hiện thực xã hội nước ta lúc bấy giờ phải sống như thế nào. Và Nam cao thật tinh tế và khôn khéo khi đã xây dựng được một nhân vật Chí Phèo thành một nhân vật điển hình. Và ở nhân vật này mọi thứ như đều bắt đầu từ con số không.
Và có thể nói chính giá trị hiện thực trong truyện ngắn đó chính là một sự phản ảnh quy luật ở nước ta trong thời Pháp thuộc. Có lẽ trong thời này thì dường như người dân lương thiện đã bị xã hội thối nát đó xô đẩy vào con đường cùng trở thành lưu manh hóa bần cùng hóa, và như Chí Phèo thì anh đã trở thành một con quỷ dữ không thể quay lại làm người lương thiện được nữa.
Chính với những cách mở đầu câu chuyện của tác giả dường như cũng đã góp phần thể hiện được những sự hiện thực cuộc sống những năm ấy. Và nhân vật Chí Phèo xuất hiện thật ám ảnh anh xuất hiện chính với dáng vẻ của một thằng say rượu vừa đi vừa chửi. Và dường như chửi là một cách mà hắn giao tiếp với mọi người xung quanh. Nhưng đáng buồn thay chẳng ai trong làng Vũ Đại này chửi với hắn cả, vì họ đều có chung ý nghĩ “chắc nó chừa mình ra”. Vậy đó, Chí Phèo không hề được công nhận là người, cả làng Vũ Đại hay phóng đại hơn là cái xã hội đó đã không hề chấp nhận Chi là người.
Có lẽ rằng là ngay từ nhỏ khi mà sinh ra đã mang bi kịch lớn. Là một đứa trẻ không cha mẹ, lớn lên phải đi ở đợ cho nhà người ta phải chịu cảnh bần cùng. Nhưng chịu cảnh nghèo khó đó nhưng Chí vẫn được coi là con người.
Và chính tên Bá Kiến đã đẩy Chí vào con đường tội lỗi và chịu cảnh tù đày. Chí đi tù và sau mấy năm khi Chí về thì dường như cánh cửa của nhà tù thực dân đã nhuộm đen tâm hồn Chí. Chí đã thay đổi cả nhân hình và cả nhân tính, không ai nhận ra Chí nữa, Chí lại trở thành một con quỷ của Làng Vũ Đại.
Tác giả như không chỉ nói lên quy luật người nông dân lương thiện trong xã hội xưa họ đã bị tước quyền làm người. Có lẽ rằng chính nhà văn còn tố cáo mạnh mẽ chế độ thực dân phong kiến dường như cũng đã cướp đi quyền làm người của những người nông dân lương thiện. Và chính trong xã hội ấy đã biến Chí thành một con quỷ dữ chuyên đi phá hoại những hạnh phúc và tuyệt đối không cho Chí quay lại làm người. Và cũng bởi thế mà ở Chí chỉ còn có cái chết để kết thúc cuộc sống quỷ dữ ấy chứ anh không thể nào trở lại làm người được nữa.
Bên cạnh những giá trị hiện thực sâu sắc tác phẩm như lại còn lấp lánh những giá trị nhân đạo cao cả. Dường như chính giá trị nhân đao chính là cái nhìn hướng thiện của con người, khi chúng ta cứ như lại nhìn vào những điểm tốt của con người, và chính tình yêu thương con người và hướng cho họ đến một tương lai tươi sáng hơn.
Thứ nhất ta có thể thấy được những giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện chính qua sự đồng cảm của nhà văn đã nâng niu và dành cho nhân vật của mình. Nhà văn thật tinh tế khi ông miêu tả Chí Phèo là một con quỷ dữ không một chút thương tiếc. Và Nam Cao nhìn nhận vấn đề và nói thật vào sâu trong vấn đề thế nhưng không phải ông không thương, không xót cho nhân vật của mình. Có thể thấy được nhà văn càng nói rõ ra chính cái tàn ác của Chí dường như đã bao nhiêu thì càng thể hiện được tấm lòng thương cảm sâu sắc bấy nhiêu. Có lẽ chính bởi vì để có thể tô đậm được cái xấu biểu hiện bên ngoài thì dường như với Chí là nhà văn tố cáo được xã hội tàn ác kia được
Và giá trị nhân đạo của tác phẩm là sự yêu thương con người. Nhà văn dường như cũng đã khẳng định chính tình yêu thương con người sẽ sưởi ấm và có sức để làm trỗi dậy bản chất tốt đẹp trong Chí. Có thể nói ở nhân vật Thị Nở chính là một món quà mà nhà văn dành cho Chí. Ở Thị ta được xây dựng lên như là một người xấu ma chê quỷ hờn ế chồng nhưng hơn ai hết thị lại có công thức tỉnh Chí. Và cũng cình yêu dù là bồng bột của Thị dường như cũng đã làm cho Chí kết thúc những tháng ngày say xỉn của mình. Đặc biệt hơn chính là bát cháo hành của Thị Nở như lại càng làm cho Chí ấm lòng và lúc đó thấy thị giống như là mẹ mình vậy. Có lẽ đó chính là lần đầu tiên Chí khóc sau khi ra tù và được một người đàn bà chăm sóc cho ăn chứ không phải là đi cướp mới có được.
Thứ ba, ta có thể nhận thấy rằng chính nhà văn còn giúp chúng ta thấy được bản chất tốt đẹp của người nông dân qua hình tượng Chí Phèo. Đồng thời, thông qua đó thì dường như nhà văn hướng cho nhân vật của mình đến một tương lai tươi sáng hơn. Chí như cũng đã thức tỉnh và nhớ đến ước mơ giản đơn của mình.Đó là vợ chồng có một ngôi nhà để có thể ở hàng ngày chồng cuộc thuê cày mướn vợ ở nhà đan sợi nuôi tằm. Chính cái ước mơ ấy cho thấy Chí là một người nông dân rất lương thiện. Và khi mà ra tù thành quỷ dữ, Chí dường như cũng vẫn biết rung động trước một người đàn bà là Thị nở. Điều đó như cũng đã chứng tỏ Chí biết yêu thương. Chí như thật biết cảm động trước những hành động săn sóc của Thị. Chí khóc và anh cũng đã có mong muốn Thi sang ở nhà Chí “một nhà cho vui”. Và chính những điều mơ ước bấy lâu nay như lại được trỗi về trong Chí, hắn nhận ra cũng có thời mà hắn thèm được một cuộc sống giản dị như trước đó là chồng cày thuê cuốc mướn như trước. Và đó chẳng phải là tính nhân văn của tác phẩm hay sao?
“Chí Phèo” là một trong những tác phẩm như trải qua biết bao thời gian đến nay vẫn là một tác phẩm được người đọc yêu thích. Tác phẩm không phải là những ngôn từ như sáo rỗng mà nó như được viết lên từ chất liệu hiện thực của cuộc sống và tính nhân văn cao đẹp của tác giả cũng như chính nhân vật lan tỏa ra cho lòng người đọc.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 13
Giữa những bộn bề phức tạp của buổi chợ phiên văn chương , giữa những náo nhiệt đông đúc của gian hàng hiện thực phê phán, Nam Cao được nhận là một chủ cửa hàng khác đặc biệt với tấm lòng nhân đạo và tình thương dành cho những người nông dân trước cách mạng tháng Tám năm 1945. Nhà văn đã đưa người đọc đi sâu khám phá cái đẹp ẩn sâu bên trong của những số phận bất hạnh, những con người “cùng hơn cả dân cùng”. Tiêu biểu cho cuộc hành trình gian truân vất vả ấy là truyện ngắn “Chí Phèo” . Đọc tác phẩm ta sẽ thấy rõ được tư tưởng nhân đạo cao cả cùng tình thương và nam cao dành cho nhân vật của mình.
Quả không sai khi nói rằng, mỗi tác phẩm văn học là kết quả được nhào nặn từ đời sống. Nếu tác phẩm văn học chỉ là sản phẩm của hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở đời sống thì sẽ không chuyển được cảm hứng đến với bạn đọc, văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật. Nam Cao đã khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại thông qua các tác phẩm của mình, đồng thời tìm ra cho mình một lối đi riêng khác hẳn với những nhà văn cùng thời đầu. Đọc tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao ta sẽ thấy rõ được điều đó. Đây là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Nam cao được viết năm 1941. Đầu tác phẩm có tên “cái lò gạch cũ”, sau đó Nhà xuất bản tự ý đổi thành “đôi lứa xứng đôi”, đến năm 1946 nhà văn quyết định đặt tên tác phẩm là “Chí Phèo”.
Không giống như “chị Dậu”, trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, anh Pha trong “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan phải chịu nỗi đau về mặt vật chất bị cái nghèo đầy đọa, nhưng vẫn giữ được danh dự nhân phẩm, Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao lại phải chịu nỗi đau đớn về mặt tinh thần bị mọi người đẩy ra khỏi xã hội, cự tuyệt quyền cơ bản nhất đó là quyền làm người. Đọc tác phẩm chúng ta sẽ không khỏi xót xa với những nỗi khổ đau Chí Phèo phải chịu đựng, để từ đó chúng ta cảm nhận được tấm lòng nhân đạo, sâu sắc và Nam cao dành cho Chí Phèo từ đó cứu rỗi linh hồn đầy tội lỗi, rồi đây khao khát được làm người nơi Chí Phèo.
Cả cuộc đời Chí Phèo vốn là một con số 0 tròn trĩnh, không cha, không mẹ, không nhà cửa, không tấc đất cắm dùi, ngay từ khi sinh ra chí đã bị cha mẹ ruồng bỏ quân hắn vào cái váy đụp rách bỏ ở cái lò gạch cũ vắng người qua lại, may mắn thay một anh thả ông luôn đi qua nhìn thấy hắn từ đó chị lớn lên trong tình thương và sự cưu mang của cả dân làng Vũ Đại. Năm 18 tuổi Chí làm canh điền cho nhà lý kiến. Khi đó hắn là một anh nông dân hiền lành, chăm chỉ, hắn cũng đã từng mơ về một ngôi nhà ở đó vợ chồng hạnh phúc bên nhau, vợ dệt vải nuôi tằm, chồng cuốc mướn cày thuê, rồi chúng bỏ một con lợn ra nuôi khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Nhưng có ai ngờ thân phận nô lệ đâu để cho hắn yên khi thói dâm dục của bà 3 ý kiến nổi lên cùng thói ghen tuông của lão cũng là lúc Chí Phèo bị đẩy vào tù để rồi 7, 8 năm sau ra tù chí đã trở thành con quỷ dữ của cả làng vũ đại bị mọi người xa lánh, sợ hãi.
Hắn về lớp này trông khác hẳn không ai nhận ra Chí là ai, cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cao trắng hơn, cái mắt đen lại rất cơn cơn trông đặc như thằng răng đá, hắn mặc cái quần đen, cái áo tay vàng, cái ngực phanh để lộ những hình chạm trổ rồng phượng, cái chân hình một ông tướng cầm trùy trông gớm chết. Không chỉ thay đổi về nhân hình, chí còn thay đổi cả về nhân tính, hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy hắn ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa đến chiều say là hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đất, chửi cả dân làng Vũ Đại nhưng chẳng ai đáp lại tức mình hắn chỉ đứa chết mẹ nào đẻ ra thằng Chí Phèo. Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã bắt đầu bằng tiếng chửi của chí, tiếng chửi của chí thể hiện sự khát khao muốn được giao hòa, giao cảm với con người với cuộc đời. Nhưng đáp lại tiếng chửi của chí chỉ là tiếng của ba con chó giữ, là con người vậy mà chỉ có 3 con chó dữ đáp lại tiếng hắn. Vậy chẳng khác nào hắn đã bị đánh tụt từ hàng con người xuống hàng con vật, chính trong cơn say ấy ý chí đã bị Bá Kiến lợi dụng biến hắn trở thành tay sai đắc lực của lão từ khi hắn đã trở thành con quỷ dữ của làng vũ đại, phá nát biết bao gia đình.
Đọc tác phẩm ta cứ tưởng rằng cuộc đời của chí sẽ trượt dài trên con đường của sự tha hóa và biến chất, nhưng với tấm lòng nhân đạo cao cả, Nam Cao không hề trách giận Chí Phèo và ngược lại ngòi bút của ông hướng về nhân vật vẫn tràn đầy yêu thương. Ông đã cho Chí Phèo gặp Thị Nở để rồi cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên nhưng định mệnh này đã khơi gợi tính người nơi Chí Phèo, với lại ở Chí Phèo khát khao được làm người, ban đầu chí phèo gặp Thị Nở chỉ bằng bản tính thú vật của một gã say rượu nhưng nào ngờ Thị Nở người đàn bà xấu như ma chê quỷ hờn ấy lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã nhói vào trái tim đã cằn cỗi, u mê của Chí Phèo để đưa Chí Phèo trở về thoát khỏi tội lỗi. Sau đêm ăn nằm với Thị Nở, lần đầu tiên sau những cơn say Chí hoàn toàn tỉnh táo.
Hắn cảm thấy như mặt trời đã lên cao và nắng vàng rực rỡ, người hắn nghe thấy tiếng của những người đi chợ về, tiếng của anh thuyền chài có mái chèo đuổi cá . Những âm thanh này hôm nào mà chẳng có nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy . Những âm thanh quen thuộc bỗng chắp cánh cho ước mơ ngày xưa quay về để Chí Phèo chìm đắm trong hồi tưởng với ước mơ về một căn nhà nhỏ, một gia đình hạnh phúc. Đọc đến đây ta bỗng nhớ đến những tiếng sáo trong ‘Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài . Chính tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân đã khiến khao khát sống với Mị được trỗi dậy mãnh liệt… Tỉnh bơ trong dòng suy nghĩ Chí như thấy được tuổi già ốm đau bệnh tật nhưng sợ nhất vẫn là sự cô độc. May mà Thị Nở bước vào không thì Thị khóc lên được mất. Thị cắp một cái rổ bên trong có đựng một nồi gì đậy vung, đó chính là nồi cháo hành thơm phức.
Thị Nở múc cháo ra bát cho Chí Phèo cầm lấy bát cháo hành trên tay Chí Phèo húp thật ngon lành, hắn chợt nhận ra cháo hành rất ngon và đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho mà không cần phải cướp giật. Chí Phèo cảm thấy yêu Thị Nở và mong muốn Thị sẽ là cây cầu đưa Chí Phèo trở về làm người. Đã có ý kiến nhận xét Thị Nở chính là vị thiên sứ mà Nam Cao phải đến để thức tỉnh Chí Phèo. Thiên sứ ấy không có đôi cánh của thiên thần nhưng lại có bàn tay ấm áp như ngọn gió, ngọn lửa, ngọn gió thổi bay lớp bụi u mê nơi trái tim còn ngọn lửa thiêu đốt lớp vỏ quỷ dữ cho Chí Phèo trở về làm con người lương thiện. Cùng với đôi bàn tay ấm áp, bát cháo hành cũng là một yếu tố quan trọng lay tỉnh Chí Phèo, nó như một liều thuốc giải độc vượt giữa lớp men rượu đánh thức tâm hồn đầy tội lỗi của Chí Phèo, thế nhưng cuộc đời thật trớ trêu khi mà xã hội còn đầy rẫy những định kiến thì khao khát trở về với cuộc sống của mỗi con người thực sự là rất khó khăn.
Thị Nở cùng tình yêu của thị giống như một cây cầu vồng lung linh bảy sắc, xuất hiện rồi biến mất sau cơn mưa, chí chưa bước chân lên cầu thì cây cầu đã rút ván. Những lời cay độc của bà cô mà Thị Nở trút lên đầu chí phèo đã khiến hắn hiểu ra mọi chuyện. Chỉ trong chốc lát mọi hi vọng mọi ước mơ đều vỡ vụn quá đau khổ Chí Phèo lại tìm đến rượu nhưng rượu đã không còn đủ sức để làm mờ lý trí, rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất , Chí Phèo xách dao đi trả thù miệng thì nói là đến nhà Thị nở để đâm chết con đĩ Nở, con khọm già. Nhưng chân lại đưa hắn đến nhà bá kiến .Có lẽ lúc này hơn ai hết Chí Phèo đã hiểu ai mới là kẻ đã xóa tên mình ra khỏi cuốn sổ của những con người lương thiện trong cuộc đời tăm tối của Chí Phèo.
Giây phút hắn vung dao lên để kết liễu tên cáo già Bá Kiến là những giây phút rực rỡ nhất . Chí cũng đã phải quyên sinh , một cái chết quằn quại đau đớn trên vũng máu tươi trở về làm người. Câu hỏi của Chí “ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất đi những vết mảnh trai trên mặt này” vút lên đầy đau đớn đánh thẳng vào bộ mặt xã hội đầy bất công lúc mấy giờ để lại nhiều trăn trở cho bạn đọc. Có lẽ Nam Cao chưa thực sự tìm ra lối thoát cho nhân vật của mình nhưng cái chết của Chí Phèo đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao. Nhà văn để nhân vật của mình chết đi là mong muốn chí phèo có thể giữ lại chút lương thiện cuối cùng của mình.
Với cách xây dựng nhân vật độc đáo, ngôn ngữ sắc lạnh giàu tính khẩu ngữ, câu văn giàu hình ảnh, giàu tính biểu cảm đã cho ta thấy được cuộc đời đầy đau khổ của những người nông dân trước cách mạng tháng 8 phải chịu và sự đồng cảm yêu thương trân trọng mà tác giả dành cho họ.
Chí Phèo đã chết nhưng vẫn còn đó những câu hỏi đầy ai oán không có lời giải đáp, cùng với chị Dậu, anh Pha, Chí Phèo đã khẳng định phải có một cuộc cách mạng để thay đổi cuộc sống lúc bấy giờ. Đồng thời những nhân vật ấy nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng hơn những hạnh phúc mà mình đang có, đồng thời phải biết cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn./.
Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 14
Nam Cao được mệnh danh là nhà văn có tấm lòng nhân đạo lớn. Chính ông là người đã mang đến cho văn học Việt Nam một cái nhìn rõ nét hơn về con người. Trong đó có truyện ngắn Chí Phèo, đã làm nổi bật lên một ngòi bút luôn tha thiết tình yêu dành cho con người.
Giá trị nhân đạo được xem là giá trị cơ bản nhất của tác phẩm văn học chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thông sâu sắc của nhà văn dành cho người dân và cuộc sống.Luôn biết cách nâng niu, trân trọng những giá trị của họ. Bảo vệ họ bằng lẽ phải và lên án những điều xấu xa. Trong tác phẩm Chí Phèo của mình, Nam Cao đã góp một tiếng nói nhân đạo sâu sắc, tình cảm gắn liền với số phận bi thương của họ, mở ra cho họ một cách suy nghĩ khác và tha thiết trân trọng giá trị bên trong của họ.
Ở Chí Phèo, lúc trước khi trở về thành kẻ lưu manh. Hắn từng là một anh nông dân có trái tim lương thiện và ấm áp. Một người từng chỉ có ước mơ nho nhỏ “chồng cày cuốc mướn” và “vợ dệt vải” Đó là anh nông dân giàu lòng tự trọng, cái gì không thích thì hắn khinh, biết phân biệt giữa tình yêu cao thượng và tình cảm giác nhục dục thấp hèn. Những lần bị bà ba gọi lên bóp chân cho, Chí Phèo chỉ cảm thấy nhục chứ đâu có yêu đương gì hắn đâu..
Nhưng, sau đó, Chí đã biến thành một con người khác, Bá Kiến, một tay sai đắc lực của chế độ thực dân phong kiến đã khiến Chí trở thành một người khác. Một kẻ lưu manh theo đúng nghĩa. Chí không còn là một anh nông dân hiền lành như đất, nơi ấy đã khiến trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” . Qua đó là thái độ lên án phê phán gắt gao của Nam Cao dành cho xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Nhấn mạnh sự khốn cùng của con người..
Sau đó, Chí gặp Thị. Một cơn gió mang lại cho Chí giấc mơ năm xưa, con người năm xưa được thức tỉnh bằng bát cháo hành ấm nóng tình người. Chí lần đầu tiên được một người đàn bà cho cái gì đó. Mọi khi hắn toàn cướp giật, dọa nạt, Hắn thấy sợ, sợ già, sợ bệnh… và nhất là sợ cô đơn. Hắn khát khao trở lại thành người lương thiện, sự thèm khát lương thiện biết bao… “Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn thì sao với người khác lại không thể được” Nam Cao đã nâng cao giá trị của một kẻ lưu manh, để hắn nhận ra số phận của mình. Qua đó khẳng định khát khao được sống làm người chính đáng của họ.
Nhưng, Chí Phèo cuối cùng cũng chết, cái chết như một vòng luẩn quẩn không hồi đáp. Và Chí chỉ còn là con người trên ngưỡng cửa của sự lương thiện. Cái chết Chí Phèo là hồi chuông báo động, mang tới sự lên tiếng vì chế độ thực dân đã đàn áp và tha hóa con người. Nam Cao không hề có ý định bôi nhọ người nông dân , trái lại ông đã khẳng định cao giá trị nhân phẩm của họ. Điều đó chứng tỏ một con mắt luôn biết nhìn đời nhìn người rất mực sâu sắc của ông.
Nam Cao thực là một nhà nhân đạo từ trong cốt tủy. Những gì ông viết đều chắt từ bầu huyết quản, trái tim dành cho con người. Chí phèo xứng đáng là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc, khi thời gian có qua đi, nhìn lại ta vẫn nhìn thấy một chí phèo ngật ngưỡng bước ra. Khẳng định giá trị một tác phẩm chân chính và nhân đạo sâu sắc, độc đáo.
Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 15
Tác phẩm Chí Phèo khép lại ở trang cuối cùng với một cảnh tượng đầy hãi hùng hai xác chết của hai con người - sinh vật. Cả hai đều làm người nhưng không phải là người: Bá Kiến và Chí Phèo. Máu me loang lỗ, lênh láng khắp hai cái xác khiến chúng ta giật mình tự hỏi và hỏi Nam Cao: Đâu là hiện thực? Đâu là nhân đạo?
Toàn truyện Chí Phèo là một sức căng. Nam Cao đã đưa người đọc lạc vào cung bậc khác nhau của những sự căng thẳng về thần kinh bởi nhưng câu chửi choang choang của Chí, bởi những cơn nốc rượu như nước, bởi những lần rạch mặt ăn vạ ghê rợn. Tưởng thế đã là đáng nhớ lắm, Nam Cao còn bất ngờ đưa tay, lia ngòi bút một lần cuối để kết thúc bản nhạc của mình, cả trang sách như rung lên khi Chí vung dao chém vào người Bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.
Khi Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan... ra đời, mấy ai còn có thể tưởng tượng tới một cảnh đời nào bần cùng hơn, bế tắc hơn, tủi cực hơn thế. Tưởng như cuộc sống chị Dậu và anh Pha đã là tột cùng của nỗi khổ đau ở đời. Nhưng cùng hơn cả những con người bần cùng đó, vẫn có Chí Phèo đã bước ra từ trang sách của Nam Cao, là hiện thân đầy đủ của "những gì là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình. Chị Dậu, anh Pha dù có khổ mấy vẫn được công nhận là người. Còn Chí, con người hiền lành, chất phác qua lần vào tù ra tội đã bán cả nhân tính, nhân hình để trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại.
Thoát được cửa tù con, Chí Phèo lại ra vào cửa tù lớn và lần này thì mãi mãi, Chí bị khóa chặt trong cuộc đời thú vật mà chế độ "ban" cho. Từng ấy bất hạnh đáng được để cho nhân vật nổi loạn lắm, nhưng ngòi bút Nam Cao tỉnh táo và sắc sảo, đủ điều kiện cùng nhân vật đi đến cuối truyện. Mọi cái được nâng lên với mức độ cao hơn khi Chí Phèo với ý định đến nhà thị Nở, quen chân thuận đường lại đến nhà Bá Kiến; vô tình một cách có ý thức, Nam Cao cho nhân vật của mình lại đi lệch đường, nhưng đúng hướng, đúng cái đích mà Nam Cao vạch ra cho nhân vật của mình. Cái chết của Bá Kiến đầy bất ngờ, không ai nghĩ rằng con cáo già như Bá Kiến lại có thể chết nhanh gọn đến thế. Với Chí Phèo thì không có gì là không thể bởi sự liều lĩnh của hắn đã được tôi luyện từ lâu rồi trong xã hội cũ. Nam Cao luôn đi tìm nhân phẩm và tình thương yêu chân thật ở những người lao động cùng khổ, bị giày xéo và khinh bỉ. Đây cũng là vấn đề "đôi mắt" mà Nam Cao luôn hướng tới, là đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện thực và nhân đạo của Nam Cao.
"Trong mảng sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao. Có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật "có vấn đề" đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất (Nguyễn Hoành Khung). Nam Cao tỏ ra là một cây bút sắc sảo với cái nhìn tinh tế, nhạy cảm trên bình diện xung đột giai cấp. Với Bá Kiến, Nam Cao chứng tỏ mình hiểu rất sâu xa bản chất của giai cấp phong kiến địa chủ. Với Chí Phèo, Nam Cao cũng chứng tỏ một tâm hồn biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa khơi để tìm ra một điển hình nhất của một hạng người cùng hơn cả dân cùng, chúng ta quen gọi đó là hình tượng nhân vật "lưu manh hóa".
Qua cách xây dựng những xung đột, mâu thuẫn của truyện. Nam Cao đã chứng tỏ một cảnh quan hiện thực hết sức rõ ràng, mãnh liệt. Ông thấy rõ rằng mối xung đột, mân thuẫn giai cấp ở nông dân - địa chủ, nhất là nông dân đã chín muồi đã đến mức sâu sắc và không gì có thể xoa dịu. Nam Cao xây dựng mối quan hệ Bá Kiến - Chí Phèo trở nên hết sức gay gắt, mối tình dang dở với Thị Nở cũng là cách đổ thêm dầu vào lửa, biến cơn say, cơn buồn, cơn thất tình ở Chí Phèo thành lòng căm hận, tức tối, quyết đến nhà Thị Nở để trả thù. Quy luật lại không phải thế, quy luật đã kéo Chí đi nhưng là đến nhà Bá Kiến, chứ không phải ai khác. Kẻ đáng giết Bá Kiến.
Với cái kết thúc bất ngờ dữ dội của thiên truyện ngắn, Nam Cao đã cho chúng ta thấy kết quả tất yếu sẽ xảy ra, điều đó không thể tránh khỏi. Giai cấp thống trị có thể khôn ngoan, giảo quyệt, mánh khóe, có thể đàn áp, làm lu mờ cả ý thức của người dân thì vẫn còn âm ỉ trong người dân ngọn lửa của lòng căm thù, căm ghét những kẻ bóc lột mình, ở Chí, cho dù tâm trí tê liệt, mọi cái bị "xóa sổ" trong trí nhớ của Chí thì tận trong cơn say, hắn vẫn như mơ màng nhận thấy một điều gì. Đoạn Chí quyết đến nhà Thị Nở để trả thù là biểu hiện bề ngoài, trong tiềm thức chỉ có Bá Kiến, sâu xa nhất trong quá khứ là Bá Kiến, Thị Nở chỉ là hiện tại. Mọi bức bối, uất ức dồn đến lâu ngày, càng dồn nén xuống thì ắt sẽ có ngày bùng nổ. Sự chịu đựng quá tải đã làm bừng tỉnh cơn dại trong Chí, anh quyết đi trả thù đời, đi "đòi nợ".
Ngòi bút của Nam Cao phải vững vàng lắm trên lập trường của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo thì mới có những trang viết rành rọt, tỉnh táo đến như vậy. Ông tin rằng trong huyết quản của Chí Phèo vẫn chưa cạn hết dòng máu của người nông dân lao động nên đã cho Chí xách dao đến nhà Bá Kiến, không đòi rượu, đòi tiền mà để đòi lại bộ mặt và tâm hồn mình đã bị phá nát, tước đoạt. Chỉ có lòng nhân đạo cao cả mới có thể nhìn thấy được ở con người quái dị như Chí Phèo một lòng thiết tha ham sống. Chỉ có Nam Cao mới thấu hiểu sự khao khát được trở lại làm người của Chí, đó là khi ông miêu tả "tiếng đời thường" thông qua sự cảm thụ của Chí.
Năm ngày liền Chí hiền khô, thậm chí không uống một ngụm rượu. Đó là nhờ có Thị Nở đà mang tình yêu thương đến với Chí, mặc dù đó là thứ tình cảm dở hơi, không ý thức. Chi tiết bát cháo hành nóng hổi đã sưởi ấm lại con người Chí, kéo hắn về với cuộc đời. Khốn nạn thay, xã hội phong kiến đương thời cũng không để Chí yên thân mà hưởng niềm hạnh phúc nhỏ bé đó, bà cô của Thị Nở cũng chính là một thứ công cụ của xã hội đầy định kiến, ngăn cản Thị Nở trở lại với Chí. Khi bàn tay nhân đạo đã rụt lại, Chí Phèo lại trở về với con người hàng ngày của mình: say rượu, hung dữ. Nhưng chính quãng thời gian ít ỏi được sống bên Thị Nở đã tác động vào suy nghĩ của Chí.
Lúc này, anh có ý thức sống cho chính mình hơn, đòi hỏi cho mình một lẽ sống, một sự công bằng đã bị tước đoạt. Giết chết Bá Kiến mới chỉ đạt được một nửa công việc, Chí Phèo hoàn thành nốt "công việc" còn lại bằng cách tự giết luôn cả mình. Nếu còn sống, Chí Phèo vẫn tiếp tục cuộc đời quỷ dữ của mình, vẫn phải đối chọi với con trai của Bá Kiến. Ta còn nhớ Nam Cao đã cho một nhân vật của mình ăn bả chó tự tử, đó là lão Hạc. Nay ta lại thấy Chí Phèo tự kết liễu mình. Phải chăng, với suy nghĩ riêng của Nam Cao, những con người quá khốn khổ, quá cùng quẫn thì chỉ có cái chết mới giải thoát được tất cả? Chí Phèo phải chết mới chấm dứt cuộc đời nhục nhã của mình để hóa kiếp sang một con người khác tốt đẹp hơn?
Chí Phèo chỉ ao ước trở lại làm một người lao động bình thường với mối tình Thị Nở, nhưng không được. Cách xây dựng nhân vật của Nam Cao thật độc đáo. Chí Phèo vừa là một gã mất trí, công cụ nguy hiểm trong tay bọn thống trị, lại vừa là nô lệ thức tỉnh, trở thành con người có đầu óc sáng suốt nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có ý nghĩa khái quát sâu sắc vượt quá mức thường ngày, vượt quá tầm khôn ngoan lọc lõi của Bá Kiến: "Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này?" Nỗi ray rứt rất con người, đầy nhân văn này lại được thốt ra từ miệng một kẻ chuyên uống rượu say mềm. Bá Kiến cũng bất ngờ, mất cảnh giác nên Chí đã dễ dàng sát hại. Diễn biến rất hợp lí, từng chi tiết nhỏ đều rất tôn trọng "chủ nghĩa hiện thực".
Chí Phèo ngay sau đó cũng tự kết liễu đời mình bởi trong giây phút điên cuồng đó, hắn đã tỉnh táo hơn bao giờ hết và ý thức được mọi điều mình làm. Không tự giết, Chí Phèo cũng sẽ phải chết vì con trai Bá Kiên còn đó, vì bao đối tượng khác luôn lăm le muốn xóa sổ hắn. Giết được Bá Kiến, Chí Phèo như lấy lại được thanh danh cho mình, như đã hài lòng về bản thân, cảm thấy không cần phải sống để đòi nợ ai nữa. Hắn không chết cũng sẽ không còn ai cho hắn tiền uống rượu, không còn Bá Kiến cho hắn rạch mặt ăn vạ nên hắn chết. Có những cái chết bế tắc, nhưng cái chết của Chí Phèo lại là bước mở đầu cho sự sống, cho sự tháo cũi xổ lồng, giải thoát cho chính mình.
Viết nên những trang sách ấy, Nam Cao vẫn chưa ý thức đầy đủ về sức mạnh vĩ đại của quần chúng lao động, sức công phá mãnh liệt của những kiếp người nô lệ, nhưng ông đã lờ mờ nhận thấy một sức sống tiềm tàng trong con người lao động bị áp bức. Đằng sau sự dàm chém hài hùng kia có cái gì như là sự vật vã tuyệt vọng đang cố vùng vầy để thoát khỏi nó. Bi kịch của Chí không phải là sự nghèo hèn vật chất, thứ vị xã hội mà ở chỗ là người mà không được xã hội loài người dung nạp. Sống trong sự thờ ơ lẫn sợ hãi, xa lánh của mọi người càng làm cho Chí cùng thêm, liều thêm cho đến khi ý thức được điều đó thì hắn chỉ còn biết tìm đến cái chết.
Thực ra, trong chuỗi ngày dài trong đời hắn, hắn không hề biết mình đang sống, hắn chưa biết đến cái chết nghĩa là hắn chưa sống. Kết thúc truyện hắn đã tìm đến cái chết, cũng là lúc hắn nhận biết được cuộc sống thú vật của hắn. Còn Bá Kiến, sẽ còn Chí Phèo. Hết Bá Kiến, Chí Phèo cũng không tồn tại. Ở đây ta còn thấy một sự thâm thúy sâu xa của Nam Cao khi cho cả hai nhân vật tồn tại song song và có vai trò tác động lẫn nhau. Nếu không phải là Bá Kiến thì anh Chí ngày xưa chưa hẳn đã là Chí Phèo bây giờ. Bởi ở Bá Kiến là cả sự khôn ngoan lọc lừa, một kẻ biết ném đá giấu tay.
Nam Cao có lần đã nói: Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ kiếp lầm than. Đó là lời của Điền (Trăng sáng), nhưng cũng là nỗi băn khoăn trong cuộc đời cầm bút của Nam Cao. Ngòi bút của ông hướng về người dân lao động nghèo khổ nhiều khi là những con người xấu xí như Chí Phèo, Thị Nở... Ông cố tình đưa cái khuôn mặt rách nát của Chí hay khuôn mặt kì dị của Thị vào trang viết bởi chỉ với nhân vật như thế, Nam Cao mới tố cáo hết sự tàn bạo của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ tột cùng của người nô lệ.
Trong Chí Phèo,Nam Cao đã tập trung xoáy sâu và làm nổi bật lên mâu thuẫn xã hội cơ bản ở nông thôn: đó là mâu thuẫn cực độ giữa người dân lao động bị I áp bức và bọn thống trị, địa chủ chuyên bóc lột. Kết cục bi thảm của truyện chính là kết quả tất yếu, không tránh khỏi mâu thuẫn đó. Nam Cao rất tôn trọng bút pháp hiện thực, vì vậy, khi viết ông không ngần ngại đưa vào truyện những chi tiết trần tục như việc tả Chí Phèo và Thị Nở ở đêm trăng. Cả hai con người gàn dở ấy cũng khao khát yêu đương, cũng có những ham muốn rất con người, nếu ngòi bút Nam Cao không chân thực thì chúng ta không thể thấy hết điều đó. Càng hiện thực, càng cho chúng ta thấy một Nam Cao đầy lòng vị tha, nhân ái, một tấm lòng nhân đạo cao cả.
Bi kịch ở cuối truyện là sự bứt phá, tự giải phóng cho nhân vật. Nam Cao lồng cả tình cảm của mình vào để gián tiếp bộc lộ lòng căm thù sâu sắc của mình đối với chế độ và sự yêu thương, trân trọng với giai cấp nông dân. Bá Kiến chết đi là mong muốn của sự kết thúc một chế độ đen tối bất công. Chí Phèo chết đi là cách duy nhất Nam Cao hóa kiếp cho loài người đau khổ, chỉ có cái chết mới giải thoát được cho họ. Cái nhìn của Nam Cao tuy hơi cực đoan, bế tắc song nó hợp với logic của truyện ngắn. Khi cái xấu xa đã ăn sâu vào thành tính cách, phẩm chất của con người thì không còn cách nào thay đổi được, chỉ chết đi mới rủ bỏ được tất cả. Tìm đến cái chết, nghĩa là Chí Phèo đang tìm kiếm sự sống, một cuộc sống thực sự.
Truyện ngắn Chí Phèo đã đánh dấu một sự nghiệp sáng tác lớn của Nam Cao. Ông hiểu rằng phải là hiện thực, văn học mới có ý nghĩa tố cáo sâu sắc chế độ, chỉ có hiện thực mới nhìn thấy hết nỗi đau khổ, dằn vặt trong người dân lao động, và chỉ có hiện thực mới làm nổi bật tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn. Hành động quyết liệt bất ngờ của Chí Phèo trong truyện là một diễn biến hợp lí, thể hiện sự "tháo cũi xổ lồng" của người dân. Tuy nhiên Nam Cao mới chỉ nhìn thấy sự phản kháng ở một con người chứ chưa có ý thức về sức mạnh tiềm tàng trong quần chúng. Nam Cao mới nhìn vào Bá Kiến chứ chưa nhìn vào một hệ thống giai cấp thống trị ở khắp đất nước Việt Nam thuộc địa.
Qua truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã chứng tỏ là một cây viết hiện thực sắc sảo, là "thư kí trung thành của thời đại", một tấm lòng nhân ái, rộng mở bị ám ảnh bởi số phận đau khổ của kiếp người nô lệ. Chính mảnh đất nơi ông sinh ra đã tác động, ảnh hưởng lớn tới sự nghiệp sáng tác của ông.
Phân tích giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo 16
Nhắc đến Nam Cao, người ta nhớ đến một ngòi bút hiện thực phê phán xuất sắc của văn học Việt Nam những năm trước và sau Cách mạng tháng Tám. Đọc văn Nam Cao, đôi lúc người ta không khỏi rùng mình bởi cái sắc lạnh trong ngôn ngữ, trong miêu tả, trong cách nhìn nhận sự việc. Nhưng đằng sau đó lại luôn ẩn chứa một tấm lòng nhân đạo sâu sắc, xót thương con người, xót thương số phận từ đó mơ ước về một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. ông như chiếc phích nước nóng đã được người đời mệnh danh, ngoài lạnh, mà trong thì luôn ấm nóng tình người. Đọc “Chí Phèo”, tác phẩm thực sự đánh dấu sự nghiệp văn học và định hướng sáng tác của nhà văn, dõi theo cuộc đời và số phận của các nhân vật trong chuyện, ta cảm nhận được một cách thật sâu sắc tấm lòng nhân đạo cao cả ấy.
Nhân đạo là đạo đức thể hiện ở sự thương yêu, quí trọng và bảo vệ con người. Giá trị nhân đạo trong một tác phẩm văn học thường thể hiện ở việc tác phẩm ấy quan tấm như thế nào đến vấn đề con người? Nó ngợi ca gì? Phê phán gì? Thể hiện tình cảm thương yêu, quí trọng con người, hướng tới việc phản ánh ước mơ, nguyện vọng của con người ra sao? Nói tóm lại, một tác phẩm nhân đạo là một tác phẩm hướng tới, đề cao, trần trọng, bảo vệ những giá trị thuộc về con người, xây dựng một cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. ớ mỗi thời kì khác nhau, về mặt bản chất, chủ nghĩa nhân đạo không có gì thay đổi nhưng có nhiều những biểu hiện không giống nhau.
Nếu như trong văn học dân gian, nhân đạo là phát hiện ra vẻ đẹp con người, đề cao và ca ngợi người dân lao động cùng những ước mơ, khát vọng của họ thì trong văn học thời chiến, nhân đạo còn thể hiện ở thái độ lến án, tố cáo, chống lại kẻ thù. Thời bình, nhân đạo là quan tâm đến đời sống thường ngày, không xa lạ, hoa mĩ mà gần gũi, chân thực của con người, hiểu và cảm thông cho những bi kịch do thời đại mang lại của họ. Là một tác phẩm ra đời trong thời kì trước Cách mạng tháng Tám, khi dân tộc ta còn đang chìm trong “đêm trường nô lệ”, cuộc sống nhân dân khổ cực, tối tăm, bế tắc, “Chí Phèo” của Nam Cao đã diễn tả sâu sắc bi kịch của người nông dân trên con đường bị bần cùng hoá, bị tha hoá cả về nhân hình và nhân tính từ đó lớn tiếng phê phán và tố cáo xã hội sâu sắc.
Trước hết, tác phẩm dựng lên một bức tranh hiện thực về cuộc đời và số phận nhân vật bất hạnh. Tất cả những người nông dân trong tác phẩm đều là những người bất hạnh. Bà cô Thị Nở khổ vì cảnh “gái già”, không chồng, không con, o ép mình trong những định kiến xã hội. Thị Nở khổ vì có một hình hài không bình thường, thậm chí là dưới mức bình thường, khổ vì là một người đàn bà dở người... Và hơn tất cả, Chí Phèo nổi bật lên là một điển hình cho những nỗi khổ chung của người nông dân trong xã hội ấy. Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sinh ra: Người ta nhặt được hắn trần truồng, tím ngắt trong cái lò gạch bỏ không. Rồi Chí bị chuyền hết từ tay người này sang tay người khác và cuối cùng năm hai mươi tuổi thì trở thành canh điền nhà Bá Kiến.
Ra khỏi cảnh lang thang, Chí lại rơi vào tay một con cáo già nham hiểm. Vì ghen, Bá Kiến đẩy Chí Phèo vào trong nhà tù, bước đầu quá trình lưu manh hoá, biến hình một anh thanh niên trước đó vốn hiền lành như đất thành một con quỹ. Bằng tình thương và lòng nhân đạo sâu sắc của mình, Nam Cao đã phát hiện ra ở nhân vật một thân phận đầy bi kịch. Đầu tiên, đó là bi kịch của một người bị đẩy vào cảnh bần cùng hoá. Chí Phèo cũng từng là một người nông dân có thân phận nghèo hèn như bao người nông dân khác trong làng Vũ Đại. Hắn phải đi ở dợ, đi làm thuê cho nhà giàu để kiếm cớ sinh nhai.
Nhưng nếu như Chị Dậu bị đẩy vào cảnh bị bần cùng hoá đến cảnh phải bán con, bán chó, gia đình không còn gì có thể bán được nhưng vẫn còn có một mái nhà để chui ra chui vào. Anh Pha của Nguyễn Công Hoan bị đẩy từ một người có chút máu mặt trong làng, có ruộng, có vườn trở thành một kẻ vô sản. Bi kịch bần cùng hoá của Chí Phèo còn đau đớn hơn. Chí Phèo bị bần cùng đến mức phải doạ nạt, phải cướp giật, phải đập phá của người ta mới có cái để ăn, mới có nơi để sống. Bi kịch đầu tiên đã đầy đau xót nhưng bi kịch thứ hai còn đau đớn hơn gấp nhiềú lần. Đó là bi kịch của một con người bị tha hoá, biến chất, biến thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại.
Từ một người lương thiện, Chí Phèo bị nhà tù thực dân lưu manh hoá. Rồi Bá Kiến, bằng sự nham hiểm của mình hoàn thiện nốt quá trình tha hoá thằng lưu manh ấy thành con quỉ dữ. Một con người mà bị xã hội của mình gạt ra ngoài lề, một người bị cô độc đến tuyệt đối và cách giao tiếp duy nhất có thể là qua tiếng chửi nhưng đáp lại cũng chỉ là mấy con chó, còn dân làng thì “không ai chịu ra Ịời”; Một kẻ mà người ta tránh như tránh một con vật nào đó rất đáng sợ như Chí cũng thật đáng thương. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Nam Cao còn khiến người ta xót xa hơn cho Chí Phèo bởi hắn làm tất cả những việc đó trong lúc say.
Chí Phèo say tràn từ hết cơn say này sang cơn say khác. Và “hắn say thì hắn làm bất cứ việc gì mà người ta sai hắn làm”, “hắn đã phá đi bao nhiêu cơ nghiệp, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm đổ máu và nước mắt của biết bao người lương thiện”. Hắn trở thành con quỉ dữ trong mắt mọi người. Chí Phèo trở thành nạn nhân của những mưu mô xảo quyệt, thành nạn nhân của chính xã hội ây. Vì hắn say nên hắn gây tội ác. Và cũng chính vì hắn say nên hắn làm tất cả những điều đó một cách vô thức. Hắn trở thành một công cụ trong tay người khác, càng đáng sợ bao nhiêu hắn lại càng đáng thương bấy nhiêu. Ngòi bút của Nam Cao cứ thế, lạnh lùng, miêu tả một cách chân thực mà không bộc lộ một thái độ chủ quan nào nhưng đọc lên người ta vẫn thấy một tâm hồn cũng đang đau đớn, quằn quại trong những bi kịch của chính các nhân vật của mình.
Nhà văn từng quan niệm: “Đôi mắt của người nghệ sĩ hoàn toàn không phải là đôi mắt ráo hoảnh" của phường ích kỉ mà là đôi mắt của tình thương, đôi mắt của lòng nhân đạo”. Và ông đã dùng đôi mắt ấy để phát hiện, cảm thông cho bi kịch của con người. Đằng sau cái thằng Chí Phèo ngật ngưỡng say rượu tưởng chừng chỉ biết rạch mặt ãn vạ, đánh đập, dọa nạt người khác, Nam Cao phát hiện ra vẫn tồn tại tính người, tồn tại cái mà người ta gọi là lương thiện. Phải có một lòng thương yêu và niềm tin sâu sắc vào con người ông mới có thể khám phá ra trong tâm hồn tưởng chừng như đã thành sỏi đá ấy nhịp đập thoi thóp của một trái tim ấm nóng. Thằng Chí Phèo của hiện tại đã từng là một anh Chí nông dân, hiền lành, nhút nhát, bị bà Ba gọi lên bóp chân còn thấy run.
Anh nông dân ấy đã từng sống lương thiện bằng chính sức lao động của mình, cũng đã từng có những ước mơ lương thiện: “Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải..”.. Không ai có thể tin hay nghĩ rằng cop quỉ dữ ấy có thể một lần lột xác trở lại làm người. Vậy mà Nam Cao lại tin điều đó. ông đã để cho một điều kì diệu xảy ra, dù ngắn ngủi, dù bát thường nhưng là một điều kì diệu vĩ đại, điều kì diệu có hể thay đổi một con người. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở không chỉ đơn giản là một cuộc đụng chạm về xác thịt. Đó chỉ là khởi đầu. Buổi tối bên bờ sống trong cái rười rượi của trăng chỉ làm khơi dậy thứ tình yêu mang tính bản năng con người. Trận ốm lúc nửa đêm mới thực sự bắt đầu cho những dấu hiệu của sự thức tỉnh. Lần đầu tiên, sau bao nhiêu lâu không rõ, Chí Phèo không say. Lần đầu tiên, hắn cảm nhận được những âm thanh của cuộc sống: “Mặt trời đã lên cao và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ.
Cứ nghe chim ríu rít bên ngoài là đủ biết. (...) Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chẳng có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy..”. Và cũng lần đầu tiên, sau bao ngày chìm trong men say, hắn biết thế nào là buồn. Một người bắt đầu biết suy nghĩ về cuộc sống có nghĩa là cũng đã biết tự chiêm nghiệm về mình. Và hắn đau đớn khi nhận ra rằng: Hắn là một kẻ trắng tay. Đứng ở bên kia dốc cuộc đời, hắn biết mình đã già, “Ngoài bốn mươi tuổi đầu..”.. Dầu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn, rằng những ước mơ lương thiện từng có ở một anh nông dân lương thiện đã không thể nào thực hiện được, dù chỉ là một phần rất nhỏ.
Và rồi, Thị Nở lại sang. Thị sang mang theo cho hắn bát cháo hành, mang cho hắn sự quan tầm chăm sóc chân thành, mang cho hắn tình yêu và từ đó nhen nhóm lại trong hắn giấc mơ được trở lại kiếp người lương thiện. Tình người cùng với hương cháo hành đã dẫn dắt tính người quay lại trong hình hài của một con quỉ dữ, đánh thức khát khao, đánh thức ước mơ, đánh thức niềm mong muôn được trở về với xã hội loài người. Và hắn hi vọng: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muôn làm hoà với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ nhận thấy rằng hắn cũng có thể không làm hại ai. Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.
Chí Phèo đâu có hoàn toàn đáng sợ như người ta tưởng. Hắn đáng sự chỉ vì bởi ngườỉ ta đã lợi dụng để biến hắn thành như vậy. Bản tính lương thiện vẫn tồn tại trong con người Chí Phèo và giờ đây, khi được một tình người chân thành cảm hoá, nó được khơi dậy thành một khát khao mãnh liệt. Tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn đã khiến ta thâm thía rằng: “ Chao ôi! Đốì với những người ở quanh ta, nếu ta không cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi... toàn những cớ để cho ta tà nhẫn; không bao giờ ta thấy họ là những người đáng thương, không bao giờ ta thương”. Nhưng khi lương thiện và tính người trở về thì cũng là lúc bi kịch được đẩy lên đến đỉnh điểm chỉ còn cách giải quyết cuối cùng là cái chết.
Đến đây, khi lương thiện và ý thức về cuộc đời đã quay trở lại, Chí không thể tiếp tục cuộc đời của một con quỉ dữ nhưng cũng không thể trồ lại làm người. Và Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Bằng tấm lòng yêu thương cao cả và ngòi bút nghệ thuật đặc sắc của mình, Nam Cao đã diễn tả một cách sâu sắc diễn biến tâm lí của Chí Phèo từ hi vọng, đến thất vọng đau đớn, phẫn uất và cuối cùng là tuyệt vọng. Chí Phèo quằn quại trong vũng máu cũng là quằn quại trong bi kịch của chính mình. Người ta thấy thương xót cho số phận Chí Phèo còn nhiều hơn là ghét, giận.
Yêu thương con người, phát hiện và trân trọng những ước mơ, khát vọng của họ, thể hiện niềm tin vào cái “thiên lương” trong sáng trong tâm hồn con người, Nam Cao cũng lớn tiếng lên án, tố cáo xã hội tàn ác chà đạp lên quyền sống, quyền làm người, quyền hạnh phúc của con người. Lưu manh hoá Chí Phèo là nhà tù thực dân, còn tha hoá và biến hắn thành con quỉ dữ là Bá Kiến. Chế độ thực dân và phong kiến đã cùng nhau thống trị, đẩy người dân vào cảnh “một cổ hai tròng”, không thể nào ngóc đầu lên được. Làng Vũ Đại là mảnh đất “quần ngư tranh thực” mà ở đó người dân chỉ là những miếng mồi béo bở đế bọn cường hào địa chủ tranh giành, cắn xé.
Bá Kiến có hẳn cả một kho kinh nghiệm để thống trị người ta, để biến người ta thành tay sai của mình, để áp bức, bóc lột. Trong khi hắn chiêm nghiêm, tâm đắc với “đường lối” sáng suốt của mình thì biết bao người dân vô tội vẫn tiếp tục bị đẩy vào cảnh bần cùng, tha hoá. Đã có những Binh Chức, Năm Thọ, Chí Phèo, và không biết sẽ còn bao nhiêu những “Chí Phèo con” sẽ ra đời. Cái chết của Chí Phèo và Bá Kiến ở cuối truyện là kết quả tất yếu của những mâu thuẫn đã được đẩy lên đến cao trào. Nó thể hiện lòng nhân đạo rộng lớn của nhà văn. Chí Phèo chết là một sự giải thoát, còn Bá Kiến chết là một sự trừng phạt. Tuy tất cả chỉ mang tính tự phát và tương lai phía trước vẫn còn mờ mịt, nhưng nó đã ẩn chứa trong đó khát khao mãnh liệt của Nam Cao về sự thay đổi xã hội, hướng tới xã hội mới tốt đẹp hơn.
Đọc toàn bộ tác phẩm, không thấy xuất hiện một lời bình luận, nhận xét hay thương cảm về số phận nhân vật và những bi kịch trong xã hội. Nam Cao đã miêu tả tất cả với một thái độ lạnh lùng của một ngòi bút sắc lạnh. Nhưng vượt lên trên tất cả, người ta vẫn cảm nhận được ỗ đó tình thương yêu con người sâu sắc. Tất cả làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm nghệ thuật đích thực: “vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn”, “là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn...”