Dàn ý chung Tâm sự của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài Tự tình II
I. Mở bài:
- Giới thiệu chung: Hồ Xuân Hương là một nhà thơ lớn của Việt Nam thời kì trung đại, bà được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm
- Giới thiệu về bài thơ "Tự tình 2"
II. Thân bài:
Bài thơ thể hiện nỗi buồn và tâm sự của nhà thơ về số phận lẻ loi của mình và niềm khát khao được hạnh phúc, được quân tử yêu thương.
* Hai câu đề:
"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non"
- Hoàn cảnh: giữa đêm khuya, hao thức, nghe tiếng trống dồn dập sang canh
- Thấy mình cô độc giữa cuộc đời.
- Phân tích nghệ thuật sử dụng từ ngữ mạnh, nghe thật thấm thía
* Hai câu thực:
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn"
Nói lên suy nghĩ của nhà thơ:
- Buồn, uống chén rượu để quên nhưng càng uống càng tỉnh, tỉnh lại càng buồn hơn. (Hình ảnh người con gái lấy chính mình ra làm đồ nhắm)
- Nhìn trăng thấy trăng đã xế bóng mà lại chưa tròn. Vầng trăng như là thân phận của nhà thơ"Khuyết chưa tròn": Chưa tuyệt vọng vẫn còn ấp ủ niềm hi vọng.
* Hai câu luận:
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn"
- Mở rộng tầm nhìn: những đám rêu trên mặt đất, mấy hòn đá phía chân trời. Những hình ảnh rất thực, ước lệ.
- Cái nhìn khoẻ khoắn. Có một sự phản kháng, sự vươn lên để khẳng định chỗ đứng của mình.
* Hai câu kết:
"Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con."
- Từ thiên nhiên xung quanh, nhìn lại bản thân mình, cảm thấy ngán nỗi, buồn cho mình, nghịch lí.
- Thời gian cứ trôi qua xuân đi xuân lại lại, một sự tuần hoàn liên tục nghe mà ngán ngẩm cho duyên phận của mình. Tuổi xuân trôi qua ma lại không có tình duyên trọn vẹn.
- Sự chia sẻ ít ỏi
- Một nỗi buồn chán và thất vọng.
III. Kết bài:
- Một bài thơ chứa đựng nỗi buồn và niềm khát khao chân thành
- Trong nền thơ trung đại, lần đầu tiên mới có một người phụ nữ dám nói lên điều ấy
Bài văn mẫu Tâm sự của hồ xuân hương trong bài thơ tự tình II ngắn gọn - Bài văn mẫu số 1
Trong hệ thống những bài thơ mang chứa tâm sự của Hồ Xuân Hương, "Tự Tình" là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện nỗi buồn, nỗi cô đơn thầm thía của người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp những cảnh ngộ éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng gặp toàn dang dở bất hạnh. Đó là sự bất hạnh của một ước mơ không thành.
Sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX), Hồ Xuân Hương là người chứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng của không khí sôi sục của phong trào quần chúng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Không khí ấy tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trắc trở về đời mình, một cuộc đời đầy éo le, bạc phận, lấy chồng hai lần, hai lần làm lẻ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau "hồng nhan bạc phận".
Mở đầu bài thơ Tự tình, tác giả gợi ra một khoảng thời gian, một góc xao xác tiếng gà. Đây là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm cho sự thổ lộ tâm trạng tác giả:"canh khuya văng vẳng trống canh dồn". "Văng vẳng" chính là từ tượng thanh nhưng ở đây nó biểu thị tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng của một người thao thức giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhói một tâm sự :
"Trơ cái hồng nhan với nước non"
Hay nhất của câu thơ thứ hai là từ "trơ". Trơ là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ cảm nhận nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn cá thể càng kinh khủng hơn khi cọ xát với toàn xã hội, toàn cuộc đời: "nước non". Một nỗi buồn đè nặng lên tâm sự bà, lên số phận của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại, thoát khỏi. " Chén rượu hương đưa" là một phương tiện. không phải là phương tiện duy nhất mà hầu như là cuối cùng cho một đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch vẫn cứ là bi kịch :
"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh"
Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lý Bạch :
"Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu".
Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự cám cành si tình. Hồ Xuân Hương nói :
"Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn".
Trong quan điểm thẩm mỹ xưa, vầng trăng tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Câu "vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn" vừa là hình ảnh đẹp, có thực nhưng đượm buồn. Cái buồn của một "vầng trăng khuyết". Đối với thơ xưa cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác, gợi nhớ cuộc đời bà. Trong "mời trầu" bà đã ẩn ý như vậy.
Sang câu 5, 6 tứ thơ như đột ngột chuyển biến. sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên thuần khuyết. Một cảnh thực hoàn toàn :
"Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn".
Nghệ thuật đảo ngữ và đối tạo nên sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống của bà như vẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của "bà chúa thơ Nôm" chứ không phải của ai khác. Rò ràng, dẫu đang rất buồn, rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không làm suy giảm chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt, sự khát khao với cuộc đời khiến cho lòng đầy cám cảnh bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết, chứa chan sức sống. Đó là lý giải về những phản kháng, đối nghịch trong bản chất của bà, tạo nên những vần thơ châm biến đối lập. Vũ khí ấy hơn hẳn chén rượu "say rồi tỉnh". Đó là phương tiên kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như thế mới có thể hiểu tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương, ở hai câu kết :
"Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!".
Yêu đời là thế, sức sống mãnh liệt là thế, mà cuộc đời riêng thì vẫn:"xuân đi xuân lại lại.", điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét, vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua xót. Càng chua xót hơn khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một "mảnh tình" đang bị san đi, sẻ lại... chia xới. Đối với trái tim thiết tha với đời kia, điều đó như một vết thương, nhức nhối.
Người ta nói rằng thơ là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mĩ. Đọc "tự tình", ta thấu hiểu tâm sự ẩn chứa bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khát khao hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống, yêu đời lại bắt gặp toàn những dang dở, bất hạnh, điều đó tạo nên thơ bà có khi là một tiếng thở dài. Một tiếng thở đáng quý của một người có hoài bão nhưng không thể thực hiện được, trách nhiệm là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập gay gắt với cơ cấu chung, trong chiều hướng ấy, "tự tình" là một bà thơ đòi quyên hạnh phúc, một lời phản kháng độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu , đồng cảm với cảnh ngộ éo le, trắc trở.
Bài văn mẫu Tâm sự của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài tự tình II mở rộng - Bài văn mẫu số 2
Hồ Xuân Hương là một hiện tượng đặc biệt trong văn học trung đại Việt Nam. Đặc biệt vì đó là một nữ thi sĩ, mà nữ thi sĩ ấy lại có một lối làm thơ khác thường, không giống như những nữ thi sĩ khác như bà Đoàn Thị Điểm và Bà Huyện Thanh Quan. Có lẽ hơn bất kì một nhà thơ nào khác, bạn đọc khi đến với thơ Xuân Hương đều cảm nhận một cách sâu sắc thế giới tâm hồn của người phụ nữ làm thơ trong xã hội phong kiến có nhiều bất công. Chính vì vậy mà tuy chủ đề phong phú nhưng thơ Xuân Hương nhất quán một cảm hứng nhân văn: Tinh thần thương yêu trân trọng người phụ nữ, tâm hổn nồng nhiệt với cuộc sống, với thiên nhiên và thái độ phủ định quyết liệt thế lực thống trị tinh thần (đạo đức, lễ giáo phong kiến), thế lực thống trị xã hội (vua chúa, quan lại, tăng lữ, nam giới).
Trước hết, Xuân Hương là nữ thi sĩ rất có ý thức về giá trị và quyền sống của người phụ nữ. Thơ bà là tiếng nói đẻ cao và ca ngợi về người phụ nữ. Bà đã dành những câu thơ dịu dàng, tươi thắm và mĩ lệ nhất để nói về đề tài này:
Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh, mà em cũng xinh
Đôi lứa in như tờ giấy trắng
Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh.
(Đề tranh tố nữ)
Không chỉ ca ngợi tuổi trẻ tươi mát, trắng trong của các cô gái đang xuân, Xuân Hương còn ca ngợi cái cơ thể đẹp của người phụ nữ trong bài Thiếu nữ ngủ ngày:
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.
Trong văn học trung đại, Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều như một tòa thiên nhiên trong trắng, ngọc ngà. Nhưng chỉ có Xuân Hương mới có những câu thơ thể hiện sức sống tràn xuân căng nhựa của người thiếu nữ. Vẻ đẹp ấy hãy còn đang e ấp, tinh khôi, trinh nguyên, chưa chút gì vẩn bợn.
Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ cũng là một nội dung quan trọng trong thơ Xuân Hương. Nếu như ở bài Bánh trôi nước, tác giả vừa ca ngợi vẻ đẹp bên ngoài lẫn phẩm chất thủy chung, son sắt của người phụ nữ:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son.
Thì đến Ốc nhồi, Quả mít... bà lại có cách thể hiện khác. Tuy “Thân em như quả mít trên cây... vỏ nó xù xì, múi nó dày...” nhưng thấy rõ cái tráo trở của đàn ông, nhân vật trữ tình sẵn sàng xù gai nhắn nhủ họ nên đứng đắn thêm nữa đối với ái tình, đừng có ỡm ờ trêu hoa ghẹo nguyệt:
Quân tử cố yêu thì đóng cọc
Xin đừng mân mó nhựa ra tay.
Bên cạnh việc đề cao ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương còn thông cảm và bênh vực họ, chỉ ra sự bất công của xã hội đối với họ.
Nếu bài Lấy chồng chung là lời phẫn uất, nguyền rủa chế độ đa thê của xã hội phong kiến khiến cho Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng thì bài thơ Không chồng mà chửa lại là tiếng nói bênh vực người phụ nữ ở phương diện lỡ làng:
Cả nể cho nên sự dở dang
Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng!
Trong những câu thơ của mình, Xuân Hương còn trình bày cảnh khổ của người phụ nữ ở nhiều phương diện như: Cảnh muộn chồng, góa bụa, vất vả trong cuộc sống vì chồng con:
Hỡi chị em ơi có biết không
Một bên con khóc, một bên chồng?
Nhưng trên hết, có lẽ người đọc không thể quên được người từng có những tâm sự chua chát về số phận:
Chiếc bánh buồn về phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nổi lênh đênh.
Lại luôn tự tin ở mình:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!.
Và sắc sảo khẳng định:
Sáng mồng một lòng then tạo hóa,
Mở toang ra cho thiếu nữ đón xuân nào!
Viết về người phụ nữ trong xã hội cũ không phải là nhiều, song sự thực cũng không hiếm tài năng ở đề tài này. Nhưng Xuân Hương đã có cái vinh dự của phụ nữ phải chẳng một phần xuất phát từ những nội dung trên? Xuất phát từ cuộc đời riêng: muộn chồng, lận đận trong tình duyên cộng với tấm lòng đồng cảm và cá tính sắc sao cho đến ngày nay thơ Xuân Hương vẫn đang là những vần thơ rất mới về người phụ nữ.
Đọc thơ Xuân Hương, ta còn cảm nhận được một tâm hồn nồng nhiệt với cuộc sống, giàu biểu tượng phồn thực và cảnh thiên nhiên thì hữu tình, phơi bày vẻ đẹp đầy ấn tượng:
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom...
(Hang Cắc Cớ)
Hay:
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông.
Xuân Hương tả về cái giếng thật, nhưng ta còn cảm nhận được hình ảnh cái giếng thanh tân ở thời điểm dậy thì của người con gái. Ngay cả khi vịnh đèo Ba Dội, nghĩa thực và nghĩa biểu tượng, giọng thơ nghiêm trang mực thước của luật Đường và tiếng thơ thôn dã, sôi nổi khó có thể tách bạch đâu hơn đâu kém:
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
(Qua đèo Ba Dội)
Dường như mỗi chữ, mỗi vần, mỗi hình ảnh thơ đều mang một sức sống dào dạt, một tấm lòng sôi nổi. Qua đó Xuân Hương đã thể hiện lòng yêu đời, yêu cuộc sống mãnh liệt của mình.
Đọc thơ Xuân Hương, ta còn cảm nhận được thái độ quyết liệt phủ định thế lực thống trị tinh thần (đạo đức, lễ giáo phong kiến), thế lực chính trị xã hội (vua chúa, quan lại, tăng lữ, nam giới).
Loại người đầu tiên mà Xuân Hương vạch mặt chửi thẳng là bọn vua chúa, “hiền nhân quân tử”. Đây là bọn có quyền chức nhưng lại sống rất phàm tục. Chúng thường lấy luân lí, đạo đức của thánh hiền ra để che đậy cho những hành vi phàm tục của mình. Qua bài Vịnh cái quạt (I, II), sau khi miêu tả cái quạt bằng phương pháp tượng trưng, Xuân Hương đã chế giễu và chỉ thẳng thói dâm ô của chúng:
Chúa dấu vua yêu một cái này!
Không những thế, Xuân Hương còn hạ uy thế của bọn chúng bằng cách đặt bọn chúng vào những tình thế khó xử:
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở, ở không xong.
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Vậy là sau khi miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ trong giấc ngủ trưa, Xuân Hương đã chỉ thẳng sự thèm muốn của bản chất dâm ô được che đậy bằng vẻ uy nghi của bọn người quân tử. Xuân Hương còn tỏ thái độ khinh miệt đối với bọn nho sĩ rởm. Bà đưa bọn chúng ra chế giễu sự dốt nát:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ.
(Lũ ngẩn ngơ)
Tóm lại, đối với vua chúa và bọn người hiền nhân quân tử, Xuân Hương đã đứng trên lập trường trần thế để phê phán chúng. Bà quan niệm: đã là người ai cũng như ai, vua chúa không phải cái gì cao siêu, không phải là thần Phật mà trốn thoát cuộc đời, cần sống thật và sống là một con người với những khát khao chính đáng, đừng đem luân lí đạo đức ra để che giấu cho những việc làm của mình. Chính vì vậy mà bà đã vạch bộ mặt giả đạo đức, thói dâm ô của bọn chúng.
Có nhà phê bình gọi Xuân Hương là Bà chúa thơ Nôm (Xuân Diệu); có người còn gọi Xuân Hương là nhà thơ độc đáo vô song... Xuân Hương trước hết là nhà thơ của con người. Đặt trong bối cảnh xã hội phong kiến nước ta lúc bấy giờ, Xuân Hương đã dám bộc lộ chính kiến của mình về vẻ đẹp con người, vẻ đẹp của người phụ nữ với nghĩa đầy đủ nhất của từ này; khẳng định những khát khao chính đáng của con người; phê phán những gì là giả tạo, khuôn sáo, gò ép. Điều đó thật đáng quý, đáng trân trọng thay!
Bài văn mẫu Tâm sự của nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong bài tự tình II hay nhất - Bài văn mẫu số 3
Có một người phụ nữ được người ta gọi là “Bà chúa thơ Nôm”, là “thiên tài và kỳ nữ”, người đã vượt qua mọi cuộc tranh luận xưa nay, tự mình đứng sừng sững trong làng thơ Việt Nam với một di sản không phải là nhiều nhưng vô cùng đặc sắc, người phụ nữ ấy chính là Hồ Xuân Hương. Người đời nhớ đến nữ thi sĩ họ Hồ ở cái cười phá phách nhưng cũng không thể quên một người đàn bà với số phận bất hạnh và những nỗi niềm riêng sâu kín buồn tủi. Bài thơ Tự tình (II) cũng là một trong số những bài thơ thể hiện tâm trạng ấy:
“Đêm khuy văng vẳng trống canh dồn
...
Mảnh tình san sẻ tí con con."
Tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo để người trong cuộc càng say thì lại càng tỉnh
“Tự tình II” ở trong số những bài thơ mà Hồ Xuân Hương bộc lộ trực tiếp cái tôi đầy xúc cảm trong nỗi niềm riêng éo le, ngang trái. Bài thơ mở đầu với một không - thời gian:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”
Thời gian là đêm khuya, khi mọi vật đã chìm trong bóng đêm. Trong thời điểm ấy, vạn vật trở nên tĩnh lặng, không gian trở nên hoang vắng, đủ để nghe thấy tiếng trống canh từ nơi xa vọng lại. Đó là một thứ âm thanh được cảm nhận rất hay. Là “văng vẳng” có nghĩa là nó được vọng lại từ một nơi rất xa xôi, dường như âm thanh tiếng trống canh chỉ nghe thấy thấp thoáng theo từng cơn gió thổi và người nghe phải lắng tai lắm mới nghe được. Vậy nhưng vẫn đủ để nhận ra nhịp dồn dập của nó. Tiếng trống canh báo hiệu một thời khắc nữa của thời gian trôi qua, nó như có gì đó nhắc nhở, có gì đó thúc giục người đang thao thức. Mà người thao thức ấy lại là một người phụ nữ, đa sầu, đa cảm.
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Đêm khuya thanh vắng là lúc con người thường đối diện với chính bản thân mình, để xót thương, để tự vấn, tự nhìn lại mình và đó cũng là thời điểm mà người ta thật với mình nhất. Khi những âm vang của cuộc sống ban ngày dường như đã lắng lại thì người ta lại cảm nhận rõ hơn bước đi của thời gian, bước đi của cả một đời người. Thời gian vẫn đang chảy trôi, còn nhân vật trữ tình - ở đây là một người phụ nữ - thì lại chìm đắm trong một cảm giác xót xa, buồn tủi. Người phụ nữ ấy biết được giá trị của mình: là hồng nhan - một người đàn bà đẹp, có tài sắc. Nhưng xưa nay, “hồng nhan bạc mệnh”, càng nhận thức về nhân cách và phẩm giá của mình bao nhiêu thì lại càng thêm ngậm ngùi, cay đắng bấy nhiêu. Vì sao vậy? Thúy Kiều đêm trước khi bán mình chuộc cha đã một mình đối diện với chính mình:
“Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn
Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”
Còn Hồ Xuân Hương một mình đối diện với chính mình trong đêm để nhận ra tình cảnh bi đát: “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Từ “cái” đặt trước danh từ “hồng nhan” khiến cho hai chữ này không còn giá trị. Hồng nhan nhưng lại là “cái hồng nhan” ẩn chứa đằng sau một cái gì đó như xem thường. Nó tuy không xót xa như cụm từ “kiếp hồng nhan” hay “phận hồng nhan” nhưng thể hiện rõ ràng ở đây sự tự ý thức của người trong cuộc. Sự tươi xinh, đẹp đẽ kia chỉ có giá trị tự nó mà thôi và người sở hữu nó cũng chỉ biết ngậm ngùi mà chấp nhận. Bởi thế nên cũng tự mình nhận mình chỉ là “cái hồng nhan”. Chưa hết, trước “cái hồng nhan” còn là tính từ “trơ”. Đó là một tính từ chỉ trạng thái đơn độc, lẻ loi, không nơi nương tựa.
Kết hợp với cả câu thơ, người ta còn cảm nhận thấy ở đó một cái gì như tủi hổ: Giữa không gian vắng lặng của buổi đêm, khi mọi vật đang chìm trong sự nghỉ ngơi, yên tĩnh còn mình lại vẫn ngồi đây với rất nhiều nỗi lòng, rất nhiều tâm sự, “trơ cái hồng nhan”. Và hơn thế nữa, sự cô độc, tủi hổ càng tăng lên khi nó đối lập với không gian rộng lớn: “nước non”. Tuy nhiên, bên cạnh nỗi đau vẫn là bản lĩnh Xuân Hương. Chữ “trơ” còn hàm chứa trong đó sự thách thức. Nó cũng có cùng hàm nghĩa với chữ trơ trong thơ Huyện Thanh Quan: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Người ngồi đó như đang tự soi lại cuộc đời mình, để tự vấn về mình và rồi cũng để nhận ra tình cảnh bất hạnh mà mình đang phải đối mặt. Xót xa nhưng vẫn đầy bản lĩnh.
Hai câu thơ tiếp theo khắc sâu thêm vào cái tình thế đáng buồn đó:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Nếu như trước đó, người ta mới có cảm nhận chung rằng nhân vật trữ tình đang có những tâm sự, cô đơn, thì đến đây, người ta lại tiếp tục bắt gặp hình ảnh nàng, cũng chất chứa nhiều tâm tư như vậy. Tìm đến chén rượu để giải khuây đối với một người đàn ông trong xã hội phong kiến là một điều bình thường nhưng với người phụ nữ thì không. Vậy mà nhân vật người phụ nữ trong bài thơ lại đã không ít lần trải qua cảm giác ấy. Thông thường, con người tìm đến rượu khi người ta cảm thấy đau khổ, bế tắc, thất vọng để nó trở thành một liều thuốc làm khuây khỏa tâm hồn. Nhân vật trữ tình ở đây cũng làm như vậy nhưng cuối cùng, vẫn không thể trốn tránh được hiện thực xót xa của mình. Cụm từ say, tỉnh gợi lên cái vòng luẩn quẩn.
Nhưng xưa nay, “hồng nhan bạc mệnh”, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo để người trong cuộc càng say thì lại càng tỉnh. Giữa người và vầng trăng có sự tương đồng khiến cho sự thực “bóng xế khuyết chưa tròn” càng trở nên nhức nhối. Để miêu tả về vầng trăng, Hồ Xuân Hương đã dùng một lúc đến tận ba cụm từ: bóng xế, khuyết, chưa tròn. Cả ba từ này đều có ý nghĩa diễn tả về một vầng trăng không trọn vẹn. Nó là ta nhớ đến số phận éo le của chính nữ sĩ: “Người thơ phong vận như thơ vậy”. Là một người phụ nữ tài năng và bản lĩnh vậy mà chính bà lại bị rơi vào một trong những bi kịch đau đớn nhất của người phụ nữ: làm lẽ. Bà là đứa con của một người vợ lẽ. Rồi chính bà cũng lấy chồng hai lần, cả hai lần đều làm lẽ. Hạnh phúc lứa đôi lẽ ra là thứ không thể san sẻ lại bị san sẻ, thành ra không trọn vẹn:
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”
và ngao ngán:
“Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán phận lênh đênh”
Chính sự tương đồng này đã khiến cho nỗi niềm tâm sự của nhân vật trữ tình càng trở nên sâu sắc và giàu sức ám ảnh. Nhưng một lần nữa, người ta vẫn gặp lại bản lĩnh Xuân Hương trong mọi hoàn cảnh vẫn thật ngang tàng, ngạo nghễ:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”
Hai câu thơ gợi tả cảnh thiên nhiên và cảnh được cảm nhận qua tâm trạng như cũng mang nỗi niềm phẫn uất của con người. Người phụ nữ đã từng chỉ vào “bọn đàn ông” mà khẳng khái:
“Tài tử văn nhân đâu đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom”
giờ đây đã biến những sinh vật tưởng như nhỏ nhoi, yếu đuối thành những thứ đầy sức sống, vươn lên đầy thách thức với đời. Đám rêu phải mọc xiên, lại còn là “xiên ngang mặt đất”. Đá đã rắn chắc, lại càng phải trở nên rắn chắc hơn để có thể vượt lên “đâm toạc chân mây”. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ trong hai câu thơ luận đã làm nổi bật sự phẫn uất của thân phận đất đá cỏ cây, cũng là sự phẫn uất của tâm trạng. Bên cạnh đó, những động từ mạnh “xiên”, “đâm” được kết hợp với bổ ngữ “ngang”, “toạc” độc đáo thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh. Cách dùng từ như vậy thể hiện một phong cách rất Xuân Hương, nó cũng là lời thách thức của nhân vật trữ tình hay của chính nhà thơ. Thách thức là bởi đó là bản lĩnh trong con người Hồ Xuân Hương. Thế nhưng sự thực vẫn là sự thực. Nó chân thực như chính những éo le trong cuộc đời bà vậy:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Dù có bản lĩnh, dù có bướng bỉnh thế nào thì người phụ nữ ấy cũng không thể tránh khỏi một điều là thời gian vẫn đang chảy trôi còn mình thì vẫn còn dang dở. Ngán là chán ngán, là ngán ngẩm. Hồ Xuân Hương đã chán lắm rồi cuộc đời éo le, bạc bẽo, chán lắm rồi thế cục xoay vần của tạo hóa mà mình thì vẫn cô độc. "Xuân" vừa là mùa xuân mà cũng chính là tuổi xuân. Mùa xuân quay vòng với tạo hóa nhưng tuổi xuân của con người đã đi qua thì không bao giờ trở lại. Hai từ “lại lại” nghe ngao ngán, nó khiến cho khoảng đối lập giữa con người và tự nhiên càng lớn và nghịch cảnh lại càng éo le hơn.
“Mảnh tình san sẻ tí con con”. Đã là một “mảnh tình” nghĩa là rất nhỏ bé tội nghiệp rồi mà giờ đây còn là “san sẻ” đến nỗi cuối cùng chỉ là “tí con con”. Điều ấy đối với một người bình thường đã là ít ỏi lắm rồi thì với một người bản lĩnh như Hồ Xuân Hương lại càng khó chấp nhận. Ý thức cá tính khiến tình cảnh trở nên éo le, xót xa và tội nghiệp hơn. Câu thơ được viết nên từ tâm trạng của một người mang thân đi làm lẽ nhưng có tầm khái quát cao hơn để trở thành tiếng nói cho tất cả những người phụ nữ phải chịu kiếp “lấy chồng chung” trong xã hội bấy giờ. Đến cuối bài thơ, người ta nhận ra một điều rằng: Đằng sau tiếng cười ngạo nghễ, thách thức kia còn là những giọt nước mắt xót xa tủi hận của một người ý thức được tài năng và số phận của mình nhưng vẫn chưa thể tự mình vượt thoát ra khỏi những mờ ảo, tối tăm đang bao quanh nó.
Cùng với hai bài thơ trong chùm ba bài thơ Tự tình, Tự tình II đã nói lên bi kịch và cả khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Vừa đau buồn, vừa thách thức duyên phận, gắng gượng vượt lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch, vì cả hai điều ấy mà ý nghĩa nhân văn của bài thơ càng trở nên sâu sắc hơn, thấm thía hơn.