Phân tích hình ảnh sĩ tử và quan trường qua hai câu thơ: “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ/ Ậm oẹ quan trường miệng thét loa"
Kẻ sĩ xưa vốn không “Đề huề lưng túi gió trăng”, “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa” như chàng Kim của Nguyễn Du thì cũng "đầu đội trời chân đạp đất" “Chí nam nhi nam bắc tây đông” như Nguyễn Công Trứ. Bởi vậy nên ta thấy lạ lắm, kì lắm cho những chàng sĩ tử trong bộ dạng thế này:
“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ”
Những học trò của cửa Khổng sân Trình nhưng chẳng khác nào phường buôn thùng bán mẹt, đầu đường xó chợ. Tú Xương đã dùng phép đảo ngữ để đưa hai từ “Lôi thôi” lên trước, “lôi thôi” là luộm thuộm không gọn gàng. Hai từ ấy tạo ấn tượng về đám sĩ tử bệ rạc, ăn mặc lếch thếch, thật phường giá áo túi cơm hèn mọn, gắng lắm chỉ gánh nổi đôi hạt vừng nói chi đến đội trời đạp đất? Ăn mặc đã vậy, tác phong cũng thật lạ kì: “vai đeo lọ”. Lọ gì? Lọ mực chăng? (Nói đến sĩ tử có lẽ nào lại là lọ nước?) Từ “đeo” khiến dáng vẻ kẻ sĩ thêm nặng nề, kì cục, “đeo” là đeo vật gì nặng nề ra điều khó nhọc, nay đeo lọ mực thì cái dáng vẻ ấy vừa buồn cười lại vừa thêm bội phần luộm thuộm. Lọ mực nhỏ vậy mà đã "đeo" còn bút giấy không hiểu mang vác, khuân ôm thế nào? Ở đây có thể hiểu thêm một ẩn ý sâu xa của nhà thơ: việc học hành, ôn luyện chữ thánh hiền là một việc quá sức với những kẻ ngu ngốc, kệch cỡm như vậy. Nhưng mang mực đi đâu mà phải “đeo” như vậy?
“Ậm oẹ quan trường miệng thét loa”
Nhắc đến quan trường là nhắc đến trường thi. Ra là những sĩ tử kia đi thi. Ta biết rằng việc thi cử trong xã hội xưa là một việc vô cùng quan trọng, cho cả kẻ sĩ, cho cả triều đình, đất nước bởi thi là để chọn ra người hiền tài giúp nước. Bởi vậy, trường thi luôn toát lên vẻ trang trọng, uy nghiêm. Nhưng trường thi này thì khác, đám sĩ tử thì lôi thôi, bệ rạc. Còn đám quan trường coi thi cũng chẳng hơn, “ậm oẹ”, “thét loa”. Tiếp tục dùng phép đảo ngữ, đưa từ “ậm oẹ” lên trước nhà thơ muôn tạo ấn tượng về những bậc quan chưa thấy người mà đã thấy tiếng. Không phải tiếng tăm, danh vọng chi mà là tiếng quan trường “thét loa” (gọi sĩ tử, thông báo, nhắc nhở,... điều gì đó) bằng thứ tiếng thét “ậm oẹ” - tiếng bị cản từ trong cổ họng nghe không rõ. Chỉ riêng từ “ậm oẹ” đã đủ bán đứng tư cách và phẩm giá vị quan trường. Đó là những kẻ "ăn không nên đọi nói chẳng nên lời" vậy sao có thể cai quản việc nước? Âm thanh “ậm oẹ” còn gợi liên tưởng đến tiếng người câm đang cố gào lên điều gì đó. Chỉ khác là ở đây quan trường không gào mà “thét”, “thét loa”. “Thét” để át đi những âm thanh ồn ã, lộn xộn nhộn nhạo hay “thét” để góp thêm vào sự hỗn loạn vốn có. Cái dáng vẻ ấy nhốn nháo thế nào, nó không có được sự nghiêm túc, chỉn chu, trang nghiêm cần có ở một vị quan.
Hình ảnh đám sĩ tử lôi thôi, bệ rạc và lũ quan trường lộn xộn, ồn ã đã gợi đến hình ảnh một buổi thi Hương lúc cuối mùa của Nho học, khi ngày tàn của chế độ phong kiến và thời điểm úa tàn của nền độc lập dân tộc trước sự xâm lăng của chủ nghĩa thực dân. Hình ảnh ấy mang giá trị tố cáo sâu sắc, đồng thời nó ẩn chứa một nỗi đau, một tiếng thở dài của Tú Xương.