Phân tích nhân vật Chí Phèo 1
Chí Phèo là sự hình thành của những mối xung đột giai cấp, đặc biệt là giai cấp thống trị và bị trị, những mối xung đột xuyên suốt tác phẩm tạo thành mạch chảy chính trong nội dung. Chí Phèo với ba lần đến nhà bá Kiến là thể hiện tài nghệ bậc thầy của Nam Cao trong việc tổ chức các mối xung đột, là tấm lòng của Nam Cao với những người nông dân bị tha hoá, lưu manh hoá trong xã hội ấy – nhà văn của tình thương lớn.
Mối xung đột ấy tập trung thể hiện giữa hai tuyến nhân vật Chí Phèo – bá Kiến. Mối xung đột đi theo mạch ngầm, dai dẳng. Từ lâu rồi dường như mối quan hệ giữa Chí Phèo và bá Kiến là mối quan hệ phụ thuộc, gắn bó. Từ khi Chí Phèo còn là anh canh điền khoẻ mạnh làm thuê cho gia đình bá Kiến, là kẻ tôi tớ mang nguồn gốc họ hàng với bá Kiến. Sự khăng khít ấy là bước đệm cho Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến lần đầu, đối với Chí Phèo thì con đường đến nhà bá Kiến đã quá đỗi thân quen với hắn. Con đường mòn ấy đi vào trong trí nhớ hắn từ khi sinh ra cho đến khi trưởng thành như con đường của sự phụ thuộc. Lần này ngay sau khi từ tù ra, nơi hắn tìm đến đầu tiên tất nhiên là nhà bá Kiến, kẻ đã ngấm ngầm đẩy hắn vào tù tội, nhơ bẩn, phó mặc hắn cho những tội ác thực dân và biến hắn thành kẻ lưu manh tha hoá. Sự tìm đến để trả thù là động cơ tất yếu của Chí Phèo. Hắn đem cuộc đời hắn đánh cuộc với số phận, thách thức với người đứng đầu làng Vũ Đại.
Những năm tháng tù tội, bản chất lưu manh hận thù khiến hắn sắt đá và liều lĩnh. Màn trả thù của hắn diễn ra ở hai cảnh: phủi và rạch mặt ăn vạ. Tiếng chửi của thằng Chí, tiếng chửi chua ngoa cứ quất thẳng vào mặt ông bá. Hắn cóc sợ đời khi đối chọi với người đứng đầu làng Vũ Đại. Hắn thù và men rượu đã cho hắn thêm cái gan liều lĩnh của ông Trời. Nhưng việc chửi ấy thành ra là không hiệu quả khi ông bá thì đi vắng mà chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu. Đâm ra là hắn phải rạch mặt ăn vạ. Hắn tự hành hạ bản thân để đối phó với ông bá. Nghe thử mà xem những tiếng ăn vạ nghe đến xé ruột ầm. ĩ làng xóm của hắn: “Ôi làng nước ôi. Cứu tôi với… Ôi làng nước ôi…! Bố con thằng Kiến nó đâm chết tôi! ”. Người đọc tưởng chừng như xung đột lên đến đỉnh điểm, cao trào thì sự xuất hiện và cái uy của ông bá làm màn kịch lắng xuống và xung đột, mâu thuẫn được giải quyết ổn thoả. Ông bá đã xoay chuyển tình thế một cách nhanh chóng bằng cái đầu óc cáo già, khôn róc đời, bằng tiếng cười, tiếng quát của mình.
Sự xoay chuyển mâu thuẫn, xung đột ấy đã tạo cho cốt truyện sự bất ngờ, độc đáo và ly kỳ. Nam Cao đã thể hiện cái nhìn tinh tế, sâu sắc của một nhà văn bậc thầy. Ông đưa mâu thuẫn lên đỉnh điểm rồi lại hạ nó xuống thành các mạch xung đột ngấm ngầm ngày càng gay gắt và mạnh mẽ hơn. Nam Cao đã để cho bá Kiến khoác lên mình Chí Phèo một cái danh hão của họ hàng để xung đột lắng xuống một cách êm đẹp, ổn thoả. Nhưng sự nhận họ nhận hàng ấy không giấu nổi cái lai lịch bất minh của Chí Phèo mà chỉ càng làm thêm nhơ nhuốc, đen tối. Chí Phèo với lần thứ nhất đến nhà bá Kiến trả thù nhưng kết quả hắn đạt được lại hoàn toàn trái ngược. Hắn được cái danh họ hàng với ông bá, được ông tiếp đón ân cần, được ông cho tiền uống rượu. Ấy là quá sức tưởng tượng với hắn. Những cái lợi trước mắt làm mờ mắt hắn, làm hắn không nhận ra kẻ thù trực tiếp của cuộc đời hắn mà ngoan ngoãn nghe theo lời bá Kiến, ra về trong niềm tự hào, kiêu hãnh. Chí Phèo đến nhà bá Kiến lần thứ nhất và kết quả của nó là sự tất yếu khi Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến lần thứ hai. Lần này hắn đến với động cơ hoàn toàn khác. Đến để xin được đi ở tù. Cuộc sống làng Vũ Đại đối với hắn còn khắc nghiệt hơn những năm tháng hắn đi ở tù. “Đi ở tù còn có cơm mà ăn, bây giờ về làng về nước một thước cắm dùi không có, chả làm gì lên ăn”. Câu nói say khướt của Chí Phèo gợi trong lòng bạn đọc nhiều suy ngẫm. Nhìn cả về một xã hội thối nát bất công thì sự sống con người nhỏ nhoi mỏng manh. Nơi đây, nơi làng Vũ Đại xã hội phong kiến nửa thực dân thu nhỏ này thì cuộc sống của con người lương thiện bị bóp nghẹt. Họ bị dồn vào bước đường cùng, bước đường tha hóa.
Cái nghịch lý “đi ở tù” của Chí Phèo tưởng chừng như vô lý nhưng lại rất xác thực với cuộc đời hắn. Lần này Chí Phèo tìm lại đến bá Kiến với giọng điệu hoàn toàn khác. Lối xưng con – cụ của hắn sao mà ngọt xớt vậy. Hắn đang dần tìm đến con đường tha hóa, dần thành tay sai cụ bá. Cụ bá bằng sự mưu mẹo, gian ngoa của bè lũ thống trị đã nhanh chóng xoay mũi dao của Chí Phèo sang phe cánh đối lập. Đấy là khi cụ áp dụng cái cách trị người, cụ để chúng tự xử lẫn nhau, ở giữa mà hưởng lợi. Cụ bá đã thể hiện đầy đủ bản chất của bè lũ thống trị phong kiến nham hiểm, gian ngoa, độc ác, mưu mẹo. Thế mà Chí Phèo với bản chất ngu dốt của người nông dân không nhận ra thủ đoạn của lão cáo già mà răm rắp làm theo. Kết quả mà hắn thu được từ lần thứ hai này là sự chiến thắng đầy hoan hỉ trước đội Tảo, một phe cánh hùng mạnh có thế lực trong cái làng Vũ Đại này. Chí Phèo còn giương giương tự đắc “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng tao”, khi Chí Phèo hoan hỉ nhất cũng chính là lúc hắn rơi vào nơi sâu nhất của con đường tha hoá, con đường không lối thoát. Lần thứ hai Chí Phèo đến nhà bá Kiến đã hoàn thiện con đường tha hoá của hắn, đã biến hắn thành tay sai đắc lực của bá Kiến. Chí Phèo đã trao nốt phần cuộc đời tha hoá của mình vào tay con quỷ bá Kiến. Cuộc đời hắn thế là chấm dứt không lối thoát.
Lần thứ ba Chí Phèo đến nhà bá Kiến là bước ngoặt quan trọng đỉnh điểm cho ba bận Chí Phèo đến nhà bá Kiến. Lần này hắn tìm đến nhà bá Kiến là để nó cự tuyệt. Vẫn con đường quen thuộc ấy, những bước chân hắn sao vẫn tự lần mò tìm đến với bá
Kiến trong sự thức tỉnh. Hắn đã nhận ra kẻ thù lớn nhất của cuộc đời mình là bá Kiến. Động cơ Chí Phèo đến nhà bá Kiến khác hoàn toàn so với hai lần trước. Lần này hắn ‘đến để đòi hỏi lương thiện. Sự khát khao quyền sống lương thiện, bi, kịch trong cự tuyệt quyền làm người đã dẫn lối cho hắn đến với bá Kiến. Rút dao xông vào, hận thù trong hắn đã bùng phát tiếp sức cho hắn xông thẳng vào kẻ thù “Chỉ có một cách… biết không!… Chỉ còn một cách là… cái này! Biết không!… ” Kết quả của lần ba này là cái chết của Chí Phèo và bá Kiến. Nam Cao dẫn xung đột đi từ cái mạch ngấm ngầm đến đỉnh điểm là hai cái chết. Đây là hai cái chết tất yếu. Cái chết của bá Kiến – cái ác phải đền tội, ác giả ác báo. Cái chết của bá Kiến đánh dấu sức mạnh của người nông dân trong quá trình đấu tranh với giai cấp thống trị. Còn cái chết của Chí Phèo là sự chấm dứt chuỗi đời bi kịch, kết thúc số phận đau khổ bế tắc của người nông dân, đồng thời cái chết của Chí Phèo thể hiện niềm tin của Nam Cao vào con người. Sự chiến thắng tư tưởng nhân văn Nam Cao. Những tưởng người nông dân lệ thuộc vào giai cấp thống trị nhưng hai cái chết đã phủ định hoàn toàn.
Nam Cao bằng ngòi bút tổ chức xung đột bậc thầy đã thể hiện mối xung đột giữa giai cấp thống trị và bị trị theo một mạch ngầm dẫn đến đỉnh điểm. Nam Cao với ba lần Chí Phèo đến nhà bá Kiến đã thể hiện tài năng và tình cảm của nhà văn lớn.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 2
Khi nhận định về các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung cho rằng: “Trong mảnh sáng tác về nông dân của Nam Cao, người đọc thường gặp những nhân vật xấu xí, thô lỗ cục cằn và những chuyện nhục nhã của họ. Chính vì thế mà một số người tỏ ra hoài nghi giá trị hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nam Cao, có biết đâu rằng, chính với đám nhân vật “có vấn để” đó mà cái nhìn hiện thực và quan điểm nhân đạo của nhà văn mới thể hiện rõ, đầy đủ nhất”.
Và nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao là một nhân vật “có vấn đề” như thế, nhưng chính những lời văn mà tác giả viết về nhân vật này và những bi kịch mà y phải chịu đựng đã thể hiện được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của tác phẩm mà Nam Cao muốn gửi gắm qua nhân vật này.
Chí Phèo có một tuổi thơ thật bất hạnh: Ngay từ khi chào đời, Chí Phèo đã là một đứa con hoang, bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ và không biết cha mẹ mình là ai. Chí lớn lên nhờ sự đùm bọc, cưu mang của dân làng. Lớn lên Chí đi ở hết nhà này đến nhà nọ. Cứ như thế, Chí lớn lên bình yên giữa những người dân nghèo khổ nhưng hiền lành. Chí cũng có ước mơ riêng của mình, đó là có một gia đình nho nhỏ “chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải”.
Đến năm hai mươi tuổi, Chí trở thành một chàng trai có vẻ đẹp toàn vẹn từ ngoại hình mạnh khỏe cho đến nội tâm hiền lành. Nhưng rồi Chí đi làm cho nhà Bá Kiến và cũng chỉ vì chuyện ghen tuông vớ vẩn Chí bị đẩy vào tù, sau bảy, tám năm biệt tích trở về làng giờ đây Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi từ ngoại hình cho đến tính cách.
Ngoại hình của Chí thật đáng sợ: cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết. Ngoại hình ấy ẩn chứa một tính cách đã hoàn toàn thay đổi, không còn tính cách “lành như đất” nữa mà giờ đây hắn chuyên đi đập đầu, rạch mặt ăn vạ, hắn lấy rượu để bầu bạn với mình và rồi trong cơn say hắn đến nhà Bá Kiến để trả thù nhưng kết quả của cả hai lần là hắn đã bị Bá Kiến “ru ngủ” bằng rượu, thịt và tiền.
Và rồi từ đó, Chí rơi vào trạng thái mất phương hướng, không biết ai là kẻ thù của cuộc đời mình và lại tiếp tiếp tục rơi vào cái bẫy mà Bá Kiến đã giăng sẵn, hắn vào tù vì Bá Kiến và rồi khi ra tù lại tiếp tục biến mình thành tay sai cho chính kẻ thù của mình, còn gì nhục nhã hơn là điều đó.
Cứ thế, cuộc đời hắn trượt dài trong những bi kịch, hắn không làm gì ngoài việc rạch mặt, ăn vạ để đòi tiền, để đâm chém những ai không cùng phe cánh với cụ Bá. Cuộc đời hắn chìm trong cơn say, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say và đánh nhau trong cơn say, “hắn đã phá tan bao nhiêu gia đình, đập vỡ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”.
Cứ như thế đời hắn trượt dài, nhìn vào mặt hắn người ta không biết hắn bao nhiêu tuổi. Cuộc đời hắn đã xem như là bỏ đi, nhân hình bị hủy hoại, nhân tính bị xói mòn. Cả làng Vũ Đại đều tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua. Ngay cả bản thân hắn cũng quên sự có mặt của hắn ở trên đời.
Nhưng rồi người nông dân bị lưu manh hóa ấy cuối cùng cũng đã thức tỉnh. Trong tâm hồn tưởng chừng như chai đá ấy của Chí vẫn còn le lói một ánh sáng của lương tâm, lương thiện chỉ cần có cơ hội thôi là sẽ bừng sáng. Và Nam Cao đã cho Chí một cơ hội để ánh sáng ấy có dịp bừng lên, đó là cho Chí được gặp gỡ với Thị Nở. Chính cuộc gặp gỡ ấy, sự chăm sóc ân cần của Thị cùng bát cháo hành nóng hổi nghi ngút khói đã làm sống dậy bản chất lương thiện của Chí.
Được Thị Nở chăm sóc, Chí Phèo rất ngạc nhiên vì xưa nay nào hắn có thấy ai tự cho ai cái gì, hắn phải dọa nạt hay cướp giật mới có. Lần đầu tiên khi tỉnh giấc, hắn bâng khuâng nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ và cùng với đó là khát vọng được sống một cuộc sống khác, được hòa nhập cùng mọi người, họ sẽ nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Hắn tự đặt ra câu hỏi cho mình: hắn có thể làm bạn được sao lại chỉ gây thù? Thị Nở chính là người mà Chí đặt niềm tin vào, Chí tin Thị Nở sẽ là chiếc cầu nối giúp Chí trở về với cuộc sống đó.
Nhưng rồi, khát khao sống một cuộc sống lương thiện của hắn vừa mới được nhen nhóm thì đã bị dập tắt. Chiếc cầu nối ấy đã bỏ hắn mà đi chỉ vì lời nói của bà cô: “đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao mà lại phải lấy một thằng không cha, không mẹ chỉ biết rạch mặt ăn vạ”, bỏ lại Chí với nỗi đau khổ đến tột cùng, hắn đau xót nhận ra rằng sẽ chẳng còn chiếc cầu nào mang hắn về với cuộc sống của những người lương thiện nữa.
Những lời lẽ cuối cùng đã bộc lộ tất cả bi kịch nội tâm của Chí: “Tao muốn làm người lương thiện (…). Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.
Và cuối cùng, bi kịch đã biến thành thảm kịch. Tột đỉnh của sự khổ đau đã biến thành tột đỉnh của sự căm thù, uất hận. Chí thấy kẻ thù trước mắt cướp đi tình yêu của hắn chính là bà cô Thị Nở nhưng trong sâu thẳm tâm hồn có lẽ hắn vẫn ý thức được ai mới chính là kẻ thù gây nên một chuỗi dài bi kịch của cuộc đời mình.
Hắn xách dao đến nhà bà cô Thị Nở nhưng lại đi thẳng đến nhà Bá Kiến, Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong sự bế tắc đến tột cùng, Chí đã tự tìm ra lối thoát cho riêng mình, đó là cái chết, chết để kết thúc tất cả bi kịch của cuộc đời Chí.
Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu cho số phận của người nông dân trong xã hội nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã thể hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng của mình đối với những người có số phận bất hạnh. Ở sâu thẳm trong tâm hồn họ chính là sự khát khao hạnh phúc, được yêu thương và sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 3
Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Thông qua hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã khắc hoạ bức chân dung của người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng không lối thoát. Kết cục tha hoá lưu manh hoá là tất yếu như một sự giải thoát. Qua nhân vật Chí Phèo nhà văn đã mang đến cho người đọc những giá trị nhân văn sâu sắc mà mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Chí Phèo xuất hiện lần đầu tiên trước mắt người đọc không phải bằng xương bằng thịt mà là bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”. Đó là một tiếng chửi vật vã, đau đớn của một thân phận con người ít nhiều nhận thức được bi kịch của chính mình. Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”.
Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là một sự im lặng đến rợn người. Chí đã bị đánh bật ra khỏi cái xã hội loài người. Xã hội mà dù sống trong nó Chí cũng không còn được xem là con người nữa.
Lật lại trang đời của Chí, người đọc không sao cầm được nước mắt trước một hoàn cảnh đáng thương. Ngay từ khi mới ra đời Chí đã bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ giữa một cánh đồng mùa đông sương trắng. Rồi Chí được dân làng nhặt về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm 20 tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”.
Đây là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện, quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lòng tự trọng, biết ghét những gì mà người ta cho là đáng khinh. Bị con mụ chủ bắt làm điều không chính đáng, Chí vừa làm vừa run, thấy nhục hơn là thích. Chí cũng như bao con người khác, anh cũng có ước mơ giản dị:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải.
Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó chính là một ước mơ lương thiện. Nhưng đớn đau thay, cái xã hội bất lương ấy đã bóp chết cái ước mơ đó của Chí khi còn trứng nước. Một cơn ghen vu vơ của lão cáo già Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tội tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến Chí Phèo từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh hóa, một kẻ tội đồ.
Nhà tù thực dân đã vằm nát bộ mặt người của Chí, phá hủy cả nhân tính đẹp đẽ. Sau bảy tám năm ra tù Chí không còn là anh canh điền hiền lành như đất nữa. Trước mắt người đọc là một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế”.
Cả cái nhân tính cũng bị xã hội tàn hại. Giờ đây là Chí Phèo say, Chí Phèo với những tội ác trời không dung thứ khi hắn bỗng dưng trở thành tay sai đắc lực cho lão cáo già Bá Kiến, quay ngược lại lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối lập với nhân dân lao động cần lao. Từ một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Đáng buồn thay, mới ngày nào chính dân làng Vũ Đại nuôi Chí lớn lên trong vòng tay yêu thương vậy mà nay Chí đã quay lưng lại với chính cái nơi mà hắn được yêu thương và chở che. Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”.
Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”. Nam Cao đã cho người đọc thấy một thực tế đau lòng về cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng Tám.
Đó chính là cuộc sống bị bóp nghẹt ước mơ và khát vọng, người nông dân bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa. Một cuộc sống tối tăm không ánh sáng. Nhà văn xót thương cho nhân vật, cay đắng và đau đớn cùng nhân vật. Đây chính là vẻ đẹp của tấm lòng nhân đạo và yêu thương của nhà văn dành cho những kiếp người như Chí Phèo.
Nam Cao không trách giận Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn nồng nàn yêu thương. Ông phát hiện trong chiều sâu của nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết. Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.
Con người xấu đến “ma chê quỉ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn ngủi với Thị Nở trong một đêm trăng đã vô tình thắp lên ngọn lửa cuộc sống trong Chí.
Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy.
Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ:”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.
Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”. Phải chăng Chí đang hối hận và ăn năn những việc mà mình đã làm? Chẳng biết có phải hay không mà Chí thấy lòng buồn man mác. Và nếu như Thị Nở không qua, chắc là hắn đã khóc được mất.
Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng. Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó.
Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Thì nay chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ…
Ôi sao mà hắn hiền!“. Cảm giác được yêu thương và chở che đã làm Chí trỗi dậy một tình yêu cuộc sống. Đó là giây phút Chí “thèm lương thiện và khát khao làm hòa với mọi người”. Rồi đến khát vọng hạnh phúc với Thị Nở “hay là cậu sang đây ở với tớ một nhà cho nó vui”.
Từ một con quỉ dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!
Nhưng, bi kịch và đau đớn thay, rốt cuộc thì ngay Thị Nở cũng không thể gắn bó với Chí Phèo. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không đến được với Chí Phèo. Và thật là khắc nghiệt, khi bản tính người nơi Chí Phèo trỗi dậy, cũng là lúc Chí Phèo hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa. Cánh cửa trở về với xã hội lương thiện, xã hội loài người vừa mở ra thì cũng là lúc đóng sầm lại ngay trước mắt Chí Phèo.
Thị Nở như tia chớp rạch ngang bầu trời đêm đen của Chí Phèo vừa đủ để soi lên một niềm cảm thông cũng là lúc nó tắt ngấm giữa đêm đen cuộc đời Chí. Nói xa hơn, cái xã hội thực dân nửa phong kiến đó đã cướp đi của Chí quyền làm người và vĩnh viễn không trả lại. Nó đã tiêu hủy và đã bẻ gãy chiếc cầu nối Chí với cuộc đời.
Chí Phèo tìm đến rượu nhưng rượu không phải bao giờ cũng làm cho người ta say. Càng uống Chí càng tỉnh, càng tỉnh càng nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí đau đớn khi nghe thoang thoảng mùi cháo hành rồi Chí ôm mặt khóc rưng rức. Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến.
Hơn ai hết lúc này Chí hiểu ra rằng: kẻ đã làm cho mình phải mang lốt quỷ, kẻ đã làm mình ra nỗng nỗi khốn cùng này chính là Bá Kiến. Lòng căm thù đã âm ỉ bấy lâu trong con người của Chí, anh càng thấm thía tội ác kẻ đã cướp đi quyền làm người, cướp đi cả bộ mặt và linh hồn của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến với tư cách là một nô lệ thức tỉnh, đòi quyền làm người:
– Tao muốn làm người lương thiện– Ai cho tao lương thiện?
Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ.
Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Chí Phèo là một kiệt tác bất hủ bởi nó chứa đựng trong đó là tư tưởng, tình cảm lớn mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc mà người đọc rút ra được từ những trang sách giàu tính nghệ thuật của Nam Cao. Sự kết hợp giữa giá trị hiện thực sắc bén và giá trị nhân đạo cao cả đã làm cho tác phẩm Chí Phèo bất tử, mãi mãi có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những tình cảm đẹp đẽ trong tâm hồn người đọc mọi thời đại.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 4
Truyện Chí Phèo ghi nhận thành công xuất sắc nhất của Nam Cao về đề tài người nông dân, cũng là một trong những đỉnh cao nhất của trào lưu hiện thực phê phán. Thành công của hình tượng Chí Phèo chứng tỏ tài năng nghệ thuật độc đáo của Nam Cao, kết tinh giá trị hiện thực lớn lao và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này.
Bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo là xã hội nông thôn Việt Nam xác xơ nghèo đói những năm bốn mươi. Trong không khí tối sầm này, không ít người nông dân bị xô đẩy vào con đường bần cùng, lưu manh, không ít người phải điên khùng, liều lĩnh mà tồn tại. Tính cách Chí Phèo mang ý nghĩa điển hình cho lớp người ấy trong thời buổi xã hội ấy.
Bước vào tác phẩm ta bắt gặp ngay Chí Phèo ngất ngưởng vừa đi vừa chửi. “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi…”. Không phải ngẫu nhiên mà Nam Cao để Chí Phèo xuất hiện bằng tiếng chửi. Chí Phèo chửi ai? Chí Phèo trời, chửi đời nghĩa là y đối lập với tạo hóa, với xã hội.
Chí Phèo chửi cà làng Vũ Đại nghĩa là y đối lập với quê hương. Chí Phèo chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn nghĩa là y đối lập với tất cả (vì có đứa nào chửi nhau với hắn đâu!). Chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn để hắn phải khổ đến nỗi này nghĩa là Chí Phèo tự đối lập lại nguồn gốc, sự tồn tại của mình. Những mong tìm mối dây liên hệ với xã hội chỉ bằng tiếng chửi mà không thể có. Chí Phèo tồn tại như một con vật. Ấy là một kẻ lưu manh, liều lĩnh trong tình cảnh cô độc tuyệt đối.
Ngay từ khi được sinh ra, Chí Phèo đã bị ném khỏi nhà,cuộc sống, chỉ trông mong vào lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Trong làng Vũ Đại, Chí Phèo là “một thằng cùng hơn cả dân cùng; không cha không mẹ, không thước đất cắm dùi”. Cả đời Chí Phèo “chưa bao giờ được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà”, đến nỗi mơ ước chung sống với một người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn cũng không đạt được.
Chí Phèo tồn tại trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Và Chí Phèo chết đi cũng trong sự cô độc. Không gì độc, tủi nhục hơn khi chết mà không được lấy một giọt nước mắt, chết mà người ta mừng! Mong ước trở lại làm người của Chí Phèo đã bị cự tuyệt, bị xã hội từ chối phũ phàng. Số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo tiêu biểu cho số phận của cả một lớp người cố cùng dưới đáy xã hội cũ.
Hiện tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải ngẫu nhiên, cá biệt. Thông qua tính cách điên khùng, số phận bi thảm của Chí Phèo, tác phẩm đã khái quát lên quy luật tha hóa con người nghiệt ngã của xã hội thực dân nửa phong kiến. Cái gì đã đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi? Ai đã biến Chí Phèo thành con quỷ dữ làng Vũ Đại?
Cái con quỷ dữ ấy đã từng có một thời gian làm người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi thơ “bơ vơ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác” đến tuổi thanh niên “làm canh điền cho ông Lí Kiến” Chí Phèo sống cuộc đời lao động cực khổ của người cố nông ở nông thôn. Anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản dị trong lao động.
Tuy còn trẻ trung, anh cũng phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa; bị bà Ba gọi lên bóp chân, anh “chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Nhưng bản chất trong trắng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân ra sức bóp chết. Chí Phèo vô cớ bị đẩy đi ở tù và bảy, tám năm sau về làng, hắn đã thành người khác hẳn.
Về giữa cái làng Vũ Đại chật chội mà bao thế lực xâu xé nhau, một thước đất cấm dùi không có, Chí Phèo biết làm gì để sống. Không thể hiền lành mà muốn sống – oái oăm thay – phải cướp giật, ăn vạ, đâm chém. Muốn thế phải liều lĩnh, phải gan góc. Những thứ ấy Chí Phèo tìm ở rượu. Và Chí Phèo luôn luôn say, “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Người ta đây chính là Bá Kiến – kẻ ăn tiên chỉ làng Vũ Đại, kẻ lọc lõi, gian ngoan vô cùng trong nghề bóc lột.
Chúng ta còn nhớ lần thứ nhất Chí Phèo đến nhà Bá Kiến sau hôm đi ở tù về. Dẫu bằng tiếng chửi, bằng vỏ chai rạch mặt ăn vạ, dù sao lần này Chí Phèo còn đến đế trả thù, còn mường tượng ra kẻ thù. Nhưng đến khi từ nhà cụ Bá về với tâm trạng thỏa thuê, với đồng bạc trong tay, đặc biệt từ lần đòi được nợ ở nhà đội Tảo (nhờ sự may mắn tình cờ) thì Chí Phèo đã dần trở thành công cụ mù quáng trong tay Bá Kiến.
Chí Phèo đã bán đi cả nhân phẩm lẫn nhân hình để tồn tại và tồn tại như một con vật. Hiện tượng Chí Phèo tiêu biểu cho sự tha hóa phổ biến trong xã hội tàn phá ghê gớm con người. Khi những người nông dân vốn lương thiện mà dốt nát, tăm tối bị rơi vào tình trạng bần cùng hóa thì dễ uất ức mà trở thành những “kẻ cô’ cùng liều thân”.
Gặp kẻ thống trị xảo quyệt, sự liều thân cô độc này rất dễ bị lợi dụng, mua chuộc để biến thành sự phá hoại mù quáng. Rốt cuộc, họ lại trở thành “đày tớ tay chân” cho kẻ tử thù. Đó là một quy luật đầy mỉa mai, chua xót trong xã hội cũ. Sức mạnh phê phán, ý nghĩa điển hình của hình tượng Chí Phèo chính là ở chỗ đó.
Một hình tượng điển hình đầy sức sống bao giờ cũng là một “con người này” (theo cách nói của Hêghen). Ấy là một cá tính độc đáo, rõ nét, một gương mặt không thể lẫn. Hình tượng Chí Phèo vừa mang tính khái quát cao, tính phổ biến sâu rộng đồng thời mang những nét riêng độc đáo. Mấy ai có “lai lịch” lạ lùng như Chí Phèo.
Mấy ai lớn lên với cảnh ngộ tội nghiệp như con người này. Chí Phèo là một cuộc đời rất riêng ngay từ khi sinh ra, lớn lên cho đến lúc chết đi. Chí Phèo độc đáo từ ngoại hình đến tiếng chửi, đến cách hành động. Một bộ mặt không hẳn ra con người; không hẳn ra con vật, đầy những vằn ngang vạch dọc do những lần đâm chém, cào rạch ăn vạ. Một lối chửi rủa điên khùng, uất ức thật … Chí Phèo.
Cũng thật Chí Phèo từ cách uống rượu đến lối toan đốt quán khi không được uống chịu, thậm chí đến lô’i “ướm lời” với Thị Nở và cách đâm chém kẻ thù rồi tự kết liễu đời mình. Hình tượng Chí Phèo gây ấn tượng thật sâu đậm đối với người đọc. Mặt tiêu biểu, khái quát của số phận Chí Phèo bộc lộ qua những nét cụ thể, độc đáo của y; ngược lại, những nét riêng, độc đáo trong tính cách Chí Phèo phản ánh sinh động cảnh ngộ, số phận của một lớp người.
Nhưng sự kết hợp biện chứng, hài hòa giữa hai mặt tính chung và tính riêng ở hình tượng Chí Phèo không chỉ thể hiện ở trên. Xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã phát hiện ra và hết sức trân trọng bản chất lương thiện ở người nông dân nghèo khổ. Phần sau tác phẩm, nhân vật này được thể hiện cho một tính cách người đang hồi sinh. Trên phương diện này, Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm và sự vùng dậy phản kháng quyết liệt, tuyệt vọng nhưng rất đáng quý trọng ờ người lao động bị áp bức.
Năm ngày chung sống với Thị Nở như tia sáng lóe lên trong cuộc đời tối tăm dằng dặc của Chí Phèo để rỗi vụt tắt ngấm đưa anh ta vào cõi chết. Cuộc gặp gỡ tình cờ với Thị Nở (hai duyên số kì lạ dưới bàn tay xếp đặt khéo léo của ông mối Nam Cao) không chỉ khơi dậy bản năng sinh lí của gã đàn ông mà quan trọng hơn, đã đánh thức người cô’ nông lương thiện bấy lâu nay bị vùi lấp trong con quỷ dữ Chí Phèo.
Phần viết về quá trình hồi sinh cảm động của Chí Phèo và bi kịch đau đớn trong cõi tinh thần sau đó ờ anh ta trở thành những trang hay nhất của kiệt tác Chí Phèo. Nó là bài ca về sức mạnh kì diệu của tình người, của tình yêu. Sự chăm sóc ân cần của Thị Nở, bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở thật sự đã mang hương vị ngọt ngào của tình yêu khiến cho Chí Phèo lại biết khóc, biết cười như một con người.
Thị Nở đâu chỉ là tình yêu mà chính là con đường sống, là chiếc cầu dẫn Chí Phèo trở lại cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của loài người. Có hiểu hết niềm vui hồi sinh ờ Chí Phèo, có hiểu hết vai trò quan trọng của Thị Nở như thế ta mới càng thấm thía nỗi đớn đau, tuyệt vọng của Chí Phèo khi chiếc cầu kia đột ngột bị “rút ván”.
Khi bị Thị Nở đột ngột “trở mặt”, Chí Phèo ban đầu chưa thể hiểu bởi anh ta đang “say” với nguyện ước trở lại làm người. Khi chợt hiểu ra, Chí Phèo vơ lấy rượu uống. Nhưng thật lạ, lúc này càng uống lại càng tỉnh, “Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo nành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức …”. Có lẽ, trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo chỉ có một lần khóc như thế!
Người đàn ông khốn khổ đến lúc này mới được hưởng hương vị cháo hành thì chẳng thể nào quên … Không thể quay lại làm quỷ dữ nữa, Chí Phèo đành đi đến cái chết. Nhưng trước khi chết, phải trả thù kẻ thù đích thực của mình! Rốt cuộc, một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say.
Chí Phèo bằng xương bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là một Chí Phèo đang lớn tiếng đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi quyền lương thiện. Diễn tả quá trình hồi sinh rồi bị cự tuyệt quyền làm người để đi đến hành động trả thù, tự sát quyết liệt ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc về con người.
Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chí Phèo là một hình tượng vô cùng độc đáo. Cuộc đời đầy đau thương, tủi hận của Chí Phèo điển hình cho số phận bi thảm của tầng lớp nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa không lối thoát trong xã hội cũ, của những người cùng khổ, tăm tối dưới ách áp bức tàn bạo, xảo quyệt của giai cấp thống trị.
Với hình tượng văn học điển hình bất hủ này, Nam Cao đã lớn tiếng vạch trần bản chất tàn bạo của thứ guồng máy xã hội đè nghiến, hủy hoại con người, đồng thời thể hiện một niềm tin sâu sắc vào bản tính tốt đẹp của con người.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 5
Nam Cao một trong những tác giả nổi bật nhất trong thời kì 1945 – 1954. Dưới ngòi bút chân thực của mình, đời sống, thân phận và những nỗi thống khổ của người nông dân được ông lột tả một cách vô cùng chân thực. Điển hình là các tác phẩm Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no….
Có một điểm chung giữa các tác phẩm của ông là khi trang sách đã khép lại, người đọc vẫn mường tượng ra rõ những đau thương của số phận con người trước cách mạng tháng Tám vẫn còn ẩn khuất đâu đó, và cũng từ đây toát lên được giá trị nhân văn mà tác giả muốn truyền tải qua mỗi tác phẩm.
Chí Phèo là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã rất xuất sắc khi xây dựng lên một hình ảnh người nông bị tha hóa đến mức cùng cực bởi xã hội thực dân nửa phong kiến đầy thối nát, để rồi người nông dân ấy phải tự tìm đến cái chết như lối thoát cuối cùng của cuộc đời mình.
Chí Phèo bước ra từ trang sách không phải với sự xuất hiện bình thường, người ta nhận ra hắn bằng tiếng chửi, “Hắn vừa đi vừa chửi…” Chí “chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn”. Tiếng chửi ấy chính là “liều thuốc giảm đau” của Chí giữa cuộc đời đầy nghiệt ngã lúc bấy giờ. Hắn vừa đi vừa chửi.
Chửi tất cả những đớn đau mà lẽ đời bắt hắn phải mang. Chửi cũng là một cách để giao tiếp nhưng đớn đau thay, nào ai đáp lại lời Chí. Hắn đang độc thoại lòng mình giữa cả xã hội, ai cũng xa lánh hắn, người ta mặc kệ hắn, bỏ mặc hắn như chính cái cách mà hắn bắt đầu cuộc đời mình từ ngày mới lọt lòng.
Nhìn lại cuộc đời của Chí, từ khi mới lọt lòng đã là đứa trẻ bị bỏ rơi, lớn lên bằng sự cưu mang của cả làng Vũ Đại, rồi lớn lên làm anh tá điền chân chất với ước mơ bình dị như bao người thì lại bị Bá Kiến đẩy vào tù. Đến khi trở lại làng Vũ Đại, Chí đã không còn là Chí nữa. Chí bị hủy hoại từ con người đến tính cách. Chẳng còn ai nhận ra Chí của ngày xưa hiền lành, chất phác mà giờ chỉ là thằng Chí Phèo, thích gây sự với người thường, rượu tan nát, và suốt ngày chửi bới…
Người ta nhìn thấy bây giờ là gì?Ngoài một tên lưu manh với một nhân hình gớm ghiếc “cái đầu thì trọc lóc, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết… cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế.
Nhà tù thực dân như cái địa ngục trần gian có thật đẩy một người nông dân hiền lành lương thiện Chí trở thành thằng lưu manh “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Mới ngày nào người dân làng Vũ Đại còn cưu mang hắn mà giờ đây ai cũng cảm thấy căm ghét, làng Vũ Đại chẳng còn được yên bình như trước nữa. Hắn hận, hận cái cuộc đời và xã hội, yêu thương bao bọc hắn và rồi cũng đẩy hắn đến đường cùng.
Từ đây Chí sống bằng rượu và máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện: “Hắn đã đập nát biết bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện”. Hắn làm những việc ấy trong lúc say ” ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say… đập đầu, rạch mặt, giết người trong lúc say để rồi say nữa say vô tận”. Chưa bao giờ hắn tỉnh để thấy mình tồn tại trên đời bởi vì “những cơn say của hắn tràn từ cơn này sang cơn khác thành những cơn dài mênh mang”.
Nam cao đã rất tài tình khi đưa Chí Phèo trải qua hết nỗi đau thương này tới nỗi đau thương khác, để rồi người đọc như hình dung ra xã hội bấy giờ khắc nghiệt đến mức như thế nào. Có lẽ Chí là một kẻ đáng thương hơn là đáng trách. Đáng nhận được đồng cảm hơn là sự xa lánh
Ngòi bút của Nam Cao vẫn dành cho nhân vật của mình những yêu thương. Ông vẫn để cho Chí Phèo nhìn thấy được yêu thương. Yêu thương cho chính Chí qua những phẫn uất mà xã hội mang đến.
Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc.Con người xấu ma chê quỷ hờn kia chính là niềm tin cho Chí bước đến cánh cửa lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí tỉnh dậy. Chợt nhận ra nơi căn lều ẩm thấp là ánh nắng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe được tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá trên sông, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải…
Những âm thanh ấy ngày nào chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn! Chính cuộc sống đã lay động trong tiềm thức xa xôi của Chí làm sống dậy ước mơ một thời trai trẻ :”có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Rồi cũng trong cái phút giây tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau”
Bao nhiêu mơ ước thời trai trẻ như ùa về làm thức tỉnh phần “người” trong Chí, hắn nhận ra mình cũng muốn yêu và cần được yêu, cần những điều bình dị như bao con người khác. Và rồi chính bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của thị đã khơi dậy trong Chí phần người. Bát cháo hành chính là liều thuốc giải độc góp phần thức tỉnh phần người trong con quỷ dữ. Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng.
Hắn ăn cháo hành và lấy làm mãn nguyện vì vị ngon của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời hắn được một tay người đàn bà cho. Trước đây chỉ toàn là giật cướp và dọa nạt. Còn ngày hôm nay, chính bàn tay ân cần ấy và tình yêu ấy đã làm hắn thay đổi. Nhìn Thị hắn như muốn khóc, hắn cảm động và ngay trong chốc lát “Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền?.
Vậy đó, tình yêu là phương thuốc duy nhất có thể khiến Chí trở về làm Chí, làm anh tá điền hiền lành năm nào. Và cũng chỉ có bát cháo hành của Thị Nở mới có sức mạnh cảm hóa được hắn. Bao năm qua, chưa bao giờ Chí cảm thấy mình thật sự là mình như lúc ấy. Sức mạnh của sự vị tha, của tình yêu thương con người tưởng là vô hình mà hóa ra lại vô cùng lớn lao
Nhưng rồi hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng vẫn không mỉm cười với Chí. Thị Nở vừa thắp lên được chút hi vọng thì cũng chính là lúc cơn giông cuộc đời Chí ập đến. Bà cô của Thị Nở, chính là hiện thân đầy đủ của định kiến của xã hội lúc bấy giờ. Bà ta đã đến và cướp nốt đi phần lương thiện còn lại của Chí.
Chao ôi, sao mà hắn đáng thương đến tột cùng!!! Giờ thì rượu ngon hay những lời chửi thề cũng không thể khiến hắn bớt đau.Hắn nhớ, nhớ đến phát điên mùi vị cháo hành của Thị Nở, rồi hắn ôm mặt khóc rưng rức.Cái xã hội ấy đến phút tận cùng vẫn cướp đi của hắn những niềm hi vọng len lỏi để trở về con đường hoàn lương.
Phẫn uất, Chí xách dao đi, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí định đến nhà đâm chết con “khọm già”, con “đĩ Nở” nhưng sự thức tỉnh ý thức về thân phận và bi kịch đã đẩy chệch hướng đi của Chí dẫn Chí đến thẳng nhà Bá Kiến. Trong giây phút ấy, Chí nhận ra, kẻ đã lấy đi của mình tất cả chính là Bá Kiến. Hắn cướp đi tuổi trẻ của một anh tá điền chất phác. Cướp đi cuộc đời của Chí, trả lại cho Chí cái thân hình ma dại và nhân cách chẳng còn vẹn nguyên.
– Tao muốn làm người lương thiện
– Ai cho tao lương thiện?
Câu hỏi ấy như xoáy vào tận tâm can người đời. Đến khi gấp trang sách lại, chúng ta vẫn còn như day dứt ở trong lòng. Phận người trong xã hội cũ, sống trong trăm ngàn thứ khắc nghiệt bủa vậy, bị tha hóa, bị chà đạp, bị cướp đi nhân cách và phải tự kết liễu đời mình là lối thoát duy nhất.
Nam Cao đã mang đến một sự kết hợp sâu sắc giữa giá trị hiện thực đầy đau thương và giá trị nhân đạo vô cùng tinh tế. Bằng ngòi bút sắc sảo nhưng vẫn đầy tính nhân văn, tác phẩm Chí Phèo của ông đã như là tấm gương phản chiếu lại những xót xa của một tầng lớp xã hội thời bấy giờ, nhưng chất chứa trong đó vẫn là sự cảm thông đầy sâu sắc.
Có lẽ ít tác phẩm nào trong giai đoạn cùng thời lại gây được tiếng vang đến tận bây giờ như Chí Phèo của Nam Cao. Một con người mà đại điện cho cả trăm số phận khác, dù có đau thương nhưng vẫn xứng đáng được yêu thương.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 6
“Chí Phèo” thật sự là một kiệt tác trong văn xuôi đương thời, là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao. Ngòi bút Nam Cao có những quan tâm, những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp. Hình tượng nhân vật Chí Phèo-một điển hình nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam - đã thể hiện cái nhìn đầy đủ mới mẻ, độc đáo có chiều sâu trong thể hiện nỗi khổ con người đó của Nam Cao.
Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, không họ hàng thân thích, không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, cả đời không hề được biết đến một bàn tay chăm sóc của phụ nữ nếu không gặp Thị Nở… Hắn ra đời trong một cái lò gạch cũ bỏ hoang, trong chiếc váy đụp; tuổi thơ của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến.
Người nông dân cùng khổ ấy không được sống ngay cả cuộc đời nghèo khổ nhưng lương thiện của mình. Anh đã bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng linh hồn người để trở thành một con thú dữ, và bị loại khỏi xã hội loài người.
Bản chất lương thiện của anh đã bị xã hội ra sức hủy diệt. Lão cường hào Bá Kiến vì ghen tuông đã cho giải Chí Phèo lên huyện rồi sau đó để anh Chí ngồi tù. Cái nhà tù thực dân ấy đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương thiện, vô tội để rồi thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. Trở về làng, Chí Phèo trở thành một con người khác hẳn-con quỉ dữ của làng Vũ Đại.
Hắn muốn sống thì phải gây gỗ, cướp giật, ăn vạ… Muốn thế hắn phải gan, phải mạnh. Những thứ ấy Chí Phèo tìm thấy ở rượu. Thế là Chí Phèo luôn say, và “hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm”. Chí Phèo thay đổi cả nhân hình và nhân tính: “Cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn… hai mắt gườm gườm trông gớm chết”….
Chí Phèo trở nên xa lạ với mọi người và xa lạ với chính anh. Chí Phèo giờ đây đã là con quỉ dữ của làng Vũ Đại “để tác quái cho bao nhiêu dân làng” , “hắn đạp đổ bao nhiêu sự nghiệp làm tan nát biết bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người…” Và thế là hắn không còn được mọi người coi là người nữa “ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua”.
Nhưng điều đặc sắc và đáng quý hơn nữa ở Nam Cao là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến chỗ tận cùng, Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có, chỉ cần một chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy với bao điều tốt đẹp.
Sự xuất hiện của nhân vật thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu “ma chê quỉ hờn” ấy lại là nguồn ánh sáng đã rọi vào chốn tối tăm của Chí Phèo, thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của Chí Phèo, thắp sáng một trái tim qua bao tháng ngày bị hắt hủi.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ… Chí Phèo như đã thấy “tuổi già của hắn, đói rét , ốm đau và cô độc-cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau… Hắn khát khao làm hòa với mọi người…”
Nhưng bi kịch và đau đớn thay con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cô thị Nở không cho phép cháu gái bà lấy “một thằng không cha chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”. Hay nói đúng hơn là định kiến xã hội đã không cho phép Chí được làm người. Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Hắn lại uống rượu nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình.
Chí Phèo tìm đến nhà Bá Kiến đanh thép kết án lão và giết chết lão, sau đó anh tự sát. Anh không muốn sống nữa vì giờ đây ý thức về nhân phẩm đã trở về. Anh không thể sống kiểu lưu manh, sống như quỉ dữ nữa. Anh đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời. Qua hình tượng Chí Phèo, ngòi bút nhân đạo của Nam Cao đã đặt ra vấn đề có ý nghĩa xã hội lớn lao.
Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám - Chí Phèo. Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một con người trong thời đại đen tối đã qua. Nhưng chúng ta cũng không được lãng quên mà phải ghi khắc để suy ngẫm về cuộc sống hôm nay. Điều đó nói lên giá trị lâu bền của tác phẩm và tầm vóc lớn lao của Nam Cao.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 7
“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời”, đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã xây dựng thành công một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.
Bi kịch Chí Phèo là bi kịch của một nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, bị cự tuyệt quyền làm người, hay nói một cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm người mà không thể được. Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vô cùng sắc sảo: biến hóa lúc kể, lúc tả, triết lí thì thấm thía, trữ tình thì đau đớn xót xa đầy ám ảnh nghệ thuật, làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.
Nam Cao không nói về sưu thuế dã man, không nói về tô tức mà ông coi những khám phá riêng về số phận người lao động bị chà đạp, có một cái nhìn mới mẻ độc đáo, sâu sắc trong việc thể hiện nỗi đau khổ trăm chiều của người nông dân nghèo bị áp bức bóc lột tàn tệ trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không”. Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”, sau đó hắn bị đem bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không một mái lều che thân, không một tấc đất cắm dùi “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến năm 20 tuổi thì Chí Phèo làm canh điền cho lí Kiến.
Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là 20 năm trời đắng cay không chốn nương thân, Bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ chuyện bà Ba ông lí còn trẻ lắm mà “lại cứ hay ốm lửng, bắt hắn bóp chân, hay xoa bụng, đấm lưng gì đấy”. Chí không phải là gỗ đá, nhưng hắn “thấy nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”.
Chỉ một chuyện ghen tuông không đâu, Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan trên bắt Chí giải lên huyện, bỏ tù hắn bảy tám năm trời. Cái nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.
Đi tù “biệt tăm”, bỗng đâu hắn lại “lù lù lần về”. Một Chí Phèo đã hoàn toàn khác hẳn: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Chí mặc cái quần nái đen, cái áo táy vàng, cái ngực và cái tay chạm trổ rồng, phượng nói một ông tướng cầm chùy… Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thịt chó ở chợ từ trưa tới xế chiều, cho đến lúc say khướt.
Hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi “mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ! Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bò vồ cùng ngang ngược. Tuy nhiên hắn đã nhận diện ra Bá Kiến là kẻ thù của mình. Nhưng chỉ một bữa rượu, một vài câu mơn trớn, một đồng bạc đãi thêm của cụ Bá đã làm cho “Chí Phèo vô cùng hả hê”.
Hắn mơ hồ về chuyện hắn “còn có họ” với lí Cường nữa đấy! Mấy hôm sau, Chí lại dở trò lưu manh đốt quán mụ bán rượu, lại vác dao đến nhà cụ Bá xin đi ở tù “bẩm quả đi ở tù sướng quá!”. Chỉ sáu ngày sau khi Chí về lại làng, hắn đến nhà Bá Kiến lần thứ hai sinh sự: “Cái mặt thì ngầu lên, hai chân thì lảo đảo, cái môi bầm lại mà run bần bật”. Hắn nghiên răng năm dọa: “… con phải đâm chết vài ba thằng rồi cụ bắt con giải huyện”.
Cụ Bá cười khanh khách, vỗ vai Chí Phèo một cái, hắn như bị thôi miên, rồi vác dao đến nhà đội Tảo đòi nợ cho cụ Bá. Chẳng xảy ra chuyện đổ máu. Chí Phèo vênh vênh cầm năm chục đồng bạc ra về, tự đắc: “Anh hùng làng này cóc thằng nào bằng ta”. Từ đó Chí Phèo trở thành “đầy tớ chân tay mới” của Bá Kiến. Thế là Chí có nhà, có năm sào vườn ở bãi sông, năm đó hắn hăm bảy, hăm tám tuổi.
Cũng kể từ đấy, Chí mất phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực của Bá Kiến. Hắn đã bán mình cho quỷ dữ, và chẳng bao lâu hắn cũng trở thành một con quỷ dữ ghê tởm. Hắn chìm ngập vào vũng bùn tăm tối, tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc đời mình “đã dài bao nhiêu năm rồi”.Năm nối năm, tuổi nối tuổi, “ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi?”.
Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như “cái mặt của con vật lạ” với màu “vàng vàng mà muốn xạm màu gio” với bao nhiêu là sẹo “vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn chồng chất tội lỗi “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém, người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê chém mướn để kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông.
“Hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận”. Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại : “Hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiều cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện”.
Chí Phèo đã bị cả xã hội ruồng bỏ. Cái thẻ có biên tên tuổi hắn cũng không có; trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng dân lưu tán, lâu năm không về làng. Tất cả dân làng đều sợ hắn, “tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”. Hắn chửi, ai cũng nghĩ “mặc thây cha nó”, ai cũng chẳng thèm nghe, khác nào “những người say rượu hát”. Hình ảnh Chí Phèo “vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua nỗi cô đơn tuyệt vọng.
Hắn chửi tuốt, chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi tất cả những ai không chửi nhau với hắn, “tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chỉnh hắn!”. Chí Phèo cứ chửi, “chửi rồi lại nghe”. Hắn bị bao vây bởi một “sự im lặng đáng sợ”. Năm thì mười họa mới “ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Hắn đã hoàn toàn bị xã hội dứt khoát cự tuyệt không được nhìn nhận là người.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực khá phổ biến có tính quy luật ở nông thôn nước ta dưới thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường cùng, đã phản kháng lại, lưu manh, liều mạng để tồn tại. Năm Thọ “đầu bò u bướu” vừa đi mất tăm lại có Binh Chức lần về, Binh Chức chết lại nở ra Chí Phèo. Biết đâu thị Nở lại không để nơi lò gạch cũ một Chí Phèo con trong cái váy đụp nữa?
Bọn hào lí, một mặt bóp nặn dân lành đến tận xương tùy, mặt khác “lại phải ngậm miệng cung cấp cho những thằng cùng hơn là dân cùng nên liều lĩnh, lúc nào cũng có thể cầm dao đâm người hay đâm mình”. Chừng nào còn bọn cường hào sâu mọt, độc ác, áp bức bóc lột tàn tệ dân lành, thì chừng đó còn người lao động lương thiện bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi, phải kiếm ăn bằng đâm thuê chém mướn, bằng cướp giật. Cái xã hội ấy đã cướp đi của họ cả bộ mặt lẫn linh hồn người, hủy diệt nhân tính và đã cự tuyệt quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo đã cho thấy cái quy luật tàn bạo ghê sợ đó trong xã hội cũ.
Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi.
Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”.
Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn”. Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích” mà thôi!
Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm. Thị Nở đã “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn.
Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!”. Cũng lần đầu tiên hắn được châm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thết lên: “Ôi sao mà hắn hiền…”. Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cá.
Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”. Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng.
Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. “Nếu không con sức mà cướp giật, dạo nạt nữa thì đã sao?”. Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!.
Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hắn thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hẳn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tấm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.
Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”. Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí “say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”.
Câu nói ấy là một câu nói “tình từ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.
Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo “bám” được thị Nở cứ tưởng là được cọc, đâu ngờ chỉ là rễ bèo. Chí Phèo “say thị lắm”, nhưng đến hôm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng: ” hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết, con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến thị Nở, bà thấy cháu bà ” sao mà đĩ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên “như con ma dại”.
Bà quyết không cho phép cháu bà “đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là cách nhìn của mọi người làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí Phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ còn ai nữa dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là “quỷ dữ” mất rồi. Hôm nay, linh hồn hắn trở về, nhưng không ai nhận ra hắn “muốn làm hòa với mọi người” nhưng ai nhận!
Chí Phèo thực sự rơi vào một bi kịch tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn “ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn “sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn đuổi theo “nắm lấy tay” Thị nhưng bị thị gạt ra, dúi thêm cho một cái ngã “lăn khoèo xuống sân”.
Chí Phèo vật vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn vớ một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “đâm chết con đĩ Nở kia”, “đâm chết cái con khọm giá nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vô hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt khoát cự tuvệt.
Rồi “hắn ôm mặt rưng rức” cho đến khi đã say mềm người rồi hắn đi. Hắn ra đi với một con dao ở thắt lưng với câu nói lảm nhảm: “Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa “trời nắng, đường vắng” ấy, Chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá Kiến “không đòi tiền” như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền “làm người lương thiện!”.
Câu nói của Chí Phèo: “… Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được hết những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!…” đó là những lời đanh thép vạch mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau khổ! Chí Phèo “văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh.
Chí không muốn sống nữa, vì giờ đây, thức về nhân phẩm đã trở về. Chí không thể sống kiểu lưu manh, không thì làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết bi thảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh cửa cuộc đời đóng chặt trước mặt anh.
Chí Phèo là một hiện tượng lưu manh hóa ở nông thôn mang tính chất điển hình, có ý nghĩa kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đẩy người dân cày nghét vào kiếp sống tối tăm thú vật, cướp đi của họ cả bộ mặt, cả linh hồn người. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện!” là câu hỏi chứa chất phẫn uất, đau đớn, mãi mãi làm day dứt lòng người.
Làm thế nào để con người được sống cuộc sống lương thiện, bình dị trong cái xã hội tàn bạo ngột ngạt, vùi dập nhân tính ấy? Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đà đặt ra câu hỏi lớn ấy. Với cảm quan hiện thực sắc sảo đặc biệt, Nam Cao đã vạch ra mối mâu thuẫn giai cấp gay gắt ở nông thôn và tình trạng tha hóa phổ biến trong cái xã hội vô nhân đạo đó.
Truyện “Chí Phèo” vừa chứa chan tình cảm nhân đạo, vừa mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo, xứng đáng được coi là một kiệt tác.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 8
Nhà văn Nam Cao chính là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu của nền văn học Việt Nam. Ông chuyên viết về đề tài những người trí thức nghèo hoặc những người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa. Tiêu biểu nhất và tác phẩm khẳng định vị trí của ông trong nền văn học nước nhà chính là truyện ngắn Chí Phèo.
Tác phẩm Chí Phèo là tấn bi kịch của người nông dân nghèo trong xã hội thực dân nửa phong kiến trước cách mạng tháng Tám. Nhân vật chính của truyện ngắn chính là Chí Phèo và viết về bi kịch của cuộc đời Chí. Có hai bi kịch nối tiếp nhau trong cuộc đời của Chí đó chính là bi kịch bị tha hóa từ một chàng thanh niên lương thiện trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch thứ hai chính là bi kịch khi bị từ chối làm người lương thiện, từ chối quyền làm người, quyền được hạnh phúc.
Trước tiên ta xét ở bi kịch thứ nhất của Chí Phèo. Ở phần đầu khi Chí Phèo vốn là một đứa trẻ có tuổi thơ khốn khổ, bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ từ thời còn quấn tã. Sau đó qua tay nhiều người nuôi cuối cùng thì hắn bơ vơ một mình. Năm Chí hai mươi tuổi thì đi làm canh điền cho nhà Lí Kiến.
Vốn Chí là một anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành, nhút nhát nhưng chính Lí Kiến đã đẩy hắn vào tù khi tận mắt chứng kiến cảnh Chí bóp đùi cho bà Ba. Trước khi vào tù ta có thể thấy được Chí là người nông dân lương thiện, có ước mơ như bao người khác đó là có một gia đình nhỏ, mình thì cuốc mướn, cày thuê còn vợ dệt vải.
Tuy nhiên chính vì sự sai khiến của bà Ba cùng với cơn ghen của Lí Kiến khiến ước vọng ấy tan biến, đẩy người nông dân hiền lành ấy vào ngục tù. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào và những năm tháng trong tù đã biến một chàng thanh niên vốn hiền lành, khỏe mạnh trở thành một “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Chí từ đây đã bị cướp hết cả nhân hình, nhân tính. Cái vẻ bề ngoài của Chí cũng không giữ được hình hài như xưa mà “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng, hai mắt gườm gườm…. Cái ngực phanh, đầy nét chạm trổ…”. Không chỉ thay đổi về ngoại hình mà tính cách của Chí cũng khác xưa. Không giữ được sự lương thiện của mình nữa mà thay vào đó là một thằng liều mạng, có thể làm mọi việc như một thằng đầu bò chính cống: rạch mặt ăn vạ, đánh nhau, đâm thuê chém mướn, đập phá…
Khi người đọc tưởng rằng Chí sẽ cứ như vậy mãi và kết liễu cuộc sống trong một lần ẩu đả nào đó hoặc trong một cuộc nhậu. Tuy nhiên bằng trái tim giàu lòng nhân đạo thì Nam Cao đã không làm vậy mà khiến Chí gặp một biến cố trong cuộc đời khiến cho sự lầm đường lạc lối như được thức tỉnh. Đó chính là sự kiện Chí Phèo gặp Thị Nở trong một đêm trăng ở vườn chuối.
Vốn Thị Nở là một người đàn bà quá lứa, lỡ thì và lại còn xấu xí. Thế nhưng khi Chí Phèo ốm một trận thập tử nhất sinh và Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành trên tay khiến cho Chí cảm thấy lương tâm thức tỉnh, có sự biến đổi mạnh mẽ cả về tâm sinh lí. Sự giản dị, chân thành của Thị Nở đã làm sống dậy bản chất lương thiện vốn có của Chí. Trong sáng ấy lần đầu tiên Chí không say từ hôm ra tù, lần đầu hắn thấy mình tỉnh táo và các giác quan hoạt động bình thường như vậy.
Chí lắng nghe được những âm thanh của cuộc sống đời thường mà lâu nay hắn chẳng để ý tới. Đó là tiếng chim hót, tiếng của những người đi chợ, của những người thuyền chài đuổi cá… Tất cả những âm thanh bình dị ấy như tiếng gọi thiết tha của cuộc sống khiến cho Chí có quyết định táo bạo đó chính là muốn trở thành người lương thiện. Bởi Chí khao khát muốn được thực hiện ước mơ trước kia Chí từng mong muốn.
Hiện thực luôn luôn tàn khốc và con đường trở lại làm người lương thiện của Chí Phèo như bị đóng sầm lại trước mắt hắn. Trước tiên là sự phản đối gay gắt của bà cô Thị Nở với hắn. Bà cô giống như định kiến của xã hội bấy giờ, là cách nhìn nhận của cả cái làng Vũ Đại về Chí Phèo và không sao thay đổi được. Chính vì thế anh rơi vào bi kịch thứ hai – Bi kịch bị cự tuyệt làm người lương thiện.
Chí ngẩn người thất vọng rồi sâu sắc nhận ra bi kịch của một con người sinh ra làm người nhưng lại không được làm người. Lúc ấy Chí lại uống rượu, nhưng lần này hắn càng uống, càng tỉnh rồi lại thoang thoảng thấy mùi cháo hành. Chí xách dao đến nhà Bá Kiến đòi lương thiện và kết cục là Chí đâm chết Bá Kiến rồi tự tử.
Có thể thấy nhân vật Chí Phèo chính là một nhân vật điển hình về người nông dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa trong xã hội thực dân phong kiến. Nhà văn Nam Cao đã lên án gay gắt xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời và bày tỏ sự đồng cảm, xót thương cho sự bế tắc của con người trong xã hội đó.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 9
Là một nhà văn luôn băn khoăn trăn trở về cách sống và cách viết, Nam Cao đã từng tuyên ngôn “Sống đã rồi hãy viết”. Một nhà văn muốn viết được nhân đạo trước hết phải sống cho nhân đạo bởi cuộc đời quyết định đến văn chương. Nam Cao luôn nhìn đời bằng đôi mắt của tình thương, đôi mắt của lòng nhân ái. Với cách nhìn đời này, Nam Cao bắt đầu cầm bút sáng tác.
Trước Cách Mạng, Nam Cao viết về hai đề tài, đề tài người nông dân và đề tài người trí thức tiểu tư sản. Ở đề tài nông dân hay nhất, tiêu biểu nhất phải kể đến sáng tác đầu tay của Nam Cao, tác phẩm Chí Phèo. Linh hồn của câu chuyện là nhân vật cùng tên được nhà văn miêu tả với một tấn bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người: Sinh ra là người nhưng không được làm người, cả đời khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương.
Thông qua bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của hắn nông dân Chí, ngòi bút Nam Cao bộc lộ là một ngòi bút nhân đạo, nhân văn, sâu sắc và cao cả. Người ta thường nói bi kịch là một hoàn cảnh bi thảm, bi thương, bi đát nào đó, điều này không chính xác. Bi kịch vốn được hiểu là những khát vọng chân chính, cháy bỏng, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, cuối cùng người mang khát vọng bị rơi vào kết cục của một thảm kịch.
Bi kịch là cuộc đấu tranh dai dẳng, không khoan nhượng giữa thiện và ác, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cao thượng và thấp hèn, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Trong cuộc sống thường ngày, thương nhật, bi kịch không diễn ra giữa các lực lượng xã hội đấu tranh với nhau.
Trái lại nó là lực lượng tinh thần trong đời sống tâm hồn của một con người, ví như nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, cả đời hắn khao khát lương thiện, cuối cùng trở thành kẻ bất lương, sinh ra là người nhưng không được làm người, để rồi hắn chết trên con đường trở về lương thiện.
Cuộc đời con người là một chuỗi biến động liên hoàn mà chúng ta không thể phân tách hay chia cắt được.Tuy nhiên cuộc đời mỗi con người được hình thành bởi những điều kiện, hoàn cảnh . Ở những điều kiện lớn, hoàn cảnh lớn,bản chất con người mới được bộc lộ bởi nói như H.Balzac: “Bản chất của con người thường bị bánh xe của số phận che đậy, và khi lao vào bão tố, dù tốt hay xấu, tự nó bộc lộ.”
Cuộc đời Chí Phèo tù lúc sinh ra đến lúc chết đi được chia làm hai chặng đường: chặng đường đầu tiên từ lúc Chí sinh ra đến năm hai mươi tuổi và sau khi ra tù. Lai lịch Chí Phèo được mở ra trong câu chuyện là một đứa trẻ xám ngắt, được bọc trong một tấm váy đụp bên cạnh lò gạch bỏ hoang, được người thả ống lươn đem về trong một buổi sớm tinh sương. Lớn lên, Chí Phèo được cưu mang bởi những con người nghèo khổ, Chí Phèo đi ở hết nhà này cho đến nhà khác, từ bà goá mù cho đến ông Phó Cối.
Quá khứ ấy không khiến Chí Phèo trở thành một đứa trẻ hư hỏng, trái lại, đến năm hai mươi tuổi, khi đi làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, Chí Phèo vẫn giữ nguyên bản tính của một người nông dân thuần hậu. Cũng như biết bao người nông dân làng Vũ Đại, Chí Phèo ước mơ có được một cuộc sống bình dị bởi mơ ước của một con người phần nào bộc lộ bản tính của người ấy. Ở đây, Chí Phèo ước mơ có một cuộc sống nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ con lợn để nuôi, khá giả mua năm ba sào ruộng cấy.
Mơ ước ấy chứng tỏ rằng hắn là một người nông dân thuần hậu, thậm chí làng Vũ Đại còn gọi hắn là người “lành như cục đất”. Ta còn thấy Chí phèo là một người trong sáng và trọng danh dự. Làm hắn chắn điền cho nhà lí Kiến, rồi một lần bị bà Ba Kiến gọi lên bóp chân, Chí Phèo chỉ thấy nhục, thấy sợ. Trái tim của Chí Phèo hai mươi tuổi đâu còn là gỗ đá, Chí Phèo đã nhận thức được đâu là tình yêu chân chính, đâu là thói dâm ô.
Bị gọi “đấm bóp cho bà 3 quỷ quái hắn chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì”. Như vậy, rõ ràng, đến đây ta có thể khẳng định hắn là một người nông dân thuần hậu, nhưng xã hội ấy không cho Chí Phèo sống yên ổn. Chí Phèo đang sống trong cái xã hội mà “Kiếp người cơm vãi cơm rơi - Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi.”, trong cái xã hội mà cạm bẫy người giăng giăng như mắc cửi thì những ngời hiền lành như Chí Phèo bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi.
Vì một cơn ghen bóng gió, Chí Phèo đã bị Bá Kiến tống vào ngục tù, con người xảo quyệt này sẵn sàng chà đạp lên cuộc đời người khác không thương tiếc, không ghê tay. Bắt đầu từ đây, Chí Phèo chuyển sang một trạng thái khác, một cuộc sống khác. Nhân đây cũng phải nói qua cái nhà tù, đây là nhà tù thực dân, đồng lõa với lão Bá tha hóa Chí Phèo.
Nhà tù này có bản chất xã hội trái hoàn toàn với bản chất xã hội của một nhà tù mà loài người đang mong đợi. Nhà tù này chỉ thu nạp tù nhân khi hắn ta còn lành như cục đất, vào nhào nặn, đào tạo đến khi thành con quỷ dữ thì thả họ ra. Nhà tù này tiếp tay cho lão Bá tha hóa Chí Phèo, nhà tù này đã biến hắn Chí “lành như cục đất” giờ đây ra tù... hãy nghe Nam Cao mô tả diện mạo của Chí Phèo lúc ra tù: ”Cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm, ngực và tay chạm trổ đầy những hình rồng phượng, có cả một ông tướng cầm chuỳ.
Trông Chí Phèo đặc như một tên săng đá”.Hình ảnh này đã làm tái hiện một Chí Phèo khác hoàn toàn, thay thế hắn nông dân thuần hậu ngày xưa giờ đây là một Chí Phèo sinh ra làm người nhưng không được làm người, hiền lành chân chất là thế giờ dây trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Đây là bi kịch đầu tiên của Chí Phèo bởi bi kịch là khát vọng chân chính, mãnh liệt của một con người nhưng không có điều kiện thực hiện trên thực tế, Chí Phèo cả đời khao khát lương thiện nhưng giờ đây thành kẻ bất lương mất rồi, thành con quỷ dũ mất rồi. Hình ảnh của Chí say rượu vừa đi vừa chửi hết sức buồn cười, phải chăng đằng sau sự lảm nhảm của hắn là tiếng kêu gào tuyệt vọng của sự thèm khát được giao tiếp với đồng loại.
Trong cơn say hắn nhận ra được sự cô đơn khủng khiếp của 1 con người bị xh ruồng bỏ. “Hắn thèm được người ta chửi, chửi hắn có nghĩa là còn công nhận hắn là người”. Thế nhưng hắn cứ chửi, xung quanh hắn là sự im lặng đáng sợ, hắn chửi rồi lại nghe: “chỉ có 3 con chó dữ với 1 thằng say rượu”. Hắn đã bị từ chối quyền làm người tuyệt đối. Bản chất của hắn đâu phải là kẻ nát rượu.
Khi còn trẻ hắn đã “ao ước có 1 mái ấm gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn vợ dệt vải nuôi heo”. Mơ ước của hắn thật bình dị bằng sức lao động chân chính, cái hạnh phúc đơn sơ nhưng ấm cúng tình người tưởng chừng ai cũng có được nhưng với Chí lại quá xa vời. Giờ đây, hắn muốn sống trong cái Làng Vũ Đại “đầy bọn ăn thịt người không thắn” thì hắn phải gây gổ, cướp giật, ăn vạ.
Muốn thế hắn phải có gan, phải mạnh, thế là hắn mượn rượu để say như hủ chìm, như thế hắn sẽ làm “bất cứ điều gì người ta muốn hắn làm”, xã hội đã vằm nát bộ mặt người của hắn để hắn không còn được coi là con người nữa “ai cũng tránh mỗi lần hắn đi qua”. Trong cơn say rượu, Chí đã gặp Thị Nở và họ đã ăn nằm với nhau….
Sau khi tỉnh cơn say, hắn nhận được sự t/yêu c/sóc của TNở làm cho trong sâu xa t/hồn hắn lay động 1 tia chớp lóe sáng trong cuộc đời tối tăm dài dằng dặc của hắn và hắn nhận ra được tình trạng bi thương của số phận mình. “Hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có 1 lúc mà người ta không thể liều lĩnh được nữa, bấy giờ mới nguy”, hắn tủi thân vì hắn nhận ra sự trơ trọi của chính mình.
Đó những ân hận khi Chí Phèo hiểu ra hắn đã làm quá nhiều điều tội lỗi, khốn nổi khi gây ra những điều này Chí triền miên trong những cơn say nên nào biết gì! Tình yêu của Thị Nở làm cho hắn “bỗng thèm lương thiện”, bát cháo hành đã đưa Chí rẽ vào bước ngoặc mới, bát cháo hành là biểu tượng của sự cảm thông yêu thương giữa những người cùng cảnh ngộ, nó mãi mãi đi vào cuộc sống văn chương với tư cách là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo.
Hắn cảm động quá! cảm động vì lần đầu tiên hắn được ăn 1 thứ ngon như thế. Hơn nữa muốn có cơm ăn, rượu uống chí phải dọa, cướp giật. Lần đầu tiên có người tự nguyện cho hắn ăn, đặc biệt hơn đó lại là đàn bà nên con quỷ dữ đã mềm ra thành từng giọt nước mắt. Cùng với những giọt nước mắt là Chí nghe được tiếng chim hót buổi sáng, tiếng gõ mái chèo của người thuyền chài đuổi cá trên sông, tiếng trò chuyện của những người đi chợ sớm.
Cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của lao động chứa chan tình người, tất cả thật đơn sơ nhưng cũng thật gần gũi thân thiết, những âm thanh này ngày nào cũng có nhưng đây là lần đầu tiên Chí cảm nhận được. Giọt nước mắt của Chí cùng những âm thanh buổi sáng đã làm nên một Chí Phèo khác hẳn, có nghĩa là hắn chắn điền lương thiện năm nào đã sống lại.
Đây là lần đầu tiên Chí tỉnh và lần đầu tiên nhận thức được tội lỗi, sự ân hận muộn màng nhưng dù sao cũng đáng ghi nhận. Đó là biểu hiện của sự làm lành “hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao” Chí muốn được mọi người bỏ qua cho tất cả. Thị Nở sẽ giúp hắn làm loại từ đầu, niềm khát khao mới người làm sao! Tình yêu của Thị Nở làm cho hắn thức tỉnh và mở đường cho hắn trở lại làm người, nhưng thật trớ trêu, bà cô Thị Nở đã đóng sầm cánh cửa lại, bà không cho cháu bà “đi lấy 1 thằng ăn vạ”.
Cách nhìn của bà cũng chính là cách nhìn của Làng Vũ Đại, linh hồn của Chí vừa trở về thì bị cự tuyệt, không ai nhận ra. Khát vọng của Chí đã bị đã bị xã hội từ chối, điều này cũng dễ hiểu vì xã hội quen nhìn Chí trong bộ dạng quỹ dữ, không thể chấp nhận một Chí Phèo hiện lên với tư thế con người. Sự từ chối của xã hội đầy định kiến, xã hội không độ lượng bao dung đón đứa con lạc loài trở về vòng tay cộng đồng.
Hoàn cảnh đặt Chí trước 2 con đường để lựa chọn: “hoặc sống làm quỷ dữ hoặc chết để khẳng định gía trị làm người”. Thực chất Chí chỉ có 1 con đường để đi, khi giá trị làm người thức tỉnh thì chí không thể làm quỹ dữ, đó chính là bi kịch thân phận con người không được quyền làm người.
Sự từ chối của Thị Nở đã đóng sập cánh cửa hoàn lương của Chí. Lúc này hắn đã uống rất nhiều rượu “càng uống càng tỉnh ra” để thấm thía thân phận mình “hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Trong cơn say hắn xách dao ra đi, hắn lảm nhảm đến nhà Thị Nở để đâm chém nhưng bước chân lại tìm đi tìm “kẻ gây ra tình trạng tuyệt vọng cho đời mình”. Thực trạng này đòi hỏi chúng ta phải xác định Chí say hay tỉnh?
Nếu bảo hắn tỉnh thì không thuyết phục vì ý thức của hắn không còn khả năng điều khiển hành vi, bảo hắn say cũng không thỏa đáng vì người say không thể biết đòi lương thiện “tao muốn làm người lương thiện” và biết rất rõ không ai cho hắn lương thiện, nghịch lý này là rượu đã làm cho thế giới tinh thần hắn mụ mị đi, nhưng 1 bộ phận mà rượu không thể làm tê liệt được là ý thức làm người, cho nên hành động đòi lương thiện là vô cùng tỉnh táo.
Vì vậy Chí đã giết Bá Kiến và tự hủy diệt mình. Cái kết thúc thật rùng rợn vì máu chảy nhưng cũng thật nhân bản vì tội ác đã được trừng trị và giá trị làm người được khẳng định. Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say . Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lòng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện.
Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí Phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.
Chí Phèo - một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Ở cuối tác phẩm, “đột nhiên thị thoáng thấy hiện ra một cái lò gạc cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người qua lại…”, chi tiết ấy muốn nói với chúng ta rằng, một ngày gần đây thôi, Thị Nở lại bụng mang dạ chửa vượt cạn giữa đồng không mông quạnh, giữa con mắt thờ ơ của người dân làng Vũ Đại, lai một Chí Phèo con xuất hiện.
Điều này chứng tỏ rằng “Chí Phèo” không phải là bi kịch của một con người mà là bi kịch của người nông dân tồn tại trong lòng nông thôn trước Cách mạng tháng Tám. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 10
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân là mối quan tâm hàng đầu của dòng văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố có Tắt đèn với chị Dậu, Nguyễn Công Hoan có Bước đường cùng với anh Pha,… Và đặc biệt là Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Trong đó nói lên hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình tượng nhân vật này đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm nhận sâu sắc.
Chí Phèo là ai? Mở đầu tác phẩm, Nam Cao đã giới thiệu nhân vật của mình một cách độc đáo. Nhà văn đế Chí Phèo hiện lên trong bộ dạng của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Mà hắn chửi mới lạ lùng và ngoa ngoắt làm sao: “Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những ai không chửi nhau với hắn”. Không lạ sao được bởi khi chửi người ta thường phải hướng tới một đối tượng cụ thể đằng này hắn hướng tới tất cả cuộc đời này, trời đất này. Lạ lùng hơn nữa, đây không phải là lần đầu tiên hắn chửi bỏi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vì sao hắn lại đến nông nỗi ấy? Nhân vật của Nam Cao vừa mới xuất hiện đã trở thành một ấn số khiến người đọc tò mò đoán định: con người ấy không tạo được chút cảm tính nào, song lại gieo vào lòng người một niềm xót xa – hắn anh ta phải có nỗi niềm khổ đau nào đó mới đến nỗi dùng rượu đế hủy hoại thân xác, những tiếng chửi đời ngoa ngoắt kia cũng nói lên một điều rằng chủ nhân của nó đã bị mất hết niềm tin vào cuộc đời, vào con người trên thế gian này. Người đọc tò mò đọc tiếp trang truyện và quả thực, cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một cuốn phim bi thảm.
Chí vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn, sự ra đời của hắn không được ai mong đợi. Nói trắng ra, hắn là một đứa con hoang, cha hắn không thừa nhận, mẹ hắn bỏ lại hắn ở cái lò gạch hoang mặc cho sống chết. Vậy là chỉ có cái lò gạch hoang là đón đợi hắn mà thôi. Khi Chí xám ngắt trong chiếc váy đụp thì những người nông dân nghèo khổ đã nhặt hắn. Ban đầu là một anh đi thả ống lươn. Sau đó là một bà góa mù rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí Phèo thành đứa trẻ bơ vơ muốn có miếng ăn Chí phải đi hết nhà này đến nhà khác, nghèo khổ và bẽ bàng. Đời hắn bọt bèo, lênh đênh, tội nghiệp chẳng khác chi một thứ cỏ dại trôi dạt hết góc này đến góc nọ. Âu đó cũng là tình cảnh chung của số phận người nông dân trước cách mạng, đời họ cũng dập dềnh theo những phen phiêu tán li gia. Kẻ đi ở đợ, người buôn thúng bán mẹt nay đây mai đó, cực nhục hơn phải tha hương cầu thực ở xứ người.
Đen năm mười tám đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí tới gia đình Bá Kiến. Đen cửa nhà giàu tưởng kiếm được bát cơm manh áo ai ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi cái con vợ ba “qủy cái” của Bá Kiến cứ bắt hắn bóp chân khêu gợi những chuyện dâm dạt. Hắn vùng vằng: tuy còn trẻ nhưng hắn cũng phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa. Sự cám dỗ đó không làm bản chất của Chí bị bôi nhọ. Chí thực sự là chàng trai tự trọng, lương thiện. Suy cho cùng đó là bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa, chất phác, thật thà và đầy tự trọng. Đọc đến đây, người đọc khó có thế quên hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố cầm nắm giấy bạc ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện. Hay gần gũi hơn là một nhân vật của chính Nam Cao, lão Hạc, lòng tự trọng đã khiến lão từ chối “gần như là hách dịch” mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão đã dùng cái chết để bảo toàn lòng tự trọng cao quý nơi con người mình.
Ớ Chí Phèo, bản chất lương thiện ấy bị cái xã hội tăm tối ra sức hủy diệt. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho tên cường hào Bá Kiến bắt giam Chí, biến hắn từ một người lương thiện thành con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ở tù về Chí trở thành một con quỷ dữ đáng sợ “cái đầu thì trọc lốc”, "răng cạo trắng hớn", “trông gớm chết”. Trên người hắn xăm đầy những hình thù quái dị – bản chất của hắn năm xưa đã biến mất. Bây giờ hắn là một kẻ ác chỉ biết làm việc ác. Nhà văn đã dùng đến hai lần từ “gớm chết” để bày tỏ sự kinh hãi và cũng là đế khu biệt hắn với những người dân lương thiện trong cái làng này. Sự lưu manh của Chí thể hiện cụ thể ngay trong những hành động thường nhật. Mua rượu không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch mặt ăn vạ kêu làng. Hắn càng ác và đáng sợ hơn khi rơi vào tay bá Kiến rồi trở thành công cụ đắc lực cho hắn. Chỉ cần bá Kiến quăng cho vài hào hắn có thế đâm chém bất cứ ai, làm tất cả những gì người ta sai. Càng ngày Chí càng trượt dài trên còn đường tội lỗi lưu manh.
Ở đây, với đặc điểm này của Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới trong đời sống người nông Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc miêu tả đời sống khốn cùng, quẫn bách, nỗi cực nhục bọt bèo của người nông dân thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng. Nhưng cái mới của Nam Cao là đã chỉ ra con đường bị lưu manh hóa về bản chất của người nông dân. Họ vốn chất phác, thật thà, lương thiện và đầy tự trọng. Có những người cả cuộc đời không ra khỏi lũy tre làng thì làm sao có thể hại làng hại nước? Song nhà văn bằng ngòi bút sắc sảo, tỉnh táo đã vạch ra thủ phạm của tội ác đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó là những thủ đoạn đê tiện của bọn cường hào địa phương kết hợp với chào hà khắc, tàn bạo của chính quyền thực dân. Chính chúng đã tẩy não, đã nhào nặn lại và rồi bôi bẩn những tâm hồn vốn rất mong manh, lương thiện.
Sông, cái tốt đẹp thuộc về bản chất xưa kia ở Chí Phèo như một tiềm thức sâu xa, nó giống như mặt trời có thế bị che mờ nhưng sẽ không bao giờ nguội tắt. Sau giấc ngủ dài mê man, nó cựa quậy, động đậy đòi tỉnh giấc. Nó thúc giục Chí Phèo trở thành người lương thiện.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn lao trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở chẳng khác nào ánh trăng mát lành của đêm ấy. Tình thương của Thị Nở chang khác nào dòng sông lấp lánh dưới ánh trăng gợi biết bao tình. Điều đó đã thức dậy cái bản chất lương thiện trong Chí làm nó sống lại và thực sự sống lại trong kiếp sống con người. Tình thương quả là một thứ biệt dược, nó có thể khôi phục, chữa lành cả những vết thương bị nhiễm trùng nặng nhất. Đoạn văn viết về sự thức tỉnh của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã làm sống lại trong Chí sự tự ý thức về mình. Chí Phèo sống lại với mong ước “một gia đình nhỏ”, “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải quanh năm, hai đứa bỏ vốn nuôi con lọn”. Sau bao nhiêu năm, hôm nay Chí lại nghe “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá” hay “tiếng những người đi chợ về hỏi nhau: Hôm nay vải mấy xu hả dì?” Nhũng âm thanh ấy hôm nào chả có? Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha hướng về cuộc sống. Bát cháo hành Thị Nở đem đến làm Chí cảm động “Mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn muốn hướng về tương lai, một tương lai bình dị: mái ấm gia đình. Nước mắt, lại là nước mắt đàn ông, Nam Cao từng gọi đó là “lăng kính biến hình của vũ trụ”. Ta có cảm giác giọt nước mắt kia, nụ cười thật hiền trên môi Chí kia đã cuốn đi, đã xua tan quá khứ tối tăm, u ám của hắn. Có lẽ chính giọt nước mắt và nụ cười ấy của Chí Phèo Thị Nở đã có khi thầm nghĩ: “Có lúc hắn hiền như đất”. Rồi hắn nói với Thị Nở: “Cứ thế này mãi thì thích nhỉ… hay là mình sang ở với tớ một nhà cho vui”. Hắn khát khao muốn trở về thế giới người lương thiện: “Trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn".
Chính những trang văn trên đã làm sáng bừng cho câu chuyện và sáng bừng lên quãng đời trôi nổi, tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, hành động, câu nói của anh khiến ta cảm động như thế. Chúng thể hiện một điều rằng: lần đầu tiên trong đời Chí Phèo gặp được lí tưởng, mục đích sống của đời mình. Nó nằm ở nơi người đàn xấu xí cả xã hội chê bai, xa lánh. Ước mơ giản dị, mong manh của hắn có thế làm bất kì ai cũng phải giật mình nhìn lại những gì mình đang có đế nâng niu và thấy trân trọng nó hon.
Nhưng bi kịch đời Chí chưa dừng lại ở đó, Thị Nở đã từ chối “lời cầu hôn” của hắn bởi bà cô Thị không cho phép cháu bà lấy một thằng “chỉ có độc một cái nghề rạch mặt ăn vạ”. Ta không trách bà cô Thị Nở, đó cũng là cách nhìn của những người trong xã hội đối với Chí Phèo. Tất cả đã coi hắn là con quỷ dữ không ai còn tin hắn, hắn đã bị cả xã hội cự tuyệt. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức”. Hắn rơi vào bi kịch tuyệt vọng muốn làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn tìm đến rượu “hắn càng uống càng tỉnh” hắn cứ uống cho đến lúc say mềm lại vác dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời bằng tiếng chửi, còn đời trả lời hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi làng nước. Vậy là đã rõ, đời hắn đã đi vào hồi kết, kiếp hắn cũng chỉ là kiếp chó mà thôi. Mồm thì chửi cô cháu nhà Thị Nở nhưng chân thì đưa hắn đến nhà bá Kiến. Đoạn văn được Nam Cao mô tả vô cùng tinh tế và hợp lý. Lúc này, Chí Phèo vừa tỉnh lại vừa say, say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở, tỉnh đế đến nhà bá Kiến đi theo thói quen của tiềm thức sâu xa như một tất yếu. Đến nhà bá Kiến Chí Phèo không xin tiền mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng, lúc này hắn đã thấm thìa tình trạng tuyệt vọng vô phương cứu chữa của đời mình. Hắn hét lên: “Ai cho tao lương thiện?”. Câu hỏi của Chí Phèo cũng là câu hỏi của thời đại. Chang ai trả lời hắn bởi đó là “Một câu hỏi lớn không lời đáp” đớn đau đến vô cùng. Câu hỏi làm người đọc như lên một niềm cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người bất hạnh không biết đi đâu về đâu trong cái xã hội ngục tù tăm tối ấy. Tuyệt vọng, Chí lao vào đâm chết bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình.
Để Chí Phèo chết Nam Cao đã thể hiện được nhiều ý tưởng sâu xa góp phần tạo nên giá trị hiện thực của tác phẩm. Chí Phèo chết đã trở thành một bản án tố cáo xã hội đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa đã tước bỏ quyền sống quyền làm người của những người dân lương thiện. Chí chết cũng có nghĩa là anh ấy không chịu quay lại con đường lưu manh, không chịu sống kiếp sống con vật chuyên làm kẻ ác. Anh ấy thà chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng hoàn lương. Đó là sự cảm thông và cũng là niềm tin của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp của con người.
Khi miêu tả bi kịch trong số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích những nguyên nhân tạo nên một mạch của bi kịch ấy. Trong đó có nguyên nhân khách quan, xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đấy con người vào vòng sa ngã. Cũng có nguyên nhân chủ quan bởi lẽ bản thân những người nông dân cùng cảnh ngộ lại quay lưng vào nhau, phủ nhận nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô Thị Nở. Bị xua đuổi, đè nén, những người như Chí đến lúc này đã quay lại chống trả (dẫu sự chống trả vô cùng tiêu cực, nhưng họ còn biết làm gì hơn?) bằng con đường lưu manh. Hon nữa, Nam Cao còn nhắc đến Năm Thọ, Binh Chức với tư cách là những “vị tiền bối”, họ hàng gần xa với Chí Phèo. Kết thúc tác phẩm, Nam Cao để Thị Nở nhìn nhanh xuống cái bụng và thấp thoáng hình ảnh “cái lò gạch cũ” hiện ra vắng người qua lại. Rất có thể một Chí Phèo con sẽ ra đời để nối nghiệp bố. Hình tượng Chí Phèo được Nam Cao khắc hoạ thành công và khái quát thành quy luật bản chất của xã hội. Vậy muốn chấm dứt bi kịch của Chí Phèo cần phải tiêu diệt xã hội ấy đi. Đây chính là chiều sâu trong ngòi bút Nam Cao trong miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo đế lại trong lòng người đọc nhiều niềm xúc động và lòng cảm thông sâu sắc đối với những kiếp người tàn tạ trước Cách mạng tháng Tám. Cùng với những chị Dậu, anh Pha, lão Hạc,… hình tượng nhân vật Chí Phèo khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp đế đòi lại quyền sống cho người dân Việt Nam khi đó. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là những lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu hơn, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có và ra sức cống hiến xây dựng cuộc đời tươi đẹp này.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 11
Chí Phèo – một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với “bát cháo hành”. Chính tình yêu Chí Phèo – Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sáng tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng… Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.
Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong cái xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản ánh vô cùng mạnh mẽ.
Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên “bóp chân”; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành “con quỷ dữ của làng “Vũ Đại” tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buổi sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở “nhìn nhanh xuống bụng” và “và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ”. Một “Chí Phèo con” sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.
Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống “mặt trời chắc đã cao”, “tiếng chim ríu rít” lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe “tiếng cười nói của những người đi chợ”, “nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”.
– Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao “một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.
+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người – những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngẩn ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. Chí Phèo ngạc nhiên ,xúc động khi Thị Nở bê bát cháo hành sang cho Chí Phèo. Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, Chí Phèo đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hỏi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỹ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của Chí Phèo.
Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết 1 Chí Phèo say. Chí Phèo bằng xương, bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là Chí Phèo đòi quyền sống, đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về, Chí Phèo không bằng lòng sống như trước nữa. Và Chí Phèo chết trong bi kịch đau đớn, chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống. Đây không thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp phong kiến thống trị tha hoá, những bi kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn
Phân tích nhân vật Chí Phèo 12
Giữa những bộn bề phồn tạp của buổi chợ văn chương, giữa những náo nhiệt đông đúc của gian hàng hiện thực, phê phán, Nam Cao được nhận ra là một chủ cửa hàng khá đặc biệt, với tấm lòng nhân đạo sâu sắc về sự quan tâm đặc biệt dành cho những người nông dân nghèo trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã đưa người đọc đi sâu khám phá những đau đớn, khổ cực mà những con người cùng hơn cả dân cùng phải chịu đựng, phát hiện những vẻ đẹp ẩn sâu trong tâm hồn của họ. Tiêu biểu cho cuộc hành trình đó là tác phẩm Chí Phèo, đặc biệt qua nhân vật Chí Phèo ta sẽ thấy rõ được điều đó.
Quả thật không sai khi nói rằng, sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi nó là kết quả kết quả từ đời sống, nếu sáng tác văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu và tưởng tượng mà không mang hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật. Nam Cao đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và ông đã khẳng định được vị trí của mình trong nền văn học Việt Nam hiện tại. Đồng thời tìm cho mình một phong cách hoàn toàn mới mẻ, khác với những nhà văn cùng thời.
Đọc Chí Phèo của Nam Cao ta sẽ thấy rõ được điều đó, tác phẩm được in thành sách lần đầu năm 1941, sau đó được in lại trong tập “Luống cày” năm 1946. Lúc đầu tác phẩm có tên là “Cái lò gạch cũ”, sau đó Nhà xuất bản tự ý đổi thành “Đôi lứa xứng đôi”, đến năm 1946 Nam Cao đã đổi lại tên thành “Chí Phèo”.
“Chí Phèo” xoay quanh bi kịch của người nông dân trước cách mạng tháng 8, khác với Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, Nam Cao không đi sâu vào bi kịch về mặt vật chất mà các nhân vật phải chịu đựng, ngược lại nhà văn đi sâu, khai thác bi kịch tinh thần đầy đau đớn của Chí Phèo. Đó là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, sinh ra là một con người nhưng không được mọi người công nhận.
Chí Phèo được xem là nhân vật điển hình trong tác phẩm, người đại diện cho tầng lớp nhân dân bần cùng hóa, lưu manh hóa trước cách mạng tháng Tám.
Cả cuộc đời của Chí Phèo là một con số 0 tròn trĩnh, không cha, không mẹ, không nhà, không cửa, không một tấc đất cắm dùi. Ngay từ khi sinh ra, cha mẹ đã không nhìn nhận hắn, cuốn hắn vào chiếc váy đụp rách, bỏ hắn ở cái lò gạch bỏ không, vắng người qua lại, may mắn thay một anh đi thả ống lươn nhìn thấy hắn, từ đó Chí lớn lên nhờ bát cơm của bác Phó cối và sự cưu mang của cả dân làng Vũ Đại. Năm 18 tuổi Chí Phèo làm canh điền cho nhà lý Kiến.
Khi làm canh điền cho nhà lý Kiến, Chí vốn là một anh nông dân hiền lành, chăm chỉ, hắn cũng đã từng mơ về một gia đình nhỏ bé, hạnh phúc, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải nuôi tằm, rồi chúng bỏ một con lợn làm vốn, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Cuộc đời vốn không công bằng, thân phận nô lệ đâu để cho Chí Phèo được yên, bởi thói dâm dục của bà ba nhà lý Kiến, cùng tính ghen tuông của ông ta mà Chí Phèo bị đẩy vào tù, để rồi 7, 8 năm sau ra tù Chí Phèo đã thay đổi cả nhân hình lẫn nhân tính.
Trở về làng Vũ Đại sau một thời gian dài không ai nhận ra Chí, cái đầu thì trọc lốc, răng cạo trắng hơn, cái mặt đen, lại rất cơng cơng. Hắn mặc cái quần nái đen, cái áo tây vàng, trên người đầy những nét chạm trổ, rồng phượng, lại có cả hình một ông tướng cầm chùy trông rất gớm chết. Không chỉ thay đổi ngoại hình, mà Chí còn thay đổi cả nhân tính. Mới về hôm trước, hôm sau đã thấy hắn ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa đến chiều, khi đã say hắn tìm đến nhà Bá Kiến gây sự, rạch mặt ăn vạ. Và cũng chỉ vì cơn say ấy, Chí Phèo đã bị Bá Kiến lợi dụng biến Chí Phèo trở thành tay sai đắc lực của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu câu chuyện Nam Cao bắt đầu bằng tiếng chửi của Chí Phèo, bao giờ cũng vậy say là hắn chửi. Hắn chửi trời, chửi đất, chửi cả dân làng Vũ Đại nhưng chẳng ai đáp lại tiếng chửi của hắn. Tiếng chửi của Chí Phèo thể hiện sự giao hòa, giao cảm, sự khát khao được sống với mọi người. Nhưng đáp lại tiếng chửi của Chí Phèo là tiếng của ba con cho giữ, điều đó chẳng khác nào Chí Phèo đã bị đánh tụt từ hàng con người xuống hàng con vật.
Đọc tác phẩm ta tưởng rằng cuộc đời của Chí Phèo sẽ trượt dài trên con dốc của sự tha hóa và biến chất, nhưng với tấm lòng nhân đạo của mình Nam Cao không hề hắt hủi nhân vật của mình. Ngược lại ngòi bút của ông dành cho nhân vật nồng nàn yêu thương, ông đã tìm ra lối thoát cho Chí Phèo, khơi gợi khát khao được làm người nơi Chí bằng cách cho Chí gặp Thị Nở. Ban đầu chí đến với Thị chỉ bằng bản tính thú vật của một gã say rượu, nhưng nào ngờ Thị Nở chính là nguồn ánh sáng duy nhất soi sáng cho trái tim của Chí Phèo. Sau đêm ăn nằm với Thị Nở, lần đầu tiên sau những cơn say Chí hoàn toàn tỉnh táo, hắn cảm giác nắng đã lên cao, nghe thấy tiếng chim hót ríu rít, tiếng của những người đi chợ về, những âm thanh này hôm nào mà chả có, nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy những âm thanh quen thuộc này, đã chắp cánh cho ước mơ về một gia đình nhỏ trước kia của Chí Phèo quay về. Đọc đến đây ta bỗng nhớ đến tiếng sáo trong đêm tình mùa xuân trong tác phẩm “Vợ Chồng A Phủ” của Tô Hoài. Chính tiếng sáo ấy đã thôi thúc Mị khao khát sống mãnh liệt, giúp mị quên đi thực tại, đau đớn. Bỗng Chí Phèo như thấy trước tuổi già ốm đau và bệnh tật, rồi Chí Phèo bỗng cảm thấy sợ cô đơn.
May mà Thị Nở bước vào, không Chí Phèo không nên được mất. Thị Nở bước vào trong tay cắp một cái rổ, trong rổ là nồi cháo hành nóng hổi, thị múc ra bát đưa cho Chí Phèo, lúc này Chí Phèo cảm thấy yêu Thị Nở, cầm bát cháo hành trong tay Chí Phèo ăn một cách ngon lành, bởi đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho mà không cần cướp giật. Đã có ý kiến nhận xét rằng, Thị Nở chính là vị thiên sứ mà Nam Cao phái đến bên cạnh Chí Phèo. Thiên sứ ấy không có đôi cánh, nhưng có đôi bàn tay ấm áp như ngọn gió, ngọn lửa, thổi bay lớp tro tàn, thiêu đốt lớp vỏ quỷ dữ bên trong con người Chí Phèo. Bát cháo hành là chi tiết đặc biệt trong tác phẩm, nó như một liều thuốc giải độc, gột rửa lớp men rượu đưa Chí Phèo trở về làm người, với mong muốn trở về làm người lương thiện Chí Phèo tưởng rằng Thị Nở sẽ là cây cầu đưa Chí Phèo đến gần hơn với mọi người. Nhưng Chí Phèo đâu biết rằng Thị Nở và tình yêu của Thị Nở chỉ như cây cầu vồng lung linh bảy sắc, xuất hiện và biến mất sau cơn mưa. Chí Phèo chưa bước chân lên cầu thì cây cầu đã rút ván, bởi xã hội lúc bấy giờ còn quá nhiều định kiến, nên việc Chí Phèo muốn trở về làm người lương thiện còn quá nhiều khó khăn. Những lời Thị Nở trút lên đầu Chí Phèo đã cho thấy định kiến nặng nề như thế nào? Quá đau khổ Chí Phèo lại tìm đến rượu, nhưng lúc này càng uống càng tỉnh, mùi cháo hành thoang thoảng đâu đây. Quá căm phẫn uất, Chí Phèo cầm dao đi trả thù. Miệng thì nói đâm chết con đĩ Nở, con khọm già, nhưng đôi chân lại đưa Chí đến nhà Bá Kiến. Hơn ai hết lúc này Chí Phèo hiểu rằng Bá Kiến chính là người đã đẩy Chí Phèo đến ngày hôm nay, xóa tên Chí Phèo khỏi cuốn sổ của những con người lương thiện. Có lẽ trong cuộc đời tối tăm của Chí Phèo hành động vung dao kết liễu tên cáo già Bá Kiến là những giây phút rực rỡ nhất. Dù Chí Phèo đã chết nhưng câu hỏi “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất đi những vết mảnh trên khuôn mặt này”, vẫn còn để lại những nhức nhối trong lòng người đọc.
Với cách xây dựng nhân vật điển hình, độc đáo, ngôn ngữ sắc sảo, góc cạnh mang tính khẩu ngữ Nam Cao đã thành công trong việc xây dựng nhân vật Chí Phèo, với bi kịch tinh thần đầy đau đớn, khắc khoải. Hình tượng nhân vật Chí Phèo đã để lại trong lòng bạn đọc nhiều niềm xúc động và sự cảm thông sâu sắc, đối với một kiếp người cùng hơn cả dân cùng trước cách mạng tháng tám. Cùng với hình tượng chị Dậu, Anh Kha, Lão Hạc, nhân vật Chí Phèo đã khẳng định tính tất yếu phải có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống chính đáng cho con người. Cho đến ngày hôm nay những nhân vật văn học ấy vẫn là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh chúng ta phải biết yêu thương, trân trọng hơn hạnh phúc mình đang có, đồng thời phải biết cống hiến để cuộc sống tốt đẹp hơn lên.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 13
Chí Phèo là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong dòng văn học hiện thực Việt Nam đầu thế kỉ XX. Qua Chí Phèo, Nam Cao đã dựng lên bức tranh ám ảnh về vùng quê nghèo Việt Nam trước Cách mạng, nơi mà những con người hiền lành bị đẩy lui vào tới bước đường cùng mà tha hóa, trở thành những kẻ lưu manh. Và Chí Phèo được Nam Cao dựng lên là một con người như thế! Hắn trở thành một hình tượng điển hình cho lớp người nông dân nghèo đói bị bức áp vào đường trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng.
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, là kiệt tác nói của dòng văn học hiện thực Việt Nam. Nam Cao đã vẽ lên bức tranh làng quê Việt trước Cách mạng tháng Tám, nơi mà nghèo đói và những luật lệ áp chế con người, biến con người trở thành những kẻ khốn nạn, đẩy con người vào cảnh khốn cùng. Chí Phèo được sinh ra và lớn lên giữa một xã hội như thế, một xã hội mà định kiến có thể giết chết một con người và luật lệ thì được dựng lên trong tay những kẻ có quyền. Chí Phèo đã sống và bị những định kiến, luật lệ ấy áp tới đường cùng, trên con đường ấy, hắn đã tha hóa, biến thành một "con quỷ" sống của làng Vũ Đại để rồi đến khi chết, hắn vãn chỉ ở bên ngưỡng cửa được trở thành người lương thiện.
Chắc hẳn không một tác phẩm nào trong nền văn học Việt lại có một cách vào truyện đặc sắc như Chí Phèo của Nam Cao. Mở đầu câu chuyện không phải là những lời hoa mĩ, đẹp đẽ mà lại là tiếng chửi vang vọng qua từng câu trong trang sách. Tiếng chửi ấy mở ra hoàn cảnh xuất hiện của hình tượng Chí Phèo – một con người "từng lương thiện".
Chí Phèo không xuất hiện như Từ Hải rằng "Râu hùm, hàm én, mày ngài", không có một lời miêu tả hình dáng, bởi hắn xuất hiện bằng tiếng chửi trong cơn say "Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi". Sự xuất hiện của hắn thật đặc biệt! Chẳng cần một lời miêu tả hình dáng, chúng ta vẫn như thấy hình ảnh của một tên say rượu, lảo đảo cất bước và cất tiếng chửi giữa xóm làng.
Thế nhưng, không như những người say rượu bình thường hay gây sự chửi bới vô cớ khác, Chí Phèo lại chửi theo một cách hợp lý mà hợp lý đến bất thường. Tiếng chửi ấy nghe có vẻ vô lý thế nhưng lại khiến cho người đọc cảm thấy vô cùng logic, vô cùng đúng đắn với một tên say rượu đang ngất ngưởng cãi nhau với đời. Tiếng chửi của Chí bắt đầu từ trời, cái chung nhất của thế gian, nhưng "Trời có của riêng nhà nào?", thế là hắn "chửi đời", nhưng "đời là tất cả nhưng chẳng là ai". Rồi hắn lại chửi cả làng Vũ Đại, rồi chửi đứa không chửi nhau với hắn, chửi đứa đẻ ra hắn. Cái chửi của Chí Phèo cứ liên tiếp thay đổi, tưởng như vô cớ mà ta lại thấy hợp lý vô cùng. Hắn chửi từ cái chung đến cái riêng, từ cái vô cùng đến cái cụ thể. Chửi vậy mới đúng là một tên say rượu đang khật khưỡng bước đi, mong được một lời đáp trả từ xã hội, dù chỉ là một tiếng chửi, vậy mà chẳng ai quan tâm đến "không ai lên tiếng cả", chỉ bởi hắn là một "con quỷ" khiến ai cũng khiếp sợ.
Nam Cao rất thành công khi khắc họa hình ảnh Chí Phèo xuất hiện chỉ bằng một vài tiếng chửi. Nhưng chỉ thông qua đó thôi, chúng ta cũng mường tượng ra một kẻ lưu manh, khố rách áo ôm, không người thân thích, một kẻ luôn triền miên trong những cơn say mà cả xã hội xa lánh trong sợ hãi. Chỉ những kẻ như vậy mới có thể chửi đời, chửi trời, chửi cả làng mà chẳng ai hề để ý để tâm. Nhưng nhìn sâu vào trong ta mới thấy, có lẽ tiếng chửi là phương tiện giao tiếp cuối cùng của Chí với cuộc đời để hắn nhận ra là hắn đang được sống giữa xã hội chứ không phải đơn độc một mình. Thế nhưng, chẳng ai thèm đếm xỉa đến hắn, cô lập hắn vào giữa cái xã hội thu nhỏ, để hắn trở nên lạc lõng, cô đơn.
Chí Phèo đã xuất hiện đặc sắc như thế khiến cho chúng ta tò mò tự hỏi, tại sao Chí lại là người như thế? Phải chăng từ khi sinh ra Chí đã trở thành một kẻ nghiện rượu, một tên lưu manh như thế? Hay còn vì sao, vì lý do gì đã đẩy hắn đến bước đường cùng như thế?
Chí Phèo – hắn đã từng là một con người lương thiện. Có ai từng nghĩ một kẻ như Chí, một kẻ luôn "triền miên say", luôn rạch mặt để ăn vạ, luôn chửi bới xóm làng đã từng là một con người lương thiện hay chưa? Vâng, đúng là thế, đúng là Chí Phèo cũng đã từng là một người nông dân hiền lành, lương thiện như bao người nông dân nghèo ở cái làng Vũ Đại này.
Chí Phèo mồ côi cha mẹ, chẳng ai biết ai đã sinh ra hắn "Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết", bởi hắn được vứt bên một cái lò gạch cũ và được một người đi thả ống lươn nhặt được "trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cái lò gạch bỏ không". Hắn không cha không mẹ, không nhà cửa đất đai nhưng lại được lớn lên giữa vòng tay yêu thương, sự đùm bọc của xóm làng. Những điều ấy đã hun đúc lên một Chí Phèo cũng lương thiện, hiền lành với bao phẩm chất đạo đức chất phác như những người dân cày khác. Hắn lớn lên, cũng chăm chỉ làm lụng, kiếm sống nuôi thân. Hắn đi làm thuê cho Bá Kiến kiếm những đồng tiền bằng mồ hôi, bằng lao động chân tay, bằng chính sức lực của hắn. Hắn cũng như bao người trai làng hiền lành khác, có những mơ ước thật giản dị, nhỏ nhoi, được nên vợ nên chồng với một người con gái để xây lên "một gia đình nho nhỏ" mà "chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải". Ước mơ ấy đơn giản làm sao, nhỏ bé và chính đáng làm sao. Thế nhưng, những ước mơ cỏn con ấy đã biến thành mây khói khi hắn bị đẩy vào chốn lao tù.
Là một người lương thiện lại chất phác hiền lành, hắn cũng có lòng tự trọng tự tôn như những thằng đàn ông con trai khác. Bởi vậy, lúc bị bà Ba của Bá Kiến gọi tới "bóp chân", hắn đã làm thật miễn cưỡng, "hắn thấy nhục hơn là thích". Hắn có lòng tự trọng, có ý thức về nhân phẩm của chính mình, có lẽ chính vì vậy, khi bị bắt làm cái việc không chính đáng ấy, "hắn vừa làm vừa run".
Phải, Chí Phèo vốn đã từng là một người nông dân lương thiện như bao người nông dân khác trong xã hội đương thời ấy, trong cái làng Vũ Đại ấy. Hắn có ước mơ, có lòng tự trọng, có sự ý thức về nhân phẩm, tự trọng của mình, hắn biết làm việc chăm chỉ làm lụng bằng đôi bàn tay, bằng mồ hôi, sức lao động của mình để nuôi thân và hơn hết hắn có sự lương thiện mà bất cứ con người nào từ khi lọt lòng vẫn luôn có.
Vậy mà, con người ấy đã biến đổi hẳn thành một kẻ khác từ khi phải vào tù. Hắn ra tù và trở thành một "con quỷ" khiến ai cũng phải kinh sợ, phải nín nhịn trước hắn. Ra tù, Chí Phèo thay đổi cả nhân hình, nhân tính. Liệu có ai nghĩ rằng đã từng có một Chí Phèo hiền lành, chân chất ngày xưa không?
Vậy tại sao Chí Phèo lại phải đi tù? Câu trả lời ấy đã được Nam Cao viết rõ trong tác phẩm, Chí Phèo bị Bá Kiến ghen nên đẩy vào tù. Bá Kiến ghen ghét chàng lực điền cao lớn, khỏe mạnh, thế nên đã dựng chuyện mà đẩy hắn vào tù. Và cuộc sống trong chốn nhà tù thực dân đã biến hắn từ một chàng trai chăm chỉ làm lụng, hiền lành thành một kẻ nghiện rượu, một con quỷ khiến ai cũng phải kinh sợ.
Chí Phèo ra tù, chẳng còn như xưa, hắn biến đổi cả nhân hình, nhân tính của con người. Hắn chẳng còn là chàng trai chất phác như xưa nữa mà triệt để thay đổi ngoại hình "Trông đặc như thằng săng đá. Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gờm gờm trông gớm chết". Không chỉ có thế, trang phục của hắn cũng toát lên sự khiếp sợ đối với người đối diện, nào là "quần nái đen với áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!". Chí Phèo đã thực sự biến đổi về ngoại hình rồi, mất đi cái nhân hình trước kia rồi. Một anh canh điền hiền lành, chất phác giờ đây lại trông "đặc như thằng săng đá" khiến cho tất thảy cả cái làng Vũ Đại "mới đầu chẳng biết là ai". Ai gặp hắn cũng dường như phải ngao ngán bởi sự thay đổi đến mức khiến người ta phải khiếp sợ của Chí Phèo.
Thế nhưng, cái nhà tù đương thời ấy không chỉ biến đổi hình dạng của Chí, biến hắn trở nên gớm ghiếc, kinh hoàng trong mắt những người nông dân nghèo mà còn thay đổi hắn triệt để về nhân tính, biến hắn trở thành một "con quỷ" của làng Vũ Đại. Xưa kia, Chí chăm chỉ làm ăn, kiếm sống bằng sức lao động bằng đôi tay của mình thì giờ đây, hắn chỉ chìm đặc trong những cơn say lướt khướt "hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt trưa đến xế chiều. Rồi say khướt …", và mỗi khi say, hắn lại cất tiếng chửi và hành cái nghề "ăn vạ" của mình. Hắn trở thành một tên lưu manh chính hiệu và "sống bằng dọa nạt hay cướp giật", bởi hắn đâu còn mục đích gì để sống hiền lành như xưa, bởi cái nhà tù ấy đã cướp đi hay đã dìm thật sâu vào bùn đen cái bản tính hiền lành ngày nào của hắn mất rồi.
Đến sau này, sau một lần ăn vạ Bá Kiến không thành và được Bá Kiến dỗ ngọt, Chí Phèo còn trở thành tay sai cho cụ Bá. Hắn cướp giật, đốt nhà, phá phách làng xóm, đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến. Và thế là cái thằng Chí Phèo kia lại càng khiến người dân làng Vũ Đại thêm xa lánh hắn. Bởi hắn đâu còn là một con người nữa, hắn đã bán linh hồn mình cho quỷ dữ mất rồi! Hắn đánh mất cả nhân hình nhân tính của mình mất rồi.
Có thể nói Chí Phèo chính là một nạn nhân trực tiếp của nhà tù thực dân, của xã hội đương thời, của bọn cường hào ác bá. Hắn là điển hình cho hình ảnh một người nông dân chân chất bị dồn ép tới đường cùng mà trở nên xấu xa, mất dần đi cái tình lương thiện bản chất con người mình. Nếu như xã hội không có những định kiến, nếu như xã hội công bằng hơn, đẹp tốt hơn thì hẳn đã chẳng có một Chí Phèo tha hóa đến mức như thế!
Phải nói rằng Nam Cao đã thực sự thành công khi xây dựng lên hình tượng nhân vật điển hình Chí Phèo luôn triền miên say và làm nghề ăn vạ. Để đến tận hôm nay, thế hệ chúng ta vẫn luôn mãi ấn tượng với hình ảnh này, để ai mỗi khi nhắc tới sự ăn vạ, lại nghĩ ngay ra hình ảnh một Chí Phèo chễm chệ với thói ăn vạ của mình.
Những tưởng cuộc đời của Chí đã dừng ở đó, dừng lại ngay khi Chí tha hóa mà trở thành một kẻ chuyên đi cướp giật của xóm làng thì không, Nam Cao đã vô cùng nhân đạo khi cho Chí một tia ánh sáng le lói để Chí có thể làm lại cuộc đời của mình. Ánh sáng đó chính là Thị Nở. Cuộc gặp gỡ định mệnh của Chí Phèo và Thị Nở đã khiến hắn thức tỉnh. Mối tình của hai con người ấy quả là hấp dẫn đặc biệt, bởi "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", thế nhưng nó lại là một tư tưởng nhân đạo cực kì sâu sắc mà Nam Cao lồng ghép vào tác phẩm để nâng nó lên một tầm vóc mới.
Chí Phèo đến với người tình của mình thật đúng với cái tên của hắn, thật hết sức … Chí Phèo. Bởi Thị Nở vốn là người phụ nữ "xấu xí, ngẩn ngơ, ế chồng", đã ngoài ba mươi tuổi nhưng vì xấu và ngẩn ngơ nên chẳng ai thèm hỏi thị làm vợ. Trong một lần Thị đi kiếm nước ngoài bờ sông rồi ngủ quên, Chí Phèo đã gặp Thị trong lúc uống say trở về nhà và cả hai đã ăn nằm với nhau. Nếu như ban đầu, Thị mới chỉ khơi lên ở Chí cái bản năng đàn ông thì sau, cái sự chăm sóc dịu dàng mà ân tình của người đàn bà ấy đã khơi lên trong Chí cái bản tình lương thiện đã bị vùi sâu dưới tận đáy. Linh hồn Chí như được thức tỉnh, trở lại thành một con người chứ không phải là một con quỷ nữa.
Bởi lần đầu tiên, sáng hôm ấy, Chí tỉnh dậy mà không say. Hắn nhận ra "trời đã sáng từ lâu", nhân ra những thanh âm quen thuộc của cuộc sống thường ngày "tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy ngày nào chả có."Lần đầu tiên sau bao năm ra tù, Chí Phèo mới được nghe thấy những thanh âm quen thuộc ấy, những tiếng cười nói, tiếng gõ mái chèo của cuộc sống lao động xung quanh, hôm nào chả có "nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy…". Hắn chợt "bâng khuâng" và thầy "lòng mơ hồ buồn". Cuộc gặp gỡ với Thị Nở như là tia chớp lóe sáng trong cuộc đời tăm tối của Chí, nó đã khơi gợi lên trong lòng Chí bao điều, cho Chí nhìn thấy rõ cuộc đời của mình. Hắn chợt thấy rằng ngày xưa "cái gì rất xa xôi", nhắc cho hắn rằng hắn cũng từng mơ ước về một cuộc sống êm đềm như thế "một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Nhưng cái mơ ước ấy đã xa xôi quá đỗi, giờ đây, hắn nhận ra cái bi kịch của cuộc đời mình, cái thực tại đáng buồn khi "tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc". Và cái tương lai ở phía kia còn đáng buồn hơn "Hắn đã tới cái dốc bên kia của cuộc đời", vậy mà chẳng có ai bầu bạn, chẳng có gì để nuôi thân, và sớm thôi "hắn đã như trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc". Bao năm nay, Chí chưa từng một ngày tỉnh táo để nhận ra những cái đó, bởi hắn "bao giờ cũng say", thì hôm nay lần đầu tiên trong đời, hắn đủ tỉnh táo mà ý thức được số phận của mình.
Nếu như trước kia, Chí Phèo sống trong vô thức, thì hôm nay, Chí Phèo đã đủ tỉnh táo mà nhận thức được, bởi vậy hắn có những cảm xúc rất đời, rất thường như bao người khác là cái sợ về tuổi già và sự ốm đau, sự cô độc. Ngày trước, hắn là một con quỷ "sống bằng dọa nạt và cướp giật" thì giờ đây trong thâm tâm hắn bừng lên những cảm xúc đời thường, những mơ ước đời thường, phải chăng, sự lương thiện trong hắn đang trở về với hắn?
Và khi thấy Thị Nở bưng bát cháo còn bốc hơi tới trước mặt, hắn "rất ngạc nhiên" và thực sự xúc động "bởi lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho". Hắn nhận bát cháo từ tay Thị nở và bỗng nhận ra rằng "cháo hành ăn rất ngon". Bởi bát cháo ấy không chỉ được nấu bằng gạo bằng hành mà còn được nấu bởi hương vị của tình yêu tình người, của yêu thương chân thực và hạnh phúc giản dị, và tất cả những cái đó lần đầu tiên Chí Phèo được cảm nhận. Bởi vậy mà "hắn thấy mắt hình như ươn ướt", một nỗi xúc động nghẹn ngào. Ai có thể nhận ra đó là cái thằng Chí Phèo vẫn thường rạch mặt ăn vạ, đập đầu giờ đây lại có thể hiền lành đến như thế? Hắn đã thực trở lại là anh canh điền lương thiện ngày nào, anh nông dân với ước mơ giản dị mà khiêm nhường ngày nào. Giọt nước mắt còn thấp thoáng trên mắt Chí có lẽ chính là giọt nước mắt hạnh phúc mà người ta vẫn hay nói. Giọt nước mắt ấy đời thường vô cùng, con người vô cùng.
Như vậy, có thể thấy, chính lòng yêu thương, tình người chân thật đã kéo Chí Phèo trở lại cái bản chất đẹp đẽ của người nông dân lao động – cái bản chất đã bị vùi lấp tận sâu bởi bọn cường hào và xã hội thực dân. Có thể nói, linh hồn của người nông dân nghèo Chí Phèo đã bị cướp đi bởi bầy lũ cường hào, thực dân trong xã hội, chúng muốn biến hắn trở thành cái công cụ để chúng sai khiến. Thế nhưng, giờ đây, Chí đã thức tỉnh thực sự rồi, cái lương thiện ẩn sâu tận con người hắn đã trở về rồi, và hắn lại khao khát một lần nữa được trở thành một con người như xưa. Tình yêu đã thức tỉnh hắn, "hắn thèm lương thiện", hắn muốn được quay lại hòa nhập với mọi người. Hắn đã mơ tưởng đến cuộc sống mà chính Thị là người sẽ mở đường cho hắn và hắn sẽ được nhận vào "cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Chí Phèo đang mong chờ ngày được trở lại, hồi hộp trong hy vọng được trở lại làm người.
Có lẽ Nam Cao không phải một lần viết về sức mạnh của tình yêu. Tình yêu có thể biến con người ta trở lên tốt đẹp hơn cho dù tình yêu ấy có bị chế giễu, những con người trong tình yêu ấy bị cả xã hội hắt hủi. Chỉ cần họ tìm thấy ở nhau tình cảm chân thành, sự sẻ chia đồng cảm thì chắc chắn, tình yêu chân chính sẽ đưa họ đến với những điều tốt đẹp hơn. Chính như Thị Nở - người đàn bà xấu xí ấy cũng đã khơi gợi lên linh hồn con người từ một con quỷ dữ mang tên Chí Phèo. Đó là một tư tưởng nhân đạo vô cùng sâu sắc mà chỉ có ngòi bút của Nam Cao mới đủ sức truyền tải.
Thế nhưng, Nam Cao cũng dựng lên một câu chuyện về Chí Phèo không chỉ có vậy mà còn có những tình tiết biến hóa thật bất ngờ. Hai lần, người đọc cứ tưởng đã kết thúc câu chuyện về cuộc đời của Chí Phèo thì Nam Cao lại một lần nữa mở ra những tình huống mới.
Có nhiều người cho rằng cuộc đời Chí Phèo là một bi kịch của số phận, của tạo hóa trêu ngươi thì có lẽ vẫn chưa hoàn toàn chính xác. Bởi lẽ, cuộc đời của Chí phải nói là bi kịch thực sự thì phải là khi hắn đã thức tỉnh, mong muốn được làm lại cuộc đời, khao khát một cuộc sống lương thiện thì lại bị cự tuyệt thật lạnh lùng: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người.
Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo đã mở lời với Thị "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui", một lời tỏ tình thật đáng yêu quá đỗi. Bởi Chí tưởng rằng Thị sẽ dẫn Chí vào cuộc sống đời thường, cho Chí một gia đình nho nhỏ như mơ ước của Chí ngày xưa nhưng không. Định kiến của xã hội mà tiêu biểu ở đây là bà cô Thị Nở đã tước đi của hắn cái quyền làm người ấy. Bà cô Thị là một kẻ không chồng, đã ngoài năm mươi tuổi và khi thấy Thị hỏi bà về cái việc ấy, bà đã một mực ngăn cản Thị đến với Chí Phèo "Ngoài ba mươi tuổi… ai lại còn đi lấy chồng", "Đàn ông đã chết hết cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ?".
Chính cái định kiến xã hội, định kiến cổ hủ về một người đàn bà đã qua tuổi lấy chồng không được lấy chồng nữa, định kiến về một người không cha mồ côi mẹ, định kiến về một kẻ xấu thì mãi mãi không thể tốt lên được đã cướp đi của Chí tất cả những hy vọng vừa le lói, đẩy hắn vào tận cùng của bi kịch cuộc đời.
Từ khi Thị Nở đến và "trút vào hắn tất cả những lời của bà cô" rồi "ngoay ngoáy cái mông đít đi về" thì hắn mới chợt hiểu ra rằng cái xã hội kia sẽ chẳng bao giờ công nhận mình. Ban đầu, hắn còn "ngạc nhiên", còn bỡ ngỡ không hiểu tại sao Thị lại từ chối hắn sau khi đã ân cần lo lắng, chăm sóc cho hắn đến thế. Thế rồi, "hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người". Từ lúc ấy, hắn gần như tuyệt vọng, bởi hắn đã hi vọng quá rằng hắn sẽ được thu nhận bởi cái xã hội ngoài kia, nhưng không, bị Thị Nở cự tuyệt thì cái xã hội ấy cũng sẽ cự tuyệt hắn như thế mà thôi. Hắn sẽ chẳng còn đường nào mà trở lại nữa!
Trong cơn tuyệt vọng đầy đau khổ, Chí lại tìm đến với rượu, bởi chỉ có rượu mới giúp hắn trở lại là hắn, là một con quỷ, "là một kẻ mạnh". Thế nhưng, càng lạ là hôm nay, hắn "càng uống lại càng tỉnh ra". Có lẽ là hắn say nhưng nếu như mọi lần, hắn quên hắn thảy tất cả mọi thứ xung quanh mình, cũng chẳng ý thức được nỗi đau khôn cùng của mình thì hôm nay, sau khi đã tìm lại được nhân tính con người, hắn mới nhận ra, mới hiểu được cái số phận đắng cay của mình mà thấm thía nó. Những giọt nước mắt của Chí Phèo lại lần nữa xuất hiện "hắn ôm mặt khóc rưng rức", thế nhưng chẳng còn là giọt nước mắt hạnh phúc trong yêu thương mà là giọt nước mắt của tận cùng đau khổ. Hắn khóc cho cuộc đời tăm tối của hắn, hắn vùng vẫy trong đám bùn lầy đen tối, muốn thoát ra, muốn trở lại với một "xã hội công bằng và thân thiện của những con người lương thiện" để được sống, được làm người lương thiện một lần nữa nhưng chẳng ai cho hắn cái quyền ấy, tất cả mọi người. Những định kiến của xã hội đã giết chết đi linh hồn một con người như thế, tước đoạt đi của con người ấy mọi thứ mà hắn có được, vùi hắn xuống tận sâu của bùn đen.
Lần uống rượu này của Chí, hắn lại như mọi lần lảo đảo và xách dao đi, ban đầu hắn lẩm bẩm tự nhủ phải đi "đâm chết cả nhà nó (Thị Nở), đâm chết con khọm già nhà nó". Hắn cứ lảm nhảm, "cứ đi, cứ chửi, cứ dọa giết nó", nhưng "nó" là ai? Lúc này, sau khi tỉnh ra, Chí Phèo mới thấm thía hơn bao giờ hết cái kẻ đã đẩy hắn đến bước đường ngày hôm nay, có lẽ chính thế nên hắn "cứ đi", nhưng chẳng rẽ vào nhà Thị Nở mà lại xông vào nhà cụ Bá. Trước mặt Bá Kiến, Chí Phèo "trợn mắt, chỉ vào mặt" lão mà dõng dạc lên tiếng đòi quyền làm người, quyền lương thiện, đòi lại khuôn mặt đã bị rạch nát của mình.
Những kẻ bị dồn đến đường ác một khi đã thức tỉnh trở về thì chẳng thể ác được nữa, bởi họ đã ý thức được nhân phẩm của mình, họ không thể chấp nhận kiếp sống của thú vật được nữa. Và Chí Phèo cũng vậy. Chí Phèo chết sau khi đâm chết kẻ đã gây ra nỗi đau khổ của cuộc đời mình, hắn chết trước ngưỡng cửa được trở lại cuộc sống, chết trong tâm trạng đầy bi kịch, đầy đau đớn. Nếu như trước đây, để được sống, Chí Phèo phải bán mạng, bán linh hồn cho quỷ dữ thì giờ đây, nhân phẩm trở về, hắn quyết liệt giữ lại linh hồn lương thiện của mình. Có nhiều ý kiến cho rằng Nam Cao đã thật tàn nhẫn khi cho Chí Phèo chết đi, thế nhưng, phải thật hiểu Nam Cao thì mới nhận ra, ông thực ra đã vô cùng nhân đạo khi cho Chí Phèo kết liễu cuộc đời mình như vậy. Bởi nếu hắn còn sống tiếp, thì hắn vĩnh viễn phải chịu kiếp cô độc, phải chịu đựng bi kịch khốn khổ của cuộc đời mình, chết đi, có lẽ hắn sẽ thanh thản, và có thể sẽ lại được trở về làm một người lương thiện lần nữa.
Chí Phèo chết quằn quại giữa vũng máu, giữa niềm đau khổ vô hạn, và giữa khát khao thống thiết được trở lại làm người không thành. Câu hỏi cuối cùng của hắn với Bá Kiến, vừa đanh thép, vừa bi phẫn xót xa, khiến cho ai nghe xong cũng chẳng khỏi day dứt "Ai cho tao lương thiện?", ai cho hắn được một lần nữa là một con người, được sống một cuộc sống con người?
Cái chết của Chí Phèo và hành động giết chết Bá Kiến không chỉ mang một lớp ý nghĩa. Qua hành động giết chết Bá Kiến, Nam Cao như muốn nói rằng đây là một sự trả thù bằng máu, bởi chính những kẻ cường hào lọc lõi như Bá Kiến là những kẻ đã đẩy những người nông dân vào tăm tối, vào bước đường cùng tuyệt vọng, phải bán linh hồn cho quỷ dữ để được sống. Và một khi người nông dân ấy lấy lại được ý thức về nhân phẩm của mình, về quyền sống của mình thì chính chúng là những kẻ phải nhận lấy sự trả thù, nhận lấy cái chết đầu tiên. Còn cái chết của Chí Phèo, hắn đã chết bên ngưỡng cửa của cuộc sống lương thiện, đó là bi kịch của những người nông dân mong muốn có được một cuộc sống yên ổn, được hòa nhập với xã hội, được yêu thương nhưng lại bị cả xã hội cự tuyệt, đẩy đến đường cùng, đến cái chết.
Nam Cao đã vô cùng thành công khi khắc họa hình ảnh của Chí Phèo từ một người nông dân hiền lành bị tha hóa mà trở thành một con quỷ. Ông cũng thành công khi xây dựng những xung đột mâu thuẫn gay gắt giữa các tầng lớp trong xã hội để đặt nhân vật vào trong đó, vừa làm rõ nội tâm nhân vật vừa đẩy cao cao trào của câu chuyện, vừa làm rõ mâu thuẫn sâu sắc giữa họ. Ông đã dựng lên hình tượng Chí Phèo trở thành điển hình cho người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, vùng vẫy trong bùn lầy tăm tối, bị áp bức tới không còn hình dáng con người.
Ít có nhà văn nào có được cái nhìn đầy tinh tế và sâu sắc như Nam Cao, bởi ông xây dựng lớp nhân vật nào cũng đều thể hiện trong đó tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình, đặc biệt là nhân vật Chí Phèo này. Ông đã phản ánh được nỗi đau khổ và bi kịch cuộc đời của con người ấy và lý giải nó hết sức cặn kẽ và thấu đáo. Qua bi kịch của người nông dân, ông lên án chế độ phong kiến nửa thực dân với những định kiến hà khắc, với những kẻ cầm quyền ác độc đã khiến cho con người chẳng thể có được hạnh phúc dù là nhỏ nhoi. Ông cũng lên tiếng kêu cứu cho số phận những người dân nghèo, thấp cổ bé họng đầy đau khổ ấy, muốn họ được sống một cuộc sống lương thiện và hạnh phúc.
Chí Phèo là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam, đặc biệt là hình tượng nhân vật Chí Phèo – một nhân vật đã trở thành điển hình trong dòng văn học hiện thực. Nam Cao thực đã thành công khi xây dựng tâm lý nhân vật một cách xuất sắc với nghệ thuật cấu tứ câu chuyện rất linh hoạt. Ngòi bút của ông đã điển hình hóa nhân vật Chí Phèo để đến hôm nay nhắc đến Chí Phèo, người ta lại nhớ ngay tới người nông dân nghèo, đau khổ khi bị tha hóa thành những kẻ lưu manh trong xã hội Việt Nam trước khi Cách mạng thành công.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 14
Giai đoạn những năm trước Cách mạng tháng 8 là thời kỳ vô cùng đen tối trong lịch sử dân tộc, trong đó số phận của những người nông dân dưới ách thống trị của thực dân phong kiến đã trở thành đề tài được nhiều nhà văn đương thời chú ý và khai thác tập trung, triệt để. Nổi bật trong số đó, phải kể đến các tác giả như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan với Tinh thần thể dục 1, 2, hoặc Kim Lân với Vợ Nhặt,... Nhưng có lẽ chưa bao giờ người ta lại thấy số phận người nông dân đau đớn, tuyệt vọng đến tột cùng như trong các tác phẩm của Nam Cao, một nhà văn có lối viết lạnh lùng, chân thực đến trần trụi của nền văn học hiện thực Việt Nam. Chí Phèo là một nhân vật điển hình và gây ấn tượng mạnh mẽ trong văn đàn với số phận trái ngang và những bi kịch đớn đau tàn phá cả thể xác lẫn tâm hồn, từ chuyện bị lưu manh hóa, cho đến bị tha hóa thành con quỷ dữ, rồi cuối cùng đớn đau nhất là bi kịch bị từ chối quyền làm người.
Bi kịch của Chí Phèo có lẽ đã bắt đầu từ khi hắn mới lọt lòng mẹ, một đứa trẻ đỏ hỏn bị người ta bỏ rơi bên cái lò gạch cũ trên người chỉ quấn độc một cái váy đụp cũ, có biết bao nhiêu đáng thương và xót xa cho một kiếp người mới khởi đầu đã đầy đau thương? Hắn được đặt cho một cái tên dẫu đơn giản nhưng nhiều ý nghĩa, phải tên hắn là Chí, một cái tên hiền lành, đáng yêu biết bao. Đứa trẻ tội nghiệp ấy cũng chẳng có lấy nửa phần may mắn là được một gia đình tử tế nhận nuôi, mà bị truyền tay hết từ người này sang người khác, rồi cuối cùng lớn lên trong cái nôi nghèo khó của làng Vũ Đại. Thế rồi Chí cũng lớn lên yên ổn, trở thành một chàng trai khỏe mạnh, hiền lành, chất phác, tu chí làm ăn, trở thành anh canh điền cho nhà Bá Kiến, kiếm sống bằng chính mồ hôi công sức của bản thân. Không chỉ vậy con người anh còn nổi bật với những ước mơ dẫu giản dị nhưng cao đẹp, Chí ao ước có một mái ấm hạnh phúc, chồng làm ruộng vợ dệt vải, có mảnh vườn xinh, có vài con lợn. Đó không phải là mơ ước gì quá cao xa bồng bột, nhưng có lẽ đối với cuộc đời của chàng trai hơn 20 tuổi đầu này lại là một thứ viển vông, thậm chí còn là căn nguyên dẫn đến những tột cùng bi kịch. Điều ấn tượng thứ hai về con người hiền lành, chất phác này ấy là tấm lòng tự trọng, biết giữ liêm sỉ, trước sự ve vãn mời gọi của bà ba - vợ Bá Kiến, nhưng một chàng trai đang độ tuổi thanh xuân là Chí lại chẳng hề có chút suy chuyển, Chí chỉ thấy nhục nhã. Cái lương tâm con người không cho phép anh làm chuyện bại hoại ấy, dù là về thể xác hay cả về những lợi ích tiền tài khác, trong tâm hồn anh hiện lên một triết lý rất đáng để người ta trân trọng yêu thương rằng “Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. người ta không thích cái gì người ta khinh”. Thế mà, lẽ sống lương thiện, sạch sẽ ấy lại phải chịu cái kiếp vùi dập dưới ách thống trị của chế độ tàn ác, thực dân nửa phong kiến bởi chính cái lòng lương thiện của mình.
Từ Chí biến thành Chí Phèo, cũng chỉ bởi cái xấu xa đê tiện của lũ người thống trị, một người đàn bà đa dâm, lăng loàn, một người đàn ông sợ vợ, bất lực là Bá Kiến chẳng biết trút cái sự ghen tức, phẫn nộ của mình vào đâu ngoại trừ anh canh điền tội nghiệp. Và thế là Chí nghiễm nhiên được ban cho cái tội ăn cắp, ăn trộm, rồi bị tống thẳng vào tù 7, 8 năm trời, dở sống dở chết với lũ quan sai. Nhưng nó đâu phải là một cái nhà tù bình thường cho người ta cơ hội được sống, được cải tạo, mặc dù Chí cũng chẳng làm gì sai. Mà cái nhà tù ấy đã đày đọa, nhào nặn biến con người ta thành một kẻ ghê gớm, bặm trợn, biến Chí thành Chí Phèo, biến một người từ biết tự trọng, liên sỉ thành một kẻ lưu manh, suy đồi về đạo đức, cũng chẳng thèm biết đến tự trọng là gì nữa. Còn đâu một chàng trai độ hai mươi tuổi sung sức, trẻ trung mà giờ đây người ta chỉ thấy ái ngại, khiếp sợ trước một con người có dáng vẻ khác thường, khác người “trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Người ta đã không còn nhận ra anh canh điền hiền lành, chất phác ngày xưa nữa, mà trước mắt chỉ thấy một kẻ trông đặc như lưu manh, và rồi người ta lại càng chắc chắn điều đó hơn khi chứng kiến hắn uống rượu ăn thịt chó ở ngoài chợ suốt từ trưa tới chiều. Đến lúc đã say khướt thì chân nam đá chân chiêu mò đến nhà Bá Kiến vừa đi vừa chửi, không ai dám tiếp hắn hay chửi lại, thành thử ra người ta thấy xuất hiện một hình ảnh bi hài, người chó xướng ca khi “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!”. Rồi người ta còn bất ngờ hơn khi thấy thằng say rượu ấy sống chết lăn vào đánh nhau với Lý Cường con trai của Bá Kiến, đánh không lại thì nằm lăn ra ăn vạ, và ăn vạ một cách vô cùng cực đoan ghê rợn. Chí Phèo đập nát vỏ chai rồi tự rạch mặt mình, máu me chảy bê bết, sẵn sàng lên giọng thách thức với Bá Kiến “Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đây thôi”. Như thế có thể thấy rõ rằng, Chí Phèo đã hoàn toàn bị tha hóa về nhân cách trở thành một kẻ lưu manh chính hiệu, cực đoan và ghê gớm
Thế nhưng, những tưởng sự liều mạng và ngoại hình kinh khủng của Chí sẽ khiến Bá Kiến sợ, nhưng trái lại nó lại trở thành món lợi cho kẻ gian xảo lọc lõi như Bá kiến, bởi vốn dĩ ông ta đã quá hiểu và quá quen với những kẻ như Chí Phèo. Sự u mê, ít học của Chí đã khiến hắn trượt dài trên con đường tha hóa nhân cách vào mức đường không thể vãn hồi. Bá kiến chỉ bằng vài lời ngon ngọt, êm tai, thêm vài đồng tiền đã có thể dỗ dành Chí Phèo trở thành tay sai cho mình, thay mình đâm thuê chém mướn, trở thành con qủy dữ của làng Vũ Đại. Còn đắng cay thay Chí Phèo lại không hề nhận ra mình đang tiếp tay cho kẻ thù, đang tiếp tay cho cái ác, mà vẫn ngày ngày bán lẻ nhân cách để lấy vài đồng bạc uống rượu triền miên hơn chục năm trời. Để rồi trong tầm mắt của làng Vũ Đại, Chí đã trở thành một con gì ấy rất lạ, không phải một con người có nhân tính mà là một gương mặt “vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo”. Đọc mà thấy xót xa cho một kiếp người chẳng được làm người, mà lại được xem như một “con vật lạ”, từ một kẻ vốn chỉ ham rượu chè đến một kẻ triền miên trong những cơn say dài, “cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận” Suốt 15 năm, nhưng đời người có được bao nhiêu cái 15 năm ấy, Chí Phèo đang tự tay chôn vùi cuộc đời mình với sự ủng hộ tuyệt đối của bè lũ thống trị phong kiến tay sai, thật xót xa và đau đớn. Rượu đã dẫn lối cho Chí lao vào những cuộc thanh trừng mà Bá Kiến chỉ đạo, biết “bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!”, rồi riết hắn nghĩ đó chính là cuộc đời mình. Nhưng người ta vẫn có thể nhận ra rằng, Chí Phèo dẫu có tha hóa, lưu manh hóa thì hắn vẫn khao khát được giao tiếp lắm, nhưng cái cách giao tiếp của hắn làm người ta ngày càng sợ và xa lánh. Hắn chửi trời, đất, chửi tất cả và “chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo?”, để khiến hắn đớn đau, lay lắt trên đời hơn 40 năm ròng rã. Cuối cùng thì chẳng ai thèm quan tâm đến cái thằng chuyên chửi ấy, người ta chỉ cốt sao tránh cho thật xa, Chí Phèo phải nhận bi kịch thất bại trong giao tiếp, bị từ chối quyền làm người trong cô độc và tuyệt vọng.
Có lẽ bi kịch của Chí chỉ dừng lại ở đấy thôi, nhưng không cái xã hội thối nát này nó không dồn con người ta vào đường cùng thì có lẽ vẫn không chịu buông tha. Cuộc gặp gỡ với Thị Nở, chính là bước ngoặt lớn nhất trong đời Chí, kể từ cái ngày hắn bị tống vào tù. Người đàn bà xấu đau xấu đớn ấy, lại đem đến cho Chí những nhận thức sáng sủa về thế giới xung quanh, đó là tiếng chim hót ríu rít, tiếng người nói chuyện cười đùa, và cả thứ ánh sáng mặt trời qua vách nứa mà có lẽ gần 20 năm qua hắn chẳng hề ngó ngàng tới. Sau khi nhận thức được sự sống ngoài kia, hắn mới nhìn lại cái thân thể yếu ớt, rã rời của mình, hắn chợt nhận ra mình đã bước sang hẳn bên kia con dốc của cuộc đời trong vô thức. Rồi Chí Phèo cũng dường như dự đoán được tuổi già ốm yếu, bệnh tật và sự cô độc. Hắn còn sợ cái đói cái rét hơn cả sự cô đơn, bởi vốn dĩ hắn đã cô đơn lắm rồi. Những lời tình tứ, ân cần và bát cháo hành nóng hổi của Thị Nở đã làm bùng cháy dậy những khao khát hạnh phúc, khao khát được quay về cuộc đời lương thiện, làm sống lại những mơ ước thời trai trẻ “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!(...). Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện…”.. Sau ngần ấy năm bê tha, cuối cùng cái tâm hồn thiện lương, đã quay trở lại với Chí, hắn khóc vì xúc động trước cái tình người của Thị Nở, rồi sau đó là tình yêu với thị, và những mong ước có lẽ sẽ trở thành hiện thực. Và Thị Nở sẽ trở thành cầu nối dẫn hắn về với cuộc sống bình thường, được hưởng hạnh phúc và hắn lại như xưa, sống chan hòa trong vòng tay yêu thương của làng Vũ Đại.
Nhưng trời nào có chiều lòng người, chỉ một câu nói chua ngoa gay gắt của bà cô, người đàn bà ế chỏng trơ, thấy cháu gái có chồng thì liền không cam lòng, và sự dở hơi của Thị Nở đã hoàn toàn chặt đứt mọi hy vọng của Chí, đẩy hắn vào vực sâu không lối thoát. Khiến hắn nhận ra sự thật nghiệt ngã rằng xã hội và những định kiến sẽ chẳng bao giờ cho hắn làm lại từ đầu, không bao giờ. Việc Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát có thể xem là một cái kết hợp lý nhất cho những bi kịch chất chồng của nhân vật. Là minh chứng cho sự quay lại của tính người, bản chất lương thiện bất diệt trong tâm hồn Chí Phèo, đồng thời cũng là nhận thức của Chí về bộ mặt của những kẻ cầm quyền, mà chỉ khi tiêu diệt chúng thì bi kịch mới kết thúc triệt để.
Chí Phèo của Nam Cao là một tác phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất cho nền văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng. Phản ánh sâu sắc số phận cùng khổ của người nông dân trong xã hội cũ và sự tàn ác, vô nhân đạo của giai cấp thống trị đã đẩy con người ta vào bước đường tha hóa, bi kịch đến tột cùng. Bên cạnh đó một giá trị không kém phần quan trọng của tác phẩm đó chính là bộc lộ được vẻ đẹp bất diệt của tấm lòng lương thiện, tình người còn ẩn sâu trong tâm hồn nhân vật, dẫu rằng nó có bị giày vò, chà đạp bởi đủ thứ bất công.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 15
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Trong suốt sự nghiệp cầm bút của mình, ông luôn có những trăn trở, nghĩ suy về sống và viết. Mỗi tác phẩm của Nam Cao đều hướng về con người, vì con người, và với ông, đỉnh cao của sự sáng tạo là những cái mới mẻ, ông từng viết: "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái gì chưa có". Có lẽ chính bởi những quan niệm nghệ thuật chân chính ấy mà Nam Cao đã cho ra đời hàng loạt những tiểu thuyết, truyện ngắn thành công, đánh đấu tên tuổi của mình trên văn đàn văn học.
Truyện ngắn "Chí Phèo" là tác phẩm xuất sắc cho thấy được tài năng nghệ thuật trong ngòi bút điêu luyện của nhà văn, đồng thời qua đó phản ánh được số phận con người với tấn bi kịch đau đớn nhất- bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Nhân vật Chí Phèo là nhân vật tư tưởng của tác phẩm.
Chí Phèo xuất hiện trong tác phẩm với tiếng chửi đời, chửi người một cách bất cần. Hắn chửi mà chẳng ai màng quan tâm, để ý tới, tiếng chửi chứa đựng cả những sự xót xa, cả đau thương và tủi nhục. Phải chăng Chí cũng đang khát khao có được sự quan tâm, lời hỏi han từ ai đó, nhưng chẳng một ai, chẳng một ai trong cái làng ấy thực lòng để tâm đến Chí. Tiếng chửi chua chát ấy mở đầu cho câu chuyện thương tâm về cuộc đời Chí.
Chí Phèo vốn sinh ra đã bất hạnh, thiếu thốn sự yêu thương, tình thân gia đình. Hắn được một người đi thả ống lươn thấy với bộ dạng trần truồng đặt trong cái váy đúp nơi lò gạch cũ bỏ không nhặt về rồi đem cho một bà goá mù. Trớ trêu thay, mụ lại bị đem bán cho phó côi, một người già mà không có con. Khi bác phó côi chết đi, Chí lại sống một thân một mình, bơ vơ.
Cuộc đời không may mắn ấy lại cứ thế vận vào con người tội nghiệp kia. Chí phải đi ở làm thuê cuốc mướn để có cái ăn nuôi sống bản thân mình, dù vậy, Chí vẫn rất chăm chỉ lại lương thiện và có lòng tự trọng. Cũng như bao người khác, Chí cũng khát khao có được bình yên trong ngôi nhà nhỏ "có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn, cày thuê, vợ dệt vải", vậy đấy, những người nông dân nghèo họ đâu mong giàu sang phú quý chỉ mong được ấm êm, tình cảm yêu thương gắn bó dành cho nhau rồi cùng nhau cố gắng mà làm ăn vậy thôi. Nhưng ngay cả đến cái ước mơ nhỏ nhoi ấy cũng xa vời với Chí, đắng cay hơn, Chí phải trải qua những bi kịch tồi tệ nhất cuộc đời.
Vào làm thuê cho Bá Kiến, vì sự lẳng lơ của bà vợ ba trẻ mà Chí Phèo phải chịu cái ghen oan của Bá Kiến. Bị đẩy vào tù tội ngót 7, 8 năm trời, Chí Phèo trở thành một con người khác, một còn người mất đi cả hình hài vốn có, mất đi cả nhân tính trước đây, giờ đây người ta xem Chí như một con quỷ dữ của làng Vũ Đại..
Chí Phèo trở về với cái ngoại hình ghê sợ: "Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”. Trong bộ dạng với chiếc quần nái màu đen, cái áo tây vàng, ngực, cánh tay chạm trỗ những rồng phượng, ai nhìn thấy cũng phải thốt lên "trông gớm chết!". Cái nhân dạng xấu xí, tồi tệ đến thế nào mà còn có tính cách hướng thiện thì người đời còn để tâm, nhưng Chí Phèo ra tù tính tình cũng đổi khác, hắn uống rượu say khướt cả ngày từ trưa tới tối, rồi vác thân đến nhà Bá Kiến làm loạn ăn vạ. Tưởng cương quyết vạch tội ác của bầy lũ thất đức kia những chỉ vài câu dỗ ngọt, vài chén rượu thừa, vài đồng bạc thuê, Chí lại xuôi lòng mà làm thuê cho hắn "Chí Phèo chẳng biết họ hàng ra làm sao, nhưng cũng thấy lòng nguôi nguôi....Vậy mà không: cái cụ bá thét ra lửa ấy lại xử nhũn, mời hắn vào nhà xơi nước. Thôi cũng hả, đã xử nhũn thì hắn vào". Tên Bá Kiến độc ác kia lại dàn xếp với ý nghĩ ngông cuồng có tính toán của hắn: " Không có những thằng đầu bò thì lấy ai mà trị những thằng đầu bò? " để dùng Chí Phèo như một tên lưu manh, đầu bò. Và Chí đã sập bẫy Bá Kiến, từ đấy hắn làm hại không biết bao nhiêu người, phá phách của cải của bao nhiêu gia đình lương thiện. Hắn châm lửa đốt nhà của mụ hàng rượu, hắn đòi nợ cho Bá Kiến rồi tự huênh hoàng: "anh hùng làng này cóc có thằng nào bằng ta!". Được nhận vài đồng bạc, vài sào ruộng, Chí càng hả hê sung sướng, rồi đâm đầu theo tên Bá Kiên gian hùng, hiểm độc. Theo thời gian, hắn cứ thế như một kẻ vô danh, không tên không tuổi, "Bây giờ thì hắn đã thành người không tuổi rồi. Ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay ngoài bốn mươi? Cái mặt hắn không trẻ cũng không già; nó không còn phải là mặt người; nó là mặt của con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi?". Hắn không có cả thẻ biên tuổi, trong làng xem hắn là dân lưu tán, vậy mà tội lỗi của Chí nếu viết ra sớ cũng dài ngốn giấy "Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!". Đau đớn thay cái xã hội với những kẻ tàn ác, những kẻ vì lợi ích, mục đích cá nhân mà đẩy con người đến đường cùng của sự tha hoá, dạy con người đi từ tội lỗi này đến tội lỗi khác. Chí trở thành một kẻ gian ác bởi bàn tay kẻ gian ác tạo nên, Chí giờ đây không còn là Chí của năm nào nữa, Chí chẳng hề biết được rằng mình chính bây giờ lại "là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại". Người ta xa lánh, sợ hãi hắn như xa lánh một điều gì đó đáng sợ, ghê tởm.
Những tưởng rồi sẽ chẳng có ai đánh thức được phần người trong kẻ tha hoá kia. Nhưng chính trái tim yêu thương hay lòng thương hại của một cô gái xấu xí lại cho Chí cảm nhận được tình người. Chí gặp Thị Nở nơi vườn chuối khi hắn đang say khướt, sự thú vị mà hắn cảm nhận được từ một người "ma chê quỷ hờn" làm hắn "rộn rạo khắp người". Và sau cái đêm trăng sáng ấy, Chí mở mắt, cảm nhận được hết những điều xung quanh mà bấy lâu hắn không hề biết, không hề quan tâm tới, lòng hắn có chút bâng khuâng, lạ lùng: "Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc, hay là đói rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tý. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá", rồi hắn nôn nao nhớ lại những ước mơ bình dị xưa kia của mình. Bát cháo của Thị đã cứu vớt tâm hồn Chí, Chí bắt đầu thấy được thực tại quá nghiệt ngã của mình, nghĩ về một tương lai đầy những nỗi cô độc, đói rét ,ốm đau, hắn bắt đầu thấy sợ hãi, sợ hãi tột cùng. Còn biết sợ là còn có tính người, còn biết sợ mới chính là con người thực trong Chí. Chí bắt đầu hồi sinh chính mình, bắt đầu biết nhận thức về cuộc đời mình một lần nữa. Chí cảm động đến phát khóc khi bưng bát cháo trên tay, bởi từ trước tới nay miếng ăn đều do hắn cướp bóc mà có được, Thị là người đầu tiên cho hắn cháo một cách tự nguyện như thế. Chí thấy ăn năn và hối hận, Chí khát khao, nghĩ suy được làm người lương thiện, được cùng sống vui vẻ với mọi người xung quanh: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được".
Lấp lánh lương tri trong người Chí lại không thể thắng nổi sự tàn bạo của xã hội lúc bấy giờ. Chí một lần nữa lại rơi vào bi kịch. Hắn muốn được chung sống cùng Thị nhưng Thị lại cự tuyệt hắn, những lời lẽ cay nghiệt, mỉa mai nhưng là sự thực của bà cô khiến hắn càng tức giận, đau đớn. Dù đã cố gắng nhưng mọi sự đều không thể thay đổi bởi cái định kiến, nghĩ suy mà người ta gán vào trong cái nhân hình của Chí, người ta khinh sợ Chí, không chấp nhận một kẻ như Chí làm chồng. Nỗi cay đắng cuộn trào, sự căm thù càng lớn, Chí vác dao hòng giết bà cô nhưng bước chân hướng đến nhà tên Bá Kiến, bởi trong Chí lúc này đã hiểu ra rằng, kẻ đẩy hắn vào đường cùng, vào kết cục tàn nhẫn bị thảm này là tên Bá Kiến hung tàn chứ không là ai khác. Chí đã giết chết Bá Kiến, kết thúc cuộc đời đầy đau khổ, bi đát của chính mình. Một cái chết đáng thương, một cái chết để lại cho lòng người những nghĩ suy , trăn trở, cái chết tố cáo một xã hội thực dân đã đẩy những người khốn khổ vào cái chết bi thương. Đến khi chết, Chí vẫn kêu gào những tiếng xót xa: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa”. “Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không? Chỉ có một cách... biết không! Chỉ có một cách là... cái này biết không?"
Bằng việc đặt nhân vật vào hoàn cảnh điển hình, Nam Cao đã khắc hoạ nên nhân vật Chí Phèo hết sức thành công. Qua nhân vật Chí Phèo ta hiểu hơn được những khốn khổ của người nông dân trước cách mạng, thêm căm phẫn một xã hội mà ngay chính cả quyền được sống, được làm người của con người cũng bị tước đoạt.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 16
Cùng viết về đề tài người nông dân nhưng Nam Cao lại đi sâu vào khai thác bi kịch con người bị lưu manh, tha hóa. Tác phẩm tiêu biểu nhất cho mảng đề tài này của ông là truyện ngắn "Chí Phèo". Đây là tác phẩm được đánh giá như một kiệt tác của nền văn học Việt Nam hiện đại với nhân vật điển hình là Chí Phèo.
"Chí Phèo" được sáng tác năm 1941 với nhan đề đầu tiên là "Cài lò gạch cũ". Sau đó, nhà xuất bản Đời mới đã đổi tên thành "Đôi lứa xứng đôi" và khi in lại trong tập "Luống cày" Nam Cao đã đặt lại tên tác phẩm là "Chí Phèo". Truyện ngắn này đã khắc họa số phận của một con người từ anh canh điền hiền lành, lương thiện trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Không ai khác, đó là Chí Phèo.
Chí Phèo là nhân vật chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Chí có hoàn cảnh xuất thân thật đáng thương, tội nghiệp. Hắn bị bỏ rơi bên cái lò gạch cũ ở trạng thái "trần truồng và xám ngắt trong một váy đụp". Một người đi thả ống lươn nhặt được Chí rồi "đem cho một người đàn bà góa mù". Người đàn bà này "bán hắn cho một bác phó cối không con và khi bác phó cối này chết thì hắn bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ". Chí bị chính bố mẹ của mình bỏ rơi và trở thành một món hàng mang ra trao đổi, mua bán. Đến năm hai mươi tuổi, hắn đi ở cho nhà bá Kiến, một người có nguồn gốc gia đình thuộc tầng lớp thống trị. Chí Phèo mang bản chất của con người hiền lành, lương thiện. Thuở bé, Chí được nuôi nấng bởi những người nông dân chất phác. Lớn lên, Chí biết lao động để tự nuôi sống bản thân. Khi bà ba bá Kiến bắt hắn "bóp chân mà lại bóp lên trên nữa" khiến chí "thấy nhục hơn là thấy thích", thấy nhục chứ không thấy yêu đương gì. "Hai mươi tuổi, người ta không hoàn toàn là đá, nhưng cũng không toàn là xác thịt" và "người ta không thích những gì người ta khinh". Trước khi đi ở tù, Chí Phèo là một người lương thiện, có nhân cách và lòng tự trọng.
Vậy mà, sau quãng thời gian ở tù, hắn thành một người khác, một kẻ lưu manh, côn đồ. Cơn ghen vô cớ của bá Kiến là nguyên nhân đẩy Chí vào tù và trở thành con quỷ dữ làng Vũ Đại. Nam Cao đã miêu tả Chí: "Trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét trạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế". Ngoại hình ấy đã khiến mọi người thấy hắn "trông khác hẳn" và "trông gớm chết". Chí không mang bộ mặt của con người mà hắn mang bộ mặt của "một con vật lạ". Không chỉ biến dạng về nhân hình, Chí Phèo còn tha hóa cả về nhân tính. Hắn triền miên trong những cơn say, "cứ rượu xong là hắn chửi". Hắn chửi trời, chửi đời, chửi tất cả làng Vũ Đại, "chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn" và chửi cả "đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nổi này". Hắn cất tiếng chửi vì hắn say rượu, vì hắn cô đơn lạc loài giữa xã hội. Tiếng chửi của Chí tuy vô thức nhưng lại hoàn toàn có ý thức. Hắn chửi vì sự bất lực, bế tắc, chửi vì không ai thèm giao tiếp với hắn. Hắn đã bị tước đoạt quyền làm người khi sự tồn tại của hắn không được ai công nhận. Chí sống bằng nghề rạch mặt ăn vạ và trở thành tay sai đắc lực cho bá Kiến. Lần thứ nhất Chí đến nhà cụ bá để đòi món nợ máu vì hắn đã xác định được kẻ thù. Hắn hung hăng, gọi cả tên tục nhà bá Kiến ra mà chửi nhưng bằng những lời dụ dỗ ranh mãnh, bá Kiến đã mua chuộc được Chí làm tay sai cho mình. Khi bá Kiến nói Chí Phèo với lí Cường có họ hàng với nhau hắn đã tự đắc, thấy lòng cũng "nguôi nguôi". Hắn đã "phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện". Hắn làm tất cả những việc ấy trong khi say, "hắn say thì hắn làm bất cứ cái gì người ta sai hắn làm".
Tưởng chừng con quỷ dữ ấy đã mất hết đi nhân tính nhưng bản chất lương thiện chỉ bị khuất lấp đi và nó chưa hoàn toàn lụi tắt. Sự xuất hiện của thị Nở trong cuộc đời Chí như làn gió thổi vào đống tro tàn đã tắt từ lâu, thị đã khơi dậy bản chất vốn có của hắn. Cuộc gặp gỡ ấy tuy tình cờ nhưng lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với Chí Phèo. Đây là cuộc gặp gỡ kì lạ và có lẽ sẽ không xuất hiện lần thứ hai trong văn học hiện đại. Trong một đêm uống rượu say, hắn gặp thị ngủ quên khi ra sông kín nước rồi họ "ăn nằm" với nhau. Năm ngày sống với thị Nở là năm ngày Chí trở về làm một người lương thiện đúng nghĩa.Thị Nở đã làm hồi sinh, thức tỉnh Chí Phèo, tình yêu và sự quan tâm của thị khiến Chí cảm động. Chí Phèo đã thức tỉnh lương tâm, muốn làm hòa với tất cả mọi người và muốn làm một người hiền lành, lương thiện. Bát cháo hành thị Nở nấu cho Chí ăn giải cảm khiến Chí "thấy mắt mình hình như ươn ướt" bởi đây là lần đầu tiên hắn được một người đàn bà cho, là lần đầu tiên hắn "được săn sóc bởi một bàn tay đàn bà". Sau khi gặp thị Nở, Chí Phèo rất tỉnh táo và sợ rượu. Trong trạng thái ấy, Chí nghe thấy những thanh âm của cuộc sống thường ngày như tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ, anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Rồi hắn "nao nao buồn". Hắn nhớ đến ước mơ "có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải", "nuôi một con lợn làm vốn liếng", "khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Chí thấy mình già, cô độc, thấy mình đã sang cái dốc bên kia của cuộc đời. Lần đầu tiên sau bảy, tám năm ở tù về, Chí được sống với cảm giác của con người. Hắn đã ý thức được thực tại của mình: tuổi già, đói rét, ốm đau và hắn sợ sự cô đơn. Trước lòng tốt và tình thương yêu của thị Nở, Chí tỉnh táo để nhận ra thị có duyên và khi yêu thị cũng biết lườm. Lúc tỉnh táo, trông Chí rất hiền, những tính cách của một con vật đã nhường chỗ cho sự lương thiện lên ngôi. Chí khao khát có một mái ấm với thị Nở. Chí đã bộc lộ niềm ước mong ấy qua câu nói: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ"? và câu nói được coi như một lời cầu hôn, tỏ tình: "Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui". Trong văn chương hiện đại có câu tỏ tình nào chân thật và hay đến thế? Chí Phèo đã thực sự sám hối. Nam Cao đã khơi dậy lòng đồng cảm nơi bạn đọc, nhà văn khiến chúng ta nhận ra một con quỷ dữ như Chí Phèo cũng có ước mơ về hạnh phúc gia đình. Nhưng ước mơ ấy không thể thực hiện bởi định kiến xã hội đã không chấp nhận và ủng hộ đôi lứa xứng đôi này. Lời nói của bà cô thị Nở đã thể hiện rất rõ ràng điều ấy: "Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ra ăn vạ". Vì những lẽ trên mà thị Nở cự tuyệt tình yêu của Chí Phèo. Đây cũng là lúc Chí không còn nơi bám víu bởi thị đã từ chối hắn, chiếc phao cứu sinh duy nhất của cuộc đời Chí đã không còn nữa. Chí rơi vào bi kịch bị cự tuyệt tình yêu, cự tuyệt quyền làm người. Còn gì đau đớn hơn khi bị chặn đứng con đường hoàn lương? Định kiến xã hội đã đè bẹp, bóp nát khát vọng chân chính của Chí.
Hắn đến nhà bá Kiến để đòi lương thiện vì hắn biết không ai khác ngoài bá Kiến đã đẩy mình rơi vào bi kịch này. Tiếng nói đòi lương thiện của Chí đã để lại bao day dứt: "Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa". Hắn rút dao, xông vào và giết bá Kiến rồi tự sát. Cái chết của Chí là cái chết đầy tức tưởi: hắn "giãy đành đạch ở giữa bao nhiêu là máu tươi", mắt trợn ngược, mồm "ngáp ngáp", "ở cổ hắn, thỉnh thoảng máu vẫn còn ứ ra", hắn muốn nói nhưng không ra tiếng. Con đường trở về làm người lương thiện phải trả giá bằng cái chết đau đớn. Chí Phèo chết để giải thoát cho sự bế tắc của chính mình, Chí chết để đòi quyền được sống. Cái chết ấy đã lấy đi bao nước mắt, sự xót xa của bạn đọc. Chi tiết kết thúc tác phẩm là chi tiết thị Nở "nhìn nhanh xuống bụng" và "thoáng thấy hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua". Nam Cao thật tài tình khi xây dựng chi tiết này. Phải chăng, ông muốn khái quát rằng nếu xã hội vẫn còn những kẻ thống trị lừa lọc, xảo trá như bá Kiến thì cũng sẽ còn những số phận bi kịch như Chí Phèo. Và biết đâu bên cái lò gạch bỏ hoang ấy lại xuất hiện một Chí Phèo con ra đời. Chí Phèo là nhân vật điển hình cho những người nông dân bị tha hóa, biến dạng cả về nhân hình và nhân tính ở làng quê Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Nhà văn đã xây dựng nhân vật Chí Phèo bằng nghệ thuật trần thuật tự nhiên, linh hoạt và hệ thống ngôn từ đặc sắc, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của tác giả đã đạt đến đỉnh cao. Giọng điệu Nam Cao lạnh lùng nhưng luôn chan chứa tinh thần nhân đạo.
Chí Phèo là một sáng tạo độc đáo của Nam Cao, được ông xây dựng là nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ngoài ra, thông qua nhân vật này, nhà văn còn lên tiếng tố cáo hiện thực xã hội vô nhân đạo, cướp đi sự lương thiện của con người và chặn hết mọi con đường hoàn lương của họ. Đồng thời, ông cũng thể hiện tiếng nói nhân đạo sâu sắc khi lên tiếng đòi quyền sống, quyền lương thiện cho con người.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 17
Nam Cao sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo ra đời, ông mới được biết đến như một cây bút hiện thực xuất sắc. Cũng từ khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ trang viết của Nam Cao, nhân vật này đã để lại dấu ấn khó quên và nỗi day dứt, ám ảnh không nguôi trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của Nam Cao, đặc biệt là truyện ngắn Chí Phèo đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Cũng như bao nông dân nghèo khác, Chí từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Thế nhưng cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được.
Có ai ngờ anh canh điền chất phác ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Ra tù, Chí biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm được quy luật của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay đồ tể.
Với nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa: Có lẽ hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Tất cả dân làng Vũ Đại quay lưng với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt thú dữ của hắn, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng.
Đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn vẫn le lói ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Rút cục, chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại.
Những lúc tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng, Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn thực sự muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Để giành lại sự sống cho tâm hồn, Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối củng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 18
Giả sử, bạn là một người trong làng Vũ Đại, lớn lên lúc “con quỷ Chí Phèo” về làng, thì lúc đó bạn cảm nhận sao về Chí Phèo? “Một con quỷ khát máu”, chuyên rạch mặt ăn vạ! Vậy mà “con quỷ” ấy lúc trước lại là một người hết sức lương thiện và đến khi sắp chết cũng lại còn muốn trở thành người lương thiện…
Nhưng cái lương thiện ấy cũng chẳng được xã hội lúc bấy giờ dung túng. Khi Chí Phèo vẫn còn là một thanh niên thì lại bị Lí Kiến ghen tuông mà đẩy cho đi ở tù. Cũng chính bởi vì cái lí lịch “được nhặt” ở lò gạch cũ mà Chí Phèo “chẳng là gì” trong cái xã hội tàn bạo chỉ biết bốc lột, chèn ép những người nông dân bi thảm. Ở đây, Chí Phèo nói riêng, là đại diện cho tầng lớp nhân dân trước cách mạng: hiền lành, chân chất nhưng luôn bị xã hội khinh rẽ. Rồi đến khi Chí Phèo thật sự bị đẩy ra bên lề của xã hội, thậm chí gần như là ra bên ngoài xã hội, thì lúc đó hắn chẳng còn mang hình dáng của con người nữa. Trên mặt hắn đầy những vết vằn ngang vằn dọc do “rạch mặt ăn vạ”, trên cơ thể hắn không biết bao nhiêu là sẹo mà đếm.”Trông gớm chết!”…Nói đi cũng phải nói lại, chẳng khi không mà hắn lại tự biến mình thành con người như thế. Hắn bắt buộc phải làm như thế để có thể tiếp tục tồn tại được trong xã hội. Để có thể tiếp tục uống rượu say khước, chẳng biết ngày tỉnh và để tiếp tục chưởi bới. Mà tiếng chưởi của Chí Phèo cũng hay đấy chứ! Hắn chưởi trời, mà trời thì đâu có thể đáp lại lời hắn, rồi hắn lại chưởi người làng Vũ Đại, nhưng đáng tiếc thay ai cũng nghĩ rằng:”chắc hắn trừ mình ra”. Cuối cùng, hắn lôi “đứa nào đẻ ra hắn” mà chưởi. Không phải hắn chỉ chưởi cho sướng cái mồm mà thôi, mà hắn đang cay đắng nhìn lại đúng cái cuộc đời như trong lời chưởi của hắn. Chí Phèo tự chưởi rồi cũng tự nghe, đáp lại chỉ có những con chó sủa ầm lên mổi khi hắn đi qua.Vậy ra là hắn đang chưởi nhau với chó à! Suy ra cho cùng thì hắn cũng chỉ được xếp ngan hàng với mấy con chó. Xã hội thật sự đào thải hắn, không cho hắn dung thân và cũng không cho hắn có được cái cơ hội nào nữa cả.
Bắt đầu từ đó, hắn tha hóa và dần mất hết tính người. Chỉ biết mỗi chuyện: Uống rượu say, rạch mặt, ăn vạ, dọa nạt, đâm chém, xin tiền… Chính bởi những cái đó càng làm cho hắn cô độc hơn khi cơn say trong hắn cứ triền miên từ ngày nay qua tháng nọ. Trong người hắn chẳng còn máu, mà chỉ có rượu thôi, rượu chảy trong hắn và nuôi sống hắn!
Thế nhưng, trong cuộc sống vẫn còn có những nốt trầm bỏng khác nhau. Cuộc sống của Chí Phèo có một bước ngoặc lớn khi Thị Nở xuất hiện. Cái hơi hám của tình yêu mang hắn về lại với xã hội loài người. Mang men rượu ra xa Chí Phèo. Và khiến hắn khao khát có được mái ấm gia đình, một cuộc sống bình thường như bao người khác và hơn hết, hắn muốn lại trở thành một con người lương thiện… Vậy mà cái xã hội tàn bạo, không nhân tính ấy đâu có cho hắn được toại nguyện.Chỉ một bát cháo hành của Thị Nở thôi thì đâu có đủ để cả xã hội chấp nhận hắn. Nhưng ít ra, bát cháo hành ấy cũng đã khơi gợi được “nhân tính” trong hắn. Ít ra hắn cũng biết rằng hắn cần phải sống lương thiện. Hắn đã thật sự ngạc nhiên rằng đó mới chính là điều bấy lâu nay hắn khao khát muốn đạt được, đó là khát khao hạnh phúc. Khát khao được sống như một con người bình thường. Khi mà những tiếng chim hót ngoài kia cứ ríu rít vang lên bên tai hắn, tiếng cười nói của những người đi chợ rôm rả bên ngoài túp lều của hắn, và “chao ôi là buồn” …hắn đang cố hình dung về những gì mà hắn đã từng rất mơ ước. Một người vợ dệt vải, một người chồng cày thuê cuốc mướn… Vậy mà, hắn giờ đã già rồi mà vẫn chưa thể nào đạt được những mơ ước nhỏ nhoi ấy. Hắn thấy hắn buồn vô cùng. Kể từ mấy chục năm nay, có bao giờ mà hắn có được những cảm xúc buồn vui thế này đâu! Có bao giờ mà hắn ngồi ngẫm nghĩ về cuộc đời của hắn! Và lần đâu tiên, hắn được một người đàn bà cho, Thị Nở mang bát cháo hành đến cho hắn giống như mang ánh sáng của cuộc đời đến làm xua đi cái đen tối mờ mịt luôn bao vây lấy hắn. Trong lúc ấy, hắn cảm thấy ăn năng và hối hân về những tội ác mà hắn đã gây ra.Bát cháo hành nóng ấy dường như có một uy lực ghê gớm. Nó khiến cho một “con quỷ khát máu” cũng phải thấy được lỗi lầm của mình và cũng gội rửa đi thú tính của hắn. Làm hắn cảm thấy mình có được hơi thở của con người, làm hắn cảm thấy cần một bàn tay của người ta chăm sóc hắn. Là tự nguyện chứ không phải do hắn giành giật mà có được nữa. Bát cháo hành và Thị Nở đã mở đường cho hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện. Nhưng mà nào có được đâu,ngược lại, xã hội ấy chẳng những đồi bại mà còn đầy những định kiến cho cuộc sống trở thành bi kịch và lâm vào ngõ cụt. Bà cô của Thị Nở đã ngăn cản đứa cháu của mình lấy một thằng “không cha,làm nghề rạch mặt ăn vạ”. Thế là Thị tức điên lên và tìm gặp Chí để xả hết những lời của bà cô vào mặt Chí. Rồi Thị ra về và Thị hoàn toàn không biết rằng những việc mình vừa làm đã tác động đến Chí thế nào. Chí Phèo quyết định “đâm chết” bà cô của Thị Nở, thế nhưng “Tao phải đâm chết nó” của Chí Phèo lại nhầm vào Bá Kiến.Chí Phèo đã chấm dứt tất cả bằng cách giết Bá Kiến và tự sát. Tại vì hắn đã nhận ra cái nguyên nhân sâu xa khiến cho con người hắn trở nên như ngày hôm nay. Hắn đã ý thức được về hình hài cũa mình. Với cái hình hài người chẳng ra người, vật chẳng ra vật thì làm sao hắn có thể trở thành người lương thiện được đây! Hắn lắc đầu: ”Ai cho tao lương thiện…Tao không thể là người lương thiện nữa”.Ngay khi “con quỷ dữ” ấy tàn bạo nhất, lại chính là lúc cái bản chất tốt đẹp của hắn được phơi bày. Hắn đã chẳng còn được cơ hội nào nữa. Chỉ có cái chết mới giúp giải thoát hắn khỏi những bất công tàn ác đó.
Cái chết của Chí Phèo không mang câu chuyện về nơi kết thúc mà ngược lại, dường như nó chỉ mới bắt đầu thôi. Khi Thị Nở bổng dưng nhìn thấy cái lò gạch cũ thì câu chuyện đã lại bắt đầu chuyển sang một giai đoạn mới. Vậy ra, trong cái xã hội thối nát ấy, con người chỉ quanh đi quẩn lại với cái vòng tròn vô định hướng ấy. Chí Phèo này chết rồi thì sẽ lại có một Chí Phèo con xuất hiện. Đến khi nào mới hết những con người khốn khổ bị dồn đến bước đường cùng, không còn một lối thoát nào nữa.
Nhân vật Chí Phèo, từ một người nông dân hiền lành, rồi trở thành quỷ dữ, rồi lại muốn trở thành người hiền lành. Qua bao nhiêu là sự biến đổi, nhưng cái bản chất gốc gác của hắn thì vẫn tồn tại như chính con người hắn đã hiện hữu.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 19
“Chí Phèo” được viết vào năm 1941, là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài người nông dân trước cách mạng tháng 8. Đây là một trong những truyện ngắn có thể nói là nổi bật nhất trong các tác phẩm khác ra đời cùng thời và đưa Nam Cao đi lên vị trí hàng đầu trong lớp nhà văn hiện thực, phê phán xã hội vào giai đoạn 1930-1945.Tác giả đã xây dựng thành công , nổi bật hình tượng một nhân vật điển hình đó là nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch có ý nghĩa rất sâu cay vào loại tiêu biểu của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ.
Chí Phèo là một kiệt tác của nhà văn Nam Cao dựa trên cơ sở người thật, việc thật ở vùng quê của mình, ông đã hư cấu tạo nên một bức tranh hiện thực về đời sống của những người dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 với tất cả sự tăm tối, sự ngột ngạt cùng bao nhiêu là đau đớn, kinh hoàng,… Nhân vật Chí Phèo là đại diện cho bị kịch của những người nông dân bị tha hóa nhân cách trong xã hội cũ. Nhưng tất cả những nỗi khổ cực, bi đát trong cái xã hội đấy không thể làm cho những người người nông dân khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống một cuộc sống thanh bình hạnh phúc bên gia đình, vợ con. Nhưng thực ra ở bên trong con người họ lại luôn có một sự phản kháng vô cùng mạnh mẽ.
Nam Cao không đề cập đến các vấn đề về sưu thuế, tô thuế như các tác phẩm cùng thời khác mà ông có những khám phá riêng của mình về số phận của những người dân lao động khốn khổ bị chà đạp. Đó là một cái nhìn vô cùng mới mẻ, độc đáo nhưng vô cùng sâu sắc, thể hiện nỗi đau trăm chiều của những người nông dân nghèo bị áp bức trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên là ai mà có ảnh hưởng lớn đến vậy? Mở đầu tác phẩm nhà văn Nam Cao đã giới thiệu nhân vật Chí Phèo của mình một cách rất ấn tượng và lôi cuốn người đọc. Nhà văn đã để hắn ta xuất hiện trong trạng thái say rượu, không có ý thức về mọi thứ “hắn vừa đi vừa chửi”. Điều này rất là lạ bởi thông thường người ta thường chửi có đối tượng cụ thể đằng này hắn chửi tất cả những gì hắn nhìn thấy, hướng tới tất cả cuộc đời trời đất này. Lạ lùng hơn nữa khi đây không phải là lần đầu tiên xảy ra chuyện này mà đã xảy ra rất nhiều lần trước đó, nó được minh chứng qua câu nói “bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vậy tại sao Chí Phèo lại ra nông nỗi như vậy? Nhân vận của Nam cao xuất hiện đã tạo ra một ẩn số khiến người đọc vô cùng tò mò. Có người sẽ dự đoán Chí Phèo chắc phải có nỗi khổ nào trong lòng mới dùng rượu để trút hết những tâm tư, suy nghĩ ra. Và quả thực cuộc đời hắn ta hiện lên trong tác phẩm như một cuốn phim bi thảm.
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi một cách rất tàn nhẫn, có thể hiểu đơn giản như mồ côi bố mẹ, sự ra đời của hắn không được bất kỳ ai mong đợi. Hay nói trắng ra là hắn là một đứa con hoang, khi hắn sinh ra cha không thừa nhận, mẹ hắn ra thì bỏ hắn lại ở cái lò gạch cũ mặc cho sống chết, đói rét, khóc thét. Vậy là chỉ có duy nhất cái lò gạch cũ là chấp nhận sự ra đời của hắn. Khi mà hắn ta trở nên xám ngắt cả thân thể trong chiếc váy đụp mẹ hắn để lại rồi những người nông dân nghèo khổ đã nhìn thấy và nhặt hắn về nuôi. Ban đầu người nuôi hắn ta là một anh đi thả ống lươn, sau đó là một người đàn bà góa phụ rồi đến bác phó cối. Nhưng rồi khi bác phó cối chết đi Chí Phèo lại trở thành đứa bé bơ vơ, không nơi nương tựa. Những khi đói bụng muốn có cái gì đó ăn hắn phải đi hết nhà này đến nhà khác để xin miếng ăn sống qua ngày. Cuộc đời của Chí Phèo rất lênh đênh và tội nghiệp chẳng khác gì một thứ bèo dại trôi dạt từ nơi này sang nơi khác không có chỗ dung thân. Nhưng thực ra đó cũng là tình cảnh chung của những người nông dân trước cách mạng tháng 8, cuộc đời của họ cũng dập dềnh không khác gì Chí Phèo, những người đi ở đợ, nhưng người buôn thúng, bán mẹt nay đây mai đó không chỗ dung thân phải đi tha hương cầu thực ở xứ người.
Đến năm mười tám đôi mươi, số phận đã đưa đẩy Chí Phèo đến với gia đình nhà Bá Kiến. Những tưởng được bước vào gia đình giàu có là sẽ kiếm được bát cơm manh áo , không phải lo chuyện no đói hằng ngày nữa nào ngờ lại gặp địa ngục trần gian. Bởi bà vợ của Bá Kiến cứ bắt hắn bóp chân hằng ngày, khêu gợi những chuyện tế nhị, hắn tuy còn trẻ và ít tuổi nhưng bản thân hắn cũng đủ ý thức phân biệt được đâu là tình yêu chân chính đâu là thói dâm dục xấu xa, bỉ ổi. Những lời dụ dỗ đó không thể làm mất đi bản chất của Chí Phèo. Nhìn chung lúc bấy giờ Chí là một chàng trai lương thiện, tốt bụng và có lòng tự trọng. Đọc đến đây nhiều người sẽ liên tưởng đến nhân vật chị Dậu của Ngô Tât Tố đã càm đống giấy bạc để ném vào mặt tên quan bỉ ổi, đê tiện, xấu xa. Hay gần gũi hơn nữa là nhân vật Lão Hạc của Nam Cao, chính lòng tự trọng rất cao đã khiến hắn từ chối mọi sự giúp đỡ của mọi người, và cuối cùng lão cũng đã tìm đến con đường chết để giữ lại lòng tự trọng cao quý ở chính con người mình.
Nhưng sống lương thiện trong xã hội này không hê được yêu thương và quý trọng mà thay vào đó là sự lợi dụng. Bản chất lương thiện, tốt bụng của Chí Phèo đã bị chính cái xã hội thối nát lúc bấy giờ ra sức hủy hoại. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến bắt giam Chí Phèo và biến hắn từ một người lương thiện thành một con quỷ dữ.
Sau bảy, tám năm ngồi tù và trở về làng Vũ Đại, Chí Phèo đã trở thành một con quỷ đội lốt con người “đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “ trông gớm chết” . Trên người hắn xăm kín người với những hình thù quái dị, bản chất thánh thiện của hắn ngày xưa đã không còn. Bây giờ hắn trở thành một con người chỉ biết làm điều ác. Nhà văn đã sử dụng từ ngữ “ghê chết” để bày tỏ sự kinh hãi đối với hắn. Sự lưu manh trong con người hắn ngày càng hiện lên rất rõ qua những hành động hằng ngày. Khi hắn mua rượu để uống không được hắn đốt quán, hắn lấy mảnh chai rạch vào mặt rồi nằm ăn vạ,…Hắn càng trở nên độc ác hơn bao giờ hết khi rơi vào tay Bá Kiến và trở thành công cụ đắc lực cho ông ta. Chỉ cần Bá Kiến cho hắn vài hào là hắn có thể đâm chém bất kỳ người nào được ông ta yêu cầu. Càng ngày Chí càng lún sâu vào con đường tội lỗi không có lối thoát.
Ở đây với những đặc điểm nổi bật này ở nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã có một phát hiện mới và đầy tinh tế trong đời sống của người nông dân Việt Nam khổ cực trước cách mạng tháng tám. Nếu như chỉ dừng lại ở việc phân tích đời sống khốn khổ, bần cùng của những người nông dân thì đã co “tắt đèn”, “bước đường cùng”,… Nhưng cái mới của Nam Cao trong tác phẩm này đó là đã chỉ ra con đường lưu manh hóa, tha hóa của những người nông dân về bản chất. Họ vốn là những con người rất thật thà, chất phác, thánh thiện và giàu lòng tự trọng. Những con người cả cuộc sống không bước ra khỏi cổng làng thì làm sao có thể làm hại người khác được. Song nhà văn bằng ngòi bút xuất sắc và sắc sảo của mình đã vạch ra được tội ác của những kẻ đứng sau mỗi con quỷ lương tâm của người nông dân. Đó chính là thủ đoạn độc ác, để tiện của bọn cường hào giàu có như Bá Kiến kết hợp với sự tàn bạo, hà khắc của chính quyền thực dân lúc bấy giờ. Chính những con người này đã nhào nặn và bôi bẩn lên tâm hồn vốn rất mong manh và lương thiện của những người nông dân.
Cuộc gặp gỡ với nhân vật Thị Nở đã khiến cho cuộc đời của Chí Phèo bước sang một trang mới. Thị Nở không khác gì một ánh trăng dịu êm của đêm ấy, tình thương của Thị Nợ dành cho Chí Phèo không khác gì dòng sông lấp lánh dịu êm dưới ánh trăng chứa chan bao nhiêu tình cảm. Chính những điều đó đã đánh thức bản chất lương thiện trong con người Chí, làm nó sống lại và giúp Chí sống lại kiếp sống của con người. Tình thương quả đúng là thần dược giúp khôi phục các vết thương, chữa lành những tổn thương nặng nhất. Thị Nở đã làm sống lại sự tự ý thức về bản thân trong con người của Chí Phèo. Hắn sống lại với ước muốn giản dị là “một gia đình nhỏ”. Vậy là sau bao nhiêu năm tháng, hôm nay Chí lại nghe thấy tiếng chim hót ở ngoài kia hay tiếng những bà cô đi chợ hỏi nhau “hôm nay vải mấy xu hả mấy dì?” Những âm thanh này thực ra ngày nào chả có nhưng đến tận hôm nay Chí mới để ý và nghe thấy bởi hôm nay Chí mới bừng tỉnh, mới thiết tha mong về cuộc sống sau này. Bát cháo hành của Thị Nở đem đến cho Chí khiến hắn vô cùng cảm động “mắt ươn ướt”, “hắn cười thật hiền”. Rồi hắn nghĩ rất nhiều về tương lai, một tương lai bình dị có một gia đình hạnh phúc. Chí đã khóc, chính giọt nước mắt và nụ cười ấy đã khiến Thị Nở thầm nghĩ “có lúc hắn hiền như đất”. Rồi Chí nói với Thị Nở một cách ấm áp và đầy tình mong muốn Thị Nở sang đấy ở hẳn với mình. Ngay lúc này hắn kháo khao muốn được trở về cuộc sống lương thiện như ngày trước không phải bận tâm chuyện gì “trời ơi hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao, Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”.
Chính những trang văn ấy đã làm sáng bừng câu chuyện và sáng bừng cả cuộc đời tăm tối của Chí Phèo. Chưa khi nào từng cử chỉ, lời nói của hắn lại làm chúng ta cảm động đến vậy. Chúng thể hiện một điều rằng lần đầu tiên trong đời chí đã biết được lí tưởng sống, mục đích sống sau này của cuộc đời mình, nó nằm ở nơi người đàn bà bề ngoài xấu xí bị cả xã hội cười chê, xa lánh. Mong ước giản dị của hắn có thể làm bất kỳ người nào cũng phải giật mình và tự nhìn nhận lại những gì bản thân mình đang có để cảm thấy nâng niu và quý trọng nó hơn.
Tưởng rằng từ nay cuộc đời Chí sẽ bước sang một ngã rẽ khác nhưng bi kịch của Chí chưa dừng lại ở đó. Thị Nở đã từ chối lời đề nghị ở chung của Chí bởi bà cô Thị Nở không cho phép lấy một thằng không biết làm gì ngoài việc rạch mặt làm chồng. Nếu nhìn nhận đúng thì không thể nào trách bà cô của Thị Nở được bơi đó cũng chính là cách nhìn của những người sống trong xã hội lúc bấy giờ đối với Chí Phèo. Hắn ta khóc rưng rưng và tiếp tục lại rơi vào những ngày tháng bi kịch tuyệt vọng muốn được làm người mà không ai công nhận. Thế là hắn lại tìm đến những chén rượu, hắn cứ uống cho đến lúc say mềm rồi cầm dao vừa đi vừa chơi. Hắn giao tiếp với đời, với ngườitrong làng bằng những tiếng chửi rủa, còn đời đáp cũng đáp trả lại hắn bằng tiếng chó sủa inh ỏi khắp cả làng Vũ Đại. Vậy là đã rõ, cuộc đời Chí Phèo đã đi vào hồi kết không có lỗi thoát, kiếp hắn giờ cũng được ví như kiếp sống của những con chó mà thôi. Miệng hắn thì không thôi chửi cô cháu Thị Nở nhưng đôi chân lại dẫn hắn đến trước ngôi nhà của Bá Kiến. Đoạn văn này được nhà văn Nam Cao miêu tả vô cùng tinh tế và sắc sảo và đầy tính nhân văn. Lúc này, Chí Phèo đang ở trạng thái nửa tỉnh , nửa say. Say để lẩm bẩm giết chết “con khọm già” nhà Thị Nở còn tỉnh là để đén nhà Bá Kiến đi theo thói quen trong tiềm thức. Đến nhà Bá Kiến hắn không đòi tiền như thường lệ mà đòi “làm người lương thiện”. Rõ ràng lúc này hắn đã cảm nhận được sự tuyệt vọng trong cuộc đời của mình. Hắn hét lên trong vô vọng “ai cho tôi lương thiện?” Câu hỏi đó của Chí Phèo không một ai trả lời, điều đó đau đớn đến vô cùng. Câu hỏi của hắn làm người đọc cảm thấy cảm thương sâu sắc đối với những phận người bất hạnh không biết đi đâu vào đâu trong cái xã hội thối nát này. Quá tuyệt vọng, Chí đã lao vào đâm chết lão Bá Kiến độc ác và cũng Chí đã tự kết thúc đời khốn khổ của mình .
Kết câu chuyện Nam Cao để Chí Phèo chết điều đó thể hiện được rất nhiều ý tưởng sâu xa, sâu sắc góp phần tạo nên giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm vì Chí Phèo chết đã tạo thành một bản án tố cáo xã hội thối nát, áp bức đương thời, một xã hội phi nhân nghĩa, vô tâm đã sẵn sàng tước bỏ đi quyền sống, quyền làm người của những người dân lương thiện, hiền lành. Chí chọn con đường chết cũng có nghĩa là anh ấy không muốn quay lại con đường lưu manh, không muốn tiếp tục sống một kiếp người làm kẻ độc ác nữa. Anh ấy thà chọn con đường chết chứ không chịu từ bỏ khát vọng được hoàn lương, quyết tâm không quay lại con đường tội lỗi. Đó chính là sự tin tưởng của Nam Cao vào bản chất tốt đẹp trong mỗi con người và Chí Phèo là một điển hình.
Khi miêu tả tấn bi kịch về số phận của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã đi sâu giải thích chi tiết các nguyên nhân sâu xa, cốt lõi tạo nên mạch bi kịch trong cuộc đời bi đát của Chí Phèo. Trong đó nguyên nhân khách quan là xã hội nửa thực dân nửa phong kiến đã đẩy con người vào vòng sa ngã không đứng lên được. Còn nguyên nhân chủ quan là bản thân những người nông dân cùng cảnh nghèo khó lại quay lưng lại với nhau, phủ định nhau, nhìn nhau bằng con mắt đầy định kiến, tiêu biểu là bà cô của Thị Nở. Khi bị xua đuổi, đày đọa, áp bức một cách tàn nhẫn thì những người như Chí Phèo chống trả bằng con đường lưu manh. Kết thúc câu chuyện tác giả miêu tả cảnh Thị Nở nhìn xuống cái bụng của mình và thấp thoáng hình ảnh Chí Phèo hiện ra sau đó. Rất có thể một Chí Phèo con lại chào đời và sống tiếp quãng đường giống bố của nó. Hình tượng Chí Phèo được khắc họa rất thành công và khát quát hóa quy luật của xã hội. Vậy muốn kết thúc chuỗi bi kịch khốn khổ của Chí Phèo thì cần phải tiêu diệt cái xã hội ấy đi, đây chính là chiều sâu, là giá trị trong các tác phẩm của Nam Cao về miêu tả hiện thực xã hội.
Hình tượng nhân vật Chí Phèo để lại trong lòng độc giả rất nhiều cảm xúc cũng như lòng thương cảm sâu sắc đối với những kiếp người bị tha hóa trước cách mạng tháng 8. Cùng với Chị Dậu, lão Hạc,…thì hình tượng nhân vật Chí Phèo lại một lần nữa khẳng định cần có một cuộc cách mạng dân tộc và cách mạng giai cấp để đòi lại quyền sống, quyền làm người cho người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Cho đến ngày nay, những nhân vật văn học ấy vẫn là lời nhắc, cảnh tỉnh cho chúng ta biết yêu thương, quý trọng những gì mà mình đang có và ra sức cống hiến để xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 20
Nam Cao là nhà văn hiện thực xuất sắc viết về đề tài người nông dân. Nhân vật của ông chủ yếu là những người nghèo khó, cùng cực, họ bị áp bức bất công, bị chà đạp về cả thể xác và nhân phẩm. Chắc hẳn chúng ta không thể quên Chí Phèo_nhân vật điển hình cho một giai cấp, đại diện cho người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Đây là nhân vật có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc làm nên tên tuổi của tác giả để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Chí cũng giống như anh cu Lộ trong tác phẩm “Tư cách mõ” hiền lành, chất phác, bản tính vốn lương thiện nhưng bị xã hội, bị giai cấp thống trị chèn ép, đẩy đến mức đường cùng phải bán linh hồn và nhân phẩm cho quỷ dữ. Nhưng sâu thẳm trong tâm hồn con người ấy vẫn có những phút giây khao khát được hoàn lương, được sống đúng nghĩa. Cuộc đời Chí trải qua hai giai đoạn là trước và sau khi gặp thị Nở diễn biến tâm lí, suy nghĩ và hành động của nhân vật được Nam Cao thể hiện xuất sắc dưới ngòi bút hiện thực.
Trước khi gặp thị Nở cuộc đời của hắn vừa bước chân ra khỏi nhà tù thực dân trở về làng là một kẻ lưu manh tha hóa, mất hết nhân hình lẫn nhân tính, là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Những tháng ngày ấy Chí bị phần con lất át phần người ngoại hình bên ngoài đúng chất của một thằng đầu bò, du côn, lưu manh với cái đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mắt gườm gườm, người thì xăm trổ đầy mình. Hắn khiến cho người ta sợ ngay từ cái nhìn đầu tiên. Chí Phèo được Nam Cao khắc họa vẻ bên ngoài thật ấn tượng, tỉ mỉ từ đầu đến chân để hắn hiện lên thật dị dạng không giống ai. Không chỉ vậy tính cách, nhân phẩm của hắn cũng đã bị bóp méo. Chí trượt dài trên cái dốc tha hóa, kể từ khi về làng lúc nào cũng trong tình trạng say xỉn mà chưa bao giờ tỉnh, bao giờ cũng thế cứ say là hắn chửi và có thể làm bất cứ thứ gì mà người khác sai khiến. “Hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt bao nhiêu người lương thiện”. Những việc hắn làm là rạch mặt ăn vạ, cướp của giết người khiến cho “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi khi hắn qua”. Kể từ đó Chí sống trong cô đơn cô độc giữa dòng đời tấp nập, giữa bao người ngược xuôi nhưng tuyệt nhiên không một ai coi Chí là người.
Tưởng rằng con quỷ dữ cứ sống mãi kiếp thú vật nhưng Nam Cao đã để cho Chí hồi sinh sau khi gặp thị Nở. Đây là đoạn văn nhân đạo nhất trong tác phẩm mà tác giả dành cho nhân vật của mình. Chí đã được thức tỉnh nhờ bát cháo hành và tình cảm chân thành, sự quan tâm săn sóc của thị Nở. Buổi sáng hôm ấy thức dậy Chí có một sự thay đổi rõ rệt trong suy nghĩ, cảm xúc và hành động. Chí Phèo tỉnh dậy sau một cơn say rất dài “hắn thấy miệng đắng, lòng buồn mơ hồ”. Lần đầu tiên kể từ ngày trở về hắn nghĩ đến rượu mới cảm thấy rùng mình “hắn sợ rượu cũng như những người ốm sợ cơm”. Hắn cảm nhận được âm thanh của cuộc sống “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”… Những âm thanh ấy ngày nào cũng có nhưng đây là lần đầu tiên Chí tỉnh để nghe thấy tiếng gọi tha thiết của sự sống.
Chí nhận thức được bản thân mình về quá khứ, hiện tại và tương lai. Tiếng bàn tán của người bán hàng gợi nhớ về quá khứ tươi đẹp của hắn từng ước mơ về một gia đình nho nhỏ “Chồng cuốc mướn, cày thuê vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Đó là ước mơ, là khao khát của anh canh điền hiền lành chất phác. Nhưng éo le thay điều đó không thành hiện thực để rồi giờ đây trong hiện tại “hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc”, “hắn đã tới cái dốc bên kia của đời”, cơ thể đã hư hỏng ít nhiều. Chí phèo cũng đã nghĩ về tương lai và “trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Sau những ngày sống như vô thức qua một trận ốm Chí đã tỉnh dậy và suy nghĩ về cuộc đời mình. Như vậy với khả năng nhận nhức về ngoại cảnh và nhận thức về chính mình Chí đã tỉnh dậy và hồi sinh trở về với kiếp người. Giờ đây hắn khao khát được làm người lương thiện: “Trời ơi! hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được.” Nhà văn đã cho ta thấy khao khát hoàn lương một cách khẩn thiết và rõ rệt trong con người Chí, hắn đã đặt tất cả hy vọng và niềm tin vào thị Nở. Thị chính là cầu nối để Chí hòa nhập với mọi người và trở về với xã hội của những tấm lòng lương thiện. Chí muốn quay lại làm một người bình thường sống cuộc sống bình dị như trước đây chấm dứt những tháng ngày đen tối và tội lỗi.
Cuộc đời lại không được như mong muốn tưởng rằng đã tìm thấy hơi cháo hành tình yêu của riêng mình nhưng một lần nữa bi kịch lại ập đến, hắn bị thị Nở từ chối, bị cả làng Vũ Đại cự tuyệt quyền làm người. Mặc dù Chí Phèo đã cố gắng hoàn lương, cố gắng để hòa nhập với mọi người nhưng chính định kiến xã hội đại diện là bà cô thị Nở khi nghe thị xin ý kiến về chuyện tình duyên của đôi lứa bà đã dùng tất cả những lời lẽ cay độc để xỉa xói thị, bà thấy nhục cho ông cha nhà bà để rồi thị nghe lời bà cô mà quay lưng lại với Chí. Cánh cửa hoàn lương vừa hé mở đã bị đóng sầm lại không một lần được mở ra nữa bởi duy nhất chỉ có thị quan tâm, cảm thông, chia sẻ với hắn, bao nhiêu hy vọng giờ đây chỉ còn là sự tuyệt vọng. Căm phẫn được đẩy lên đến tột cùng, nhận thức được về cá nhân ngày càng mãnh liệt thôi thúc Chí đi đến nhà Bá Kiến cầm dao đâm chết hắn rồi tự sát. Chí đã nhận thức được kẻ thù thực sự của mình là Bá Kiến. Tiếng đòi làm người lương thiện thống thiết kêu lên trước khi hắn giết cụ Bá còn vang vọng đó đây mỗi khi ta nhắc đến cái tên Chí Phèo: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?”. Cái chết là lựa chọn cuối cùng cho sự giải thoát của Chí, đó là cách tốt nhất mà nhà văn dành tấm lòng nhân đạo của mình cho nhân vật. Không chấp nhận được kiếp sống thú vật buộc phải chết để không phạm phải sai lầm, để hy vọng ở một cánh cửa mới Chí có thể sống tốt hơn. Cuộc đời của Chí phản ánh mâu thuẫn giai cấp khốc liệt ở nông thôn Việt Nam không thể giải hòa được, mâu thuẫn ấy càng bị dồn nén xuống tận cùng thì càng dễ bùng nổ và bắt buộc phải được giải quyết theo hướng tích cực nhất.
Như vậy dưới ngòi bút khắc họa nhân vật tài tình của Nam Cao, kết hợp với nghệ thuật trần thuật linh hoạt, sinh động, ngôn ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân làm cho nhân vật Chí Phèo hiện lên với đầy đủ ngoại hình, tính cách và có diễn biến tâm lí phức tạp. Số phận của Chí Phèo đại diện tiêu biểu cho hoàn cảnh người người nông dân trước cách mạng tháng Tám cũng là cảnh tỉnh cho xã hội phong kiến nửa thuộc địa nếu không thay đổi thì không biết sẽ còn bao nhiêu Chí Phèo con chuẩn bị ra đời. Hình ảnh cái lò gạch cũ và cái nhìn xuống bụng của thị Nở ở cuối chuyện minh chứng cho điều đó. Chí Phèo cùng với tác phẩm cùng tên nhân vật có đóng góp to lớn cho gương mặt và số phận của người nông dân Việt Nam làm nên tên tuổi của Nam Cao.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 21
Có thể nói trong đề tài viết về người nông dân dường như nhà văn Nam Cao là người đến muộn, trước đó đã sừng sững những cái tên nổi trội như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng. Và đây được xem là thử thách ấy được đặt ra khá gay gắt với Nam Cao. Nhưng với một cảm quan hiện thực sắc sảo hiếm người có được, cùng với một tấm lòng nhân đạo cao đẹp và tài năng nghệ thuật độc đáo, Nam Cao cũng như đã vượt qua những thử thách ấy và để lại cho đời những áng văn bất hủ. Ông viết về đề tài nông thôn và người nông dân, ngòi bút Nam Cao đã thực sự đi sâu vào những xác xơ nghèo đói cùng thân phận bi kịch của những con người nghèo khổ dưới đáy xã hội. Và từ những trang viết của Nam Cao, hiện lên là một hình ảnh nông thôn Việt Nam trong những năm cuối cùng của chế độ thuộc địa tiêu điều, heo hút. Và có thể thấy trong xã hội đó giai cấp thống trị tác oai, tác quái và những người nông dân bị đẩy vào ngõ cụt không đường ra. Thông qua truyện ngắn “Chí Phèo” đã tiêu biểu cho các đặc điểm đó trong những sáng tác của nam cao. Nhân vật Chí Phèo cũng như đã trở thành một hình tượng nghệ thuật bất hủ không chỉ trong nền văn học dân tộc mà cao hơn là trong nền văn học nhân loại của thế kỉ XX.
Chí Phèo được xây dựng là một nhân vật sinh ra trong đói nghèo,cô độc, tủi nhục. CHí Phèo chết đi cũng trong tủi nhục,cô độc và đói nghèo. Trong làng Vũ Đại,Chí Phèo đã được coi là một thằng cùng hơn cả dân cùng. Chí không cha, không mẹ, không nhà cửa và cũng không thân thích họ hàng. Có thể thấy cả cuộc đới hắn chưa bao giờ được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà. Và người nhặt hắn về là một anh đi thả ống lươn, anh đã nuôi hắn là một bác phó cối không con. Cho đến nỗi ước mong chung sống với một người đàn bà xấu đến nỗi ma chê quỷ hờn như Thị Nở cũng không được chấp nhận.
Có thể thấy ở đầu tác phẩm, Chí Phèo đã xuất hiện với những tiếng chửi. Chí đã lên tiếng chửi trời tức là đối lập với tạo hóa, Chí chửi đời tức là đối lập với cả xã hội. Nhưng đau đớn hơn nữa, Chí như đã “nghiến răng vào mà chửi cái đứa chết mẹ nào đã đẻ ra Chí Phèo”, và chính điều ấy có nghĩa là Chí như đã đối lập với chính nguồn gốc của mình. Trong tiếng chửi ấy, như đã hiện lên một con người cô độc tuyệt đối. Giữa lúc đó, thì tiếng chó sủa xuất hiện dường như ở Chí chỉ còn mối liên hệ với loài vật mà thôi. Trong cái bầu không khí vắng lặng của làng Vũ Đại, chốc chốc như lại vang lên tiếng chửi của Chí Phèo. Và cả tiếng chó sủa đáp lại và thỉnh thoảng lại ồn lên tiếng gào thét rạch mặt ăn vạ rồi sau đó tất cả lại rơi tõm vào sự im lặng ghê người. Cứ như thế Chí Phèo sinh ra để mà bị người ta khinh rẻ, Chí đã bị quăng khỏi cuộc sống chỉ trông mong vào lòng trắc ẩn của kẻ qua đường. Rồi Chí như chỉ tồn tại cũng trong sự khinh rẻ và ghê sợ của mọi người. Không có gì đau xót hơn khi Chí Phèo chết mà người ta mừng cả. Quả thật, có thể thấy số phận khốn khổ ấy của Chí Phèo là số phận của lớp người dưới đáy xã hội.
Có thể nói rằng hình tượng Chí Phèo vô cùng độc đáo nhưng không phải là ngẫu nhiên và cá biệt. Và với việc thông qua hình tượng nhân vật này, Nam Cao dường như đã khái quát lên quy luật hủy hoại con người ghê gớm trong xã hội cũ. Con quỷ dữ của làng Vũ Đại này dường như cũng từng có một thời là người hiền lành, lương thiện. Từ tuổi thơ bơ vơ, hết đi ở nhà này lại đến ở cho nhà khác, đến tuổi thanh niên thì Chí Phèo làm canh điền cho Lý Kiến. Và có thể thấy Chí Phèo sống cuộc sống lao động cực khổ của người cố nông Việt Nam trước Cách mạng. Là một anh nông dân hiền lành ấy đã từng mơ ước một cuộc sống hạnh phúc giản đơn biết bao nhiêu đó là “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải”. Tuy còn trẻ nhưng ở anh cũng như đã phân biệt được tình yêu chân chính với thói dâm dục xấu xa. Thế nhưng cái bản chất trong sáng, lương thiện của người nông dân trong Chí Phèo dường như cũng đã bị bọn cường hào và nhà tù thực dân hợp sức bóp chết.
Khi mà trở về làng trần trụi giữa bầy sói, nhân vật Chí Phèo không thể hiền lành mà muốn sống thì phải cướp giật, phải ăn vạ, phải đâm thuê chém mướn. Và muốn được như thế phải liều lĩnh, phải có gan. Những thứ ấy Chí Phèo có được khi đi tìm ở rượu. Rồi Chí luôn say, mà dường như đã say thì hắn làm bất cứ điều gì người ta sai hắn làm. Chí Phèo cũng như đã gây tội ác trong khi say một cách vô ý thức. Linh hồn của Chí Phèo cũng như đã bán cho quỷ dữ mất rồi. Chí Phèo có thể nói là người đau khổ tủi nhục nhất trên đời. Chị Dậu trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố phải dứt ruột để bán con nhưng chị còn có gia đình, và chị vẫn còn có tổ ấm để mà tồn tại. Chí Phèo thì khác, hắn không có gì đành phải bán cái nhân tính của mình để mà sống. Mà Chí đã lại bán rất rẻ mạt. Và mỗi lần chỉ 5 hào bạc để uống rượu mà thôi. Cũng chỉ vì bán nhân phẩm như thế Chí Phèo đã bị tha hóa. Đáng lẽ ra phải đứng về hàng ngũ những người nông dân lương thiện, thì Chí lại trơ thành mối đe dọa của họ. Và dường như đáng lẽ phải đối đầu với Bá Kiến thì Chí lại trở thành chỗ đầy tớ chân tay tin cậy của hắn.
Qua đó nhà văn Nam Cao đã như vạch trần một quy luật đau xót, nghiệt ngã của chế độ cũ: gặp phải kẻ thù xảo quyệt, và nếu như không tỉnh táo thì con người lương thiện bị biến thành đối ngược với đồng loại của mình. Người đọc thật khó có thể quên cái dáng đi ngật ngưỡng, hay cả cái bộ mặt cương cương, vằn ngang, vằn dọc và “đôi mắt gườm gườm trông gớm chết” của Chí Phèo. Dường như cái xã hội tàn nhẫn ấy đã hủy hoại một cách sâu sắc và toàn diện con người chí Phèo.
Và có thể nói chính sự xuất hiện của Thị Nở đã chia đôi cuộc đời Chí Phèo. Nếu như ở chặng đầu Chí bị tha hóa mà không biết. Khi gặp Thị Nở rồi, Chí bắt đầu có ý thức về sự tha hóa và có những nhận thức về việc trượt quá xa loài người của mình. Lúc này, thì dường như bi kịch tinh thần ở Chí mới xuất hiện. Có thể nói cuộc gặp gỡ đã lóe sáng như một tia chớp trong chuỗi ngày tăm tối giằng giặc của Chí Phèo. Thị Nở với một tình yêu thô lỗ nhưng lại rất đỗi chân thành đã gợi lên bản chất con người vốn từ lâu bị vùi lấp trong lòng Chí. Từ đây, mà Chí Phèo dường như mới biết có một người thương mình. Lần đầu tiên trong đời hắn, Chí mới có thể được ăn một bát cháo hành tử tế do người khác đem cho chứ không phải vì đi cướp giật mà có được. Hình ảnh bát cháo hành ấy như mang hương thơm chân thành của tình yêu. Nó như đã gợi lại biết bao ước mơ thầm kín trong Chí Phèo ngày xưa để có một buổi sáng trong đời thật là cảm động. Nhà văn Nam Cao đã phát hiện ở những con người như Chí Phèo một tâm hồn thi sỹ. Có thể nói những âm thanh hết sức bình thường của cuộc đời ngày nào cũng có, thế mà như lần đầu tiên nhân vật Chí mới nghe thấy. Ước mơ trở lại với xã hội loài người của Chí lúc này cũng như trở lên thật mộc mạc và đáng nâng niu. Thị Nở dường như không chỉ là người yêu mà còn là con đường sống của Chí Phèo: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!” Và chính Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị Nở có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được chứ? Và chính họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, lương thiện của những người lương thiện.
Nhưng dường như cái tia chớp lóe lên thật ngắn ngủi và rồi như lại tắt ngấm. Có thể thấy nỗi đau xót ở chí Phèo là ước mơ trở lại làm người không được chấp nhận. Và trong lúc thị Nở trở mặt, ban đầu Chí như không hiểu nổi vì quá tin, vì đang say với tình yêu, say với ước mơ trở lại làm người. Khi hiểu ra rồi, thì Chí Phèo như lại tìm đến rượu, nhưng có thể nói lúc này y càng uống càng tỉnh. Và chính cái phản ứng sinh lí do rượu gây ra không lấn át nổi sự chấn động mạnh mẽ về tâm lí lúc này. Đó không gì khác mà chính là chỗ sâu sắc nhất của ngòi bút Nam Cao khi miêu tả nỗi đau đớn tinh thần ở con người khốn khổ này. Và cái vẻ bề ngoài là thị Nở và bà cô từ chối Chí Phèo nhưng thực chất là Chí Phèo dường như đã bị cả xã hội cự tuyệt. Ai mà tin được Chí Phèo– một con người có cái lí lịch gớm ghiếc đến như vậy, con người chỉ có độc một nghề không hay ho gì là rạch mặt ăn vạ lại có thể thành người lương thiện được. Chính cái xã hội tàn nhẫn ấy đã đẩy Chí Phèo ra ngoài lề cuộc sống, giờ đây lại chặn đứng Chí Phèo lại ngay trên ngưỡng cửa Chí Phèo khi đang trở về làm người lương thiện, ngay khi Chí Phèo đang háo hức gia nhập lại xã hội loài người. Đó chính là một bi kịch lớn, bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người – bi kịch xót xa, đau đớn nhất của Chí Phèo.
Kết thúc tác phẩm, Chí Phèo đã như tìm đến tiêu diệt kẻ thù truyền kiếp của mình và tự kết liễu cuộc đời. Có thể nói rằng hành động ấy là tất yếu khi con người đứng trước một tình thế tuyệt vọng. Dường như không muốn tiếp tục làm quỷ dữ cũng không thể làm người lương thiện, Chí Phèo thấy chỉ còn cách tìm đến cái chết. Vì chỉ có cái chết thì mới có thể giải thoát cho Chí Phèo khỏi cái bi kịch đau đớn của đời mình. Cái chết của Chí Phèo chính là lời tố cáo đanh thép nhất đối với xã hội đương thời. Đồng thời khi thể hiện cái chết ấy, Nam Cao cũng bộc lộ phần hạn chế trong tư tưởng của mình. Đó cũng chính là một hạn chế về thế giới quan của nhà văn, điều đó cũng có nghĩa bản thân nhà văn Nam Cao cũng tột cùng bế tắc trong thời kì trước Cách mạng tháng Tám.
Với việc thông qua số phận bi thảm của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao cũng như đã lên tiếng tố cáo mãnh liệt cả guồng máy xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời dường như đã đè nghiến, hủy hoại con người một cách triệt để. Đồng thời qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn dường như cũng bộc lộ một chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc khi đồng cảm với bi kịch đau xót ở lớp người như Chí, khi nhìn thấy tia sáng lương thiện hồi sinh ở nhân vật này. “Chí Phèo” thật xứng đáng được xem là hình tượng văn học bất hủ, vô cùng độc đáo và có ý nghĩa khái quát sâu rộng này.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 22
Nam Cao là một nhà văn của hiện thực. Ngòi bút của ông luôn luôn viết để “vạch khổ”, để ca ngợi những con ngưoiừ khổ “cùng đường” nhưng có thiên chất trong sáng. Mặc dù ngòi bút tả thực ấy hoạt động trong thời gian mà người ta cho rằng là “cái mốc” cuối của văn học hiện thực. Chí phèo đã ra đời trong hoàn cảnh ấy. Như một hiện tượng đột xuất khiến ai cũng phải ngỡ ngàng, kinh ngạc. Chí Phèo là một sự bứt phá, đỉnh cao chẳng những với toàn bộ sự nghiệp văn học của Nam Cao mà còn cả đối với nền văn xuôi hiện thực lại một lần nữa chói lòa trên đài văn chương, đánh dấu thời kỳ sinh ra nó trở thành thời kỳ huy hoàng mới, đỉnh cao hơn trước đây. Phải thừa nhận rằng, Nam Cao không thể xuất sắc được thêm nữa mà ông viết, viết để xây dựng nên “Chí Phèo” một chàng trai lương thiện đồng thời cũng là một con quỷ dữ.
Xây dựng nên hình tượng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã viết nên một khúc nhạc buồn, một bài ca về một cuộc đời bi kịch cứ nối tiếp bi kịch. Chí và cuộc đời Chí là đại diện của sự khổ đau đến tột cùng.
Sự đau khổ ấy có lẽ đã được báo trước bởi số phận của một đứa trẻ “tứ cố vô thân”. Ngay từ khi sinh ra, Chí đã bị vứt bỏ trong cái lò gạch cũ, “một anh đi thả ống lương gần một cái lò gạch bỏ hoang thấy hắn trần chuồng và xám ngắt trong một cái váy đẹp”. Như vậy cha mẹ hắn đã ngoảnh mặt đi để tuổi thơ của hắn gắn liền với cái danh không cha, không mẹ, một đứa con hoang tội nghiệp. Đó cũng là một nỗi chua xót của đời người khi sống mà không biết tổ tiên, gốc rễ. Một số kiếp bị ghẻ lạnh từ khi mới lọt lòng.
Chí lớn lên trong sự đùm bọc, cưu mang của nhiều người tốt bụng. Anh thả ống lương, bà góa mù, bác phó cối. Có lẽ nhờ sinh trưởng trong môi trường nông dân thuần túy mà Chí được thừa hưởng những phẩm chất tốt đẹp. Nếu biết trước được tương lai, thì có lẽ Chí đã biết rằng hai mươi năm đầu đời là hai mươi năm hạnh phúc.
Hai mươi năm đã là một anh trai hiền lành, chất phát có mơ ước bình dị, giàu lòng tự trọng và vô cùng lương thiện. Cho tới khi chỗ đựa cuối cùng là bác phó cối qua đời. Chí trở thành một kẻ không nơi nương tựa, phải đi bán rẻ sức lao động cho nhà Bá Kiến. Chính trong thời gian ấy, Chí đã bị Bà Ba “để ý”, bắt “bóp chân mà cứ đòi bóp lên trên, lên trên nữa”. Khi phải làm việc sai trái ấy, chí “ vừa làm vừa run”, và anh thấy nhục nhã, ghê tởm hơn là thấy thích. Điều này lại một lần nữa khẳng định tư chất ngay thẳng của Chí.
Không may cho anh, Bá Kiến đã phát hiện ra và nổi cơn ghen, rồi vô cớ đẩy Chí đi tù. Đó là mốc son quan trọng đánh dấu cuộc đời Chí đã sang trang khác. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho bọn thống trị phong kiến để dồn ép những người dân khốn khổ tới “bước đường cùng”. Những hành hạ, đòn roi của nhà tù đã biến một con người lương thiện thành một kẻ lưu manh, côn đồ, và hơn thế là một con quỷ dữ” có hình hài “nửa người, nửa ngợm”.
Bằng ngòi bút sắc sảo, Nam Cao đã vẽ ra cho người đọc thấy chân dung, mới của Anh Chí – Chí Phèo. “Hắn về lớp này trông khác hẳn. Cái đầu trọc lốc, cái răng trắng hớn, cái mặt thì rất cơng cơng… “ Có người cho rằng “mặt mà câng câng” thì còn là mặt người, nhưng “cái mặt mà cơng cơng” thì không rõ đó là bộ mặt của con vật gì. Như vậy , Chí đã mất hẳn “nhân tính”, đâu còn là anh Chí khỏe mạnh, đẹp trai của ngày xưa. Cái mặt ấy đầy rẫy ngang dọc những vết sẹo, dấu tích của những lần ăn vạ, chém giết. Đời hắn là một cơn say dài vô tận, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, chửi nhau, chém giết, cướp bóc cũng trong lúc say. Tới đây, Chí đã thực sự là một kẻ lưu manh, côn đồ, sẵn sàng nhúng tay vào tội ác. Đau xót hơn, nhiều kẻ đã lợi dụng sự u mê của Chí, sai khiến hắn làm những việc sai trái, kể cả giết người. bàn tay hắn đã từng “đập nát bao cảnh yên vui, làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.
Chí đã bán linh hồn mình cho quỹ dữ, chỉ để lại cái thân xác khật khưỡng vì say rượu và hung hăng như con thú say máu. Chí mất hết cả nhân tính lẫn nhân tính.
Nhưng Nam Cao chưa dừng ở đó, cái đặc biệt đưa Chí Phèo lên hàng “kiệt tác” là ở đó, Nam Cao đã chú ý đào sâu vào nội tâm của Chí, đào sâu tới chỗ le lói ánh sáng trong sâu thẳm của tăm tối và u mê.
Chí là một con người lương thiện, giá mà con người ấy không bị bỏ rơi, giá mà Chí không bị đẩy đi tù, thì có lẽ, giờ đây Chí đã là một con người khác hoàn toàn. Chai ôi!
Có thể dễ dàng thấy được ấn tượng mạnh mẽ mà người đọc cảm nhận được đó là “tiếng chửi” mở đầu cho thiên truyện. Khó mà nói lên hết sự tài tình của Nam Cao khi cố ý dẫn dắt cho “tiếng chửi” mở đầu cả một tác phẩm lớn như thế. Nhưng đó cùng là một thủ pháp nghệ thuật trong cách nét của Nam Cao. Nhà văn để nhân vật xuất hiện trong tâm trạng điển hình nhất. Vừa gây sự tò mò cho người đọc, vừa làm nổi bật tư tưởng của tác phẩm.
“Chí phèo vừa đi vừa chửi, cứ rượu xong là hắn chửi, bắt đầu hắn chửi trời, có hề gì trời có của riêng nhà nào, rồi hắn chửi đời, đời là tất cả nhưng chẳng là riêng ai, rồi hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại, nhưng mọi người ai cũng như rằng chắc nó trừ mình ra, tức mình hắn chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn, nhưng cũng không ai đáp lại, thế có khổ cho hắn không. Cuối cùng hắn chửi đứa chết mẹ nào để ra thân hắn. Phải chăng đó chỉ là những câu chửi bâng quơ. Không, không phải vậy! làm sao những câu chửi bâng quơ lại văn vẻ, thứ tự như thế.
Tiếng chửi chính là phản ứng của y trước cuộc đời, thể hiện tâm trạng đầy bức bối, bi kịch của Chí. Chửi là để giải thoát sự tan nát, đau đớn. Đó là tâm trạng bất mãn cao độ của một con người đã bị làng xóm, xã hội gạt ra khỏi cộng đồng. Trong cơn say, hắn vẫn cảm thấy tuy mơ hồ mà thấm thía “nông nổi” khốn khổ của thân phận. Đó là “nông nỗi” không có người nào chịu chửi lại hắn. Có nghĩa là tất cả mọi người đã dứt khoát không coi hắn là người. Hoặc cũng có thể là bởi họ không chấp hay không muốn dây với một thằng say rượu, một kẻ lưu mạnh, mọt thằng cốcùng liều thân như Chí. Chửi lại hắn nghĩa là còn thừa nhận hắn là người là còn bằng lòng giao tiếp, đối thoại với hắn. Chí Phèo chửi cả làng là lũ vọng có ai đó chửi lại. Tiếng chửi là khao khát liên tục được phát đi nhưng chỉ gặp sự im lặng đáng sợ. Sự lạnh lùng đến nhẫn tâm của xã hội loài người đã khiến cho tâm hồn hóa đá của Chí Phèo cũng phải bật khóc. Chưa nói đến giao tiếp bình thường, chỉ chửi thôi, cách giao tiếp thô bỉ, hạ đẳng nhất người ta cũng không bằng lòng với chí. Họ đâu còn coi chí là người, trong mắt họ, Chí chỉ là một con vật ghê tởm, đáng sợ, cần phải tránh xa, với họ Chí không xứng đáng được nghe một câu chửi. Chỉ còn lại một mình Chí trong sa mạc cô đơn: “Hắn chửi rồi lại nghe”, “chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu”. Tiếng chửi bộc lộ sự bế tắc, cô đơn tột cùng của chí, đồng thời thể hiện đỉnh cao của tấn bi kịch, bị từ chối quyền làm người của Chí.
“Vạch khổ” cho ngưoiừ nông dân, Nam Cao không chọn những đề tài đã xưa cũ, mà chọn cho mình một con đường riêng, mọt phương diện riêng. Người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt cả nhân tính, do đó bị phủ nhận giá trị, tư cách làm người. Nỗi thống khổ ghê gớm của Chí Phèo không phải là ở chỗ, tất cả cuộc đời người nông dân cố cùng này chỉ là một con số không tròn trĩnh. Không cha không mẹ, không họ hàng, thân thích, không tấc đất, cắm dùi, cả đời chưa từng được chăm sóc bởi bàn tay người đàn bà… mà chính là ở chỗ anh đã bị xã hội rách nát bộ mặt người, cướp đi linh hồn người, để bị loại ra khỏi xã hội loài người, phỉa sống kiếp sống tối tăm, thú vật. Phát hiện mới mẻ, độc đáo của Nam Cao còn cho chúng ta hiểu rằng: Cướp đi người khác bất cứ thứ gì cũng là tội ác, nhưng cướp đi con người hạnh phúc, ước mơ, bản chất lương thiện là tội ác dã man nhất, dã man hơn cả tội giết người.
Với chí Phèo, Nam Cao thực sự đã vượt trội hơn so với “Đàn anh Tắt Đèn – Ngô Tất Tố; “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan cũng khó mà so bì được với “Chí Phèo”, Bởi chăng, nếu Chị Dậu chỉ mất chó, mất con, thì Chí mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Nếu chị Dậu chỉ chật vật, bôn ba vì sưu thuế, thì Chí mất cả quyền làm người. Nếu Chị Dậu tuy khổ cực nhưng vẫn còn được hàm xóm, láng giềng yêu quý, giúp đỡ thì Chí mãi mãi cô đơn vì bị hắt hủi. Chỉ vậy thôi, ta đã thấy “Chí Phèo” quả là “đứa con tinh thần” đắt giá, một hình tượng trên cả ngàn hình tượng. Nam cao là một thiên tài!
Nhân Vật Chí Phèo được ví như một con sông. Khô cạn. Cả cụoc đời con người ấy cũng trống rỗng, khô cạn như con sông ấy. Nhưng Nam Cao đã đem mưa đến, tưới mát cho tâm hồn Chí, dòng sông kia lại tràn đầy và Chí hồi sinh như những hạt giống nảy mầm. Đó là cuộc hội ngộ của Chí Phèo với Thị Nở. Thị Nở là một người đàn bà xấu đến ma chê quỷ hờn, mãi đến ba mươi tuổi vẫn ế chồng, tính cách thì dở hơi, lại có dòng dõi ma hủi. Ở người đàn bà này, hội tụ mọi sự bất hạnh của người phụ nữ. Vậy mà khi họ ăn nằm với nhau, mọi sự đã thay đổi. Đây là mốc son thứ hai thay đổi cuộc đời Chí.
Sau cuộc gặp gỡ, Chí Phèo bị ốm rồi được thị Nở chăm sóc. Lần đầu tiên, từ những ngày ở tù về, Chí thấy mình hoàn toàn tỉnh táo và cũng là lần đầu tiên anh nghe và nhận ra những âm thanh quen thuộc của cuộc sống đời thường : “Tiếng anh chài gò thuyền đuổi cá”, “tiếng chim hót trong lành”, “tiếng người nói xôn xao”.. và “lòng hắn mơ hồ buồn”. Chí như vừa mới được sinh ra, tâm hồn Chí còn non nớt như một đứa trẻ, lần đầu biết nghe, lần đầu biết cảm nhận và bộc lộ xúc cảm. Đây là một tâm trạng rất lạ của Chí, đã nhiều năm trôi qua, hắn lần đầu tỉnh táo để nghĩ về cuộc đời mình, rồi chua xót nhận ra, đã có một thời xa xăm; hắn đã từng mơ ước “chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, có tiền thì mua con lợn, khá giả thì tậu dăm ba sào ruộng….”. Người ta mơ ước được giàu sang, phú quý, Chí chỉ có một mơ ước thật bình dị, giản đơn là được làm một ngưoiừ lương thiện, có một mái ấm đơn xơ nhưng đó cũng là mơ ước không thển ào trở thành hiện thực. Hắn căm ghét quá khứ, căm ghét vợ chồng Bá Kiến, căm ghét thành kiến xã hội. Chí xót xa vì hối hận cho quãng đường đầy bất hạnh và gây nhiều tội ác của mình.
Từ trong sâu thẳm ý thức, Chí vẫn không ngừng hi vọng. Và sự xuất hiện của Thị Nở như ánh sáng của ngọn đèn, chiếu vào cuộc đời tối tăm, giằng giặc của CHí. Thị như cây cầu nối, như bàn tay đưa ra cứu vớt cuộc đời anh. Thị nở mở dường cho anh men theo bờ vực thẳm dể trở lại làm người. Tiếng gọi của tình yêu cũng là tiếng gọi của đời lương thiện. Chí mong ngóng Thị Nở và khao khát cùng thị xây dựng một gia đình.
Hình ảnh “bát cháo hành” là thuốc giải độc cho cuộc đời Chí, và hiện thân của tình yêu thương, là hương vị của tình yêu, tình người và tình đời. Chí ngạc nhiên, rồi cảm động (thấy mắt hình như ươn ướt), nỗi bâng khuâng vui buồn lẫn lộn, và nhất là anh thấy ăn năn “Bởi đầy là lần đầu tiên trong đời, hắn được người ta cho…”. Hắn cảm nhận được sự quan tâm chăm sóc của Thị Nở, một sự chăm sóc tuy còn vụng về nhưng rất đỗi yêu thương, chân thành. Hương thơm bát cháo hành đã tẩy rửa những ô nhục, đã bóc trần sạch sẽ cái mặt nạ quỷ dữ và đưa Chí trở lại làm người. Bát Cháo hành đã đánh thức phần người tốt đẹp còn sót lại trong Chí và con quỷ dữ đã chấp nhận từ bỏ bóng tối để bước ra và vươn lên trong anh sáng. Chí bỗng khao khát, khao khát mãnh liệt cuộc đời lương thiện. Đó cũng là chi tiết thể hiện tình cảm chứa chan, nhân đạo của nhà văn, đối với nhân vật của mình. Cái biệt tài của Nam Cao là ở chỗ Cách xử lý tình huồng, co dãn dung lượng truyện, để từng câu, từng chữ, không thừa, không thiếu, biến hóa khéo léo, linh hoạt. Đây cũng chính là lời giải thích cho việc ông cân bằng câu văn ra sao. Nam Cao chỉ dành hai mươi năm đầu đời của Chí vẻn vẹn vài ba câu văn ngắn ngủi, trong khi ông dành nửa tác phẩm để viết về năm ngày cuối đời của Chí. Năm ngày hạnh phúc ngắn ngủi và mong manh.
Dù sao thì Chí cũng đã có năm ngày để hạnh phúc, năm ngày để sống thực sự lương thiện. Không say, không chửi, không cần quấy, không cướp bóc, không ăn vạ..
Nhưng chỉ biết làm gì đây trước thành kiến xã hội? Liệu những con người trước đây vốn sợ hắn và xa lánh hắn có chấp nhận hắn trở về?
Tác giả đã chú ý tới nhân vật bà cô Thị Nở, đại diện cho định kiến xã hội tàn ác đã phủ nhận sự tồn tại của Chí và quyết liệt ngăn cản hạnh phúc của cô cháu gái. Điều đó đã khiến Chí suy nghĩ rất nhiều, hiểu ra rất nhiều và cõi lòng anh tan nát. Anh đã cố gắng níu kéo, nhưng tình yêu đã ngoảnh mặt đi, cự tuyệt, từ chối anh. Tất cả đã sụp đổ, Chí Phèo nơi vào tình thế tuyệt vọng, đau đớn, vật vã trong bi kịch tinh thần của một con người sinh ra là người mà không được làm người.
Nhà văn đã miêu tả một lần uống rượu đặc biệt nhất trong cuộc đời Chí. Chí lại lôi rượu ra uống, hắn lại càng thấy tỉnh, hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Đó là hương vị khó phai mờ nhất trong cuộc đời anh. Chính vì thế, nó lại càng gợi nhắc đến nỗi đau bị cự tuyệt những lời lẽ chua chát, cay đắng của Bà cô Thị Nở. Hắn bưng mặt khóc rưng rức, một kẻ sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, đâm chém người khác mà lại biết khóc. Có thể nói khi tỉnh rượu Chí Phép đồng thời ngộ ra hai sự thật: Một là anh muốn làm người lương thiện, hai là anh không thể trở thành người lương thiện được nữa, và cách giải quyết cuối cùng chỉ có thể là cái chết. Đúng là một sự thật nghiệt ngã, phũ phàng. Đau xót thay Chí càng muốn vươn lên sống thì cái chết lại càng tới gần.
Chí quyết định xách dao đi trả thủ. Hình tượng của Chí ngày càng trở nên to lớn, to lớn trước hết về khao khát, và to lớn sau cùng là sự quyết liệt trong hành động trả thù Bá Kiến – cụ tiên chi của làng Vũ Đại. Nếu soi sét kỹ tác phẩm, ta sẽ thấy rằng giữa Chí Phèo và Bá Kiến có một sợi dây giằng buộc vô hình. Đâu phải tình cờ mà vừa ra tù hôm trước, hôm sau Chí đã xách vỏ chai “tới nhà Bá Kiến.”, “gọi tận tên tục ra mà chửi” . Cũng đâu phải ngẫu nhiên khi mỗi lần uống say, Chí lại lảm nhảm tới nhà cụ Bá để “đòi nợ”. Càng không phải ngẫu nhiên khi Chí lăm lăm cây dao định tới nhà Thị Nở “để đâm chết nhà nó” thì lại xông vào nhà Bá Kiến. Rõ ràng, khi ở tù về, mặc dù đã biến chất, và hoàn toàn bại liệt về ý thức, trở thành công cụ của bọn cường hào. Nhưng trong đáy khối óc dày đặc u tối ấy, vẫn âm ỉ mối thù giai cấp với kẻ đã cướp đi của hắn quyền làm người và phẩm giá người. Giữa Chí Phèo và Bá Kiến vẫn còn nguyên “món nợ” chưa thanh toán. Vì vậy trong mối quan hệ này vẫn chất chứa những mối nguy hiểm khó lường Chí Phèo đứng trước mặt Bá Kiến nói rõ ràng “Tao không cần tiền!” Tao muốn làm người lương thiện… Ai cho tao lương thiện… Làm sao để mất các dấu sẹo trên mặt này?…”
Những câu hỏi dồn dập, như chất chứa bao cùng quẫn, căm phẫn, tuyệt vọng, bế tắc. Đồng thời thể hiện khát khao cháy bỏng của người dân cùng khốn khổ được sống lương thiện. Bi kịch của người dân cùng khốn khổ được sống lương thiện. Bi kịch của Chí Phèo đã lên đến đỉnh điểm và đòi hỏi phải được giải quyết. Lưỡi dao rung lên sáng loáng là hành động cương quyết lấy máu rửa thù. Lão cáo già lọc lõi Bá Kiến phải chết, để đền tội cho những tội ác dã man mà hắn đã gây ra.
Nhưng ngay sau đó, Chính nhân vật đáng thương của Nam Cao lại tự sát. Để Chí Phèo chết, Nam Cao đã xây dựng nên một tình huống thật hợp lí. Khi mà ý thức nhân phẩm trở lại, Chí đã nhất quyết không bằng lòng tiếp tục sống cuộc sống thú vật. Nên anh đã chọn cách giải quyết là cái chết để bảo toàn phẩm giá và thiên lương. Chí Phèo chết ngay trên ngưỡng cửa trở về với cuộc đời lương thiện. Cái chết của Chí Phèo biểu nhiên không làm xúc động những người dân làng Vũ Đại, nhưng nó lại để lại trong lòng chúng ta, những ai biết yêu thương và trân trọng con ngưoiừ một nỗi buồn thật ghê gớm. Cái chết ấy đã kết thúc một cuộc đời, đặt dấu chấm hết cho một bi kịch số phận và là âm hưởng cứ dư mãi trong lòng bạn đọc.
Thực ra, khi viết về Chí Phèo, Nam Cao còn muốn bao quát hóa hình tượng nhân vật này thành cả một tầng lớp nhân dân lao động bị dồn ép, đè nén bởi các thế lực, thống trị tàn ác. Chí Phèo là nhân vật tiêu biểu, là hình tượng điển hình cho người nông dân trước cách mạng tháng tám. Những xung độ giai cấp, những mâu thuẫn trong lòng xã hội ở Chí Phèo tuy không sôi sục như ở Tắt Đèn, nhưng đó là bầu không khí u ám có tính tia chớp lóe lên báo hiệu trước cơn bão đang về. Các kết cục của Chí cũng cho thấy khi người nông dân khốn khổ bị đẩy tới chỗ cùng thì có thể trở nên đáng sợ như thế nào. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, nhà văn đã cảm thấy tính khốc liệt của mối xung đột giai cấp ở nông thôn, không có gì có thể xoa dịu. Càng nén xuống thì càng dễ bùng nổ, và khi nó nổ bùng thì thật đáng sợ cho bọn thống trị. Tính điển hình của hình tượng nhân vật Chí Phèo còn ở điểm “từ sự bóc lột của Bá Kiến với Chí Phèo mở rộng ra là sự tước đọat, tra tấn của bè lũ thống trị lên những con người thấp cổ, bé họng “kêu trời không thấu, kêu đất không thương”. Nam Cao đã sắp đặt tất cả để một khi một người vùng lên thì tất cả sẽ cùng lên theo đó.
Tác phẩm “Chí Phèo” đã trở thành “đệ nhất kiệt tác”, “bó đuốc” đi đầu của làng văn học hiện thực không chỉ nhờ nội dung, tư tưởng nhân sinh của nó mà còn nhờ các đóng góp của nghệ thuật.
Nam Cao đã thành công về mặt xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật mang tính điển hình, sắc nét, vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa có cả tính độc đáo, gây ấn tượng mạnh. Đặc biệt thành công ở nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật. Một phong cách nghệ thuật rất riêng của Nam Cao đó là chủ tâm tự nhưng vẫn rất logic, chặt chẽ. Kết cấu vòng tròn thể hiện tính quy luật về hiện tượng Chí Phèo, khiến ý nghĩa của tác phẩm thêm sâu sắc, hấp dẫn, nhiều tình tiết bất ngờ gay cấn, kịch tính. Ngôn ngữ sống động, gần gũi. Giọng điệu, cách trần thuật biến hóa có sự đan xen lẫn nhau. Cả hai mặt nội dung và nghệ thuật đều rất hoàn hảo, điều này tạo nên một tác phẩm có một không hai trong kho tàng văn học Việt Nam. Nam Cao xứng đáng là một trong năm tác giả đã bước đi trên đài danh vọng được mọi người yêu kính và ghi nhớ.
Cho tới tận bây giờ, câu nói “Ai cho tao lương thiện” vẫn ám ảnh người đọc bởi lẽ thống thiết, bi ai, đầy day dứt và chua xót. Có lẽ nếu ai đã từng đọc “Chí Phèo” vẫn suốt đời sẽ không bao giờ quên một anh Chí Phèo say khướt vừa đi, vừa chửi cũng như sẽ không thể quên một hình tượng nhân vật làm chấn động cả giới văn học một thời.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 23
Con người đến với văn chương từ muôn vạn nẻo đường, trên mọi cung bậc cảm xúc nhưng tiêu điểm mà con người hướng đến vẫn là con người. Một tác phẩm trác việt thực sự chính là viết về con người, làm bất hủ sự sống nhân vật. Tác phẩm “ Chí Phèo” của Nam Cao đã trở thành tác phẩm trác việt khi làm sống mãi trong lòng người đọc hình ảnh nhân vật Chí Phèo là đại diện cho tầng lớp nhân dân trong xã hội Việt Nam những năm trước cách mạng bị chà đạp dẫn đến tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính.
Với Nam Cao, văn học chân chính bao giờ cũng là sự thật ở đời, đòi hỏi người nghệ sĩ dùng thực tài, thực tâm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc để hướng đến con người, vì con người mà lên tiếng. Bởi lẽ, “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.
Chính quan niệm sáng tác mới mẻ đã giúp Nam Cao có chân cảm và hướng ngòi bút vào những con người ở tầng lớp dân nghèo. Ông thường viết về những cái xoàng xĩnh, nhỏ nhặt nhưng đằng sau đó là những triết lý nhân sinh sâu sắc. Viết về con người, ông đi sâu vào khám phá thế giới “ con người bên trong con người” theo kết cấu, mạch tự sự đảo lộn không gian, thời gian bằng một giọng văn dửng dưng, lạnh lùng nhưng chân chứa yêu thương, đằm thắm tình cảm. Tác phẩm “ Chí Phèo” chính là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật này của Nam Cao.
“Chí Phèo” là tác phẩm viết về đề tài người nông dân, một đề tài cũ của dòng văn hiện thực phê phán trước cách mạng. Trước Nam Cao, đã có Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,… là những đại diện tiêu biểu viết về người nông dân là đại diện cho mọi khổ đau của con người, là nạn nhân bất lực của xã hội. Nhưng, Chí Phèo vẫn sống vì nhà văn đã khai thác đến đỉnh cao của nạn nhân: bị tha hóa cả nhân hình và nhân tính. Qua đó, nhà văn sâu cay tố cáo xã hội tàn nhẫn và mong muốn tìm lại giá trị tốt đẹp trong phẩm chất người nông dân.
Ngay từ khi mới sinh ra, “ con số không đã bao trùm lên lá số tử vi của Chí Phèo” ( Nguyễn Đăng Suyền). Hắn sinh ra đã bị bỏ rơi, như một món hàng truyền tay từ kẻ này sang kẻ khác, từ tay anh đi thả ống lươn, bà goá mù, bác phó cối đến tay gia đình Bá Kiến rồi lại vào tù vì cơn ghen vu vơ của cụ Bá. Xã hội bất công đã cướp đi của Chí một người mẹ, một người cha, bỏ hắn lại bên cái lò gạch cũ, mở ra một số phận bi kịch không chỉ bị bóc lột về sức lao động mà còn bị chà đạp về nhân phẩm khi bà Ba gọi lên bóp chân mà cứ bắt bóp lên nữa… Có lẽ vì vậy, nhà văn gợi mở về quá khứ Chí Phèo bằng đầu tiên toàn từ “ một”: “ một anh đi thả ống lươn”, “ một buổi sáng tinh sương”, “ một cái váy đụp”, “ một bà goá mù” như dự báo một cuộc đời đầy cô đơn, bất hạnh.
Bảy, tám năm sau Chí trở về làng ngật ngưỡng bước đi như một tên lưu manh, một tên đầu bò chính cống. Hắn “ đặc như một thằng săng đá”. Cái răng cạo trắng hớn, ngực chạm trổ rồng phượng và một ông tướng cầm chùy, mặt cơng cơng, mắt gườm gườm trông gớm chết.
Mới về hôm trước, hôm sau người ta đã thấy Chí ngồi uống rượu với thịt chó từ trưa đến xế chiều rồi xách chai đến nhà Bá Kiến trả thù. Hắn chửi cả nhà cụ Bá, đánh nhau với Lý Cường rồi bất ngờ đập chai vào cột cổng, rạch mặt, lăn lóc ăn vạ. Nhưng rồi, hắn bị Bá Kiến dụ dỗ và trở thành tay sai đắc lực trong tay cụ Bá. Hắn triền miên trong cơn say, ăn trong lúc say,ngủ trong lúc say, thức dậy hãy còn say để rồi say nữa, say vô tận. Hắn làm mọi việc trong lúc say và làm bất cứ thứ gì người ta sai hắn. Hắn ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại những người dân lương thiện, “ hắn phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện”. Cái mặt hắn vàng vàng mà muốn xạm mầu gio, đó không còn là mặt người mà là mặt một con quỉ dữ vằn dọc ngang không biết bao nhiêu là sẹo…
Chí Phèo đã chính thức trở thành con quỉ dữ của làng Vũ Đại. Hắn không chỉ bán đi bộ mặt mà giờ đây, hắn còn bán cả linh hồn cho quỉ dữ. Hắn bị tất cả mọi người xa lánh, bị cả xã hội cự tuyệt quyền làm người. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại nhưng chẳng ai chửi lại với hắn, đáp lại chỉ là những tiếng chó sủa. Hắn đành chửi đứa nào sinh ra hắn cũng là chửi chính bản thân mình. Nỗi đau thân phận, nỗi cô đơn tột cùng được dồn nén trong tiếng chửi như một nỗi niềm khắc khoải khao khát được giao tiếp. Nhưng cả làng Vũ Đại không ai cho hắn làm người. Hắn bước đi lảo đảo thảm hại dưới trăng – một biểu hiện của sự mất thăng bằng toàn diện và dữ dội. Tâm hồn Chí như cơn lắc đơn trong thời kì dao động mạnh mẽ nhất của tâm, sinh lí trong các thái cực đối nghịch nhau. Sợi dây cuộc đời mỏng manh, hai vực sáng tối nhập nhoè trong cơn say, cái ác như con thú dữ há ngoác miệng sẵn sàng nuốt cả con người Chí.
Bước chân lảo đảo thảm hại dưới trăng đưa Chí đến gặp Thị Nở và mở ra một chương mới cho cuộc đời tăm tối của Chí. Người đàn bà gàn dở ấy đã giúp Chí tỉnh rượu, tỉnh ngộ và khao khát trở về làm người lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời, hắn nhận ra cái lều ẩm thấp của mình. Lần đầu tiên hắn cảm nhận được thanh âm của cuộc sống, tiếng chim hót, tiếng người nói, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Lần đầu tiên hắn nhận thức được quá khứ, hiện tại, tương lai của hắn. Quá khứ là mơ ước có một gia đình nhỏ, chồng cuốc mướn, vợ dệt vải. Hiện tại là ốm đau, bệnh tật. Và tương lai là cô độc… Hắn thấy sợ. Hắn mong muốn được trở về làm người lương thiện. Hắn muốn sống trọn vẹn là một con người trong khoảng còn lại của cái dốc bên kia cuộc đời.
Thị Nở vào với một nồi cháo hành còn nóng nguyên khiến Chí ngạc nhiên, xúc động rồi ăn năn mong muốn được lương thiện. Lần đầu tiên hắn được cho mà không phải doạ nạt hay cướp giật, lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi tay một người đàn bà và cũng là lần đầu tiên, hắn được nếm thử cháo hành để nhận ra cháo hành ăn rất ngon. Hắn cảm động, hắn muốn làm hòa với mọi người, hắn thấy lòng mình thành trẻ con và muốn làm nũng với thị như với mẹ. Hắn thấy yêu thị, cảm thấy thị có duyên. Tình yêu của Chí không đơn thuần là tình yêu dành cho một người phụ nữ mà còn là tình đời, tình người. Thị Nở là chiếc cầu nối để Chí trở về với xã hội loài người.
Thị Nở là vị thiên sứ mà Nam Cao đã phái tới để đánh thức cuộc đời Chí Phèo. Thị cùng tình yêu của thị gửi gắm trong bát cháo hành như một liều thuốc kháng sinh mạnh trong một ca phẫu thuật ghê người, như chiếc tháng từ bi cứu vớ cuộc đời Chí khỏi vực thẳm, như một bản lề khẽ xoay ngang mở ra một quyết định mới của cuộc đời tuy cứu được một tâm hồn nhưng không thay đổi được số phận.
Thị Nở vốn dở hơi. Ở với Chí năm hôm đến hôm thứ sáu thị bỗng nhớ rằng mình có một người cô ở đời. Thị nghĩ “ hãy dừng yêu để hỏi cô thị đã”. Bà cô hoảng hốt. Bà uất ức. Bà chua xót. “ Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ.” “ Ai lại đi lấy thằng Chí Phèo!”. Thế rồi, Thị Nở đến và mang tất cả lời bà cô chửi vào mặt Chí. Ban đầu, hắn thấy thú vị quá, lắc lư cái đầu cười. Nhưng rồi hiểu ra, hắn ngẩn người, chạy tới níu tay thị nhưng bị gạt ra, Chí đau đớn tìm đến rượu để khoả lấp nỗi buồn. Nhưng càng uống càng tỉnh. Tỉnh, chao ôi buồn. Hắn ôm mặt ngồi khóc rưng rức như một đứa trẻ bị cướp giật là tột cùng của nỗi đau thân phận không thể kìm nén.
Phẫn uất, tuyệt vọng, Chí xách dao đến định đâm chết bà cô Thị Nở nhưng tiềm thức sâu xa nhận ra kẻ gây ra mọi bi kịch là Bá Kiến, Chí đến, đâm chết Bá Kiến rồi tự tử. Chí Phèo, từ một kẻ mất trí, là tay sai đắc lực của bọn thống trị giờ đây trở thành người nô lệ thức tỉnh, là một đầu óc sáng suốt nhất của làng Vũ Đại khi đặt ra những câu hỏi có tầm khái quát cao vượt ra khỏi sự gian xảo của Bá Kiến: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất hết những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể trở thành người lương thiện nữa…”
Hành động giết Bá Kiến rồi tự sát là một quy luật tất yếu. Đó là tột cùng của nỗi bế tắc, tuyệt vọng, là lối giải thoát duy nhất cho cuộc đời Chí. Ngòi bút tỉnh táo, sắc lạnh của nhà văn đã báo hiệu cho hắn biết kẻ thù bây giờ của hắn là cả một xã hội vô nhân tính và cái chết là sự lựa chọn duy nhất. Qua đó, Nam Cao mạnh mẽ tố cáo chế độ xã hội bất công và thể hiện mối xung đột giai cấp gay gắt của nông thôn Việt Nam trước cách mạng với quy luật tất yếu “ tức nước vỡ bờ”.
Sêđrin từng khẳng định: “ Văn học, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết.” Tác phẩm “ Chí Phèo” với hình tượng nhân vật Chí Phèo chính là một biểu hiện của sự bất tử của nền văn học Việt Nam.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 24
Chí Phèo là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nam Cao và của nền văn học hiện thực phê phán. Tác phẩm viết năm 1941, lúc đầu có tên là Cái lò gạch cũ. Nhà xuất bản Đời mới tự đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi. Khi in trong tập Luống cày tác giả đổi tên thành Chí Phèo. Nội dung viết về người nông dân nghèo bị xã hội đẩy vào bước đường cùng, bị tước đoạt quyền làm người.
Chí Phèo là đứa trẻ mồ côi lớn lên hiền lành. Anh làm canh điền cho Bá Kiến. Vô cớ, Chí Phèo bị vào tù (nhà tù thực dân). Khi ra tù, Chí Phèo trở thành kẻ lưu manh, thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Kể từ đó, cuộc sống của Chí Phèo chìm trong bóng tối cho đến khi Chí gặp Thị Nở. Bằng tình yêu thương, Thị Nở đã thức tỉnh lương tâm, thức tỉnh khát vọng sống, thức tỉnh quyền làm người vốn từ lâu đã bị lãng quên ở Chí Phèo. Thế nhưng, Chí Phèo lại bị xã hội từ chối. Quá tuyệt vọng, Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát.
Toàn bộ bức tranh cuộc sống con người ở làng Vũ Đại được Nam Cao miêu tả khá kĩ lưỡng qua truyện ngắn Chí Phèo. Đó là vùng đất “quần ngư tranh thực” theo lời của ông thầy địa lí đã nói. Bọn cường hào thống trị chia phe và tìm cách xâu xé lẫn nhau, dựa vào quyền lực để đè nén, ức hiếp nhân dân. Mâu thuẫn giữa người nông dân và bọn cường hào, địa chủ là mâu thuẫn chính và quyết liệt Làng Vũ Đại chính là hình ảnh thu nhỏ chân thực của nông thôn Việt Nam với nhiều mâu thuẫn thối nát.
Mới sinh ra, Chí Phèo đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ, trong một đêm rét lạnh. Tuổi thơ Chí Phèo không biết cha mẹ mình là ai, phải sống bơ vơ vất vưởng, ở hết nhà này đến nhà khác. Lớn lên, Chí đi ở cho nhà Bá Kiến, không có tài sản gì. Chí Phèo được miêu tả với một số phận bất hạnh, thật đáng thương.
Bản chất vốn có của Chí thật hiền lành như cục đất. Đó cũng là bản tính chân chất của người nông dân Việt Nam xưa nay. Hắn chăm chỉ lao động, tự sống bằng đôi tay cần mẫn của mình. Hắn có mọt tâm hồn tinh khôi, trong sáng như dòng nước mát. Hắn có ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình, giàu lòng tự trọng và cũng nuôi dưỡng một vài mơ ước. Chí Phèo đúng thực là một con người lương thiện. Có thể nói, lương thiện là giá trị cốt lõi mà nhà văn Nam Cao muốn khắc họa ở nhân vật Chí Phèo. Trước khi vào tù và biến đổi khổ liệt, Chí Phèo sống cuộc sống nghèo khó nhưng là cuộc sống của người nông dân chân chính, lương thiện.
Thế nhưng, hiền lành và lương thiện lại trở thành điểm yếu của Chí Phèo trong cái xã hội đày rẫy những kẻ mưu mô, Xảo quyệt và cáo già như Bá Kiến. Chỉ vì nỗi ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Chí vào tù mà không biết mình bị tội tình gì. Chỉ biết, một buổi sáng, người ta đến bắt giải hắn lên tỉnh rồi bặt vô âm tính. Khi ra tù, Chí trở thành một con người hoàn toàn khác từ hình dáng cho đến phẩm chất.
Ngoại hình của Chí Phèo biến đổi ghê gớm đến đáng sợ. Từ một anh nông dân hiền lành, giờ “cái đầu trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn…trông gớm chết”. Chí phèo biến đổi ngoại hình thành quái dị, mang dáng dấp của một kẻ côn đồ và lưu manh. Điều đó tố cáo chế độ nhà tù tàn ác của bọn thực dân đã biến Chí Phèo thành con người mang gương mặt của con vật lạ. Gương mặt của Chí không phải là mặt người mà là gương mặt của con vật lạ, vằn dọc vằn ngang không thứ tự…
Hắn về và gây “ấn tượng” đâu chỉ cái ngoại hình kinh dị ấy mà còn với tiếng chửi điển hình của kẻ “bất cần đời”. Quả thực, tiếng chửi của Chí là một “đặc sản lạ” mà Nam Cao đã tài tình sáng tạo ra. Về hôm trước, hôm sau đã say khướt và cất tiếng chửi, không ai lên tiếng chỉ có tiếng sủa của ba con chó và một thằng say rượu. Hắn khát khao được giao tiếp nhưng không ai đáp lời. Hắn cô đơn, đau đớn khi không được xã hội thừa nhận là một con người. Đến nhà Bá Kiến lần thứ nhất: chửi, rạch mặt ăn vạ, liều chết. Hắn mang tính cách của một tên du côn. Sau khi đến nhà Bá Kiến lần thứ hai để xin đi ở tù Chí trở thành tay sai cho Bá Kiến:
Chí Phèo mất dần ý niệm về thời gian, tuổi tác, triền miên trong những cơn say. Trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại: “Phá tan biết bao cơ nghiệp làm đổ máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện…”. Chí ngập sâu trong vũng bùn tội lỗi, bị xói mòn về nhân phẩm, trượt dài trên con dốc của sự tha hóa, tha hóa một cách triệt để. Từ một anh canh điền hiền lành, lương thiện, qua bàn tay của bọn cường hào ác bá và nhà tù thực dân đã biến Chí thành kẻ lưu manh, côn đồ, tha hóa.
Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn phản ánh một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội cũ: chừng nào còn có áp bức, bóc lột thì chừng ấy còn có những người dân lương thiện bị đẩy vào con đường cùng trở thành kẻ lưu manh, tha hóa. Đó là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm này.
Sau đêm gặp Thị Nở, cảm giác: “miệng đắng nhạt lòng mơ hồ buồn” , chân tay bủn rủn, sợ rượu. Chí đã phục hồi về cảm giác. Tâm trạng bang khuân, nằm một mình trong nhà, lần đầu tiên cảm nhận được nhịp sống đời thường, cảm thấy buồn. Hắn nhớ về quá khứ với ước mơ giản dị, về mái ấm gia đình. Chí nhận thức về tuổi già, ốm yếu và “sợ nhất là sự cô độc” . Chí đã biết suy nghĩ, lo lắng, nhận thức được cuộc sống. Phần người trong Chí dần dần hồi phục. Sự thức tỉnh về tâm hồn
Khi Thị Nở mang cháo hành tới, Chí Phèo cảm nhận được cái dịu dàng của thị Nở. Cháo hành: món ăn bình dị nhưng là phương thuốc nhiệm màu bởi nó chứa chan tình đời, tình người. Lúc đầu, Chí vô cùng ngạc nhiên, xúc động “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt” bởi đây là lần đầu tiên Chí được quan tâm, săn sóc bởi một tình người thực sự. Thị Nở đối với hắn thật thân thiện chứ không phải là sự sợ hãi, kinh tởm hay lảng tránh mà mọi người vẫn dành cho hắn từng ngày.
Bát cháo hành bốc khói gợi nhiều cảm xúc trong Chí. Trong lòng hắn vui, buồn, ăn năn, cứ hỗn độn. Chí nói với Thị Nở những lời chân thành, giản dị, cử chỉ, điệu bộ đáng yêu. Giờ đây, Chí thèm sống cuộc đời lương thiện ghê gớm. Chí đặt tất cả niềm hi vọng và Thị Nở. Thị sẽ là nhịp cầu nối hắn với cuộc sống lương thiện.
Nhờ sự quan tâm của thị Nở và bát cháo hành thần diệu, vừa giải cảm vừa giải độc trong Chí, khiến Chí thực sự thức tỉnh và muốn trở về cuộc đời lương thiện. Bản chất của Chí Phèo chưa hoàn toàn mất đi mà chỉ ngủ quên trong lốt quỷ. Thị Nở như một cơn gió thần thổi vào làm thức tỉnh bản chất lương thiện trong Chí. Tình yêu có sức mạnh cảm hóa con người.
Đoạn văn miêu tả Chí Phèo thức tỉnh là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và vút lên tư tưởng nhân đạo của tác giả.
Lời của bà cô Thị Nở: ngăn cấm Thị Nở lấy Chí phèo. Định kiến tàn nhẫn của xa hội không chấp nhận cho Chí Phèo hoàn lương và cũng không chấp nhận hắn trở lại làm người lương thiện.
Sự việc ấy khiến Chí Phèo nghĩ ngợi. Hắn chợt hiểu ra nhiều điều rồi hắn ngẩn người, ngẩn mặt nhận ra sự thật phũ phàng: Hắn thấy sắp xa cách thị Nở, xa cách cuộc sống ước mơ. Hắn vội đuổi theo Thị Nở, cố níu kéo nhịp cầu lương thiện. Trong hắn vẫn còn nhiều lắm khát khao cháy bỏng cuộc sống lương thiện và yên bình.
Thế nhưng, những câu nói tỉnh bơ của Thị Nở đã cắt đứt sợ dây ràng buộc mỏng manh giữa hắn và cuộc đời. Đau đớn tột cùng, Chí lại tìm đến với rượu. Hắn đi uống rượu để say, để quên. Nhưng đến khi tỉnh ra, hắn thêm thấm thía nỗi đau của một người bị hắt hủi nên “ôm mặt khóc rưng rức”. Rượu cũng không thể giúp Chí quên đi bản thân mình được. Hắn vẫn sống. Nghĩa là hắn vẫn bị cuộc đời ruồng bỏ. Chí phèo hoàn toàn bế tắc và rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn: bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
Quá tuyệt vọng, Chí Phèo quyết trừng phạt kẻ đã dám từ chối hắn, dám làm cho hắn đâu khổ. Không ai khác đó chính là Thị Nở và bà cô của thị. Chí uống rượu rồi vác dao đi. Chí định dạy cho bà cô một bài học như cách Chí đã từng dạy những kẻ chống đối khác.
Run rủi thay, như một thói quen, cũng có thể là Chí đã nhận ra kẻ đã gieo rắc khổ đau lên cuộc đời Chí, bước chân kẻ say đảo hướng đến nhà bá Kiến.
Lần thứ 3, Chí Phèo đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện: “Tao muốn làm người lương thiện”. Chí nhận ra kẻ thù của mình. Câu nói “Ai cho tao lương thiện” thể hiện sự tuyệt vọng cùng cực, là câu hỏi nhức nhối như lời tố cáo, lên án xã hội phi nhân tính đã quyết đi quyền sống của một con người. Hành động giết Bá Kiến chứng tỏ Chí phèo đã thực sự nhận ra kẻ thù, mâu thuẫn gay gắt chỉ có thể giải quyết bằng sự sống còn.
Giết xong bá Kiến, Chí Phèo cũng tự kết liễu đời mình. Hắn ý thức được nhân phẩm muốn trở về nhưng không được xã hội chấp nhận. Chí Phèo chết để bảo vệ nhân phẩm. Chết trên đường trở về hoàn lương. Cái chết không lối thoát. Đó cũng là số phận bi thảm của người nông dân trước cách mạng qua đó tác giả muốn lên án, tố cáo xã hội thực dân, phong kiến đương thời.
Nam Cao đã xây dựng thành cong nhân vật điển hình. Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo bậc thầy. Kết cấu truyện mới mẻ, biến chuyển linh hoạt, bất ngờ. Nghệ thuật kể hấp dẫn, lôi cuốn vừa lạng lùng vừa ấm áp tình người. Giọng điệu linh hoạt, phong phú. Ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa, độc thoại nội tâm kết hợp khéo léo với văn tự sự tạo hiệu quả cho việc đi sâu phân tích tâm lí nhân vật, giàu hình ảnh, gần với lời ăn, tiếng nói hàng ngày.
Truyện ngắn Chí Phèo mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ; đồng thời là lời kết tội đanh thép xã hội thực dân – phong kiến đẩy con người vào bi kịch cùng cực, bế tắc, tuyệt vọng. Cái chết của Chí chính là sự chiến thắng của lương tâm. Chí Phèo gắng gượng về với xã hội con người, chỉ cần mở cửa là trở về nhưng nó lại đóng sầm lại trước mặt Chí. Nếu Chí không chết, Chí lại sẽ trở về cuộc sống của loài quỹ dữ. Chí chết trên ngưỡng cửa trở về với xã hội loài người. Sự thức tỉnh khiến y nhận ra được giá trị của sự lương thiện, thà chọn cái chết còn hơn là quay về cuộc sống loài quỹ, loài thú như trước đây. Tuy chỉ sống có 5 ngày ngắn ngủi nhưng Chí Phèo đã sống, và chết, như một con người.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 25
Ở phần đầu truyện ngắn Chí Phèo, tác giả kể về nguồn gốc của nhân vật chính. Đó là một đứa bé bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng cạnh chiếc lò gạch bỏ hoang giữa đồng không mông quạnh. Tuổi thơ của nó bơ vơ, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ, không người thân thích, không một tấc đất cắm dùi, không được ai ban cho chút tình thương. Đó là cuộc đời khốn khổ của kẻ cùng hơn cả dân cùng ở nông thôn trước Cách mạng. Chí Phèo phải chịu đựng mọi nỗi bất hạnh như bao nông dân nghèo cực khác, nhưng điều bất hạnh lớn nhất là hắn không được sống bình thường ngay cả trong cuộc đời nghèo khổ lương thiện của mình. Chí Phèo bị xã hội cướp đi cả bộ mặt người cùng tính người, bị biến thành con quỷ dữ và bị gạt bỏ không thương tiếc ra khỏi cộng đồng làng xã.
Chí vốn là một chàng trai nông dân hiền lành, chất phác. Chỉ vì cơn ghen bóng gió của lí Kiến mà Chí Phèo bị đẩy vào tù. Bảy, tám năm bị đày đọa trong tù, chung đụng với lớp người dưới đáy xã hội, tâm hồn Chí Phèo đã bị nhuộm đen. Từ một anh Chí lương thiện, ra tù hắn trở thành Chí Phèo với bộ mặt gớm ghiếc và tâm hồn tội lỗi. Cái phần người trong Chí Phèo đã bị thui chột, từ mặt mũi đến nhân cách đều biến tướng thành dị dạng, đáng sợ. Người ta thấy hắn say rượu triền miên và luôn mồm chửi bới tục tằn. Dân làng đều xa lánh, sợ hãi và ghê tởm hắn.
Bọn thống trị trong làng mà tiêu biểu là bá Kiến – kẻ đã biến cuộc đời Chí thành bi kịch – giờ đây lại dùng thủ đoạn nham hiểm và sức mạnh đồng tiền để sai khiến và sử dụng Chí Phèo như con dao trong tay đồ tể, gây họa cho bao người.
Chí Phèo phản ứng gay gắt, quyết liệt với xã hội bằng thái độ ngang ngược, liều mạng, gây gổ, chửi bới… Lúc nào hắn cũng say, lúc nào cũng sẵn sàng rạch mặt ăn vạ, kêu làng. Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại người ta giao cho hắn làm. Hắn biết đâu, vì hắn làm tất cả những việc ấy trong khi say: hắn say thì hắn làm bất cứ thứ gì người ta sai hắn làm. Quá trình biến đổi dữ dội trong tính cách này của nhân vật tố cáo sự hủy hoại ghê gớm đối với phẩm chất, nhân cách của người lao động do xã hội cũ thối nát gây nên.
Chí Phèo là biểu hiện của nỗi đau khổ khôn cùng của con người sinh ra là người mà không được làm người. Để quên đi nỗi bất hạnh ấy, Chí Phèo uống rượu. Say rượu triền miên nên hầu như hắn bị tê liệt về ý thức, sống mù tối trong kiếp sống thú hoang. Nhưng đến lúc tỉnh rượu thì hắn lại cảm nhận sâu sắc thân phận bi đát của mình.
Trong một cơn say bí tỉ, vô tình Chí Phèo gặp Thị Nở, người đàn bà xấu xí, đần độn và quá lứa lỡ thì. Chút tình thương yêu mộc mạc, tự nhiên của Thị Nở đã đốt cháy lên ngọn lửa lương tri còn leo lét nơi đáy lòng Chí, đánh thức bản chất lương thiện vốn có trong con người hắn. Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm gặp Thị Nở chứng tỏ Nam Cao xứng đáng bậc thầy về phân tích tâm lí nhân vật.
Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy, lòng bâng khuâng mơ hồ buồn. Bên ngoài là tiếng chim hót vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng cười nói, bàn tán của những người đàn bà đi chợ về… Bao âm thanh quen thuộc của cuộc sống bấy lâu nay hầu như Chí Phèo không hề nghe thấy, bởi hắn luôn chìm ngập trong những cơn say. Hôm nay, những âm thanh ấy vọng đến tai hắn, bỗng trở thành tiếng gọi thôi thúc của sự sống và đã lay động sâu xa tâm hồn Chí Phèo, gợi dậy cái mơ ước chính đáng một thời: hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm… Đó cũng là mong muốn của bao nông dân nghèo trong xã hội cũ.
Trái tim tưởng chừng như chai đá vì thù hận của Chí Phèo đã dần dần sống dậy khiến cái phần người trong hắn cũng hồi sinh. Hắn khao khát được trở lại cuộc sống bình thường, được làm hòa với mọi người. Thị Nở sẽ là cây cầu nối giữa hắn với dân làng Vũ Đại… Chí Phèo bâng khuâng, háo hức nghĩ tới một tương lai tốt đẹp.
Nhưng chút tình thương yêu của Thị Nở không đủ mạnh để cứu Chí Phèo. Con đường trở lại làm người của hắn vừa hé mở đã bị đóng sầm lại. Định kiến xã hội (thông qua bà cô Thị Nở) không cho hắn đặt chân lên nhịp cầu hi vọng. Chí Phèo một lần nữa bị hắt hủi, ruồng bỏ phũ phàng. Hụt hẫng và rơi vào vực thẳm tuyệt vọng, hắn ôm mặt khóc rưng rức và lại tìm đến rượu.
Thống thiết thay là tiếng kêu của Chí Phèo cuối tác phẩm: Tao muốn làm người lương thiện!… Ai cho tao lương thiện?… Tao không thể làm người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách… biết không!
Căm thù cao độ và không còn lối thoát, Chí Phèo đã giết bá Kiến rồi tự sát, lấy sự hủy diệt đời mình để giải quyết sự bế tắc của số phận. Nỗi đau của Chí Phèo là không được làm người, không được nếm trải những vui buồn sướng khổ của đời người.
Chí Phèo chết trong niềm đau thương tột cùng bởi khát khao mãnh liệt được làm người đã bị dập tắt. Câu hỏi cuối cùng trong những phút giây tỉnh táo nhất của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện? chứa chất nỗi phẫn uất, đau đớn, làm day dứt lương tâm người đọc cho tới bây giờ.
Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao muốn đặt ra một vấn đề nhân sinh lớn: Làm thế nào để con người được sống đúng nghĩa là người trong cái xã hội tàn bạo, phi nhân tính đương thời? Tác phẩm mang ý nghĩa triết lí sâu sắc được thể hiện dưới hình thức nghệ thuật vô cùng độc đáo đã đưa nhà văn lên vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 26
Có thể nói Chí Phèo là một trong những tác phẩm hay nhất của nhà văn Nam Cao viết về người nông dân nghèo khổ trong xã hội cũ – một đề tài chưa bao giờ cũ trong văn chương hiện thực. Chỉ có cách thể hiện của mỗi nhà văn là khác nhau. Tuy nhiên họ đều hướng tới những giá trị căn bản của một tác phẩm văn học hiện thực: nói lên sự thật về cuộc đời của nhân vật và xã hội, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người, đồng thời xoáy sâu vào lời tố cáo tội ác của những kẻ cầm quyền tàn ác bất nhân. Mà ở đó, Chí Phèo là một trong những nhân vật điển hình cho người nông dân bị áp bức bóc lột tới bước đường cùng, thậm chí bị tước đoạt cả quyền làm người và quyền sống giữa cộng đồng người. Nam Cao đã dành cho Chí những lời văn hết sức chân thật và xúc động.
Cuộc đời Chí là một chuỗi những cay đắng, bất hạnh nối tiếp nhau. Ngay cả việc Chí có mặt trên cõi đời này đã là một nỗi khổ bất đắc dĩ mà Chí phải gánh chịu. Bởi Chí không cha không mẹ, Chí bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ hoang tàn. Dân làng Vũ Đại nhặt được Chí đem về nuôi. Theo thời gian, Chí lớn lên từng ngày, đi ở hết nhà này đến nhà khác để kiếm miếng cơm manh áo nuôi thân. Nhưng cuộc đời nghèo khó đâu để yên cho Chí sống trong kiếp nô lệ yên bình như thế. Chí lưu lạc tới nhà Bá Kiến. Lúc đó Chí đã là một chàng thanh niên đang tuổi xuân phơi phới. Chí hiền lành, chịu khó. Nhưng lại vướng phải nanh vuốt của bà ba dâm đãng, Ba Kiến ghen tuông, còn bà ba trở mặt lăng loàn, đẩy Chí vào tù. Nỗi hận uất ức cùng những năm tháng tù đày biến Chí trở thành một con người hoàn toàn khác khi trở về làng Vũ Đại. Chí được tự do. Chí không phải ở cho bất cứ nhà nào. Nhưng Chí lại bị chính cái phần con trong con người mình điều khiển. Chàng trai hiền lành chất phác ngày nào nay trở thành con quỷ dữ khiến cả làng Vũ Đại khiếp sợ. Một mặt Chí trở thành tay sai của Bá Kiến, một mặt lại đi kiếm tìm con người lương thiện trước đây của mình. Cho tới khi gặp Thị Nở, bản tính Chí trở về nhưng chỉ trong chốc lát Chí lại bị đẩy xuống vực sâu khi Thị Nở đỏng đảnh chối bỏ tình cảm của Chí. Chí uất ức đi tìm Bá Kiến, giết Bá Kiến rồi tự tử để được làm người lương thiện.
Những chuỗi cay đắng cứ thế nối tiếp trong cuộc đời đằng đẵng của Chí. Toàn bộ tác phẩm như một tấm bản đồ với những đường ngoằn nghèo khúc lên khúc xuống. Ở đó, những thung lũng sâu thẳm, những đường nét đứt quãng rời rạc là con đường dành cho Chí. Ban đầu, Chí cũng đẹp lắm. Đẹp cả ngoại hình lẫn tính cách. Chí không cha không mẹ nhưng điều đó không làm ảnh hưởng tới nhân cách của Chí. Chí vẫn chịu khó làm thuê làm mướn để kiếm cái ăn cái mặc cho mình. Nhưng một bước ngoặt lớn đã xảy ra trong cuộc đời Chí khi Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù.
Từ ngày ra tù, Chí trở thành con quỷ dữ đáng sợ của làng Vũ Đại. Trong những phút giây tĩnh lặng, có khi nào lòng trắc ẩn của Chí thức tỉnh và Chí tự cảm thấy sợ con người hiện tại của chính mình không nhỉ? Phải chăng vì điều đó mà Chí vung tay chửi cả làng Vũ Đại với những lời lẽ chua ngoa nhất, xót xa nhất? Đó là cách duy nhất Chí lựa chọn để giao tiếp với mọi người. Nhưng thật đáng tiếc là cách làm của Chí khiến mọi người càng xa lánh Chí hơn. Với bộ dạng hiện tại và nỗi hận sâu sắc trong lòng, Chí không thể nào phát ra được những lời lẽ tử tế, nhẹ nhàng với mọi người được. Mặt khác, vốn dĩ dân làng cũng đã có định kiến không tốt về những kẻ đi ở tù về. Khoảng cách giữa Chí và xã hội ngày càng lớn. Những tiếng chửi của Chí nghe đầy chua xót và oán than. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng tự nhủ: ”Chắc nó trừ mình ra!”. Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều. Tiếng chửi và cũng là lời khóc than của một kẻ giờ đây không còn được xã hội nhìn nhận. Ngay cả tiếng chửi đầy xúc phạm và ô uế cũng không được bất kỳ một ai để ý. Nếu là người bình thường phát ra những tiếng chửi ấy, thế nào cũng sẽ có cãi nhau to. Nhưng người đó lại là Chí, là kẻ đã chẳng còn là con người, chẳng được ai để ý. Thế nên tiếng chửi dù chua chát đến mấy cũng chỉ như một tiếng động vô nghĩa rót bên ngoài tai mọi người. Cho tới tận cùng, Chí chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo. Không biết đứa chết mẹ nào lại đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này. Người nghe tưởng như Chí đã hóa điên hóa dại. Nhưng không, Chí vẫn nhận thức được hoàn cảnh của mình, nỗi khổ của mình. Chí oán hận cuộc đời, oán hận cả người đã sinh ra mình rồi bỏ mình trên cõi đời này. Có người nói rằng Chí ra nông nỗi này là do chính bản thân Chí không giữ vững được tâm tính của mình. Chí có thể không cần phải chửi, cũng không cần phải lao đầu vào riệu, thay vào đó là tiếp tục đi làm thuê làm mướn như trước đây để kiếm sống qua ngày. Rồi dần dần người ta sẽ lại nói chuyện với Chí. Nhưng điều đáng buồn là xã hội lúc bấy giờ không chấp nhận một kẻ tù tội như Chí. Hơn nữa, mối hận thù trong Chí quá lớn. Chí bị tù oan. Ai là người bị oan mà không ôm hận? Chí cũng vậy thôi. Trong thâm tâm Chí vẫn muốn được làm hòa với mọi người lắm. Nhưng bộ dạng của Chí lúc này khiến ai cũng khiếp sợ. Nam Cao là người dựng lên Chí còn dành cho Chí một câu rợn người: Trông gớm chết. Cứ thế Chí bước vật vờ qua từng trang văn, qua từng ngõ ngách của làng Vũ Đại với thân hình của một con quỷ dữ: Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Với bộ dạng ấy, Chí rất xứng với “nghề” ăn vạ. Cứ uống rượu say, Chí lại đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ. Dường như mối hận ngày nào làm Chí mất đi cảm giác đau đớn về thể xác. Chí rạch lên mặt những đường nét chằng chịt. Bao nhiêu lần máu chảy, Chí chẳng hề gì. Càng hận, Chí càng uống rượu, đã uống rượu là lại chửi. Hết rượu lại đi ăn vạ. Cứ như thế ngày này qua ngày khác, Chí thực sự trở thành nỗi đáng sợ của làng Vũ Đại. Nhưng lại vô tình trở thành tay sai đắc lực cho nhà Bá Kiến, giúp hắn đi đòi nợ, đi đâm thuê chém mướn. Tiếng tăm của Chí lại càng nổi hơn.
Cho tới một ngày, Chí gặp Thị Nở. Cuộc đời Chí lại một lần nữa bước sang một trang mới. Tuy nhiên trang này sáng sủa hơn, tràn đầy niềm tin và hi vọng. Bởi ở đó có tình yêu. Phải chăng người ta thường nói tình yêu là mù quáng. Và vì mù quáng nên hai con người bần cùng nhất của xã hội đã ngã vào nhau? Chí Phèo, Thị Nở, một kẻ dở hơi, một kẻ đã biến thành quỷ dữ, họ lao vào nhau, rồi tự dưng gắn kết với nhau. Chẳng hiểu tình yêu có sức mạnh ghê gớm như thế nào mà đã làm cho hai con người tưởng chừng như không còn ý thức về thân phận mình nay lại tự chủ mang tình yêu đến cho nhau. Chí gặp Thị trong lúc đang say rượu, còn Thị đang nằm ngủ bên gốc chuối. Có thể trong khoảnh khắc ấy, niềm đam mê thân xác khiến họ ngã vào nhau, nhưng sau đó họ không rời đi, mà lại càng gắn bó với nhau hơn. Lúc này tình yêu đã xuất hiện. Chí ngã vào thị trong cơn say, nhưng lại yêu thị trong lúc đã thức tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một con say rất dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay không buồn nhấc. Hay là đói rượu? Nghĩ đến rượu, hắn hơi rùng mình. Ruột gan lại nôn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn! Một nỗi buồn tê tái. Lẽ ra có người yêu, Chí phải vui mới đúng. Nhưng chính vì vui mà Chí lại thấy buồn. Buồn vì mình đã bỏ lỡ cuộc sống bao lâu nay. Buồn vì những cơn say triền miên quá dài đã lấy đi của Chí những khoảnh khắc tươi đẹp trong cuộc đời. Buồn vì Chí đã không mạnh mẽ làm chủ được bản thân mình, để cho men rượu điều khiển, lấp chìm trong những u mê. Buồn vì tại sao không được gặp Thị sớm hơn, để thức tỉnh sớm hơn. Chí buồn. Một nỗi buồn của một con người thực sự.
Thì ra, Chí vẫn là một người đầy lòng lương thiện. Chỉ là bao lâu nay lòng lương thiện ấy bị che lấp bởi những hận thù và những cơn say. Giờ đây Chí đang rất tỉnh. Chí nhận thức rõ bản thân mình. Chí nhớ tới ước mơ xa xôi ngày nào. Chí đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vài. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Ước mơ thật giản dị và thanh cao biết bao. Nếu Chí không đi tù, có lẽ giờ này Chí đang thực hiện ước mơ ấy rồi. Nhưng ở đời ai có thể nói trước được điều gì? Sau những biến cố đầy bi thảm, giờ này đây lòng trắc ẩn của Chí đang trỗi dậy. Nam Cao đã viết thế này: Tỉnh dậy hắn thấy hắn già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho cuộc đời! Có lí nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu… Dẫu sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là chất độc, đày đọa cực nhọc, mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể là dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau. Lúc này đây hơn bao giờ hết Chí khát khao được làm hòa với mọi người. Và Thị Nở là sợi dây duy nhất kết nối Chí trở lại với xã hội loài người.
Bát cháo hành thị dành cho Chí càng khiến Chí xúc động và suy nghĩ nhiều hơn. Cuộc đời Chí chưa bao giờ được ai cho cái gì, nhất là từ một người đàn bà. Xưa nay Chí vẫn phải giành giật mới có được. Vậy mà nay Chí lại được thị dành cho một bát cháo hành thơm ngon, lại đậm đà hương vị của tình yêu. Chí cảm thấy yêu cuộc đời này hơn. Và Chí cũng tự nhủ sẽ bỏ rượu, sẽ làm lại từ đầu, sẽ xây dựng tiếp ước mơ còn dang dở ngày nào.
Nhưng đáng tiếc, thị lại là một người dở hơi. Đang sống vui vẻ hạnh phúc với Chí, thị nhớ lại mình còn có người ba cô ở đời. Thị phải về hỏi ý kiến bà. Bị bà chửi, thị tức giận quay lại trút hết lên đầu Chí. Chí đang bâng khuâng, đang say trong men say tình ái thì bị thị dội ngay cho một gáo nước lạnh. Chí níu lấy bàn tay thị với chút hi vọng cuối cùng. Nhưng rồi tia hi vọng ấy cũng vụt tắt. Thêm một lần nữa Chí rơi vào bi kịch bị cự tuyệt làm người. Những tưởng thị sẽ cùng Chí sinh con đẻ cái, cùng gây nên một mái âm nho nhỏ. Nhưng mọi thứ đã không mỉm cười với cuộc đời đầy bi đát của Chí. Trong cơn tuyệt vọng, Chí lại lấy rượu ra uống, uống cho quên hết mọi chuyện. Nhưng càng uống lại càng tỉnh. Hơi cháo hành thơm nồng hòa lẫn với men rượu làm Chí càng đớn đau hơn. Chí đã yêu, yêu rất thật lòng. Ai khi yêu mà không buồn khi bị người yêu chối bỏ? Hơn nữa Chí lại là người đang khát khao được yêu, được làm người. Nỗi đau trong Chí càng lớn hơn, khắc khoải hơn. Chí lại như một con quỷ dữ tạm ngủ quên trong tình yêu, nay vùng dậy và nhất định lần nay con quỷ dữ ấy phải giết chết một ai đó mới có thể hả giận.
Chí toan tính đến giết chết hai cô cháu nhà thị Nở vì đã cự tuyệt mình. Nhưng bước chân Chí lại bước đến nhà Bá Kiến. Trong lúc nửa tỉnh nửa say, mối hận thù ngày nào lại trào dâng trong Chí, đưa bước chân Chí tiến thẳng tới kẻ đã hại đời Chí ra nông nỗi này. Lần này Chí không tới để đòi tiền uống rượu nữa mà Chí tới để đòi quyền được làm người lương thiện. Chí đã nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Chí muốn được làm hòa với mọi người nhưng không được. Từ khi bị vào tù, mọi người đã nhìn nhận Chí là một con người khác. Ra tù trở về làng, ai cũng khinh ghét Chí. Đã thế, cha con Bá Kiến lại lợi dụng Chí, biến Chí thành kẻ đâm thuê chém mướn, cho tới khi không còn ai nhìn nhận Chí nữa thì Thị Nở xuất hiện kéo Chí dậy. Nhưng cho tới cùng, thị cũng lại hắt hủi Chí. Giờ đây Chí không thể nào ngóc dậy được nữa. Chí cảm thấy mình đang sống khổ hơn là chết. Càng sống, Chí lại càng làm nên tội ác, càng khiến mọi người xa lánh và khinh bỉ. Thế nên, Chí xác định con đường cuối cùng của mình chỉ có thể là cái chết. Chí lao tới đâm chết Bá Kiến bằng những nhát dao chí mạng, bao nhiêu uất hận Chí dồn hết vào con dao. Bá Kiến chết, Chí cũng tự tử chết luôn.
Chí chọn cái chết vì Chí biết trước rằng kiểu gì Chí cũng sẽ bị xử chết vì tội giết Bá Kiến. Sống thêm ngày nào chỉ khổ thêm ngày đó. Vì vậy thà Chí tự kết liễu cuộc đời mình còn hơn để rơi vào tay bọn quan liêu đáng ghét kia.
Chí chết, nhưng lại có một Chí Phèo con đang lớn dần lên trong bụng thị Nở. Bá Kiến chết còn có Lý Cường tiếp nối. Cuộc đời người nông dân vẫn còn khổ nhiều. Chí Phèo chỉ là một trong những đại diện tiêu biểu cho lớp người bị bần cùng hóa tới mức đánh mất cả nhân tính, bị tha hóa cả về thể xác lẫn tâm hồn. Đồng thời, qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao cũng thể hiện niềm cảm thương sâu sắc tới những cuộc đời nổi trôi bất hạnh, sống trong chế độ phong kiến tàn ác bất nhân. Ở đó, họ không được làm chủ bản thân mình, luôn bị đe dọa bởi những thế lực cầm quyền gian ác. Ông cũng thầm tố cáo tội ác của giai cấp thống trị đã đẩy người nông dân vào bước đường cùng, khiến họ sống không bằng chết.
Tác phẩm khép lại nhưng hình ảnh về một anh Chí hiền lành chất phác cùng với hình ảnh một con quỷ dữ chuyên đi rạch mặt ăn vạ mang tên Chí Phèo vẫn để lại những niềm cảm thương sâu sắc trong lòng người đọc. Không chỉ một Chí Phèo mà còn rất nhiều Chí Phèo đang tồn tại trong xã hội ấy. Bằng lời văn chân thật, giàu cảm xúc, nhà văn Nam Cao đã khắc họa thành công nhân vật điển hình của mình. Từ đó cho người đọc cảm thấu hoàn cảnh bi đát của những người nông dân trong xã hội xưa.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 27
Trong văn học Việt Nam có rất nhiều tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, Nam Cao là một trong số những tác giả tiêu biểu in dấu ấn sâu đậm. Trước cách mạng tháng Tám, Nam Cao chủ yếu viết về số phận bần cùng của những người nông dân trong xã hội cùng với đó là tầng lớp trí thức tiểu tư sản giàu ước mơ, giàu khát vọng nhưng bị cơm áo gạo tiền ghì sát đất. Trong số những tác phẩm để đời của mình, tác phẩm Chí Phèo là một trong những tác phẩm nổi bật nhất, phản ánh chân thực tình cảnh tha hóa, bần cùng hóa của người nông dân trong xã hội cũ. Chí Phèo từ một con người thiện lương trong sáng đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, đó chính là hồi chuông cảnh tỉnh phê phán xã hội tàn ác đã biến đổi con người.
Số phận cay đắng nghiệt ngã đã khiến cho Chí Phèo sinh ra không cha không mẹ, Chí lớn lên bởi bàn tay yêu thương của người dân làng Vũ Đại, năm 20 tuổi Chí trở thành anh canh điền khỏe mạnh làm việc cho nhà Bá Kiến, Chí ôm ấp những giấc mơ những mộng tưởng của mình, nhưng than ôi khi mộng tưởng và giấc mơ chưa thành sự thật, Chí đã bị cuộc đời giáng cho số phận hẩm hiu đau khổ. Chí được bà ba kêu lên bóp chân khi còn làm canh điền cho nhà Bá Kiến, nhưng không ngờ vì cơn tức giận, Bá Kiến đã tống Chí vào tù, ở tù nhiều năm Chí đã thay đổi hình dạng và tính cách không còn là anh canh điền khỏe mạnh, hiền lành như ngày xưa mà bây giờ đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Chí trở về với hình hài: “Cái đầu tròn trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, hai mặt gườm gườm trông gớm chết, trông đặc như thằng săng đá”. Hình hài của Chí đã bị hủy hoại bởi nhà tù thực dân, đáng sợ hơn Chí còn bị hủy hoại cả nhân tính. Vừa ra tù, trở về làng Vũ Đại Chí đã ngồi uống rượu, chí uống ssay vừa đi vừa chửi. Tiếng chửi của Chí có lớp lang từ trên xuống dưới, Chí chửi trời, chí chửi đời, chửi cha mẹ đứa nào đã đẻ ra Chí, Chí chửi cả người dân làng Vũ Đại nhưng không có ai đáp lại lời Chí, tiếng chửi của Chí trở nên vô nghĩa, thừa thải, đáp lại là tiếng sửa của mấy con chó trong làng, chỉ với cách miêu tả tiếng chửi Chí Phèo, Nam Cao đã cho thấy đươc sự méo mó về nhân cách của người nông dân trong xã hội cũ khi bị xã hội thực dân phong kiến nhào nặn, bóp méo. Tiếng chửi của Chí bị hạ ngang bậc với những con chó trong làng, Chí Phèo bị mọi người coi khinh xem thường thậm chí người ta gọi chí là con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Từ đây chúng ta thấy nhân vật Chí Phèo đang từng bước đi vào con đường tha hóa, bần cùng hóa về nhân cách lẫn hình hài. Cuộc đời của Chí trở nên bi đát ngay từ lúc Chí bị vu oan, bị bỏ tù. Chí Phèo vừa về đến làng Vũ Đại Chí đã đến ngay nhà Bá Kiến để đòi nợ, nhưng Chí Phèo đâu thể hơn được sự lọc lõi rành đời của Bá Kiến, ông Bá thét ra lửa ấy đã biết cách đảo ngược tình thế, tận dụng Chí Phèo, mua chuộc Chí đến nỗi Chí trở thành tay sai của Bá Kiến. Chí Phèo vẫn không ý thức được sự nham hiểm của người đã hại mình. Lần thứ hai Chí đến nhà Bá Kiến, nhưng lại bị Bá Kiến lợi dụng trở thành kẻ đi đòi nợ Đội Tảo. Rõ ràng trong con mắt của Bá Kiến Chí trở thành kẻ tay sai không hơn không kém, Bá Kiến tìm mọi cách lợi dụng Chí để thực hiện mưu đồ của chính mình. Tấn bi kịch ấy sẽ tiếp tục kéo dài không dứt nếu như một ngày nọ, Chí tình cờ gặp Thị Nở. Tình yêu giữa Chí Phèo và thị đã nảy nở sau lần Chí say khướt, tỉnh dậy Chí được thị Nở cho bát cháo hành, thật kì lạ, bát cháo hành đơn giản ấy đã đánh thức trong Chí sự lương thiện bấy lâu nay bị lãng quên, bị chà đạp thậm chí, bị bán rẻ. Chí từng nhớ lại giấc mơ hồi trẻ của mình Chí mong có một ngôi nhà nhỏ, vợ cày thuê chồng cuốc mướn, khá hơn thì mua trâu để xây dựng gia đình mình, Chí nhớ lại thời trai trẻ rất đỗi huy hoàng của mình. Nhưng than ôi, hiện thực mà Chí phải đối mặt hiện giờ đau khổ quá, bẽ bàng quá, Chí Phèo muốn làm lại cuộc đời, nhưng không biết bắt đầu từ đâu và Thị Nở trở thành tia hy vọng thắp sáng cuộc đời Chí. Ngoài Thị Nở ra trong làng Vũ Đại không có ai giúp đỡ, bênh vực hay lo lắng cho Chí, Thị Nở đã tách ra khỏi đám đông để đến với Chí thức dậy trong Chí con người thiện lương, cao đẹp từ bao giờ, thị là thanh âm thuần khiết nhất, là chiếc cầu nối là tia hi vọng sẽ đưa Chí từ cuộc đời tăm tối trở về với cuộc đời của con người bình thường, trở về với những ước mơ thời trẻ ngày nào của Chí. Nhưng thật không may giấc mơ chỉ là giấc mơ, hiện thực không bao giờ được như mong ngóng của Chí Phèo, Chí muốn sống bình yên, lương thiện, hạnh phúc nhưng điều đó không dễ dàng, bởi cả làng Vũ Đại đã mặc định Chí là con quỷ dữ, là kẻ phá làng phá xóm, là một thằng đi ở tù vể gây hại cho xóm làng. Chí không xứng đáng có được một cuộc sống bình yên, cũng như một gia đình hạnh phúc, Chí phải bị trừng trị, phải chịu cảnh xa lánh, khinh rẻ của mọi người. Có lẽ khi đang mãi mộng mơ một cuộc sống yên bình với Thị Nở Chí Phèo không nghĩ đến điều này. Chí vẫn nghĩ một cách giản đơn nếu bản thân thay đổi thì cuộc đời sẽ trở nên bớt nhọc nhằn hơn với Chí. Sự quan tâm, săn sóc của Thị Nở đã khiến Chí cảm động, đã khiến Chí lại khát khao được sống được hòa nhập. Nhưng Chí đâu có biết rằng, định kiến một khi đã tồn tại sẵn thì rất khó thay đổi. Bà cô Thị Nở – một nhân vật được Nam Cao xây dựng với dụng ý thể hiện rõ quan điểm của người dân làng Vũ Đại đã không chấp nhận Chí Phèo, bà ngăn cản Thị đến với Chí, bà dành những lời mỉa mai cay độc dành cho Chí, bà phá tan hạnh phúc của cháu bà với Chí. Thị nở người phụ nữ xấu ma chê quỷ hờn, nhưng có trái tim lương thiện tin theo lời bà cô của thị, rời bỏ Chí khi thắp sáng lên niềm hi vọng được trở lại làm người cho Chí. Giấc mộng của Chí phèo tan vỡ khi thị nở rời xa Chí, Chí đau khổ, cảm thấy cô đơn, lạc lõng, mất hi vọng vào bản thân. Chí oán thù con người, Chí lại uống rượu những bước chân chếnh choáng dẫn chí đến nhà Thị Nở nhưng lý trí lại mách bảo phải đi về nhà Bá Kiến. Có lẽ trong sự đau khổ đến tận cùng, Chí thức tỉnh, Chí biết kẻ nào đã gây ra cho Chí những cảnh bi đát này, không phải là bà cô Thị nở, không phải là Thị Nở khi rời bỏ Chí mà chính là Bá Kiến, chính hắn đã khiến đời Chí tan nát, vì thế hắn phải trả giá. Chí vác dao đến Nhà Bá Kiến, lần này không phải để đòi tiền uống rượu cũng không phải để trở thành tay sai của Bá Kiến mà Chí đến để đòi nợ, Chí đòi lại những gì đã mất trong suốt những năm tháng sống ở trên đời: Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất hết những vết chai này? Chí Phèo văng dao tới giết chết Bá Kiến và tự kết thúc cuộc đời mình. Cái chết của Chí Phèo không còn vô nghĩa như những tiếng chửi trước đây của Chí, Chí chết để thành người, Chí biết ngọn nguồn của mọi đau khổ và kết thúc nó. Chí đã có tình yêu thật đẹp với Thị Nở, chính thứ tình yêu ấy khiến Chí thêm can đảm kết thúc nguyên nhâm gây ra nỗi đau của Chí. Nếu như ngày trước Chí sống như một con vật chỉ biết đâm thuê chém mướn, phá hoại sự bình yên của dân làng, thì giờ đây Chí đã chết như một con người khi biết nhận thức những sự việc ở xung quanh mình, biết cảm nhận tình yêu, biết nỗi khổ đâu đớn của mình xuất phát từ đâu. Tác giả để cho Chí Phèo tự kết liễu đời mình đã đưa ra những thông điệp đầy ý nghĩa: Đó là hành động lấy máu rửa thù của người nông dân thức tỉnh về quyền sống vùng lên, tuy manh động, tự phát, liều lĩnh, tuyệt vọng nhưng không phải là hành động lưu manh. Cái chết của Chí đáng thương, là lời tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến đã đẩy người nông dân vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa, đẩy họ tới cái chết bi thảm. Xã hội ấy không có chỗ cho người lầm lạc trở về cuộc sống lương thiện.Thể hiện quan niệm hiện thực nhạy bén của Nam Cao: tình trạng xung đột giai cấp ở nông thôn Việt Nam hết sức gay gắt, quyết liệt, không thể xoa dịu được, chỉ có thể được giải quyết bằng những biện pháp quyết liệt. Môi trường sống thiếu tình thương của làng Vũ Đại đã đẩy Chí Phèo dấn sâu vào con đường lưu manh hóa. Cánh cửa tình thương duy nhất – thị Nở, vừa hé mở đã đóng sập lại, Chí Phèo bị cự tuyệt hoàn toàn và sự bế tắc đã lên đến đỉnh điểm, dẫn tới sự bừng ngộ ngẫu nhiên mà tất yếu, dẫn tới kết cục bi thảm. Môi trường sống có thể cứu vớt hoặc vùi lấp con người. Chí Phèo không phải là hiện tượng cá biệt mà là hình tượng điển hình có tính phổ biến trong xã hội bấy giờ. Xây dựng nhân vật Chí Phèo Nam Cao đã phản ảnh thực trạng số phận của người nông dân trong xã hội cũ, không chỉ vậy, nhân vật Chí Phèo còn thể hiện sự đau đớn, xót xa, dằn vặt của tác giả khi phải chứng kiến tình trạng bần cùng hóa về nhân hình và nhân tính của người nông dân. Xây dựng nhân vật Thị Nở Nam Cao muốn cho người đọc nhận thấy dù cuộc sống có khó khăn đến cỡ nào thì vẫn có những con người nhân ái giơ tay để che chở, khơi dậy sự lương thiện trong mỗi chúng ta. Tác phẩm Chí Phèo khép lại với rất nhiều suy ngẫm, với nhiều thông điệp bất ngờ mà tác giả truyền tải đến người đọc.
Chí Phèo đã trở thành tác phẩm tố cáo mạnh mẽ xã hội thuộc địa phong kiến tàn bạo đã cướp đi cả nhân hình và nhân tính của người nông dân lương thiện đồng thời nhà văn phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả khi tưởng như họ đã bị biến thành quỉ dữ. Nam Cao đã rất thành công khi sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật: Xây dựng nhân vật điển hình vừa có ý nghĩa tiêu biểu vừa sống động, có cá tính độc đáo và nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo. Kết cấu truyện mới mẻ, tưởng như tự do nhưng lại rất chặt chẽ, logic. Cốt truyện và các tình tiết hấp dẫn, biến hoá giàu kịch tính. Ngôn ngữ sống động, vừa điêu luyện lại vừa gần gũi, tự nhiên; giọng điệu đan xen biến hoá, trần thuật linh hoạt.
Phân tích nhân vật Chí Phèo 28
Chí Phèo – một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, một nhân vật điển hình trên những trang văn đầy ai oán, bi thương của nhà văn Nam Cao. Chính tấm lòng lương thiện và sự căm phẫn những kẻ cầm quyền trong xã hội phong kiến cũ tàn ác bất nhân của Nam Cao đã cho ra đời một Chí Phèo dữ tợn và hung hãn trong tác phẩm cùng tên của ông. Đây cũng chính là sản phẩm của những kẻ bất lương trong giai cấp thống trị, là nhân vật mà khi nhìn vào ta sẽ hiểu được thảm cảnh của xã hội cũ tha hóa và biến chất như thế nào.
Như đã nói, Chí Phèo là đứa con tinh thần của Nam Cao. Ông đã nhào nặn nên nhân vật của mình từ lòng xót thương cho số phận cay đắng của những người nông dân lương thiện bị xã hội xô đẩy, chèn ép đến mức mất cả nhân tính. Họ không còn cách nào có thể đứng lên để làm lại cuộc đời. Chí cũng vậy, anh đã trải qua biết bao nhiêu thăng trầm, và rồi lòng hướng thiện thức tỉnh cũng là khi Chí tự kết liễu cuộc đời mình khi mới ngoài bốn mươi tuổi.
Một cuộc đời hơn bốn mươi năm, không cha không mẹ, không người thân thích. Lúc mới đẻ, Chí bị bỏ rơi ở một cái lò gạch cũ của làng Vũ Đại. Lớn lên, Chí đến ở cho nhà Bá Kiến. Nhưng bà vợ thứ ba lăng loàn của ông đã hại Chí phải vào tù. Cuộc sống tù đày đã làm Chí từ một người lương thiện, hiền lành, tử tế trở thành kẻ hung hãn, dữ tợn. Khi trở về, Chí lại rơi vào tay Bá Kiến, bị hắn nịnh bợ, cho uống rượu nên Chí đương nhiên trở thành tay sai cho hắn, chuyên đi đâm thuê, chém mướn, đòi nợ. Cả làng Vũ Đại không ai còn nhìn nhận Chí nữa. Bị xã hội ruồng rẫy, Chí càng trở nên bê tha và cô độc.
Cả ngày lẫn đêm, không biết Chí tỉnh lúc nào, say lúc nào. Men rượu cứ thế lấp liếm tâm hồn Chí. Những nỗi oan thù hằn sâu trong tâm trí hắn. Vì thế, ngay khi lật giở trang văn đầu tiên của tác phẩm, ta đã thấy ngập tràn những tiếng chửi của Chí. “Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: Đời là tất cả những chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại”. Nhưng chẳng ai thèm đáp lại lời chửi của hắn. Bởi không một ai nhìn nhận Chí là người nữa. Nên dù Chí có chửi thế nào cũng chẳng có nghĩa lý gì.
Nhìn cảnh tượng này, Chí thật đáng thương làm sao! Tiếng chửi tưởng chừng như vô nghĩa, như nước đổ lá khoai, không một ai đoái hoài. Nhưng Nam Cao cố tình dựng lên cảnh này để thấy rằng con người sống trong xã hội bị đàn áp quá mức ấy đã tha hóa, đã biến chất như thế nào. Tiếng chửi của Chí cũng là tiếng khóc lóc thảm thiết, tiếng gào thét trong tuyệt vọng. Khóc vì giờ đây con người của Chí đã bị biến thành con quỷ dữ. Nhưng làm quỷ dữ cũng không xong, vì chẳng ai sợ Chí cả. Họ chỉ khinh Chí thôi. Cuộc đời Chí là đầy rẫy những nỗi bất hạnh. Ngay từ khi sinh ra đã không có được sự nuôi nấng của cha mẹ, không được một giọt sữa, lớn lên không gia đình, phải đi ở thuê. Mà lại ở ngay trong nhà Bá Kiến – kẻ tàn ác, bất nhân vô cùng. Thế nên cũng quá dễ để hiểu tại sao Chí lại trở thành một kẻ nát rượu như bây giờ.
Chí cứ uống rượu, hết rượu lại đến nhà Bá Kiến rạch mặt ăn vạ để đòi tiền. Chí chẳng còn cảm giác đau đớn là gì nữa. Là do men rượu làm Chí mất cảm giác hay là do lòng Chí đã trai sạn quá nhiều? Chí bị Lý Cường đánh, “tiếng đấm, tiếng đá nhau bình bịch, thôi cứ gọi là tan xương”, nhưng chưa đủ, Chí lại tự mình cầm mảnh chai rạch vào mặt, máu ra loe loét. Thấy Chí vậy, mọi người tuôn đến xem nhưng không một kẻ nào xót thương cho Chí. Họ đến như để xem một trò vui thường tình. Cụ bá trở về, thấy vậy liền nịnh hắn vài câu, Chí nguôi ngoai nghe lời cụ. Trong lòng kẻ đầy nham hiểm kia hẳn có âm mưu nên mới dụ dỗ ngon ngọt Chí. Lão muốn lợi dụng Chí trở thành tay sai cho mình. Vì Chí đã sẵn máu liều, nếu để cho đi đòi nợ thuê hẳn là được việc. Từ đấy, Chí lại càng lún sâu thêm vào vũng bùn đen ngòm do Bá Kiến bày ra.
Mãi cho đến khi gặp Thị Nở – một người đàn bà xấu xí, xấu đến ma chê quỷ hờn, xấu đến mức Nam Cao đã phải dành hết tất cả những gì xấu nhất dành cho thị. Cái mũi bạnh ra, cái môi như con đỉa xù… Là một người đàn bà, nhưng Nam Cao lại không hề dành cho thị một chút duyên dáng hay nữ tính nào. Đã thế, thị lại còn dở hơi, ngù ngờ. Và tất nhiên, thị ế chồng. Cuộc gặp gỡ đầy ngẫu nhiên của Chí và thị như một vận may cho cả hai người. Bởi Chí lần đầu tiên biết đến một người phụ nữ, còn thị cũng lần đầu tiên được một người đàn ông để ý.
Mà không biết là Chí để ý thị hay là do men rượu còn nồng nàn, mê man nên Chí đã làm liều với thị. Hai người gặp nhau trong một đêm trăng thanh gió mát. Thị ra bờ sông nghỉ rồi ngủ quên, còn Chí trong men rượu ngà ngà đã va vào thị. Hai còn người cùng chung một tầng lớp, một đẳng cấp, một số phận đã lao vào nhau như tiếng sét ái tình.
Sau đêm ấy, một biến cố lớn đã xảy ra làm thay đổi cuộc đời Chí. Chỉ tỉnh rượu. “Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn say rất dài”. “Lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí thoát khỏi những cơn say. Lần đầu tiên Chí ý thức về cuộc sống xung quanh, về cuộc đời mình. Những cảnh vật quen thuộc khiến Chí thấy nao lòng, rung động. Tiếng mái chèo gõ cá, tiếng chim hót líu lo, tiếng mọi người đi chợ vải nói chuyện với nhau… Tất cả những thứ ấy hàng ngày vẫn diễn ra mà sao cho đến tận hôm nay Chí mới cảm nhận được. Lúc này, Chí trở nên hiền lành một cách lạ thường.
Mà không, Chí đã từng rất hiền như thế. Chí cũng đã có một ước mơ thật trong sáng, thật đẹp: Có một gia đình nho nhỏ, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm… Nhưng ước mơ ấy giờ đâu rồi? Một chàng trai hiền lành, tốt bụng nay đâu? Đây có phải là con người thực sự của Chí không? Những ngày đi ăn vạ, đi cướp giật do đâu mà có? Chí lại nghĩ về tuổi già, nghĩ về sự cô độc. Chí buồn. Chí sợ. Sợ rồi mai này khi không còn sức đi ăn vạ nữa, không thể làm liều được nữa, Chí sẽ sống ra sao? Liệu rằng có ai ở bên cạnh Chí không? Chí không sợ tuổi già, không sợ ốm đau bệnh tật, mà sợ mình sẽ cô đơn không người hỏi han trò chuyện.
Chí tự nhận thấy mình cần phải thay đổi. Hay nói đúng hơn là tìm lại chính mình. Và thị – người phụ nữ xấu nhất làng Vũ Đại ấy là tia hi vọng sáng chói cho cuộc đời Chí lúc này. Chí thèm trở lại làm người lương thiện, làm người mà trước đây Chí đã từng làm. Khi ấy trên mặt Chí còn chưa một có vết sẹo nào hằn in. Mối tình bất chấp với Thị khiến Chí thay đổi chỉ sau một đêm. Đặc biệt là khi được thị “ban” cho bát cháo hành. Lần đầu tiên trong cuộc đời Chí được săn sóc bởi bàn tay một người đàn bà. Xúc động lắm chứ. Mối tình ấy cũng thật đẹp. Hai người xứng đôi vừa lứa, môn đăng hậu đối, đúng là một cặp trời sinh. Chí toan tính rủ thị sang ở cùng một nhà cho vui. Rồi Chí sẽ làm lại từ đầu, sẽ biến ước mơ của mình thành sự thật.
Nhưng mọi chuyện đâu có êm đẹp như Chí nghĩ. Ở với thị được năm ngày năm đêm thì thị lại lên cơn dở hơi. Thị ngừng yêu, khoan để về hỏi ý kiến bà cô đã. Bị bà cô chửi mắng té tát, thị ngoăn ngoắt trút hết giận lên đầu Chí. Trong chốc lát, thị xả vào mặt Chí những lời lẽ chua chát nhất, cay đắng nhất khiến Chí sững sờ. Chí đang tỉnh rượu trong cơn say men tình ái thì lại bị thị dội cho một gáo nước lạnh. Chao ôi là buồn. Lần đầu tiền được yêu và có lẽ cũng là lần duy nhất. Chí thất tình. Một nỗi đau đớn tột cùng của một kẻ yêu thật lòng, yêu chân thành và mãnh liệt. Chí chạy theo thị, nắm lấy tay thị nhưng niềm hi vọng mong manh níu kéo thị đã không thành. Thị gạt phắt tay Chí, còn giúi cho hắn ngã khoèo xuống đất. Cảnh tượng ấy thật đau lòng và đáng thương.
Bị cự tuyệt, Chí khóc rưng rức. Bao nhiêu lần Chí khóc, nhưng lần này là nước mắt của sự tuyệt vọng, của niềm đau. Đến ngay cả người phụ nữ dở hơi, xấu xí cũng không nhìn nhận Chí nữa. Chí biết làm gì nữa đây? Chí muốn làm người lương thiện nhưng thị đã đi rồi. Ai sẽ cùng Chí bước vào tuổi già mà không cô đơn? Ai sẽ là người vợ dệt vải để Chí làm người chồng cày thuê cuốc mướn lo lắng cho vợ con? Chẳng còn ai nữa. Thị quay lưng đi, nghĩa là cả thế giới sụp đổ với Chí. Chí lại chìm vào những cơn say. Nhưng lần này, Chí càng uống càng tỉnh, mùi hơi rượu lẫn với mùi cháo hành khiến Chí tiếc thương, lưu luyến vô cùng.
Chí lại vùng dậy, cầm dao đi với ý định giết chết cả nhà thị, giết chết cái con khọm già đã xúi thị quay lưng với Chí. Nhưng ngòi bút của Nam Cao đã vẽ đường cho Chí đi thẳng một mạch đến nhà Bá Kiến. Lần này, cũng trong cơn say, nhưng Chí không đến để đòi tiền như mọi khi nữa. Chí dõng dạc nói to “Tao đến để đòi lương thiện”. Dường như, Chí đã hiểu ra tất cả mọi chuyện, Chí biết mình đã đến bước đường cùng. Chí không muốn tiếp tục chìm đắm trong những con say dài nữa. Chí muốn được chết, chết cho chính mình, chết một lần duy nhất để được quay trở lại làm người lương thiện. Chí lao con dao tới đâm chết Bá Kiến rồi cũng tự kết liễu cuộc đời mình.
Chí chết. Chí đã tự giết chết một anh Chí say khướt, một kẻ đã tha hóa nhân cách, chuyên đi cướp giật, rạch mặt ăn vạ. Chết để con người ngày xưa hiền lành, tốt tính của Chí được sống lại. Chí chết, Bá Kiến chết nhưng sẽ còn nối tiếp Lý Cường, còn con của Chí có thể đang lớn dần trong bụng thị. Nhưng ít nhất, Nam Cao cũng đã mạnh tay giết chết kẻ đại diện của chế độ cầm quyền gian ác, tàn độc.
Tác giả đã gửi gắm rất nhiều tư tưởng và thông điệp của mình qua hình ảnh của Chí Phèo. Một kẻ tha hóa đạo đức, bị xã hội ruồng rẫy. Nam Cao vừa xót thương vừa oán giận Chí. Nhưng sau cùng, ông cũng vẫn nêu cao bản chất lương thiện của Chí. Chí đã phải đối cả mạng sống của mình để mong tìm lại được chính mình. Chí chính là hiện thân cho những người nghèo khổ của xã hội, cũng là tiếng khóc gào thét của những kẻ đang đứng giữa ranh giới của hai bờ vực thiện – lương. Và Chí cần có nhiều sự thấu hiểu, sự giúp đỡ của xã hội, của nhân loại để được quay trở lại làm người.