Phân tích Bài ca lưu biệt của Huỳnh Thúc Kháng
Huỳnh Thúc Kháng là một nhà thơ yêu nước. Cụ đã để lại nhiều thơ chữ Nôm và chữ Hán. Năm 1908, trước lúc chia tay các chiến hữu trong tù, bị đày ra Côn Đảo, Cụ viết bài thơ "Bài ca lưu biệt". Bài thơ được viết theo thể hát nói, có một số câu thơ chữ Hán tạo nên phong cách trang trọng hào hùng.
Trong bài thơ “bài ca lưu biệt”, hai câu đầu song hành, đối xứng nêu lên một nhận xét về quy luật của tự nhiên và cuộc đời:
"Trăng trên trời có khi tròn khi khuyết
Người ở đời đâu khỏi tiết gian nan".
Sông có khúc người có lúc, cho nên bất cứ ai, đâu có thể thoát khỏi vòng gian nan, vất vả, nguy hiểm. Trăng "khuyết" cũng như con người gặp "tiết gian nan" là chuyện tất yếu, chuyện bình thường. Hai câu thơ thể hiện một cái nhìn sáng suốt, bình tĩnh trước tai hoạ cuộc đời.
Hai câu tiếp theo nói lên cách ứng xử của đấng trượng phu trước mọi biến cố, mọi thử thách:
"Đấng trượng phu tùy ngộ nhi an
Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn".
Hai câu chữ Hán có nghĩa là: Đấng trượng phu gặp bất kỳ cảnh ngộ nào cũng xử trí được. Luôn luôn chủ động, làm chủ hoàn cảnh, làm chủ tình thế an nguy, hoạn nạn trên đường đời. Gặp cảnh hoạn nạn sẽ xử trí theo cảnh hoạn nạn, quyết không chịu bó tay đầu hàng trước hoạn nạn, thử thách.
Khổ giữa sáng lên một niềm tin và tự hào về con đường cách mạng của mình đang đi, về đức tài của người chiến sĩ yêu nước: "Tiến lộ định tri thiên hữu nhãn – Thâm tiêu do hứa mộng hoàn gia". Con đường phía trước còn đầy chông gai, bị tù đày, nhưng là con đường sáng, con đường của sự nghiệp chính nghĩa thì trời sẽ soi xét cho, thế nào mình cũng được trở về nhà sum họp với gia đình.
Bấy nhiêu năm cũng vẫn chưa già,
Nọ núi Ấn, này sông Đà
Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt.
Với cái án khổ sai chung thân mà lại nói "Bấy nhiêu năm cũng vẫn chưa già, cách nói ấy là một sự thách thức, bất khuất ngạo nghễ. Núi Ân Sơn còn gọi là núi Chúa hay núi Mỏ Diều, sông Đà tức là sông Cẩm Lệ, là hai cảnh đẹp của Quảng Nam-Đà Nẵng, quê hương thân yêu của nhà thơ. Tác giả vững vào một ngày mai không xa sẽ trở lại nơi quê cha đất tổ, đem tài năng để góp phần điểm tô quê hương được phục hưng và cường thịnh. "Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt".
Sau phong trào Duy Tân tự cường, nhiều chiến sĩ yêu nước bị bắt, bị cầm tù, cùng chung xà lim, ngục tối, thế là tụ. Nay mai người bị đày ra Côn Đảo, người bị giam hãm khắp các nhà tù đó đây, thế là "tán", nhưng chỉ là tiểu biệt" mà thôi, nghĩa là chia li nhất thời.
Kìa tụ tán chẳng qua là tụ biệt,
Ngựa Tái ông họa phúc biết về đâu!
Ý thơ tương phản đối lập giữa “tụ, tán" với "tiểu biệt" đã biểu lộ một cách nhìn, một cách sống rất tỉnh táo, lạc quan trong đại họa, trong gian nan. Câu dưới sử dụng điển tích "Thất mã Tái Ông" cấu trúc câu thơ dưới hình thức câu hỏi tu từ cũng thể hiện một niềm tin chói sáng. Bị tù đày chưa hẳn "họa" hay đó là "phúc" để người chiến sĩ yêu nước thử thách can trường, lòng dạ trung thành sắt son với nước, với dân. Ba câu thơ tiếp theo cũng nói lên một tâm thế rất đẹp: dù tạo hoá có cơ cầu, có sắp xếp đi thế nào nữa, thì đến đâu, ở đâu cũng là quê hương, cũng nước non nhà. Chỉ biết rằng trong cuộc sống trăm năm cần có ta:
“Ư bách niên trung tu hữu ngã”
Trong cuộc đời, cuộc sống một trăm năm cần có ta. Câu thơ vang lên như một tuyên ngôn, đĩnh đạc, hùng hồn. Những nhà yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng… đã sống và hành động đẹp như thế.
Ba câu thơ cuối biểu hiện khí tiết của đấng trượng phu trong hoạn nạn. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản: "Dẫu… vẫn…". "Núi sụp, biển lồi, trời nghiêng, đất ngả" tượng trưng cho những biến cố dữ dội ấy cũng chẳng hề gì, vẫn trong sáng như "vàng", vẫn cứng rắn như "đá", dù có tạc đi, đập đi cũng chẳng mòn, chẳng tan nát, biến dạng. Khí tiết ấy, tinh thần bất khuất ấy là của một lớp nhà nho chân chính đầu thế kỉ.
Nếu mở đầu bài hát nói là câu "Trăng trên trời có khi tròn khi khuyết" thì câu kéo cuối bài lại là hình ảnh "Trăng kia khuyết đó lại tròn" như một niềm tin, một hi vọng dào dạt tinh thần lạc quan tin tưởng. Trăng khuyết sẽ tròn, hết bĩ cực thì đến thái lai. Bị tù đày rồi sẽ giành được tự do. Tin ở bản thân mình, tin ở con đường cách mạng, cứu dân cứu nước, tin ở sức mạnh chính nghĩa của dân tộc.
Bài thơ của Huỳnh Thúc Kháng tuy có nói đến "lưu biệt", đến chia tay nhau, nhưng nó xứng đáng là một bài ca, một tráng khúc của thời đại. "Bài ca lưu biệt" đã được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân miền Trung thời Pháp thuộc. Nó xứng đáng là một bông hoa tươi thắm trong vườn thơ ca yêu nước và cách mạng Việt Nam.