Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù hay nhất (17 mẫu)

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 1

 Nguyễn Tuân – một nhà văn luôn đi tìm cái đẹp đã đem đến cho nền văn học Việt Nam một phong cách tài hoa, độc đáo. Trước Cách mạng, các tác phẩm của Nguyễn Tuân, đặc biệt trong tập Vang bóng một thời, thường viết về những nho sĩ cuối đời, những con người tài hoa nhưng bất đắc chí, buông xuôi với đời nhưng vẫn có những mâu thuẫn sâu sắc với xã hội, với thời buổi “Tây Tàu nhố nhăng”. Những tác phẩm trong Vang bóng một thời miêu tả những người chí sĩ tài hoa, ngông nghênh giữa cuộc đời, lấy cái thái độ của mình làm cái đối lập với xã hội. Trong số các tác phẩm ấy, nổi bật lên là tác phẩm Chữ người tử từ cũng nhân vật Huấn Cao – một con người tài hoa, khí phách với cái tâm vô cùng trong sáng thiện lương, dù rơi vào hoàn cảnh chí không thành nhưng cũng không hề mất đi tư thế hiên ngang, ngạo nghễ với đời.

Tác phẩm Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, ban đầu được mang tên Dòng chữ cuối cùng. Tác phẩm cũng mang chung một mạch cảm xúc với các tác phẩm khác trong cùng tập truyện khi ca ngợi và khẳng định cái đẹp, đồng thời ca ngợi những con người sống đẹp với lối sống giản dị mà thanh bạch. Và cái đẹp chính là trung tâm của toàn bộ câu chuyện.

Nguyễn Tuân đã xây dựng lên một Chữ người tử tù đặc sắc với không chỉ câu chữ đầy tài năng, mà còn ở một tình huống truyện có một không hai ở đời. Tình huống truyện vốn là hoàn cảnh tạo nên sự kiện đặc biệt được nhà văn tạo ra trong tác phẩm của mình, và chính tại đó, cuộc sống hiện lên đậm sắc nhất, ý đồ của người viết được bộc lộ rõ nét nhất. Dựa vào đó, Nguyễn Tuân đã dựng lên một tình huống truyện khi viên quản ngục có cuộc gặp gỡ với Huấn Cao – một con người tài hoa, đặc biệt là tài viết chữ hiếm có ở trên đời nhưng đồng thời cũng là một tên tử tù đang chờ ngày hành quyết. Và viên quản ngục – người vô cùng hâm mộ nét chữ của Huấn Cao, quyết tâm xin bằng được chữ của người tử tù ấy để cho toại cái “sở nguyện” của mình. Tình huống truyện mà Nguyễn Tuân dựng lên hết sức đặc sắc, hết sức độc đáo, giàu kịch tính mà cũng đầy éo le. Chính điều đó đã tạo nên một Chữ người tử tù – một tác phẩm về cái đẹp độc nhất vô nhị.

Đọc tác phẩm, người ta không khỏi khắc thành ấn tượng về nhân vật chính trong câu chuyện – Huấn Cao - một nhân vật đại diện cho lớp người nho sĩ tài hoa, nhưng lại không gặp thời, bất đắc chí. Huấn Cao – một vị anh hùng bị sa cơ thất thế, ông là nho sĩ nhưng cũng lại là người lãnh đạo nhân dân vùng lên chống lại triều đình để đòi lại công bằng cho mình. Cuộc đấu tranh thất bại, ông bị bắt, bị phán là một kẻ phản nghịch triều đình, phải chịu tội chết, bởi với Nho giáo ngày xưa, trung quân ái quốc là một trong những điều kiện tiên quyết quyết định nhân phẩm của một con người. Có nhiều ý kiến cho rằng, nhân vật Huấn Cao được lấy cảm hứng từ người anh hùng Cao Bá Quát – một người nho sĩ cũng tài hoa vô cùng, cũng quả cảm, cũng có tài viết chữ tuyệt đỉnh, được mệnh danh "thánh Quát", cũng là một thủ lĩnh đứng lên lãnh đạo khởi nghĩa chống lại triều đình.

Huấn Cao vốn một cách gọi vô cùng kính trọng đối với một vị quan trông giữ việc học ở một huyện và đối với viên quản ngục trong tác phẩm, Huấn Cao được hắn vô cùng kính trọng. Với quản ngục, Huấn Cao tựa như là "một ngôi sao Hôm nhấp nháy", hay " một ngôi sao chính vị". Với vị thế của mình, đáng lẽ ra một người như quản ngục, sau khi nhận được tin có một kẻ "phản nghịch" như Huấn Cao vào ngục của mình phải căm tức, phải ghét bỏ lắm, nhưng quản ngục lại khác, ông dường như kiêng nể Huấn Cao, coi trọng Huấn Cao. Người ta thấy một phần trong đó chất chứa cái sự ưu ái mà Nguyễn Tuân dành cho một anh hùng thất thế như Huấn Cao.

Hình tượng nhân vật Huấn Cao được lấy nguyên mẫu từ người anh hùng Cao Bá Quát, có lẽ vì vậy mà Huấn Cao cũng mang trong mình sự tài hoa, không chỉ về nghệ thuật thư pháp đỉnh cao mà còn là một người anh hùng với khí phách kiên cường và một người với cái tâm thiên lương trong sáng. Nguyễn Tuân đã khắc họa Huấn Cao trên nhiều bình diện để thấy được một vẻ đẹp thanh cao, đạt tới chân – thiện – mỹ của cuộc đời.

Đầu tiên, Nguyễn Tuân miêu tả Huấn Cao là một người nghệ sĩ, vô cùng tài hoa trong nghệ thuật viết chữ, vang danh khắp nơi. Nguyễn Tuân không trực tiếp khen ngợi cái tài năng ấy của Huấn Cao mà lại gián tiếp thông qua câu chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại. Trong câu chuyện của hai người coi tù, xuất hiện sáu tên tội phạm mang tội phản nghịch triều đình, trong đó có một kẻ tên Huấn Cao "Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp đó không?". Không chỉ vậy, hai thầy trò viên quản ngục còn dặn dò nhau rằng "ngoài cái tài viết chữ tốt, lại còn có tài bẻ khóa và vượt ngục", đó là tất cả những gì người ta được nghe gián tiếp khi nhắc nhỏm về Huấn Cao. Huấn Cao hiện lên là một kẻ "văn võ toàn tài", hội tụ khí chất của một kẻ anh hùng tài ba. Nguyễn Tuân đã thật tinh tế khi khéo léo để nhân vật của mình xuất hiện gián tiếp trong lời kể của những kẻ khác thật tự nhiên, khi mà tiếng thơm của ông đã vang danh và truyền đi khắp thế gian.

Thế nhưng, cái tài hoa của Huấn Cao còn bộc lộ thật rõ ràng hơn trong hành động và suy nghĩ của viên quản ngục – người khao khát có được chữ Huấn Cao hơn hết thảy mọi thứ trên đời.

Ngay khi nhận được "phiến trát" báo tin rằng "chúng ta sắp nhận được sáu tên tù án chém. Trong đó, tôi nhận thấy tên người đứng đầu bọn phản nghịch là Huấn Cao", viên quản ngục đã gần như ngay lập tức muốn biệt đãi đối với Huấn Cao. Quản ngục đã cho "quét dọn lại cái buồng trong cùng. Có việc dùng đến". Ông muốn những ngày cuối cùng của người tù Huấn Cao được thoải mái nhất, vì vậy ông đã bất chấp nguy hiểm mà đối đãi với Huấn Cao hết sức tử tế. Đối với Huấn Cao như thế, ông không chỉ muốn bày tỏ tấm lòng trân trọng, thành kính của mình đối với tài hoa của Huấn Cao mà còn muốn đạt được cái sở nguyện của mình, đó là có được chữ của ông Huấn. Đối với y, có được chữ viết của Huấn Cao đã trở thành một "sở nguyện" mà chỉ cần đạt được thôi là "y sẽ mãn nguyện". Cái đẹp quả là có sức ảnh hưởng lớn, nó khiến con người ta phải mê mẩn, phải cố gắng để đạt được, bất chấp những nguy hiểm hiểm nguy đang chờ đợi.

Tài năng của Huấn Cao chẳng hề được Nguyễn Tuân bộc lộ trực tiếp một lời vậy mà, người ta vẫn cứ như thấy những con chữ thư pháp "đẹp lắm, vuông lắm" của người tử từ hiện lên trước mắt. Qua những hành động bất chấp nguy hiểm của quản ngục để đối đãi với Huấn Cao cùng những suy tư của y đã khiến chúng ta thật ấn tượng về tài năng của người tử từ nổi danh của vùng Sơn ấy. Và chỉ cần miêu tả cái khát khao cháy bỏng có được chữ Huấn Cao của viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã nâng tầm tài năng của Huấn Cao, biến ông trở thành một tài năng hơn người, trở thành một bậc "thần thơ thánh chữ". Thái độ của viên quản ngục đối với người từ tù đầy sự ngưỡng mộ, đầy kính trọng, phải chăng đây cũng chính là tình cảm ngưỡng mộ của Nguyễn Tuân đối với cái đẹp? Người ta biết Nguyễn Tuân là người luôn săn tìm cái đẹp, và cái đẹp trong tài năng thư pháp của Huấn Cao đã chạm tới cái đẹp tuyệt đối mà Nguyễn Tuân kiếm tìm chăng? Và đó cũng như một lời trân trọng của Nguyễn Tuân dành cho văn hóa truyền thống của dân tộc đang bị mai một chăng?

Không chỉ là một người nghệ sĩ tài hoa với nghệ thuật thư pháp, tử tù Huấn Cao còn nổi tiếng là một người có khí phách hiên ngang của một vị anh hùng.

Nguyễn Tuân đã cất công xây dựng hình ảnh của một vị anh hùng "chọc trời khuấy nước", một người chỉ là một viên quan coi sóc việc học ở một huyện mà dám đứng lên lãnh đạo người dân chống lại triều đình để mà lập lại trật tự xã hội. Một vị quan nhỏ, với công việc của mình, đáng ra cả đời ông đã được yên bình trong tĩnh lặng, thế nhưng, giữa cái cảnh "Hán học suy vi", "Tây Tàu nhố nhăng" đã buộc vị quan ấy phải vùng dậy với mong muốn lấy lại công bằng cho xã hội, mong có được một xã hội tốt đẹp hơn. Như viên quản ngục nhận xét Huấn Cao, ông không chỉ đánh giá tài năng viết chữ của Huấn Cao mà còn khâm phục cái khí phách hơn người của tên tử tù nữa, quản ngục gọi Huấn Cao là "một ngôi sao Hôm", "một ngôi sao chính vị sắp tù biệt vũ trụ" hay "một kẻ chọc trời khuấy nước". Vài ba câu của quản ngục, những người ta đã thấy hiện lên cái tầm vóc mà công việc của Huấn Cao theo đuổi, nó to lớn và vĩ đại tới nhường nào!

Khí phách của Huấn Cao không chỉ thể hiện khi ông còn ở ngoài tự do mà ngay cả khi sa cơ, phải chịu tù tội, ông vẫn giữ nguyên cái khí phách ngang tàng, kiên trung của mình.

Cái khí phách của ông thể hiện gián tiếp qua lời của những nhân vật trong truyện mà đầu tiên là qua lời của tên lính dẫn tù. Khi vừa dẫn Huấn Cao cùng anh em của ông tới trại giam của viên quản ngục, tên lính đã dặn dò viên quản ngục rằng: "Bẩm thầy, tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất bọn". Một vị anh hùng dù sa cơ nhưng vẫn là một kẻ đặc biệt nguy hiểm, cần được đặc biệt chú ý. Đó chính là cái khí phách ngạo nghễ của Huấn Cao, khí phách của một vị anh hùng luôn tỏa ra chói lòa đến thế.

Và nếu theo dõi tiếp, người ta hẳn để ý đến một chi tiết nhỏ trong câu chuyện, chi tiết dỗ gông. Nguyễn Tuân đã chèn vào cả mạch truyện một chi tiết nhỏ ấy, thế nhưng nó lại là chi tiết nổi bật nhất, phản ánh mạnh mẽ nhất cái khí phách gan góc, ngạo nghễ của người anh hùng Huấn Cao. Quả thực là chỉ có Nguyễn Tuân mới có thể làm được điều này!

Sau khi bước tới cửa trại giam, ở vị thế đó là một kẻ khác, chắc hẳn sẽ không chỉ buồn đau mà có khi còn biến chất, trở thành kẻ tiểu nhân, thế nhưng với Huấn Cao thì không. Những lời nói và hành động của ông dường như vô cùng thoải mái, thản nhiên, nhẹ như không khí, đọc lên, người ta ngỡ như ông đang còn tự do ngoài thế giới rộng lớn kia. Huấn Cao nói "Rệp cắn tôi, đỏ cả cổ lên rồi! Phải dỗ gông đi!", câu nói nhẹ nhàng như lúc bình thường chứ không ai nghĩ đây là lúc ông đang phải đeo gông mà vào ngục. Nghe câu nói ấy, người ta ngờ như thấy Huấn Cao thản nhiên như đang làm một việc bình thường trong cuộc sống.

Và rồi, cái khí phách ngạo nghễ ấy càng thể hiện mạnh mẽ hơn với cái hành động "dỗ gông": "Huấn Cao lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái". Chỉ với một chữ "thuỳnh" thôi, Nguyễn Tuân đã thu hết cái ngạo khí của một vị anh hùng vào câu chữ. Chữ "thuỳnh" ấy nghe nó vang vọng, người đọc như được chính mắt nhìn thấy Huấn Cao "dỗ gông", chính tai nghe được cái âm thanh "dỗ gông" vọng lên trong đầu của mình. Một cái "thúc mũi gông", Huấn Cao làm một cách thản nhiên quá, như ông đang làm một việc gì đó bình thường hàng ngày vậy. Nếu như năm người bạn tù của ông phải "nhăn mặt" vì "then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ", thì riêng Huấn Cao lại chẳng hề tỏ vẻ gì. Đó chính là khí phách của một vị anh hùng làm việc lớn, khiến cho mọi người phải nể vì.

Khí phách của người anh hùng Huấn Cao càng được thể hiện qua hình ảnh của một tên tử tù trong lao ngục. Lao tù xưa nay vốn khiến cho con người ta phải kinh sợ, động lòng, là nơi có thể biến một kẻ anh hùng trở thành một kẻ tiểu nhân vô lại, thế nhưng với Huấn Cao lại khác. Với ông, lao tù chẳng qua cũng chỉ như một nơi ở, bởi chí khí của ông đã tung hoành khắp thế gian này rồi. Ở trong tù nhưng chẳng khác nào ở nhà, Huấn Cao vẫn ung dung, tự tại, với khoản "biệt đãi" của quản ngục, ông "thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm". Huấn Cao cũng giống như Phan Bội Châu ở trong nhà lao Quảng Đông:

"Vẫn hào kiệt, vẫn phong lưu
Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù"

Cái khí phách ngạo nghễ của những người anh hùng thật khiến những con người bình thường như chúng ta phải khâm phục bội phần.Và cái khí phách ấy của Huấn Cao còn thể hiện ở chỗ, ông "khinh bạc đến điều" cường quyền.

Đó là khi viên quản ngục lui vào "buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn" vừa mong ông giữ kín chuyện vừa ân cần hỏi han "ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất", thế nhưng đáp lại sự ân cần của quản ngục, Huấn Cao chỉ trả lời bằng thái độ ngạo mạn "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây". Với ông Huấn, tất cả những kẻ thuộc triều đình, là quan lại của triều đình đều là những kẻ ác, những kẻ xấu xa, sống trên đầu trên cổ của nhân dân, vậy nên, ông cũng coi viên quản ngục là một kẻ như thế. Chính vì thế, ông "khinh bạc đến điều" những kẻ hèn hạ này. Đến khi viên quản ngục nghe thấy lời ông, đáp lại bằng một câu "xin lĩnh ý", người ta mới càng thấy cái tầm vóc của Huấn Cao, nó trở lên kì vĩ hơn, uy nghi hơn. Một viên quản ngục, chúa ngục mà lại "cung kính chắp tay "xin lĩnh ý"" với một tên tử tù, thì tên tử tù ấy phải mang một khí phách khiến người ta phải nể phục đến nhường nào chứ?

Xưa nay, đối với những người anh hùng khí phách ngút trời, cái chết với họ chẳng qua là "lông hồng", họ đã chẳng còn đặt nặng việc sống chết. Với Huấn Cao cũng vậy, đến trước ngày ra pháp trường, ông vẫn ung dung trong tĩnh tại. Nếu như những kẻ khác, trước cái chết không run sợ cũng phải động lòng hốt hoảng, thế nhưng, với những người anh hùng như Huấn Cao, cái chết chẳng có gì đáng sợ, bởi vậy, ông vẫn đường hoàng, bình tĩnh cho lại những con chữ cuối cùng của cuộc đời mình "những nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người".

Nếu như phía trên, người ta chỉ thấy tài hoa của ông gián tiếp qua lời kể của những nhân vật khác thì ở đây, khí phách của ông lại được bộc lộ trực tiếp qua lời nói và hành động, vừa được gián tiếp thể hiện qua lời kể của viên quản ngục. Nguyễn Tuân đã xây dựng Huấn Cao trong cảm hứng của bút pháp lý tưởng hóa, khắc sâu vào trong lòng chúng ta hình ảnh của một người với khí phách ngạo nghễ.

Không chỉ là tài hoa, là phí khách hơn người, Huấn Cao còn được biết đến trên khía cạnh là một con người có cái tâm thiên lương vô cùng trong sáng.

Thiên lương vốn là từ chỉ bản tính tốt đẹp của con người được thể hiện từ khi sinh ra. Huấn Cao là một người có cái tâm thiên lương trong sáng, điều đó thể hiện qua việc ông cho chữ cũng như quan niệm của ông về cái chữ. Bởi như lời quản ngục nói về Huấn Cao "tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ", bởi với Huấn Cao, cái chữ là thứ quý giá, không thể cho tùy tiện "ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Huấn Cao viết chữ đẹp là thế, nhưng cả đời ông chỉ mới viết "hai bộ tứ bính và một bức trung đường cho ba người bạn thân", ông chỉ trao con chữ của mình cho những người xứng đáng, cho những người chung chí hướng mà thôi. Đó là quan niệm của Huấn Cao về cái chữ, cái đẹp ở đời. Huấn Cao tặng chữ cho quản ngục vì "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người", không muốn phụ đi tấm lòng của một người với "sở thích cao quý" và cái tâm biết kính trọng cái đẹp.

Hành động cho chữ của Huấn Cao cho quản ngục vừa thể hiện một tấm lòng quý trọng con người, đền đáp cho người tri ký, vừa để nâng đỡ thứ ánh sáng thiên lương trong một con người khác của Huấn Cao. Viết chữ, viết câu đối là một hành động sáng tạo về mặt thẩm mỹ, thế nhưng ở đây, nó còn là một sự xúc động về mặt đạo đức nữa.

Thiên lương của Huấn Cao đã thể hiện rõ khi ông nhất tâm cho chữ quản ngục, ông cảm động bởi tấm lòng trân trọng cái đẹp, yêu quý cái đẹp của quản ngục và cũng từ cái đẹp ấy, ông khuyên nhủ quản ngục giữ lấy cái thiên lương của chính mình. Con người ta vốn thiện lương đã đẹp, nhưng khi chia sẻ, giúp đỡ người khác trở nên thiện lương thì cái thiện ấy còn tăng gấp bội phần, Và Huấn Cao đã thực sự làm được việc đó bằng lời khuyên nhủ quản ngục "Tôi bảo thực đấy, thấy Quản nên tìm về quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Một người tử tù đã dùng hết những tâm can cuối cùng của cuộc đời mình để giúp người khác hướng thiện, ông đem cái thiên lương trong sáng vô ngần ấy của mình để khơi gợi cái thiên lương trong lòng người khác. Đó mới thực là một người anh hùng ở đời!

Huấn Cao là nhân vật được Nguyễn Tuân xây dựng bằng bút pháp lãng mạn, lý tưởng hóa người anh hùng yêu nước, đồng thời, qua đó, ông bộc lộ kín đáo tình yêu nước thầm kín của mình, kết tính quan điểm về cái đẹp của nhân vật về nghệ thuật và con người. Nghệ thuật chân chính sẽ có sức hút kì lạ đối với những con người thực sự yêu nó, thực sự trân trọng nó. Cái đẹp sẽ tác động tới tâm thức, tâm hồn của con người, nó là sự hòa hợp của cả cái tài và cái tâm

Thế nhưng, Chữ người tử tù sẽ chẳng thể là một tác phẩm vẹn tròn ý nghĩa nếu không nhắc về nhân vật quản ngục, một chúa ngục sống giữa chốn đề lao "tàn nhẫn", "lừa lọc", "một đống cặn bã", nơi mà con người dễ sa ngã, dễ bộc lộ những thú tính hoang dại, độc ác nhất của mình.

Những tưởng sống trong cái môi trường với một "lũ quay quắt", quản ngục cũng sẽ như chúng, hòa mình vào cái "bản đàn" xô bồ ấy, nhưng không, quản ngục lại được ví như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ". Ông là một con người với "tính cách dịu dàng và lòng biết giá người", là một con người "thuần khiết giữa một đống cặn bã". Quản ngục hiện lên hoàn toàn trong một đoạn văn miêu tả bằng bút pháp trữ tình, gợi lên cho chúng ta hình ảnh của một con người với tâm hồn đẹp đẽ, biết trọng cái đẹp cái tài.

Viên quản ngục được Nguyễn Tuân khéo léo dựng lên thông qua hai khía cạnh: một là một con người say mê cái đẹp, và hai là một con người biết hướng thiện, biết sống với cái thiên lương của mình.

Quản ngục là một người say mê, quý trọng cái đẹp, đó là khi ông vừa nhận được "phiến trát" biết tin Huấn Cao sắp được chuyển tới đề lao của mình. Quản ngục đã gần như ngay lập tức thể hiện tấm lòng muốn "biệt đãi" với Huấn Cao – kẻ tử tù phản nghịch cùng với những người bạn khác của ông, bất chấp sự nguy hiểm tới tính mạng nếu như để lộ ra ngoài. Nếu như những tên quản ngục khác muốn bày tỏ cái uy quyền của một chúa ngục nơi chốn lao tù của mình thì viên quản ngục ở đây lại thể hiện cái sự "biệt đãi" kính trọng đối với một tên tù nhân khí phách ngạo nghễ.

Quan điểm sống của quản ngục đó là trân trọng cái đẹp, người tài, cái đẹp chính là tiêu chí đầu tiên đánh giá nhân cách của một con người. Thế nên, khi nhận Huấn Cao vào ngục của mình, quản ngục đã "biệt nhỡn" Huấn Cao hết sức đặc biệt. Yêu cái đẹp, trọng cái tài, chính vì thế, quản ngục luôn đau đáu trong mình cái "sở nguyện" khi có Huấn Cao trong tay, đó là "một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết", "không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời mất". Cái sở nguyện ấy của quản ngục chẳng phải ai cũng có, đó là sở nguyện cao quý mang phẩm chất của một người nghệ sĩ. Không yêu cái đẹp, trọng cái đẹp thì người ta làm sau thấu hiểu được cái đẹp ở đời mà trân trọng cái tài làm ra cái đẹp được cơ chứ?

Có lẽ vì thế, mỗi hành động của quản ngục đối với ông Huấn là cả một sự cung kính, khiêm nhường đến vô cùng. Huấn Cao xuất hiện trước mặt quản ngục, với sự ngạo nghễ trong hành động "dỗ gông", nếu như những tù nhân khác, quản ngục chắc hẳn "giở những mánh khóe hành hạ thường lệ ra", nhưng với Huấn Cao, ông lại "kiêng nể, tuy cố giữ kín đáo mà cũng đã rõ quá rồi". Phải, một con người trọng cái đẹp, cái tài như quản ngục thì làm sao không kính nể con người tài hoa và khí phách như Huấn Cao được cơ chứ?

Đến khi bị Huấn Cao hiểu lầm mà "khinh bạc đến điều", quản ngục vẫn giữ nguyên thái độ cung kính của mình, đáp lại bằng sự "lễ phép lui ra với một câu: "Xin lĩnh ý", bởi y thừa hiểu tính cách của những người anh hùng như Huấn Cao, "những người chọc trời quấy nước, đến trên dầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù". Cái khí phách mà Huấn Cao thể hiện ra càng khiến cho viên quản ngục khâm phục ông hơn bội phần, sự khinh bạc của Huấn Cao với y, càng làm cho y cảm thấy kính nể mà "cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn nữa".

Quản ngục – một nhân vật mà thân phận khác xa với tâm hồn của mình, Nguyễn Tuân cũng đã thẳng thắn thừa nhận điều đó "Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã. Và những người có tâm điền tốt và thẳng thắn, lại phải ăn đời ở kiếp với một lũ quay quắt". Quản ngục là một con người mê cái đẹp, khát khao có được cái đẹp để mà trân quý và giữ gìn. Và như Nguyễn Tuân đã từng khẳng định: một con người yêu cái đẹp, trân trọng cái đẹp thì không bao giờ là kẻ xấu được.

Chẳng thế mà quản ngục còn là một con người biết hướng thiện, biết dũng cảm mà sống theo tiếng gọi của thiên lương.

Có lẽ khi bước chân vào cái nghề cai ngục khủng khiếp này, quản ngục cũng đã từng day dứt "Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi!". Bởi ông hiểu rõ cái môi trường đề lao "người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc", sẽ làm mai một đi tâm hồn "tốt và thẳng thắn", mai một luôn cả tình yêu với cái đẹp của ông. Đến khi gặp Huấn Cao, ông lại càng băn khoăn hơn giữa lý trí là nhiệm vụ của triều đình và tiếng gọi của thiên lương trong con tim ông. Huấn Cao tới, con người với cái tài, cái đẹp mà ông kính trọng tới, "ngục quan băn khoăn ngồi bóp thái dương", ông không biết nên hành xử thế nào, nên lo liệu thế nào? Bởi một bên, ông không hề muốn vi phạm nội quy công vụ của triều đình, một bên ông muốn khoản đãi một kẻ tử tù phản nghịch mà ông yêu kính. Tình thế khiến quản ngục phải đau đầu chọn lựa. Có người sẽ vì công vụ mà quên đi cái tâm của mình, quên đi cái đẹp mà mình vốn yêu vốn quý, thế nhưng, quản ngục thì không. Sau một đêm ngồi suy ngẫm, "những đường nhăn nheo của một bộ mặt tư lự, bây giờ đã biến mất hẳn. Ở đấy, giờ chỉ còn là mặt nước ao xuân, bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ", ông đã chọn nghe theo tiếng nói của trái tim, cất bước theo tiếng gọi của cái đẹp, cái thiện lương.

Tiếp nhận Huấn Cao, chứng kiến cái hành động "dỗ gông" ngông cuồng, thế nhưng quản ngục lại chẳng hề băn khoăn, động tâm mà trực tiếp bộc lộ tấm chân tình của mình khiến cho tất cả những tên lính lệ phải ngạc nhiên đến độ "nhắc nhở".

Đến cuối cùng, khi Huấn Cao đồng ý cho chữ rồi cất lời khuyên can quản ngục "thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến việc chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi", nghe đến đây, quản ngục không khỏi cảm động, cúi đầu, nhìn "bức châm", "vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh"". Cuối cùng, cái thiên lương của một tên chúa ngục cũng đã được khai mở hoàn toàn nhờ cái đẹp.

Quản ngục đã bước qua cái giới hạn của thân phận để mà sống thật với bản thân, với lương tri của mình, bất chấp rằng ông có thể hiểm nguy tới tính mạng. Một con người đầy mâu thuẫn, ông là một kẻ tù nhân của chính mình, là một kẻ lạc lõng giữa cái đề lao mà mình cai quản.

Quản ngục được Nguyễn Tuân dựng lên bằng cảm hứng lãng mạn, bằng cái tâm yêu cái đẹp của mình. Qua nhân vật quản ngục, Nguyễn Tuân muốn khẳng định quan điểm của mình về cái đẹp rằng nó sẽ là nguồn cơn để con người trở về cái chân thiện mỹ của cuộc đời, hay một con người yêu cái đẹp, trọng cái tài sẽ không bao giờ trở thành một kẻ ác được.

Tìm hiểu Chữ người tử tù mà không tìm hiểu cặn kẽ, không phân tích cho sâu cái phân đoạn đắt giá nhất của tác phẩm "cảnh cho chữ" thì sẽ chẳng ai có thể hiểu hết những ý nghĩa sâu xa mà Nguyễn Tuân muốn gửi gắm. Cảnh cho chữ là một cảnh đắt giá nhất trong toàn bộ tác phẩm, là một cảnh "xưa nay chưa từng có".

Giữa một không gian chật hẹp ở buồng biệt giam, "một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián" lại là nơi cho người ta thấy cái đẹp, cái tài hoa của một con người. Vào giữa đêm khuya "chỉ còn vẳng lên tiếng mõ vọng canh", những con chữ được sáng tạo ra vào lúc người ta không ngờ tới nhất, bởi xưa nay, người ta thường cho chữ vào lúc trời còn sáng, lúc mặt trời còn đẹp giữa thế gian. Và người cho chữ cũng vậy, là những người làm công việc sáng tạo này phải là người hay chữ, trong một tâm thế thoải mái, vui tươi nhất, thế nhưng đối lập lại, người cho chữ ở đây lại là một tên tử tù ngày mai sẽ bị dẫn ra pháp trường hành quyết. Có lẽ giờ đây là khoảng thời gian cuối cùng mà người anh hùng có thể để lại di huấn của mình với "những hoài bão ước mơ tung hoành của cả một đời người".

Có lẽ chưa từng có trong lịch sử văn học Việt Nam, một cảnh cho chữ nào mà vị thế của các nhân vật được đảo ngược đến thế. Những kẻ uy quyền như quản ngục, thầy thơ lại là phải khúm núm, khép nép còn kẻ tử tù có tội lại hiên ngang, bình thản, tĩnh lặng mà bay bổng trong từng nét chữ như thế! Và nếu như chúa ngục là những kẻ phải buông lời khuyên răn dạy dỗ phạm nhân, thì ở đây, phạm nhân lại là người lên tiếng dạy dỗ viên quản ngục. Thế nhưng, không ai có thể không công nhận, cái khí phách, cái tài hoa của tên tử tù kia đã khiến cho những kẻ uy quyền như quản ngục phải cúi đầu. Và cái cúi đầu ấy không khiến cho quản ngục thấp hèn đi mà khiến ông trở lên cao đẹp hơn, bởi lẽ những lời giáo huấn ấy đã đánh thức cái thiện trong ông, cúi đầu trước cái đẹp, cái uy nghi để nhận những lời răn dạy thì không bao giờ thấp hèn cả.

Quản ngục cung kính với Huấn Cao, cái cung kính ấy không làm ông hèn nhát mà nó còn làm sáng rực cái nhân cách đẹp đẽ, thánh thiện, sự sùng bái của quản ngục với cái đẹp, cái tài và khí phách của người anh hùng.

Quản ngục chính là nhân vật được Nguyễn Tuân gửi gắm quan niệm nhân sinh sâu sắc của mình. Đó là ẩn sau mỗi con người dù sống trong xấu xa, độc ác vẫn luôn có một tâm hồn khao khát cái đẹp, khao khát cái thiện lương, chực chờ thứ ánh sáng thiên lương chiếu tới để bừng dậy mạnh mẽ.

Bằng bút pháp lãng mạn, tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã dựng lên những nhân vật trong sự hoàn thiện, hoàn mỹ tới mức lý tưởng hóa. Như Huấn Cao – một con người xuất chúng, không chỉ tài hoa mà còn có khí phách hơn người cùng một trái tim chứa đầy thiên lương. Còn quản ngục – một con người sống giữa muôn vàn cái ác nhưng lại trở thành "một thanh âm trong trẻo chen giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ", biết yêu cái đẹp, biết trọng cái tài, biết phục cái thiện. Ông cũng xây dựng những nhân vật đối lập trong Chữ người tử tù như Huấn Cao với quản ngục (tử tù với chúa ngục), hay sự đối lập trong chính thân phận và nội tâm của quản ngục.

Hơn thế, trong cảnh cho chữ, tác giả cũng xây dựng những hình ảnh đối lập từ không gian, thời gian, cũng như cái đẹp đối lập với cái xấu. Ngôn ngữ trong Chữ người tử tù vô cùng giàu hình ảnh, đa dạng các từ ngữ Hán Việt tạo nên không khí cổ kính cho tác phẩm.

Chữ người tử tù là tác phẩm thành công nhất trong tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Nó đã cho chúng ta thấy được vẻ đẹp của một người anh hùng tài hoa, chí khí, đồng thời nó cũng cho ta thấy được quan điểm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong cuộc sống.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 2

 Nhà thơ lừng danh người Mỹ Ralph Emerson từng có câu nói rất hay rằng: “Yêu cái đẹp là thường thức. Tạo ra cái đẹp là nghệ thuật. Nhưng biết trân trọng cái đẹp mới là người nghệ sĩ chân chính.” Có lẽ từ lâu nhà văn Nguyễn Tuân đã sớm thấm nhuần tư tưởng trên mà cả cuộc đời ông là một chặng đường say mê đi tìm cái đẹp thanh cao, cái đẹp của chuẩn mực tạo hoá. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã khắc hoạ rất thành công chân dung vẻ toàn mỹ, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào thì nó vẫn luôn toả sáng và trường tồn với thời gian.

Nguyễn Tuân (1910 – 1987) xuất thân trong một gia đình Nho giáo, quê ông ở làng Mọc nay là phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Nguyễn Tuân là nhà văn lớn có đóng góp vô cùng quan trọng cho nền văn học Việt Nam hiện đại, cả đời ông say mê đi tìm cái đẹp trong cuộc sống để từ đó thổi hồn vào trong các tác phẩm của mình những làn gió mới, những vẻ đẹp nhân văn cao đẹp. Các tác phẩm chính của ông gồm có : Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960),… Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng in năm 1939 tên tạp chí Tao Đàn, sau đó được in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Hình tượng Huấn Cao – một con người tài hoa, lỗi lạc với ý chí hiên ngang, bất khuất, cho dù là chí lớn không thành nhưng ông cũng không bao giờ gục ngã, vẫn giữ cho mình tâm hồn thanh cao trước cảnh gục tù tối tăm, u uất.

Thành công của một tác phẩm truyện ngắn là đến từ tình huống truyện đặc sắc, đó chính là chiếc chìa khoá thúc đấy cốt truyện dâng lên cao trào như cách mà Nguyễn Minh Châu từng nói đó là: “Tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”. Chữ người tử tù cũng là một câu chuyện như thế, Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật của mình vào nghịch cảnh trớ trêu, cuộc hội ngộ giữa hai thế lực đối lập. Một bên đại diện cho con người tài hoa khí phách, một bên là quyền lực tăm tối của xã hội phong kiến. Cuộc gặp gỡ diễn ra đầy kịch tính, lôi cuốn người đọc, cuối cùng vẻ đẹp thiên lương tao nhã đã thắng thế trước sự xã hội tàn bạo, xấu xa.

Chữ người tử tù xây dựng thành công tuyến nhân vật chính diện, họ là trung tâm đại diện cho cái đẹp thanh cao trong tâm hồn, dù ở trong hoàn cảnh nào, dù thực tại xã hội có dở bẩn ra sao cũng không thể nào làm vướng bẩn nhân cách thiên lương của họ. Trước tiên là hình tượng Huấn Cao – một vị anh hùng sa cơ, thất thế ông là người lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh đòi lại công bằng cho chính mình. Ấy thế mà trong con mắt của chế độ phong kiến ông lại bị gọi là kẻ “phản nghịch”, kẻ cầm đầu nguy hiểm cần phải tiêu diệt. Có ý kiến cho rằng Nguyễn Tuân sáng tạo hình tượng Huấn Cao dựa trên nguyên mẫu Cao Bá Quát – một người tài hoa, nghệ sĩ, tinh thần quả cảm và đặc biệt là có tài viết chữ đạt đến độ tuyệt mỹ. Huấn Cao là cách gọi kính trọng, là một người mang họ Cao giữ chức huấn đạo – chức quan trông coi việc học ở một huyện.

Nguyễn Tuân khắc hoạ vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao qua nhiều bình diện để thấy được cái vẻ đẹp thanh cao đạt đến chân – thiện – mỹ của một người tài hoa bậc nhất. Trước tiên, nhà văn miêu tả Huấn Cao là một người nghệ sĩ tài hoa, lừng danh khắp chốn. Ông xuất hiện gián tiếp trong câu chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại, là người mà “vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, không những thế ông còn có tài “bẻ khoá và vượt ngục”. Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm quả là một người “văn võ song toàn”, hội tụ tất cả những khí chất của một người anh hùng tài ba. Tác giả giới thiệu Huấn Cao với lối miêu tả gián tiếp là hoàn toàn có dụng ý khéo léo, chu toàn ông muốn để cho nhân vật của mình xuất hiện một cách tự nhiên mà không đường đột, từ đó cho người đọc thấy được hình tượng nhân vật phi thường tiếng thơm đã truyền đi khắp nhân gian, khi nhắc đến tên tuổi cả viên quản ngục hay thầy thơ lại đều đã từng nghe qua. Cái tài hoa, nghệ sĩ của ông Huấn cao còn được bộc lộ rõ nét nhất khi viên quản ngục bất chấp hiểm nguy, chỉ với hy vọng có được chữ của ông, chữ ông “đẹp lắm, vuông lắm” chỉ cần có một đôi câu đối của Huấn Cao treo trong nhà coi như là “y đã mãn nguyện” bội phần, dường như trên đời sẽ chẳng có gì có thể làm cho viên quản ngục hạnh phúc hơn thế nữa.

Huấn Cao còn là vị anh hùng với khí phách hiên ngang ngút trời, dù lâm vào cảnh tù đày đối diện với án tử nhưng ông chẳng một chút sợ hãi vẫn giữ cho mình nhân cách thanh cao, không nhún nhường trước cường quyền tào bạo. Trước lời giễu cợt của bọn lính cai ngục, Huấn Cao im lặng “lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng” một hành động dứt khoát như là lời cảnh báo chắc nịch của người tử tù với bọn nha sai hách dịch, cậy quyền. Trong ngục tù tăm tối ông thản nhiên, ung dung “nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình”, thật là hiếm có người tù nào sắp chết mà vẫn giữ thái độ điềm nhiên, bình thản được như Huấn Cao. Chẳng sợ cường quyền, khinh bạc chế độ xã hội tàn bạo dù biết trước sẽ phải đối đầu với một trận “lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo” thế nhưng người anh hùng cũng chẳng thể dối lòng “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây” Câu nói thẳng thừng như gáo nước lạnh tạt thẳng vào bộ mặt phong kiến. Nguyễn Tuân còn miêu tả người anh hùng kiên cường mang tấm lòng thiên lương cao cả. Huấn Cao từ thuở sinh thời không bao giờ ham phù hoa, danh lợi mà bán chữ. Đời ông cũng chỉ viết có “hai bộ tứ bình và một bức trung đường” cho những người bạn tri kỷ. Ông quan niệm cái đẹp thanh cao phải được trao cho đúng người mới phát huy được hết giá trị của nó. Huấn Cao đã bị cảm động trước sự đối đãi chân tình “biệt nhỡn liên tài” của chủ tớ Viên quản ngục. Tấm lòng nhân hậu không muốn phụ “một tấm lòng trong thiên hạ”.

Ngoài nhân vật trung tâm Huấn Cao, Nguyễn Tuân còn xây dựng thêm một tuyến nhân vật viên quản ngục, một người yêu thích cái đẹp, tâm hồn tài hoa nghệ sĩ nhưng lại bị lạc vào chốn nhơ bẩn, dung tục. Nhà văn xây dựng đồng thời hai nhân vật chính diện song song soi chiếu cho nhau toả sáng với vẻ đẹp tâm hồn tao nhã. Viên quản ngục dường như chọn nhầm nghề, ông là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Như cách mà tác giả nói “Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cạn bã”. Thật đáng trân trọng sống giữa một xã hội rối ren, loạn lạc mà vẫn giữ cho tâm hồn mình không vị vùi lấp trong bùn lầy, ông còn còn biết trân trọng cái đẹp, biết nể trọng người tài, là người dũng cảm bất chấp hiểm nguy.

Vào một đêm hoang vắng, tại trại giam tỉnh Sơn đã xảy ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Trong buồng giam tăm tối, chật hẹp, mùi ẩm mốc bốc lên, xung quanh là đầy nhưng mạng nhện giăng, mùi hôi thốc của phân chuột, phân gián. Trong không khí khói toả, ngọn lửa đỏ rực của ngọn đuốc đang cháy hừng hực. “Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”, viên quản ngục “khúm núm”, thầy thơ lại “run run bưng chậu mực”, vị thế nhân vật dường như đổi dời người nắm quyền thế bỗng dưng khép nép, kính cẩn trước một tử tù. Cái đẹp không lẻ loi đơn độc, nó không tồn tại cùng cái xấu xa mà chiến thắng chúng, nhân đạo hoá những tâm hồn đang vướng bụi trần giúp họ thức tỉnh, tìm lại con người nhân nghĩa vốn có của mình.

Chữ người tử tù của tác giả Nguyễn Tuân là một thiên truyện đã đạt “gần tới sự toàn diện, toàn mỹ”. Tác phẩm thể hiện phong cách nghệ thuật tài tình của nhà văn, tạo dựng thành công tình huống truyện độc đáo, khắc hoạ tính cách nhân vật qua thủ pháp đối lập, tương phản gay gắt, ngôn ngữ trang trọng giàu hình ảnh sinh động. Qua truyện, tác giả đã khẳng định sự tồn tại vĩnh cửu của cái đẹp, thể hiện lòng yêu nước thầm kín của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân sinh năm 1910 ở làng Nhân Mục, tục gọi là làng Mọc, thuộc Hà Nội. Ông là người có bản lỉnh cứng cỏi trong đời sống và trong sáng tác văn học; hiểu biết rộng, quý trọng tài năng, coi trọng nghề nghiệp, có những sáng tạo độc đáo trong lời văn cũng như trong cảm nghỉ. Sự nghiệp văn học của ông gồm hai giai đoạn. Các tác phẩm tiêu biểu trước 1945: Vang bóng một thời (1940), Tùy bút I (1941), Tùy bút II (1943). Sau 1945: Tình chiến dịch (1950), Tùy bút kháng chiến (1955), Sông Đà (1960), một số bài phê bình và giới thiệu chân dung văn học. Nguyễn Tuân có những đóng góp đáng kể cho nền văn xuôi hiện đại, nhất là ở thể loại tùy bút, ở cảm thụ sâu sắc và ở văn phong cẩu kì, đa dạng như một ống kính trăm màu.

Chữ người tử tù là câu chuyện về một viên quản ngục mến mộ tài năng, nhất là tài viết chữ Hán đẹp nổi tiếng của một người tù án chém, ông ta đã bí mật đối đãi trân trọng người tù với mong ước xin được chữ quý. Cuối cùng, tưởng đã hết hi vọng xin chữ thì ông lại được người tù vui vẻ cho chữ, kèm theo lời khuyên hãy bỏ nghề coi ngục, về quê sống thanh bần để giữ được tâm hồn trong sạch, xứng với thú chơi chữ đẹp. Thông qua câu chuyện ấy đặc biệt là cảnh cho chữ ban đêm trong ánh đuốc đỏ rực, tác giả muốn nêu bật giá trị cao,quý của Cái Đẹp: đẹp chữ viết, đẹp đức cao, đẹp nhân cách. Đồng thời ca ngợi người biết quý trọng gìn giữ Cái Đẹp ấy như một báu vật ở đời mà ngọc vàng, quyền thế cũng không sao đổi được. Người đọc ngày nay tìm hiểu văn chương xưa bao giờ cũng phải vượt qua một cửa ải khó khăn. Đó là vốn văn hoá, lịch sử làm nền cho tác phẩm. Nói về phong kiến là nhắc tới vua quan và dân đen, địa chủ và nông dân. Nói về đạo Nho là nhắc tới cương thường, trên trí quân, dưới trạch dân. Nói về đạo Phật là nhắc tới luân hồi, từ bi... thì có thể cũng hiểu được sơ sơ đôi chút, nhưng trước những sản phẩm vật chất và tinh thần của văn hóa phong kiến Gá ch đây trên một thế ki được để cập tới trong truyện ngắn này thì quả thật không dễ hiểu chút nào.

Chữ người tử tù rút từ tập truyện Vang bóng một thời. Như tựa đề, đó là cuốn sách ghi chép về một thời và một lớp người đã tàn trong quá khứ, mà bóng dáng hãy còn in đậm trong trí nhớ, trong sự kính phục, tôn sùng của tác giả. Nguyễn Tuân có dụng ý rõ ràng khi dựng lại một không khí xưa cũ như thế ở truyện Chữ người tử tù. Cảnh vật, con người, sự việc hiện ra cũng đậm màu sắc ấy, đưa chúng ta trở lại quá khứ cách đây hơn trăm năm. Mở đầu, nội dòng chữ : phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, muốn hiểu cho thấu ngọn ngành, e đến bạc tóc. Bình thường, người ta viết là tờ trát, lá trát, nhưng tác giả vẫn để nguyên cách gọi của thời đó với nghĩa nghiêm trọng là phiến trát Còn tại sao ông không viết: của quan tổng đốc Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường theo kết cấu Hán văn y như trong phiến trát để cho nó giữ nguyên cái tính chất quan yếu, dậy mùi quyển lực ngay trong từng chữ... Đốc bộ đường là chữ dùng để chỉ chức vụ Tổng đốc. Lại thêm tên gọi tắt của ba tỉnh Sơn (Sơn Tây), Hưng (Hưng Hóa), Tuyên (Tuyên Quang) vì hồi ấy, tỉnh nhỏ đứng đầu chi là chức Tuần vũ, hai hay ba tỉnh nhỏ hợp lại mới có chức Tổng đốc trùm lên trên - ba tỉnh này đặt chung dưới quyền cai trị của một Tổng đốc. Mệnh lệnh từ dinh quan Tổng đốc phát ra cho cấp phủ, cấp huyện là rất uy nghi.

Người cầm bút mượn chữ xưa mà khơi dậy cái không khí, khung cảnh của một thời. Tả cảnh vật thì vọng canh (vọng canh là chiếc chòi canh được dựng khá cao để có thể trông xa (vọng), chiếc hèo hoa, giá gươm, án thư, con song, giấy bản, ty Niết, tàn đồn, chiếc gông, chậu mực, bức châm... Tả người thì thầy bát, ngục tốt, thằng thập, thủ xưởng... Tả việc thi cho chữ, thay bút con, đề xong lạc khoản, lĩnh ý, bái lĩnh... Đằng sau chữ nghĩa ấy là cà một nền văn hóa xưa mà truyện này chi xén ra có một mảnh, đủ đưa người đọc vào không khí của một cửa ngục tiêu biểu cho triều đình thời ấy, đầy quyền lực mà ngu xuẩn, hùa nhau hủy diệt nhân cách và đức tài. May mà trong đó còn nổi lên dè dặt mà sâu thiết một tấm lòng biết quý trọng, tôn kính cái đẹp của đức độ, tài ba. Những điều chứa chất bên trong nội dung của truyện đã chinh phục được người đọc. Đó là điều đáng chú ý trước tiên.

Cốt truyện Chữ người tử tù xoay quanh tài viết chữ đẹp của người tù án chém. Ý nghĩa dĩ nhiên có thể mở rộng ra nhiều, nhưng đó là cái cốt lõi. Có ba hạng người và ba thái độ trước cái đẹp ấy. Thái độ thứ nhất là hủy diệt; thái độ thứ hai là kính trọng, mến phục; thái độ thứ ba là đại lượng, trọng mình, trọng người của một bậc chính nhân quân tử. Đan dệt trong truyện là ba thái độ đối với cái đẹp.

Nói chủ đề của truyện là tôn vinh cái đẹp e hồ đồ chăng ? Cái đẹp ấy ở chữ viết của người tử tù là điểu khỏi bàn cãi. Viên quản ngục đã nghe cả vùng tỉnh Sơn vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp của người tù này. cố nhiên tài viết chữ ấy gắn liền với một cái tên cụ thể là Huấn Cao. Ông quan họ Cao có thời làm huấn đạo ở tỉnh Sơn Tây, nơi mà viên quản ngục gọi thân mật là tỉnh Sơn Tây. Ông Huấn Cao ấy bây giờ tên tuổi lại đứng đầu trong danh sách sáu tử tù phạm tội phản nghịch, dám cầm gươm chống lại triều đình. Lời văn chỉ kể có thế, còn nhân vật Huấn Cao có phải là Cao Bá Quát nổi tiếng thơ hay chữ đẹp, lại có thời gian bị triều đình đầy đi giữ chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai tỉnh Sơn và đã cùng nông dân nổi lên chống vua quan hay không, thì chẳng biết. Đó là chỗ kín nhiệm của ngòi bút, chỗ để trăng ẩn vào mây như cách nói của người xưa. Nếu có gì trùng hợp thì cũng coi như là ngẫu nhiên vậy.

Lẽ thường, ở đời cái gì đẹp cũng quý bởi nó làm cho cuộc sống thêm tươi vui, ý nghĩa. Chữ đẹp cũng thế. Chữ đây là chữ Hán ngày xưa, một loại chữ tượng hình, các nét được cách điệu hóa qua nhiều đời thành một nghệ thuật viết chữ có phép tắc hẳn hoi (thư pháp). Sách xưa của ta và của Trung Quốc đều nhắc đến thiếp Lan Đình của Vương Hi Chi là nhắc đến mẫu chữ đẹp nổi tiếng, đổng thời cũng ghi chép sự xuất hiện của nhiều trường phái viết chữ Hán. Thuở xưa, trong những nhà giàu sang, nhất là nhà có học, thường treo nhiều hoành phi, câu đối, bức châm, bức trướng... bằng lụa bạch, bằng giấy dày in hoa, bằng gỗ sơn son thiếp vàng hoặc khảm xà cừ. Nhất là bức châm, bộ tứ bình lụa bồi thành tranh có chữ viết kiểu đới thảo chép những lời văn, những bài thơ Đường của bạn bè tri kỉ treo trong nhà là điều hãnh diện vinh dự, là bảo vật còn quý hơn vàng ngọc. Chữ đẹp là một cái đẹp hiếm có trên đời nhưng éo le thay, nó lại là của người tù mang án tử hình, nghĩa là người ấy chết thì nó cũng mất theo. Nguy cơ mất một báu vật trong thiên hạ đã rõ ràng. Châu ngọc còn tìm ra, chứ nét chữ rồng bay phượng múa ấy, nét chữ mà cả một tỉnh đều ca ngợi thì tìm ở đâu ra? Điều đó khiến cho vẻ đẹp của nó bỗng như lấp lánh thêm.

Cái hoa tay viết chữ đẹp ấy còn đi kèm với phẩm cách cao thượng lạ kì. Nhà văn có nhắc tới cái tài bẻ khóa vượt ngục của người tù chắc là để tô đậm tài võ bên cạnh tài văn. Xin đừng vội cho đó là hạ cấp. Bẻ khóa vượt ngục, dám làm giặc chống vua quan tàn bạo, cứu khổ dân lành thì ai dám bảo đó là điều đáng chê ? Viên quản ngục lễ phép nói lời kính phục người tù là người có nghĩa khí; một gọi ngài, hai gọi ngài, ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết... nhất định không phải chi vì nghe cái tên Huấn Cao và nhớ tới tiếng đồn chữ đẹp, mà đã từng nghe, từng nghĩ nhiều điều khác nữa về con người ấy: Những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng còn biết có ai nữa... Ở nhân vật Huấn Cao, tâm hồn cũng đẹp, nhân cách cũng đẹp, hành động cũng đẹp, nhưng tất cả đều ẩn kín sau nét chữ đẹp. Những nét đẹp kia là đẹp đạo đức, còn đẹp chữ viết mới là nghệ thuật. Nghệ thuật hay và đẹp, không ai không say mê, ngưỡng mộ. Nguyễn Tuân lấy nó làm cốt truyện là vậy.

Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đề cập đến ba thái độ đối với Cái Đẹp. Thái độ thứ nhất là hủy diệt. Một số kẻ được miêu tả trong truyện nhưng đó là hạng thiên lôi chỉ đâu đánh đó, sống lâu ở chốn tù ngục nên nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Đó là bọn lính tráng, những thằng thập, thằng cửu, lính canh, lính coi tù. Lối sống của chúng là sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc. Chúng là một đống cặn bã, một lũ quay quất Thấy đám tử tù bảo nhau quỳ xuống đất để thúc mạnh chiếc gông vào thềm đá cho rệp rơi bớt ra, một tên trong lũ lính áp giải đùa một câu độc miệng: Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Nó nói tiếp, giọng hách dịch: Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ. Cũng giọng ấy, hắn nhắc viên quản ngục khi thấy ông này lộ vẻ kiêng nể và có biệt nhỡn đối với Huấn Cao: Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn. Thói sai nha nó vậy. Chốn ấy tất nhiên đẻ ra giống người ấy. Giá ai có tấm lòng trong sạch thì cũng khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả cái đời lương thiện đi. Lời ông Huấn Cao khuyên viên quản ngục ở cuối truyện chỉ nhắc lại một sự thật vĩnh hằng ở cửa ngục của giai cấp thống trị thời suy thoái. Nhà thơ Cao Bá Quát có bài thơ nói về cái gông: Mày chỉ biết gông người chứ mày biết gì phải trái, biết gì tốt xấu trên đời, đúng là để ám chỉ bọn đầu trâu mặt ngựa này. Những người tù kia, dù là Huấn Cao hay là quan gì đi nữa, dù chí cao tài cả đến đâu chăng nữa, đối với chúng chi là những tên tù, lại là tử tù, thì chúng chi nói bằng hèo, bằng tay thước, bằng thanh quất, bằng gươm. Chúng chỉ tuân thủ một mệnh lệnh là tiêu diệt. Một loại người nữa tuy không có mặt trong truyện nhưng lại là những tên tai to mặt lớn, ra lệnh từ xa. Đó là Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, là Hình bộ Thượng thư trong kinh, là ty Niết, hoặc trừu tượng hơn nhưng kinh khủng hơn, là triều đình quốc gia... Vô hình, nhưng chính nó mới là bộ máy hủy diệt. Tài năng, đức hạnh, tiết tháo, khí phách, lo nước, lo dân, văn tài, nghệ thuật... nó không cần. Nó chỉ cần những tên nô tì càng ngu xuẩn càng tốt để giúp nó giữ thật chặt cái ngai vàng bẩn thỉu, mục ruỗng.

Thái độ thứ hai là thái độ quý trọng, kính phục tài năng, nghĩa khí. Đó là thái độ của viên quản ngục và thầy thơ lại. Cái Đẹp ai cũng quý, nhưng phải biết là đẹp thì mới biết quý. Thầy thơ lại biết Huấn Cao có cả tài văn lẫn võ, nhưng là biết qua lời viên quản ngục và ông này cũng chi nghe người ta đồn. Vậy mà, khi hay tin một con người như vậy sẽ bị chém đầu thì lại thấy tiêng tiếc. Cái tính lành trời sinh, thấy tài giỏi thì mến, khổ cực thì thương ở thầy thơ lại thuần phác này đáng quý biết bao nhiêu! Viên quản ngục thì chữ nghĩa thánh hiền có lẽ không nhiều, nhưng trình độ học vấn thể hiện ở câu cửa miệng: Có học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ. Quý hơn cả là con mắt biết nhìn Cái Đẹp, coi việc thưởng thức Cái Đẹp như là một thú chơi thanh nhã ở đời. Nhân cách của ông ta là một nhân cách trên mức bình thường. Biết quý trọng Cái Đẹp chữ viết, Cái Đẹp khí phách, biết trân trọng hoài bão của con người có tài viết chữ đẹp, thì lại càng đáng quý! Yêu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp, kính phục Cái Đẹp cũng làm cho con người đẹp lên, phẩm chất lớn hơn, cao hơn, thơm ngát. Viên quản ngục đã bắt mạch được tấm lòng thuần hậu của thầy thơ lại, trước hết là từ cái cảm tưởng tiêng tiếc hồn nhiên, rồi từ đó khẳng định có căn cứ rằng: người đã biết kính mến khi phách, biết tiếc, biết trọng người có tài hẳn không phải là kẻ xấu. Không đơn thuần suy luận, mà từ bụng ta suy ra bụng người. Đó là nhận xét người, còn bản thân mình thì không giấu được sự kiêng nể, ý biệt nhỡn đối với Huấn Cao và lấy quyền lực của phép nước mà át tụi lính tráng quen thói lên mặt. Đắn đo mãi ông ta mới dám bước vào buồng giam, khép nép thưa bày, một phiền ngài hai xin ngài, để rồi phải nhận một câu cao ngạo như đuổi thẳng của Huấn Cao: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Rồi ông ta lại lễ phép lui ra với một câu: Xin lỉnh ý!chứ không giở trò tiểu nhân thị oai và vẫn dâng cơm rượu hậu hơn trước. Như vậy là hạ mình, hạ mình quá mức. Thông thường, lũ quan quyền từ trên tột đỉnh xuống tận lính quèn, cứ việc ra oai, nói bằng tử hình, bằng gông, bằng hèo chứ đâu nói bằng đạo lí phải trái. Nhưng viên quản ngục này đã đến với người tử tù bằng tư cách của kẻ bề dưới, theo bảng giá trị đích thực của lẽ phải: người tài sơ đức thiểu kính trọng người tài cao đức cả... Huống chi ông ta lại muốn xin của người tử tù ấy những nét chữ tài hoa có một không hai, mà người ấy chết thì nó cũng chết theo. Chơi chữ đẹp, một mặt đã là thú chơi tao nhã, còn giữ cho được nét chữ đẹp ấy lưu lại với đời lại là một ý thức bảo tàng còn quá hiếm hoi ở cái xã hội trọng chức tước và tiền bạc hơn học vấn và văn hóa thuở bấy giờ. Thú chơi ấy, ý thức ấy, viên quản ngục mong ước biến nó thành hiện thực. Việc chuẩn bị ngày càng chu đáo và sự chờ đợi mỗi ngày mỗi thiết tha. ông đã mua sẵn chục vuông lụa trắng Mà can lại thật phẳng phiu. Chao ôi! Xin hiểu giùm cho lòng ông: Từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết... Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời. Một con người có tâm nguyện như vậy, trong nhân cách lại không có chỗ đáng nể hay sao? Chưa kể ông ta lại ở vào cái nơi toàn là cảnh của Diêm Vương, Âm phủ: không vạc dầu thì ngục tối, không cưa xẻ thì gông xiềng, hành hạ, kể cả biến người tù thành ma không đầu... Nơi ấy chi có tàn nhẫn và quay quắt, nơi ấy người ta vui khi thấy máu tù nhân đổ, người ta cười khi thấy tù nhân quằn quại. Nơi đó không có chỗ cho lẽ phải, tình thương, đạo lí, dù là một chút. Ấy vậy mà lại còn sót được hai tâm hồn, một thuần hậu, một cao quý, thì cái thuần hậu cao quý ấy càng đáng kính trọng biết bao! Trong bùn mà sen vẫn ngát thơm. Tính cách của thầy thơ lại và viên quản ngục bổ sung cho nhau để thể hiện trọn vẹn cái trật tự của bảng giá trị lẽ phải và đạo lí ở truyện này. Cảnh viết chữ trong buồng giam ban đêm dưới ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc và niềm vui giây lát của ông Huấn, sự thỏa nguyện của viên quản ngục cùng với lời bái lỉnh kính cẩn sau lời khuyên của ông Huấn là sự hòa hợp bừng nở viên mãn ba vẻ đẹp của ba con người xứng đáng là Con Người.

Thái độ thứ ba là thái độ cao rộng của bậc chính nhân quân tử. Đầu tiên, nhân vật Huấn Cao xuất hiện qua tiếng đồn. Mà đã là tiếng đồn thì không phải cái gì cũng chính xác. Phần khuếch đại theo quy luật dị bản của truyền miệng hẳn không tránh được, như tài bẻ khóa vượt ngục chẳng hạn, nhưng tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp, cả tỉnh đều khen chắc là sự thật. Còn phạm tội phản nghịch, làm giặc thì trong giấy tờ quan trên đã ghi rõ. Mà đã dám làm việc ấy thì đương nhiên phải là người có nghĩa khí, tài giỏi, nay bị giết đi thì thấy tiêng tiếc. Việc người ấy làm là việc quốc gia triều đình, những kẻ coi ngục biết gì mà nói. Như vậy là con người Huấn Cao tuy chưa thấy mặt mà uy tín, danh tiếng đã lẫy lừng. Trong suy nghĩ của hai viên chức nhà ngục cũng có điều tô đậm thêm tính cách Huấn Cao, kể cả lời bình có tính chất cảnh cáo của tên lính áp giải. Ba nhân vật có ba từ chứa đựng ý nghĩa đánh giá khá rõ: người thơ lại thì buồn. (Có tài thế mà đi làm giặc thì buồn lắm). Viên quản ngục thì bảo ông Huấn là khoảnh (tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ). Tên lính áp giải thì xếch mé bảo ông tù này là ngạo ngược: Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn. Tại sao thầy thơ lại thấy buồn? Ấy là do thầy nhận ra rằng người tử tù kia có tài. Có tài thì phải được sống để đem tài giúp đời, đó là mong ước của người xưa. Có tài có đức, khổ mấy rồi cũng làm nên. Từng đọc tích xưa nên thầy thơ lại nghĩ: Có tài thế mà làm giặc thì đáng buồn lắm vì làm giặc chẳng biết đúng sai, nhưng bị khép vào tội chết. Tài ấy không được vua quan sử dụng, lại đem tiêu diệt đi, thiệt cho đời biết bao nhiêu ?! Đáng buồn cho đời bao nhiêu! Đây là một cách đánh giá cái tài mà cũng là Cái Đẹp ở đời. Còn khoảnh là thế nào? Khoảnh về cái gì? Khoảnh với ai? Chữ ông Huấn Cao đẹp, nhưng ông chỉ viết cho những bạn tri kỉ. ông tiếc công hay ông thiên vị ? Không phải! Mà ông nghỉ rằng chữ đẹp chẳng phải ai cũng biết thưởng thức và quý trọng. Bạn tri ki là bạn hiểu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp ấy và những Cái Đẹp khác của con người mình. Viết cho tri kỉ là san sẻ tâm hồn, tài năng và Cái Đẹp của mình cho bạn. Khoảnh như vậy là trọng mình, trọng bạn, coi Cái Đẹp là báu vật trên đời, không dễ gì phung phí. Viết chữ cũng như viết văn, làm thơ. Cụ Tam Nguyên Yên Đổ thoáng liên hệ mình với ông Đào (nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng Đào Tiềm) đã thấy thẹn phải ngừng bút. Bao bậc tài hoa trước khi chết đã đốt tất cả chữ nghĩa của mình vì cho là không xứng đáng để đời. Đâu phải chỗ nào cũng dễ dàng hạ bút để vẽ vời?! Ta sẽ thấy tự miệng ông Huấn nói ra cũng cùng một ý như trên. Biết nhận ra Cái Đẹp thì tất nhiên cũng biết quý trọng nó. Đào tiên Tây Vương Mẫu năm trăm năm mới ra được một trái, đó là thần thoại nhưng ý nghĩa vằn là đề cao Cái Đẹp.

Còn tên lính áp giải bảo Huấn Cao là ngạo ngược thì chẳng cần bàn. Con mắt ếch ngồi đáy giếng của hắn thì thấy trời chỉ to bằng cái vung. Sự tự trọng của Huấn Cao nó cho là ngạo ngược. Theo nó, đã là tù nhân thì chi biết cúi đầu, chết cũng phải chịu, huống gì giữ phẩm giá làm người. Lũ tay sai ở thời đó chẳng khác những cái gông, chỉ biết gông người chứ biết gì phải trái, đạo lí và danh dự. Nhưng đánh giá Huấn Cao như vậy, tên lính gián tiếp đã coi Huấn Cao là hạng người trên, dám khinh thường bọn hắn ra mặt.

Trên đây mới là tiếng tăm Huấn Cao qua lời đồn, trong ý nghĩ hai con người đáng quý ở nhà ngục và cả trong lời nói của tên sai nha. Còn ông Huấn tự nghĩ về mình, về người và nói năng, hành động ra sao? Trước sự biệt đãi của viên quản ngục mà người trực tiếp săn sóc là thầy thơ lại, ban đầu Huấn Cao tiếp nhận rượu thịt thản nhiên, coi như là việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh. Đến khi viên quản ngục đích thân vào buồng giam, lễ độ, cung kính tôn xưng ông là người có nghĩa khí, xin ông cho biết cần gì thêm thì ông đáp một cách trịch thượng: Nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Đẩy người ta ra và chờ sự đáp trả bằng uy lực, nhưng người ta chi một mực lễ phép lui ra với một câu bất ngờ: Xin lỉnh ý, tức là xin tuân lệnh, hỏi làm sao ông Huấn không nghi ngờ? Cái trò dụ dỗ mua chuộc nơi giam cầm là mánh khóe quá bình thường, ông Huấn càng bực vì tưởng viên quản ngục có mưu đồ thâm hiểm gì đây. Suy xét mọi lẽ, ông thấy hóa ra không phải. Mãi đến khi thầy thơ lại hớt hải đem nguyện ước sâu xa của viên quản ngục bày tỏ với ông, cùng cái tin khẩn cấp là sáng hôm sau ông Huấn và các bạn sẽ bị đưa vào tận trong Kinh để chịu tội, thì Huấn Cao mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trò ông quản và nhận ra viên quản ngục này chính là hạng người biết quý Cái Đẹp. Ông mỉm cười dạy thầy thơ lại chuẩn bị chu đáo để ông có cơ hội đáp lại tấm thịnh tình của viên quản ngục ngay đêm nay. Giọng Huấn Cao trở nên từ tốn: về bảo với chủ ngươi, tối nay... đem lụa, mực, bút và cả một bó đuốc xuống đây ta cho chữ. Cho chữ chứ không phải viết chữ. Nghe như lời của bề trên, của thần tiên phán bảo. Huấn Cao khẳng định: Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức tranh đường cho ba người bạn thân của ta thôi.

Lần này là lần thứ tư ông Huấn cho chữ. ông tự giữ giá chữ đẹp của mình đến mức ấy, vậy thì cái gì đã khiến ông hạ bút lần này ? Chính là do lòng thành, biết quý trọng, biết lưu giữ Cái Đẹp hiếm hơn vàng ngọc của viên quản ngục: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, tà đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Lòng tự trọng của ông Huấn đã gặp lòng trân trọng của viên quản ngục. Không phải phi là sự hiểu biết mà còn là sự thông cảm, cao hơn nữa là sự kính trọng đã nâng ông quản lên vị trí của một bậc tri kì một tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Lời khuyên sau đó của Huấn Cao thốt ra một cách tự nhiên. Phải xa cuộc sống nơi tù ngục này, tắm gội mình trong cuộc sống trong sạch chốn quê nhà thì mới giữ gìn được cái tính lành trời sinh và mới đeo đuổi được thú chơi chữ đẹp.

Quang cảnh buổi ông Huấn cho chữ vừa lạ vừa đẹp, vừa như một ảo ảnh, một ánh hào quang không phải của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Buồng giam hẹp, bẩn, ẩm ướt, tối mịt, ánh đuốc đỏ rực như một đám cháy nhà. Ba bóng người hoạt động. Một người ngồi dưới đất, hai tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Một người khác run run bưng chậu mực. Người thứ ba cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang cầm bút viết thoăn thoắt trên mặt lụa. Đó là viên quản ngục, thầy thơ lại và Huấn Cao. Viết xong, ông Huấn đỡ viên quản đứng dậy, rồi nhìn lại chữ mình viết đẹp tươi, nó nói lên những hoài bão của một đời người, ông đỉnh đạc có lời khuyên cuối cùng cho viên quản ngục: muốn treo chơi trong nhà bức chữ đẹp ấy thì phải thay đổi môi trường sống. Lần này, viên quản ngục lùi ra mà nói gần như muốn khóc: Kẻ mê muội này xin bái lỉnh. Ở cuộc giáp mặt lần trước, sau câu sẵng giọng của Huấn Gao, viên quản lễ phép lui ra và lắp bắp: Xin lỉnh ý! Lần này, câu nói của ông ta ấp úng trong nghẹn ngào cảm động. Trên kia là chưa hiểu nhau, đến đây cả ba người đổng cảm trong một tấm lòng chung: tha thiết yêu Cái Đẹp, Cái Đẹp chữ viết đi liền với Cái Đẹp tâm hồn.

Truyện chấm dứt với lời nghẹn ngào nhiều ý nghĩa ấy. Thái độ Huấn Cao trước sau có khác nhưng vẫn là thái độ của một bậc chính nhân quân tử. Đối với thầy trò viên quản ngục, ông Huấn vẫn giữ một khoảng cách trên dưới nhất định, trước lạnh nhạt sau thân mật, ân cần; vẫn phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng, cao rộng đối với cái đẹp dù là nhỏ nhất, dù ở bất kì hoàn cảnh nào.

Viết truyện này, Nguyễn Tuân có ngụ ý gì nữa không? Điều chắc chắn là tác giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối đối với một con người tài giỏi, nghĩa khí, một nhân cách lớn lao ở cái thời đất nước suy vong, đồng thời cũng kín đáo lồng vào đó một nỗi đau chung cho đất nước và cho tất cả những gì tốt đẹp, tài ba trong đời mà lũ thống trị thực dân phong kiến đã vùi dập một cách bạo tàn. Đồng thời, tác giả khẳng định: cuộc đời dù đen tối đến đâu, trong nhân dân vẫn có những tấm lòng ngời sáng.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 3

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp.

Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn "Chữ người tử tù" (1939) trong tập "Vang bóng một thời" là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có", cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện "Chữ người tử tù" là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn "vang bóng". Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thày giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để "xin chữ" treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên "đại nghịch" cầm đầu khỏi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hộ họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy". Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: "ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: "thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ".

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng nhứng tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được "thiên lương". Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi "ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi".

Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. "Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, "một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng". Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có"?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn "Chữ người tử tù". Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

"Chữ người tử tù" không còn là "chữ" nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà "những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người". Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí "duy mĩ" của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ - một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà vàn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.

Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp - một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng - đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.

Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi... Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.

Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc đến điều... lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.

Những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có - cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao.

Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu không có phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục - Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của hai nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm: Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn bổn phận cua một viên quan thi phải chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.

Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo - tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.

Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.

Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẫn dắt quản ngục - một kẻ nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện... mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.

Phân tích Chữ người tử tù 4

 Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lớn, một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác am hiểu nhiều lĩnh vực đời sống. Suốt đời đi tìm cái đẹp ông thường quan sát sự vật ở góc độ thẩm mĩ và miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Ông giữ vị trí vô cùng quan trọng và đóng góp không nhỏ đối với nền văn học hiện đại Việt Nam thúc đẩy thể tùy bút, bút kí văn học đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc và đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo. Ông đã để lại rất nhiều tác phẩm đặc sắc nhưng tiêu biểu nhất là truyện ngắn Chữ người tử tù thuộc tập ”Vang bóng một thời”.

                        Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Tuân đã dựng lên một tình huống truyện oái oăm, éo le. Đó là cuộc ”kì ngộ” giữa Huấn Cao và viên quản ngục trong nhà tù vào vài ngày trước khi Huấn Cao bị tử hình – một tình huống truyện giàu kịch tính. Xét về bình diện xã hội họ là những kẻ đối địch một người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình còn người kia là viên quản ngục đại diện cho bộ máy cai trị của triều đình ấy. Nhưng ở bình diện nghệ thuật họ lại là những tri kỉ, tri âm một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại ngưỡng mộ cái tài ấy. Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật bằng nghệ thuật lý tưởng hóa để khắc họa hình tượng Huấn Cao nguyên mẫu ngoài đời là Cao Bá Quát  nhà học vấn uyên thâm, văn võ song toàn. Người vùng tỉnh Sơn khen Huấn Cao có tài viết chữ rất nhanh rất đẹp. Thư pháp thường viết bằng chữ Hán một cách nghệ thuật đòi hỏi cả người viết chữ lần người nhận chữ phải có tâm hiểu được cái đẹp của chữ và cái sâu của nghĩa. ”Nét chữ vuông vắn tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người”. Viên quản ngục có ước nguyện cả đời là có được chữ ông Huấn mà treo, coi đó là ”một báu vật trên đời”. Hành động biệt đãi Huấn Cao của viên quản ngục bất chấp nguy hiểm dám làm những việc trái với quy định của triều đình phong kiến. Vượt lên trên quyền hạn của mình đánh đổi cả bằng tính mạng chỉ để thỏa mãn tâm nguyện cả đời của mình. Lòng khao khát của viên quản ngục đã nói thật rõ tài năng vượt bậc của Huấn Cao. Khi cảm nhận được tấm lòng biệt nhỡn liên tài và sở nguyện cao quý của viên quản ngục Huấn Cao vui vẻ cho chữ. Trong khi đó ông không vì vàng ngọc quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ, cả cuộc đời mới chỉ cho chữ ba người bạn thân là chỗ tri kỉ với ông. Câu nói: “Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” thể hiện quan điểm sống rất cao đẹp của Huấn Cao. Sống là phải xứng đáng với lòng người, phụ tấm lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ. Hành động ”dỗ gông” lạnh lùng bất chấp lời dọa dẫm của tên lính áp giải. Khi viên quản ngục biệt đãi, Huấn Cao thản nhiên nhận rượu thịt coi đó là một cái thứ bình sinh vẫn làm lúc chưa bị giam cầm. Cách trả lời viên quản ngục: ”Ta chỉ muốn có một điều là nhà người đừng đặt chân vào đây” khinh bạc đến điều coi việc kẻ đại diện thống trị làm chỉ là những trò tiểu nhân thị phi. Nhà văn bày tỏ thái độ yêu mến trân trọng Huấn Cao nhân vật kết tinh lưu giữ vẻ đẹp cổ truyền của văn học dân tộc cũng đồng nghĩa với việc tôn vinh ngợi ca những nét đẹp văn hóa cổ truyền đó. Phải chăng, đây cũng chính là biểu hiện của lòng yêu nước thầm kín thiết tha sâu lắng mà tác giả gửi gắm. Ngoài Huấn Cao, tác giả còn xây dựng thêm một hình tượng nhân vật nữa không kém phần đặc sắc là viên quản ngục. Một người có tâm hồn trong sáng, yêu cái đẹp và trọng cái tài. Bất chấp nguy hiểm để biệt đãi Huấn Cao với mục đích giúp ông Huấn bớt khổ cực và xa hơn là muốn xin chữ. Tác giả đặt viên quản ngục trước hai lựa chọn mang tính xung đột một là làm tròn bổn phận của một viên quan thì phải trà đạp lương tâm của mình còn hai là không làm xấu lương tâm của mình thì phải phản lại bộ phận nhà nước, coi thường bổng lộc và sự an toàn tính mệnh bản thân. Thế nhưng viên quản ngục lại lựa chọn cách thứ hai, trước sự khinh bạc của Huấn Cao quản ngục vẫn cung kính lễ phép chứng tỏ sự kiên trì, nhẫn nhịn để thực hiện khao khát cả đời của bản thân. Chỉ mong rằng một ngày nào đó Huấn Cao sẽ hiểu ra sở nguyện và chấp nhận cho chữ dù phải đổi cả tính mạng ông cũng cam lòng. Nhà thơ tự khẳng định viên quản ngục chính là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cuối cùng ở cảnh cho chữ tác giả đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối để miêu tả những chuyển biến bất ngờ đột ngột của hình tượng nhân vật đi từ bóng tối qua ánh sáng, từ sự tối tăm dơ bẩn đến cái chân thiện mĩ và sự chiến thắng của thiên lương. Vì sao nói đây là ”một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”? Thông thường cho chữ thường ở trong đại sảnh, phòng trà sang trọng thời gian là ban ngày lúc cả người cho và người nhận đều ung dung thư thái. Nhưng trong truyện lại là nơi ngục tù tối tăm bẩn thỉu người cho chữ thân thể thì đang bị gông cùm nhưng vẫn ung dung sản sinh cái đẹp còn thầy thơ lại run run bưng chậu mực và quản ngục khúm núm khép nép. Tại sao họ lại thế? Hay là họ sợ bị quân lính báo quan trên nhưng không họ đang sợ trước cái đẹp khi lần đầu tiên trong cuộc đời của mình được chiêm ngưỡng vẻ đẹp đích thực của chữ nghĩa, sản sinh từ một con người có tâm hồn cao khiết nhân cách đẹp

Tóm lại, qua tác phẩm ”Chữ người tử tù” ta thấy được tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo, khai thác nhân vật ở mọi phương diện qua các hành động bề ngoài  kết hợp với thủ pháp đối lập tài tình, tác giả càng làm rõ hơn thông điệp muốn gửi gắm trong mỗi con người bình thường như chúng ta ai cũng có một tâm hồn nghệ sĩ biết yêu cái đẹp nên hãy luôn cố gắng trau dồi để vun đắp nó.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 5

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp.

Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” (1939) trong tập “Vang bóng một thời” là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện “Chữ người tử tù” là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thày giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để “xin chữ” treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên “đại nghịch” cầm đầu khỏi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hộ họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy”. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: “ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: “thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng nhứng tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được “thiên lương”. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi “ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”.

Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. “Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng”. Hình ảnh người tử tù trở nên ***g lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.

Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bần thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao ***g lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

“Chữ người tử tù” không còn là “chữ” nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà “những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người”. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí “duy mĩ” của Nguyễn Tuân.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 6

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều biết văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà vàn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.

Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuy Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó là nghệ thuật thư pháp – một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng – đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.

Một nhà văn nước ngoài đã nói về chân lí sâu xa. Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó. Thì ra gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ. Câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.

Cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Ông Huấn Cao cũng thế. Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, ông đã trả lời bằng sự khinh bạc đến điều… lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.

Những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có – cảnh cho chữ. Cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao.

Muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt: Phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu không có phần hai thì phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả vẫn là thân phận của hai nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời, còn người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm: Một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn bổn phận cua một viên quan thi phải chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên quan. Quản ngục sẽ hành động như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.

Với một tương quan như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao tuy có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Trong mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân như thế, quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo – tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và tấm lòng này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.

Vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.

Và cảnh cho chữ được Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây diễn ra một sự đổi ngôi xưa nay chưa từng có. Kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẵn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Với nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện… mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 7

Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam ông có rất nhiều những tác phẩm hay trong đó nổi bật lên là tác phẩm Chữ Người Tử tù.

Chữ Người tử tù là tác phẩm hay trong những sáng tác của Nguyễn Tuân, trong đó nó biểu hiện được khung cảnh của việc cho chữ của viên quản ngục Huấn Cao và tên quản ngục. Ở đây đã có sự diễn ra của việc cho cái đẹp, cả hai người này đều có trái tim yêu cái đẹp. Với cách miêu tả chi tiết, sâu sắc, mỗi chi tiết xuất hiện trong tác phẩm đều được miêu tả cụ thể chi tiết trong từng tình huống, tác giả đã xây dựng không gian để cho hai người gặp nhau. Tình huống gặp gỡ thật chớ chêu, cái đẹp lại được trao ở nơi ngục tù, tối tăm, bẩn thiểu. Mối quan hệ đó thật trớ trêu, tuy nhiên ở đây tác giả cũng đang ca ngợi cái đẹp, đề cao cái đẹp.

Trong xã hội mục ruỗng, cái đẹp bị xã hội vùi dập, nhưng tên quản ngục này vẫn có tâm hồn yêu cái đẹp, vẫn một lòng tôn thờ cái đẹp, khung cảnh ở đây đã biểu hiện được tình hình xã hội lúc bấy giờ, ở nơi ngục tù tối tăm, cái đẹp vẫn nảy sinh, nó vẫn trạm đến trái tim của những người yêu cái đẹp, mong muốn được thưởng thức cái đẹp.

TRong tác phẩm, tác giả đã miêu tả chi tiết hình ảnh của nhân vật Huấn Cao, ông là người yêu cái đẹp, là người nghệ sĩ tài hoa, trong tác phẩm tác giả đã miêu tả điều đó thông qua chi tiết: “”chữ đẹp và vuông lắm”. Ai ai cũng mong muốn có chữ của ông để treo trong nhà, trong đó có ông quản ngục, ông luôn mong muốn có được chữ để treo trong nhà của mình. Ngoài ra tác giả còn miêu tả được hình ảnh Huấn Cao là một người ngang tang, có khí phách hiên ngang trong cuộc sống.

Ông là người anh hùng, mặc dù đang chuẩn bị đối diện với cái chết thế nhưng ông vẫn thể hiện được tinh thần lạc quan, ung dung, không sợ hãi bất cứ điều gì hết, sự ngang tang đó biểu hiện hình ảnh của một vị anh hùng vừa yêu cái đẹp, vừa là người anh hùng hiên ngang.

Ông là người có thiên lương trong sáng, biểu hiện ở việc ông là người nghệ sĩ chân chính, ông sẵn sàng cho chữ cho những người yêu cái đẹp, biết chân trọng cái đẹp ông còn là người có tấm lòng cao cả, một lòng khuyên viên quản ngục hết mình, chính những điều đó thể hiện ông là người anh hùng có trái tim chân chính, biết phân biệt tàn ác, ông khuyên tên quản ngục nên trốn đi: “Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy quản nên thay chốn đi… ở đây thiên lương khó giữ cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Qua chi tiết này chúng ta có thể thấy ông có tâm hồn cao cả, một nhân cách sống cao đẹp.

Hình tượng Huấn Cao được xây dựng nên để miêu tả về cái đẹp, hình tượng của Huấn Cao là một mục đích để tác giả biểu hiện về cái đẹp, như Nguyễn Tuân được mệnh danh là con người đi tìm cái đẹp, cái đẹp được tìm thấy trong những hoàn cảnh đặc biệt, sâu sắc nhất. Ngoài miêu tả hình ảnh của nhân vật Huấn Cao, tác giả cũng miêu tả hình ảnh của viên quản ngục với thân phận, tính cách đặc trưng xuất hiện trong tác phẩm, ông là người yêu cái đẹp, biết thưởng thức, chân trọng cái đẹp cao quý, cớ tính cách thanh cao, tính cách đó xuất hiện chi tiết trong tác phẩm.

Với khung cảnh cho chữ diễn ra ở nơi ngục tối, tuy nhiên trong không gian đó, cái đẹp vẫn trường tồn, tỏa sáng, hình ảnh của người anh hùng vẫn biểu hiện sâu sắc, chi tiết nhất trong tác phẩm của mình, mỗi một tác phẩm đều được xây dựng một cách chi tiết, sâu sắc nhất. Cái đẹp luôn được coi trọng và nó tỏa sáng trong khung cảnh của ngục tù tối tăm.

Tác phẩm đã được xây dựng sâu sắc với những chi tiết nổi bật, đặc sắc, qua đó muốn ca ngợi cái đẹp, người anh hùng khí phách của Huấn Cao, tấm lòng yêu cái đẹp của Quản Ngục.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 8

 Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, mỗi nhà thơ, nhà văn đều để lại trong lòng bạn đọc những dấu ấn riêng, không thể nào trộn lẫn. Nếu bạn đọc biết đến Thạch Lam với những trang truyện ngắn đầy chất thơ, Nam Cao là nhà văn với tài năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Vũ Trọng Phụng là nhà văn trào phúng xuất sắc,… thì với Nguyễn Tuân, bạn đọc biết đến ông là “người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp” với những trang viết tài hoa, uyên bác, lãng mạn và tài hoa. Và có thể nói, tập truyện “Vang bóng một thời” gồm 11 truyện ngắn ra  đời trước cách mạng tháng Tám là một trong số những tác phẩm tiêu biểu của ông. Đọc tập truyện “Vang bóng một thời” người đọc sẽ không thể nào quên được thiên truyện “Chữ người tử tù” – tác phẩm viết về thú chơi chữ – một nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.

Có thể nói, tình huống truyện là yếu tố cốt lõi, thành phần quan trọng đối với mỗi truyện ngắn, góp phần không nhỏ vào thành công, sức hấp dẫn của truyện và như Nguyễn Minh Châu từng nói “Tình huống truyện là thứ nước rửa hình rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật”. Và truyện ngắn “Chữ người tử tù” cũng vậy, tác phẩm đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, góp phần không nhỏ vào sức sống lâu bền của thiên truyện. Tình huống truyện độc đáo của truyện ngắn “Chữ người tử tù” chính là cuộc gặp gỡ đầy éo le giữa Huấn Cao và viên quản ngục nơi chốn ngục tù trong những ngày cuối cùng của cuộc đời Huấn Cao. Chính cuộc gặp gỡ giữa hai con người đối lập nhau trên bình diện xã hội – Huấn Cao là người có tội, đang chờ ngày chịu án và viên quan coi ngục nhưng họ lại gặp nhau ở tấm lòng, niềm say mê cái đẹp đã tạo nên tình huống truyện hấp dẫn, từ đó, làm cho câu chuyện thêm phần kịch tính và hấp dẫn người đọc. Và để rồi, tình huống truyện ấy đã góp phần làm bật nổi tính cách, vẻ đẹp tâm hồn của cả Huấn Cao và viên quản ngục. Đồng thời, qua tình huống truyện cũng giúp chúng ta hiểu hơn về quan điểm về cái đẹp của nhà văn Nguyễn Tuân.

     Không chỉ thành công ở việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, truyện ngắn “Chữ người tử tù” còn xây dựng thành công các hình tượng nhân vật, trước hết là nhân vật Huấn Cao. Nhân vật Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm là người có tài viết chữ đẹp – tài viết thư pháp. Như chúng ta đã biết, tài viết thư pháp và nghệ thuật cho chữ là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc từ xa xưa đến nay và là tài năng được coi trọng. Và với Huấn Cao, tài viết chữ đẹp của ông nổi tiếng khắp nơi và được thể hiện rõ nét qua những lời khen, lời giới thiệu trong cuộc trò chuyện giữa viên quản ngục và thầy thơ lại khi Huấn Cao được giải đến chốn ngục tù này “Huấn Cao? Hay là cái người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và đẹp đó phải không?” Đặc biệt, tài viết chữ đẹp của Huấn Cao còn được thể hiện gián tiếp qua ước muốn, khát khao cháy bỏng có được chữ ông Huấn để treo trong ngôi nhà của mình của viên quan coi ngục “Chữ ông đẹp lắm, vuông lắm… Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”.

     Thêm vào đó, Huấn Cao còn là người có khí phách hiên ngang, tinh thần bất khuất. Huấn Cao là kẻ “chọc trời khuấy nước”, là người dám cầm đầu cả một cuộc đại phản chống lại triều đình để không đi lại lề lỗi cũ. Và chắc có lẽ bởi vậy, mà chỉ cần nghe đến tên của ông thôi cũng đủ làm cho bọn lính coi ngục phải dè chừng, khiếp sợ “Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn.” Khi đến trước cửa ngục, Huấn dường như chẳng lấy gì làm sợ hãi, ông vẫn có thái độ dỗ gông đầy bản lĩnh, tỏ rõ cái khí phách vốn có của mình “Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt.”

     Không dừng lại ở vẻ đẹp tài năng hay khí phách hiên ngang, hơn người, Huấn Cao còn là người có vẻ đẹp thiên lương trong sáng. Trong suốt cuộc đời mình, Huấn Cao chưa từng một lần cho chữ vì sợ quyền lực hay ham muốn địa vị vật chất, tiền bạc, ông từng nói “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ.” Nhưng rồi vì cảm mến, vì trân trọng tấm lòng “biệt nhỡn liên tài” của viên quản coi ngục mà ông cho chữ ngay giữa chốn ngục tù tối tăm ngay trước đêm ông chịu án tử “Nào đâu có biết một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.” Hành động cho chữ viên quản ngục của Huấn Cao xét đến cùng là tấm lòng quý trọng của Huấn Cao đối với những người biết coi trọng, nâng niu cái tài, cái đẹp.

     Cùng với nhân vật Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục cũng góp phần không nhỏ vào thành công và sức hấp dẫn của tác phẩm. Trước hết, viên quản ngục là người có “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” hay nói cách khác ông là người quý trọng cái đẹp, cái tài năng. Dù chưa từng một lần gặp mặt ông Huấn Cao nhưng từ tận sâu trong lòng mình viên quản ngục đã hết mực kính trọng và khao khát có được “chữ ông Huấn mà treo trong nhà”. Tấm lòng ấy của viên quản ngục thể hiện rõ nét qua thái độ, cách đối xử của ông với Huấn Cao trong những ngày Huấn Cao ở tù. Đó là thái độ kiên nhẫn dâng rượu thịt cho Huấn Cao với hi vọng có thể xin được chữ. Đó còn là thái độ lễ phép rút lui khi bị Huấn Cao mắng. Thêm vào đó, viên quản ngục còn là người có nhân cách cao đẹp. Mặc dù sống và làm việc nơi chốn ngục tù ẩm ướt, nơi cái xấu, cái ác đang từng ngày, từng giờ ngự trị song viên quản ngục vẫn giữ cho mình một tâm hồn cao đẹp, một tấm lòng say mê với cái đẹp, cái tài. Đặc biệt, nhân cách cao đẹp của ông thể hiện rõ nét qua cái chắp tay, cúi đầu bái lĩnh “kẻ mê muội này xin bái lĩnh” của ông sau khi Huấn Cao cho chữ.

     Đặc biệt, khi đọc thiên truyện “Chữ người tử tù” người đọc sẽ không thể nào quên được cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm. Chúng ta vẫn thấy cảnh cho chữ thường diễn ra ở những nơi thanh cao, tao nhã nhưng ở đây, cảnh cho chữ lại diễn ra ngay chốn ngục tù tăm tối, nơi mà cái ác, cái xấu vẫn đang từng giây, từng phút ngự trị “trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” trong một đêm tối tĩnh mịch trước ngày Huấn Cao chịu án tử. Và để rồi, trong nền không gian ấy, hình ảnh ba cái đầu chụm lại với nhau dưới ánh đuốc đỏ rực thật khiến người ta ám ảnh mãi không nguôi. Huấn Cao – người tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô những nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Còn viên quản ngục thì đang “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” và thầy thơ lại “gầy gò, run run bưng chậu mực”. Có lẽ, cảnh cho chữ này là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” bởi lẽ cảnh cho chữ diễn ra nơi chốn ngục tù. Hơn thế nữa, người cho chữ ở đây lại người tử tù đang mang trên mình xiềng xích và chỉ nốt đêm nay thôi, ngày mai sẽ phải đối diện với án tử. Nhưng qua cảnh cho chữ ấy, đã để lại trong chúng ta nhiều suy ngẫm. Nó không chỉ làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của các nhân vật, mà qua đó còn giúp chúng ta hiểu hơn về quan niệm về cái đẹp của nhà văn Nguyễn Tuân. Với Nguyễn Tuân, cái đẹp luôn có khả năng và mang trong mình sức mạnh cảm hóa kì diệu, nó làm cho tất cả phải phục tùng và quỳ gối trước nó và hơn thế, cái đẹp luôn có sức mạnh cảm hóa và hướng thiện con người.

Tóm lại, truyện ngắn “Chữ người tử tù” với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, sử dụng ngôn ngữ góc cạnh đã cho ta thấy quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp cũng như tài năng của ông trong việc lựa chọn tình huống, xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn ngữ.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 9

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Người ta thấy dưới ngòi bút của ông lời văn hiện lên đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ. Một trong những nét bút trác tuyệt đó là tác phẩm Chữ người tử tù. Hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã được tác giả xuyên suốt trong đoạn trích.

Truyện ngắn Chữ người tử tù lúc đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng, in năm 1938 trên tạp chí Tao Đàn, sau đó được tuyển in trong tập truyện Vang bóng một thời và đổi tên thành Chữ người tử tù. Nhân vật chính trong Chữ người tử tù là Huấn Cao, một nhân vật điển hình trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân trước Cách mạng. Đó là những người tài hoa, bất đắc chí. Họ không chỉ có tài mà còn có cái tâm trong sáng, mặc dù chí không thành nhưng tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất.

Đoạn trích Chữ người tử tù là một câu chuyện về một viên quản ngục mến mộ tài năng, nhất là tài viết chữ Hán đẹp, nhưng éo le thay cho số phận lại là một người bị án tử hình (chém), trước cái tài, cái đẹp viên quản ngục đã bí mật đối đãi trân trọng bởi tử tù với mong ước xin được chữ quý. Làm mọi cách để xin chữ nhưng do Huấn Cao – tử tù tưởng viên quản ngục là người xấu nên đã không cho, cao trào đoạn trích dâng cao khi tử tù bị mang ra pháp trường thì ông lại được tử tù cho chữ và những lời khuyên đáng trân trọng trong cuộc sống.

Tình huống truyện là tình thế xảy ra trong truyện, tạo ra cho câu chuyện thêm đặc sắc. Nguyễn Tuân đã xây dựng nên một tình huống truyện tưởng như éo le nhưng chính cái eo le ấy lại mang lại tính kịch tính của câu chuyện giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa nhân vật với hoàn cảnh để làm hiện lên những nét đẹp của con người tài đức.

Bằng ngòi bút văn học lãng mạn tức là mô phỏng theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Trong đoạn trích này, Nguyễn Tuân đã xây dựng hình ảnh nhân vật Huấn Cao là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Tác giả để nhân vật chính hiện lên gián tiếp thông qua cuộc đối thoại giữa viên thơ lại và quản ngục. Tuy hiện lên gián tiếp nhưng có thể thấy được vẻ đẹp của Huấn Cao là một vẻ đẹp của người văn võ toàn tài, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài của Huấn Cao được tô đậm bằng việc viết chữ đẹp, mà người ta thường có câu “nét chữ nết người”. Nét chữ của ông “đẹp lắm, vuông lắm” khiến nhiều người mơ ước có được. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Nó là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ là hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của quản ngục. Để có được chữ Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình.

Ngoài tài cao, ông còn là một người có tấm lòng trong sáng, cao quý. Mặc dù có tài, và nhiều người sẵn sàng mua chữ của ông, nhưng ông cũng không bán. Ông chỉ cho chữ, khi người đó thực sự đáng kính, đáng tôn và cũng phải có vẻ đẹp, biết trân trọng cái Thiện, cái Mỹ.

Tính cách của Huấn Cao  như vậy, nên khi viên quản ngục có ý định xin chữ, và đối tốt với ông, ông luôn tỏ ra bất cần và không quan tâm. Tưởng như quản ngục là một người làm việc không tốt và là bè lũ tay sai của bọn quan lại tham ô, hối lộ, k xứng đáng làm quan. Thế nhưng, ngược lại quản ngục lại hiện lên trước mắt người đọc là một nhân vật lương thiện, biết phân biệt đẹp tốt, có thú chơi tao nhã: chơi chữ. Sở nguyện cả đời của ông là có được đôi câu đối do chính tay Huấn Cao viết để treo trang trọng trong nhà. Cái sở nguyện này mạnh mẽ vượt qua cả nỗi sợ hãi, bất chấp mọi nguy hiểm đến bản thân, làm đảo lộn trật tự trong tù, biến một phạm nhân có án tử hình thành một thần tượng để mình tôn thờ.

Thế nhưng, khi biết được sự lương thiện và ước mong chính đáng, biết quý trọng cái đẹp Huấn Cao liền cho quản ngục chữ. Cái hay ở đây là, người ta thường thấy cảnh cho chữ diễn ra ở khuê phòng, người cho chữ trong tâm trạng thoải mái. Nhưng ở đây, Huấn Cao lại là người tử rù, ngày mai bị mang ra pháp trường xử chém. Trong khi, không gian lại chật hẹp, toàn mùi phân gián, phân chuột, ngọn đuốc cháy phập phồng trong đêm. Bất chấp điều đấy, một cảnh tượng đẹp được hiện lên đó là cảnh cho chữ của những con người biết hướng về cái đẹp, quý trọng vẻ đẹp chân chính. Vẻ đẹp kết hợp giũa cái Tài với cái Tâm. Có thể nói, cảnh tượng cho chữ này xưa nay chưa từng có. Sau khi cho chữ, Huấn Cao còn khuyên quản ngục về quê sống, tránh xa những nơi bon chen, cuộc sống lấm lem, không hợp với những người thích chơi chữ như quản ngục. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẵn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối.

Cũng qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 10

Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam- là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm, ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút,giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.

Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã rãi bày tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng , yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trăng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.

Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao – người có tài viết chữ nhanh, đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại – những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.

Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.

Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “ vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân – thiện – mĩ.

Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngời viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.

“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dong chữ cuối cung của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.

Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.( văn học cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)

Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đáo bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 11

Nguyễn Tuân sinh năm 1910 ở làng Nhân Mục, tục gọi là làng Mọc, thuộc Hà Nội. Ông là người có bản lĩnh cứng cỏi trong đời sống và trong sáng tác văn học; hiểu biết rộng, quý trọng tài năng, coi trọng nghề nghiệp, có những sáng tạo độc đáo trong lời văn cũng như trong cảm nghĩ. Sự nghiệp văn học của ông gồm hai giai đoạn. Các tác phẩm tiêu biểu trước 1945: Vang bóng một thời (1940), Tuỳ bút 7 (1941), Tuỳ bút II (1943). Sau 1945: Tình chiến dịch (1950), Tuỳ bút kháng chiến (1955), Sông Đà (1960), một số bài phê bình và giới thiệu chân dung văn học. Nguyễn Tuân có những đóng góp đáng kể cho nền văn xuôi hiện đại, nhất là ở thể loại tuỳ bút, ở cảm thụ sâu sắc và ở văn phong cầu kì, đa dạng như một ống kính trăm màu.

Chữ người tử tù rút từ tập truyện Vang bóng một thời. Như tựa đề, đó là cuốn sách ghi chép về một thời và một lớp người đã tàn trong quá khứ, mà bóng dáng hãy còn in đậm trong trí nhớ, trong sự kính phục, tôn sùng của tác giả. Chữ người tử tù là câu chuyện về một viên quản ngục mến mộ tài năng, nhất là tài viết chữ Hán đẹp nổi tiếng của một người tù án chém. Ông ta đã bí mật đối đãi trân trọng người tù với mong ước xin được chữ quý. Cuối cùng, tưởng đã hết hi vọng xin chữ thì ông lại được người tù vui vẻ cho chữ, kèm theo lời khuyên hãy bỏ nghề coi ngục, về quê sống thanh bần để giữ được tâm hồn trong sạch, xứng với thú chơi chữ đẹp. Thông qua câu chuyện ấy, đặc biệt là cảnh cho chữ ban đêm trong ánh đuốc đỏ rực, tác giả muốn nêu bật giá trị cao quý của Cái Đẹp: đẹp chữ viết, đẹp đức cao, đẹp nhân cách. Đồng thời ca ngợi người biết quý trọng gìn giữ Cái Đẹp ấy như một báu vật ở đời mà ngọc vàng, quyền thế cũng không sao đổi được.

Người đọc ngày nay tìm hiểu văn chương xưa bao giờ cũng phải vượt qua một cửa ải khó khăn. Đó là vốn văn hoá, lịch sử làm nền cho tác phẩm. Nói về phong kiến là nhắc tới vua quan và dân đen, địa chủ và nông dân. Nói về đạo Nho là nhắc tới cương thường, trên trí quân, dưới trạch dân. Nói về đạo Phật là nhắc tới luân hồi, từ bi... thì có thể cũng hiểu được sơ sơ đôi chút, nhưng trước những sản phẩm vật chất và tinh thần của văn hoá phong kiến cách đây trên một thế kỉ được đề cập tới trong truyện ngắn này thì quả thật không dễ hiểu chút nào. Nguyễn Tuân có dụng ý rõ ràng khi dựng lại một không khí xưa cũ như thế trong truyện Chữ người tử tù. Cảnh vật, con người, sự việc hiện ra cũng đậm màu sắc ấy, đưa chúng ta trở lại quá khứ cách đây hơn trăm năm.

Mở đầu, nội dòng chữ : phiến trát của Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, muốn hiểu cho thấy ngọn ngành, e đến bạc tóc. Bình thường, người ta viết là tờ trát, lá trát, nhưng tác giả vẫn để nguyên cách gọi của thời đó với nghĩa nghiêm trọng là phiến trát. Còn tại sao ông không viết: của quan tổng đốc Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường theo kết cấu Hán văn y như trong phiến trát để cho nó giữ nguyên cái tính chất quan yếu, dậy mùi quyền lực ngay trong từng chữ... Đốc bộ đường là chữ dùng để chỉ chức vụ Tổng đốc. Lại thêm tên gọi tắt của ba tỉnh Sơn (Sơn Tây), Hưng (Hưng Hoá), Tuyên (Tuyên Quang) vì hồi ấy, tỉnh nhỏ đứng đầu chỉ là chức Tuần vũ, hai hay ba tỉnh nhỏ hợp lại mới có chức Tổng đốc trùm lên trên – ba tỉnh này đặt chung dưới quyền cai trị của một Tổng đốc. Mệnh lệnh từ dinh quan Tổng đốc phát ra cho cấp phủ, cấp huyện là rất uy nghi.

Người cầm bút mượn chữ xưa mà khơi dậy cái không khí, khung cảnh của một thời. Tả cảnh vật thì vọng canh (vọng canh là chiếc chòi canh được dựng khá cao để có thể trông xa), chiếc hào hoa, giá gươm, án thư, con song, giấy bản, ty Niết, tàn đèn, chiếc gông, chậu mực, bức châm... Tả người thì thấy bát, ngục tốt, thằng thập, thủ xướng... Tả việc thì cho chữ, thay bút con, đề xong lạc khoản, lĩnh ý, bái lĩnh... Đằng sau chữ nghĩa ấy là cả một nền văn hoá xưa mà truyện này chỉ xén ra có một mảnh, đủ đưa người đọc vào không khí của một cửa ngục tiêu biểu cho triều đình thời ấy, đầy quyền lực mà ngu xuẩn, hùa nhau huỷ diệt nhân cách và đức tài. May mà trong đó còn nổi lên dè dặt mà sâu thiết một tấm lòng biết quý trọng, tôn kính cái đẹp của đức độ, tài ba. Những điều chứa chất bên trong nội dung của truyện đã chinh phục được người đọc. Đó là điều đáng chú ý trước tiên.

Cốt truyện Chữ người tử tù xoay quanh tài viết chữ đẹp của người tù án chém. Ý nghĩa dĩ nhiên có thể mở rộng ra nhiều, nhưng đó là cái cốt lõi. Có ba hạng người và ba thái độ trước cái đẹp ấy. Thái độ thứ nhất là huỷ diệt; thái độ thứ hai là kính trọng, mến phục ; thái độ thứ ba là đại lượng, trọng mình, trọng người của một bậc chính nhân quân tử. Đan dệt trong truyện là ba thái độ đối với cái đẹp.

Nói chủ đề của truyện là tôn vinh cái đẹp e hồ đồ chăng ? Cái đẹp ấy ở chữ viết của người tử tù là điều khỏi bàn cãi. Viên quản ngục đã nghe cả vùng tỉnh Sơn vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp của người tù này. Cố nhiên tài viết chữ ấy gắn liền với một cái tên cụ thể là Huấn Cao. Ông quan họ Cao có thời làm huấn đạo ở tỉnh Sơn Tây, nơi mà viên quản ngục gọi thân mật là tỉnh Sơn La. Ông Huấn Cao ấy bây giờ tên tuổi lại đứng đầu trong danh sách sáu tử tù phạm tội phản nghịch, dám cầm gươm chống lại triều đình. Lời văn chỉ kể có thế, còn nhân vật Huấn Cao có phải là Cao Bá Quát nổi tiếng thơ hay chữ đẹp, lại có thời gian bị triều đình đẩy đi giữ chức giáo thụ ở phủ Quốc Oai tỉnh Sơn và đã cùng nông dân nổi lên chống vua quan hay không, thì chẳng biết. Đó là chỗ kín nhiệm của ngòi bút, chỗ để trăng ẩn vào mây như cách nói của người xưa. Nếu có gì trùng hợp thì cũng coi như là ngẫu nhiên vậy.

Lẽ thường, ở đời cái gì đẹp cũng quý bởi nó làm cho cuộc sống thêm tươi vui, ý nghĩa. Chữ đẹp cũng thế. Chữ đây là chữ Hán ngày xưa, một loại chữ tượng hình, các nét được cách điệu hoá qua nhiều đời thành một nghệ thuật viết chữ có phép tắc hẳn hoi (thư pháp). Sách xưa của ta và của Trung Quốc đều nhắc đến thiếp Lan Đình của Vương Hi Chi là nhắc đến mẫu chữ đẹp nổi tiếng, đồng thời cũng ghi chép sự xuất hiện của nhiều trường phải viết chữ Hán. Thuở xưa, trong những nhà giàu sang, nhất là nhà có học, thường treo nhiều hoành phi, câu đối, bức châm, bức trướng... bằng lụa bạch, bằng giấy dày in hoa, bằng gỗ sơn son thiếp vàng hoặc khảm xà cừ. Nhất là bức châm, bộ tứ bình lụa bồi thành tranh có chữ viết kiểu đội thảo chép những lời răn, những bài thơ Đường của bạn bè trị kỉ treo trong nhà là điều hãnh diện, vinh dự, là bảo vật còn quý hơn vàng ngọc.

Chữ đẹp là một cái đẹp hiếm có trên đời nhưng éo le thay, nó lại là của người tù mang án tử hình, nghĩa là người ấy chết thì nó cũng mất theo. Nguy cơ mất một báu vật trong thiên hạ đã rõ ràng. Châu ngọc còn tìm ra, chứ nét chữ rồng bay phượng múa ấy, nét chữ mà cả một tỉnh đều ca ngợi thì tìm ở đâu ra? Điều đó khiến cho vẻ đẹp của nó bỗng như lấp lánh thêm. Cái hoa tay viết chữ đẹp ấy còn đi kèm với phẩm cách cao thượng lạ kì. Nhà văn có nhắc tới cái tài bẻ khoá vượt ngục của người tù chắc là để tô đậm tài võ bên cạnh tài văn. Xin đừng vội cho đó là hạ cấp. Bẻ khoá vượt ngục, dám làm giặc chống vua quan tàn bạo, cứu khổ dân lành thì ai dám bảo đó là điều đáng chê ? Viên quản ngục lễ phép nói lời kính phục người tù là người có nghĩa khí; một gọi ngài, hai gọi ngài, ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết... nhất định không phải chỉ vì nghe cái tên Huấn Cao và nhớ tới tiếng đồn chữ đẹp, mà đã từng nghe, từng nghĩ nhiều điều khác nữa về con người ấy: Những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng còn biết có ai nữa... Ở nhân vật Huấn Cao, tâm hồn cũng đẹp, nhân cách cũng đẹp, hành động cũng đẹp, nhưng tất cả đều ẩn kín sau nét chữ đẹp. Những nét đẹp kia là đẹp đạo đức, còn đẹp chữ viết mới là nghệ thuật. Nghệ thuật hay và đẹp, không ai không say mê, ngưỡng mộ. Nguyễn Tuân lấy nó làm cốt truyện là vậy.

Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân đề cập đến ba thái độ đối với Cái Đẹp. Thái độ thứ nhất là huỷ diệt. Một số kẻ được miêu tả trong truyện nhưng đó là hạng thiên lôi chỉ đâu đánh đó, sống lâu ở chốn tù ngục nên nhiễm thói đầu trâu mặt ngựa. Đó là bọn lính tráng, những thằng thập, thằng cửu, lính canh, lính coi tù. Lối sống của chúng là sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc. Chúng là một đống cặn bã, một lũ quay quắt. Thấy đám tử tù bảo nhau quỳ xuống đất để thúc mạnh chiếc gông vào thềm đá cho rệp rơi bớt ra, một tên trong lũ lính áp giải đùa một câu cửa miệng: Các người chả phải tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Nó nói tiếp, giọng hách dịch : Đứng dậy không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ. Cũng giọng ấy, hắn nhắc viên quản ngục khi thấy ông này lộ vẻ kiêng nể và có biệt nhỡn đối với Huấn Cao: Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn. Thói sai nha nó vậy. Chốn ấy tất nhiên đẻ ra giống người ấy. Giả ai có tấm lòng trong sạch thì cũng khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả cái đời lương thiện đi. Lời ông Huấn Cao khuyên viên quản ngục ở cuối truyện chỉ nhắc lại một sự thật vĩnh hằng ở cửa ngục của giai cấp thống trị thời suy thoái. Nhà thơ Cao Bá Quát có bài thơ nói về cái gông: Mày chỉ biết gông người chứ mày biết gì phải trái, biết gì tốt xấu trên đời, đúng là để ám chỉ bọn đầu trâu mặt ngựa này. Những người tù kia, dù là Huấn Cao hay là quan gì đi nữa, dù chỉ cao tài cả đến đâu chăng nữa, đối với chúng chỉ là những tên tù, lại là tử tù, thì chúng chỉ nói bằng hèo, bằng tay thước, bằng thanh quất, bằng gươm. Chúng chỉ tuân thủ một mệnh lệnh là tiêu diệt. Một loại người nữa tuy không có mặt trong truyện nhưng lại là những tên tại to mặt lớn, ra lệnh từ xa. Đó là Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường, là Hình bộ Thượng thư trong kinh, là ty Niết, hoặc trừu tượng hơn nhưng kinh khủng hơn, là triều đình quốc gia... Vô hình, nhưng chính nó mới là bộ máy huỷ diệt. Tài năng, đức hạnh, tiết tháo, khí phách, lo nước, lo dân, văn tài, nghệ thuật... nó không cần. Nó chỉ cần những tên nô tì càng ngu xuẩn càng tốt để giúp nó giữ thật chặt cái ngai vàng bẩn thỉu, mục ruỗng.

Thái độ thứ hai là thái độ quý trọng, kính phục tài năng, nghĩa khí. Đó là thái độ của viên quản ngục và thầy thơ lại. Cái Đẹp ai cũng quý, nhưng phải biết là đẹp thì mới biết quý. Thầy thơ lại biết Huấn Cao có cả tài văn lẫn võ, nhưng là biết qua lời viên quản ngục và ông này cũng chỉ nghe người ta đồn. Vậy mà, khi hay tin một con người như vậy sẽ bị chém đầu thì lại thấy tiếng tiếc. Cái tính lành trời sinh, thấy tài giỏi thì mến, khổ cực thì thương ở thầy thơ lại thuần phác này đáng quý biết bao nhiêu! Viện quản ngục thì chữ nghĩa thành hiện có lẽ không nhiều, nhưng trình độ học vấn thể hiện ở câu cửa miệng: Có học thì như lúa như nếp, không học thì như rơm như cỏ. Quý hơn cả là con mắt biết nhìn Cải Đẹp, coi việc thưởng thức Cái Đẹp như là một thú chơi thanh nhã ở đời. Nhân cách của ông ta là một nhân cách trên mức bình thường. Biết quý trọng Cải Đẹp chữ viết, Cái Đẹp khí phách, biết trân trọng hoài bão của con người có tài viết chữ đẹp, thì lại càng đáng quý ! Yêu Cái Đẹp, quý Cải Đẹp, kính phục Cải Đẹp cũng làm cho con người đẹp lên, phẩm chất lớn hơn, cao hơn, thơm ngát. Viên quản ngục đã bắt mạch được tấm lòng thuần hậu của thầy thơ lại, trước hết là từ cái cảm tưởng tiêng tiếc hồn nhiên, rồi từ đó khẳng định có căn cử rằng: người đã biết kính mến khí phách, biết tiếc, biết trong người có tài hẳn không phải là kẻ xấu. Không đơn thuần suy luận, mà từ bụng ta suy ra bụng người. Đó là nhận xét người, còn bản thân mình thì không giấu được sự kiêng nể, ý biệt nhờn đối với Huấn Cao và lấy quyền lực của phép nước mà át tụi lính tráng quen thói lên mặt. Đắn đo mãi ông ta mới dám bước vào buồng giam, khép nép thưa bày, một phiền ngài hai xin ngài, để rồi phải nhận một câu cao ngạo như đuổi thẳng của Huấn Cao: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà người đừng đặt chân vào đây. Rồi ông ta lại lễ phép lui ra với một câu: Xin lĩnh ý! chứ không giở trò tiểu nhân thị oai và vẫn dâng cơm rượu hậu hơn trước. Như vậy là hạ mình, hạ mình quá mức. Thông thường, lũ quan quyền từ trên tột đỉnh xuống tận lính quèn, cứ việc ra oai, nói bằng tử hình, bằng gông, bằng hèo chứ đâu nói bằng đạo lí, phải trái. Nhưng viên quản ngục này đã đến với người tử tù bằng từ cách của kẻ bề dưới, theo bảng giá trị đích thực của lẽ phải: người tài sơ đức thiểu kính trọng người tài cao đức cả... Huống chi ông ta lại muốn xin của người tử tù ấy những nét chữ tài hoa có một không hai, mà người ấy chết thì nó cũng chết theo. Chơi chữ đẹp, một mặt đã là thú chơi tao nhã, còn giữ cho được nét chữ đẹp ấy lưu lại với đời lại là một ý thức bảo tàng còn quá hiếm hoi ở cái xã hội trong chức tước và tiền bạc hơn học vấn và văn hoá thuở bấy giờ. Thú chơi ấy, ý thức ấy, viên quản ngục mong ước biến nó thành hiện thực. Việc chuẩn bị ngày càng chu đáo và sự chờ đợi mỗi ngày mỗi thiết tha. Ông đã mua sẵn chục vuông lụa trắng và can lại thật phẳng phiu. Chao ôi! Xin hiểu giùm cho lòng ông: Từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan cai ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết... Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời. Một con người có tâm nguyện như vậy, trong nhân cách lại không có chỗ đáng nể hay sao? Chưa kể ông ta lại ở vào cái nơi toàn là cảnh của Diêm Vương, Âm phủ: không vạc dầu thì ngục tối, không cưa xẻ thì gông xiềng, hành hạ, kể cả biến người tù thành mà không đầu... Nơi ấy chỉ có tàn nhẫn và quay quắt, nơi ấy người ta vui khi thấy máu tù nhân đổ, người ta cười khi thấy tù nhân quần quại. Nơi đó không có chỗ cho lẽ phải, tình thương, đạo lí, dù là một chút. Ấy vậy mà lại còn sót được hai tâm hồn, một thuần hậu, một cao quý, thì cái thuần hậu cao quý ấy càng đáng kính trọng biết bao! Trong bùn mà sen vẫn ngát thơm. Tính cách của thầy thơ lại và viên quản ngục bổ sung cho nhau để thể hiện trọn vẹn cái trật tự của bảng giá trị lẽ phải và đạo lí ở truyện này. Cảnh viết chữ trong buồng giam ban đêm dưới ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc và niềm vui giây lát của ông Huấn, sự thoả nguyện của viên quản ngục cùng với lời bái lĩnh kính cẩn sau lời khuyên của ông Huấn là sự hoà hợp bừng nở viên mãn ba vẻ đẹp của ba con người xứng đáng là Con Người.

Thái độ thứ ba là thái độ cao rộng của bậc chính nhân quân tử. Đầu tiên, nhân vật Huấn Cao xuất hiện qua tiếng đồn. Mà đã là tiếng đồn thì không phải cái gì cũng chính xác. Phần khuếch đại theo quy luật di bản của truyền miệng hẳn không tránh được, như tài bẻ khoá vượt ngục chẳng hạn, nhưng tài viết chữ rất nhanh, rất đẹp, cả tỉnh đều khen chắc là sự thật. Còn phạm tội phản nghịch, làm giặc thì trong giấy tờ quan trên đã ghi rõ. Mà đã dám làm việc ấy thì đương nhiên phải là người có nghĩa khí, tài giỏi, nay bị giết đi thì thấy tiếng tiếc. Việc người ấy làm là việc quốc gia triều đình, những kẻ cai ngục biết gì mà nói. Như vậy là con người Huấn Cao tuy chưa thấy mặt mà uy tín, danh tiếng đã lẫy lừng. Trong suy nghĩ của hai viên chức nhà ngục cũng có điều tô đậm thêm tính cách Huấn Cao, kể cả lời bình có tính chất cảnh cáo của tên lính áp giải. Ba nhân vật có ba từ chứa đựng ý nghĩa đánh giá khá rõ: người thợ lại thì buồn. (Có tài thế mà đi làm giặc thì buồn lắm). Viên quản ngục thì bảo ông Huấn là khoảnh (tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ). Tên lính áp giải thì xếch mé bảo ông tù này là ngạo ngược: Tên ấy chính là thủ xướng. Xin thầy để tâm cho. Hắn ngạo ngược và nguy hiểm nhất trong bọn. Tại sao thầy thơ lại thấy buồn? Ấy là do thầy nhận ra rằng người tử tù kia có tài. Có tài thì phải được sống để đem tài giúp đời, đó là mong ước của người xưa. Có tài có đức, khổ mấy rồi cũng làm nên. Từng đọc tích xưa nên thầy thơ lại nghĩ: Có tài thế mà làm giặc thì đáng buồn lắm vì làm giặc chẳng biết đúng sai, nhưng bị khép vào tội chết. Tài ấy không được vua quan sử dụng, lại đem tiêu diệt đi, thiệt cho đời biết bao nhiêu ?! Đáng buồn cho đời bao nhiêu! Đây là một cách đánh giá cái tài mà cũng là Cái Đẹp ở đời.

Còn khoảnh là thế nào ? Khoảnh về cái gì ? Khoảnh với ai ? Chữ ông Huấn Cao đẹp, nhưng ông chỉ viết cho những bạn tri kỉ. Ông tiếc công hay ông thiên vị ? Không phải! Mà ông nghĩ rằng chữ đẹp chẳng phải ai cũng biết thưởng thức và quý trọng. Bạn tri kỉ là bạn hiểu Cái Đẹp, quý Cái Đẹp ấy và những Cái Đẹp khác của con người mình. Viết cho tri kỉ là san sẻ tâm hồn, tài năng và Cái Đẹp của mình cho bạn. Khoảnh như vậy là trọng mình, trong bạn, coi Cái Đẹp là báu vật trên đời, không dễ gì phung phí, Viết chữ cũng như viết văn, làm thơ. Cụ Tam Nguyên Yên Đổ thoáng liên hệ mình với ông Đào (nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng Đào Tiềm) đã thấy thẹn phải ngừng bút. Bao bậc tài hoa trước khi chết đã đốt tất cả chữ nghĩa của mình vì cho là không xứng đáng để đời. Đâu phải chỗ nào cũng dễ dàng hạ bút để vẽ vời?! Ta sẽ thấy tự miệng ông Huấn nói ra cũng cùng một ý như trên. Biết nhận ra Cái Đẹp thì tất nhiên cũng biết quý trọng nó. Đào tiên Tây Vương Mẫu năm trăm năm mới ra được một trải, đó là thần thoại nhưng ý nghĩa vẫn là đề cao Cải Đẹp. Còn tên lính áp giải bảo Huấn Cao là ngạo ngược thì chẳng cần bàn. Con mắt ếch ngồi đáy giếng của hắn thì thấy trời chỉ to bằng cái vung. Sự tự trọng của Huấn Cao nó cho là ngạo ngược. Theo nó, đã là tù nhân thì chỉ biết cúi đầu, chết cũng phải chịu, huống gì giữ phẩm giả làm người. Lũ tay sai ở thời đó chẳng khác những cái gông, chỉ biết gông người chứ biết gì phải trái, đạo lí và danh dự. Nhưng đánh giá Huấn Cao như vậy, tên lính gián tiếp đã coi Huấn Cao là hạng người trên, dám khinh thường bọn hắn ra mặt.

Trên đây mới là tiếng tăm Huấn Cao qua lời đồn, trong ý nghĩ hai con người đáng quý ở nhà ngục và cả trong lời nói của tên sai nha. Còn ông Huấn tự nghĩ về mình, về người và nói năng, hành động ra sao? Trước sự biệt đãi của viên quản ngục mà người trực tiếp săn sóc là thầy thơ lại, ban đầu Huấn Cao tiếp nhận rượu thịt thản nhiên, coi như là việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh. Đến khi viên quản ngục đích thân vào buồng giam, lễ độ, cung kính tôn xưng ông là người có nghĩa khí, xin ông cho biết cần gì thêm thì ông đáp một cách trịch thượng: Nhà người đừng đặt chân vào đây. Đẩy người ta ra và chờ sự đáp trả bằng uy lực, nhưng người ta chỉ một mực lễ phép lui ra với một câu bất ngờ : Xin lĩnh ý, tức là xịn tuân lệnh, hỏi làm sao ông Huấn không nghi ngờ ? Cái trò dụ dỗ mua chuộc nơi giam cầm là mảnh khoé quá bình thường. Ông Huấn càng bực vì tưởng viên quản ngục có mưu đồ thâm hiểm gì đây. Suy xét mọi lẽ, ông thấy hoá ra không phải. Mãi đến khi thầy thơ lại hớt hải đem nguyện ước sâu xa của viên quản ngục bày tỏ với ông, cùng cái tin khẩn cấp là sáng hôm sau ông Huấn và các bạn sẽ bị đưa vào tận trong Kinh để chịu tội, thì Huấn Cao mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trò ông quản và nhận ra viên quản ngục này chính là hạng người biết quý Cái Đẹp. Ông mỉm cười dạy thầy thơ lại chuẩn bị chu đáo để ông có cơ hội đáp lại tấm thịnh tình của viên quản ngục ngay đêm nay. Giọng Huấn Cao trở nên từ tốn: Về bảo với chủ ngươi, tối nay... đem lụa, mực, bút và cả một bó đuốc xuống đây ta cho chữ. Cho chữ chứ không phải viết chữ. Nghe như lời của bề trên, của thần tiên phán bảo. Huấn Cao khẳng định: Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ. Đài ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi.

Lần này là lần thứ tư ông Huấn cho chữ. Ông tự giữ giả chữ đẹp của mình đến mức ấy, vậy thì cái gì đã khiến ông hạ bút lần này ? Chính là do lòng thành, biết quý trọng, biết lưu giữ Cái Đẹp hiếm hơn vàng ngọc của viên quản ngục: Ta cảm cái tấm lòng biệt nhờn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Lòng tự trọng của ông Huấn đã gặp lòng trân trọng của viên quản ngục. Không phải chỉ là sự hiểu biết mà còn là sự thông cảm, cao hơn nữa là sự kính trọng đã nâng ông quản lên vị trí của một bậc tri kỉ, một tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Lời khuyên sau đó của Huấn Cao thốt ra một cách tự nhiên. Phải xa cuộc sống nơi tù ngục này, tắm gội mình trong cuộc sống trong sạch chốn quê nhà thì mới giữ gìn được cái tính lành trời sinh và mới đeo đuổi được thú chơi chữ đẹp.

Quang cảnh buổi ông Huấn cho chữ vừa lạ vừa đẹp, vừa như một ảo ảnh, một ánh hào quang không phải của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Buồng gian hẹp, bẩn, ẩm ướt, tối mịt, ánh đuốc đỏ rực như một đám cháy nhà. Ba bóng người hoạt động. Một người ngồi dưới đất, hai tay nâng tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Một người khác run run bưng chậu mực. Người thứ ba cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang cầm bút viết thoăn thoắt trên mặt lụa. Đó là viên quản ngục, thầy thơ lại và Huấn Cao. Viết xong, ông Huấn đỡ viên quản đứng dậy, rồi nhìn lại chữ mình viết đẹp tươi, nó nói lên những hoài bão của một đời người. Ông định đạc có lời khuyên cuối cùng cho viên quản ngục: muốn treo chơi trong nhà bức chữ đẹp ấy thì phải thay đổi môi trường sống. Lần này, viên quản ngục lùi ra mà nói gần như muốn khóc: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh !Ở cuộc giáp mặt lần trước, sau câu sắng giọng của Huấn Cao, viên quản lễ phép lui ra và lắp bắp: Xin lĩnh ý ! Lần này, câu nói của ông ta ấp úng trong nghẹn ngào cảm động. Trên kia là chưa hiểu nhau, đến đây cả ba người đồng cảm trong một tấm lòng chung: tha thiết yêu Cái Đẹp, Cái Đẹp chữ viết đi liền với Cái Đẹp tâm hồn. Truyện chấm dứt với lời nghẹn ngào nhiều ý nghĩa ấy. Thái độ Huấn Cao trước sau có khác nhưng vẫn là thái độ của một bậc chính nhân quân tử, Đối với thầy trò viên quản ngục, ông Huấn vẫn giữ một khoảng cách trên dưới nhất định, trước lạnh nhạt sau thân mật, ân cần; vẫn phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng, cao rộng đối với cái đẹp dù là nhỏ nhất, dù ở bất kì hoàn cảnh nào.

Viết truyện này, Nguyễn Tuân có ngụ ý gì nữa không? Điều chắc chắn là tác giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối đối với một con người tài giỏi, nghĩa khí, một nhân cách lớn lao ở cái thời đất nước suy vong, đồng thời cũng kín đáo lồng vào đó một nỗi đau chung cho đất nước và cho tất cả những gì tốt đẹp, tài ba trong đời mà lũ thống trị thực dân phong kiến đã vùi dập một cách bạo tàn. Đồng thời, tác giả khẳng định: cuộc đời dù đen tối đến đâu, trong nhân dân vẫn có những tấm lòng ngời sáng.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 12

Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập Vang bóng một thời chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến Chữ người tử tù với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.

    Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời xuất bản năm 1940, tác phẩm khi xuất hiện trên tạp chí Tao đàn có tên Dòng chữ cuối cùng, sau in thành sách đổi thành Chữ người tử tù. Tác phẩm đã truyền tải đầy đủ tinh thần của tác giả, cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm. “Chữ” là hiện thân của cái đẹp, cái tài sáng tạo ra cái đẹp, cần được tôn vinh, ngợi ca. “Người tử tù” là đại diện của cái xấu, cái ác, cần phải loại bỏ khỏi xã hội. Ngay từ nhan đề đã chứa đựng những mâu thuẫn gợi ra tình huống truyện éo le, gợi dậy sự tò mò của người đọc. Qua đó làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh cái đẹp, cái tài, khẳng định sự bất tử của cái đẹp trong cuộc đời.

    Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.

    Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.

    Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.

    Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.

    Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.

    Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắc sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ. Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

    Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.

    Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng chân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đắc sặc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 13

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ tài hoa uyên bác với vốn tri thức phong phú cùng tài năng nghệ thuật vậc thầy. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, mỗi lời văn đều hiện lên trác tuyệt như những nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ. Một trong những tác phẩm đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân là “Chữ người tử tù”, tác phẩm  nói về cốt cách thanh cao, khinh bạc của Huấn Cao, đồng thời xây dựng khung cảnh cho chữ đầy ấn tượng.

    Sáng tác của Nguyễn Tuân trước cách mạng mạng tháng Tám thường hướng đến xây dựng những nhân vật tài hoa bất đắc chí, đó là những con người có tâm, có tài với tâm lòng trong sáng, tuy chí lớn không thành nhưng vẫn nổi bật với vẻ hiên ngang, bất khuất. Huấn Cao là nhân vật điển hình cho phong cách sáng tác đó.

    Truyện ngắn “Chữ người tử tù”, nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật Huấn Cao theo bút pháp lãng mạn, một người anh hùng với những vẻ đẹp đầy lí tưởng. Tác giả không miêu tả trực tiếp vẻ đẹp của Huấn Cao mà hiện lên gián tiếp qua cuộc đối thoại giữa viên quản ngục và thơ lại. Đó là một con người hoàn hảo, văn tài võ lược lại mang chí lớn cứu nước, cứu dân, uy danh của Huấn Cao vang xa khắp cõi Tỉnh Sơn.

    Cái tài của của Huấn Cao còn được thể hiện thông qua tài viết chữ đẹp, nét chữ của ông đẹp đẽ, vuông vắn. Với tài năng này đã có rất nhiều người ngưỡng mộ và mong muốn xin được nét chữ của ông để treo trong nhà, trong đó có viên quản ngục. Nét chữ của Huấn Cao là sự kết hợp tài tình giữa tài năng, vẻ đẹp tâm hồn của người nghệ sĩ nên mỗi nét chữ viết ra như hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa hơn người.

    Nét chữ của Huấn Cao trở nên quý giá không chỉ bởi nó “đẹp lắm, vuông lắm” mà mỗi con chữ còn thể hiện được sự tài hoa cũng như khát vọng tung hoành của một con người. Xin được chữ của Huấn Cao cũng là tâm nguyện lớn nhất của người biệt nhỡn liên tài như viên quản ngục.

    Huấn Cao là con người có bản lĩnh hơn người, hiên ngang không chịu khuất phục trước quyền lực và danh lợi. Ông không dùng tài năng của mình để đổi trác lấy danh lợi, có rất nhiều người sẵn sàng mua chữ của ông nhưng ông không bán, theo tâm sự của Huấn Cao thì trong cuộc đời ông, ông chỉ cho chữ những người tri kỉ, đáng kính và những người biết trân trọng, thưởng thức cái đẹp. Đây cũng là lí do vì sao Huấn Cao đã đồng ý cho chữ viên quản ngục trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt – trong ngục tù vì ông cảm động trước tấm lòng trong sáng của viên quản ngục.

    Trong không gian ngục tù u ám, đen tối toàn mùi phân gián, phân chuột, dưới ánh sáng không rõ ràng của ngọn đuốc, Huấn Cao đã viết chữ tặng cho viên quản ngục. Không chỉ cho chữ, Huấn Cao còn tặng viên quản ngục những lời khuyên chân thành nhất, rằng hãy rời xa môi trường đen tối đầy tội ác của ngục tù trở về quê sinh sống để giữ gìn cho thiên lương được trong sáng. Ngay cả trong hoàn cảnh éo le nhất, tấm lòng trong sáng, thiên lương tốt đẹp của Huấn Cao vẫn có thể tỏa sáng và soi đường cho viên quản ngục để trở về với cuộc sống tốt đẹp, trong sạch hơn.

    Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, nhà văn Nguyễn Tuân đã mang đến cho người đọc niềm tin sâu sắc về sức mạnh của cái đẹp, cái thiện, nó có thể tỏa rạng trong bất cứ hoàn cảnh nào, ngay cả trong không gian ngục tù đầy tối tăm nhất.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 14

Nhắc đến Nguyễn Tuân, ta nhớ đến một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, nói đến ông là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Lời văn của Nguyễn Tuân giống như những nét bút trác tuyệt như nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý ngôn ngữ. Tác phẩm “Chữ người tử tù” là một trong những tác phẩm điển hình cho nét bút trác ấy. Nổi bật trong tác phẩm là nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ trong tù – một cảnh xưa nay chưa từng có.

Nhân vật Huấn Cao là một nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn, văn học lãng mạn thường mô tả theo những mẫu hình lí tưởng, nhà văn được thả trí tưởng tượng của mình theo đuổi theo những hình tượng hoàn hảo, vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi vậy mà các nhân vật được viết theo bút pháp này thường có tầm vóc phi thường, thể hiện cho những ước mơ và khao khát của chính người tác giả.

Nguyễn Tuân xây dựng nên hình tượng Huấn Cao là thế, một người phi thường, từ tài hoa đến thiên lương, phí khách, nhất nhất đều mang một tầm vóc phi thường. Nhân vật này chính là giấc mơ đầy tính nhân văn của tác giả Nguyễn Tuân. Mở đầu thiên truyện là cuộc đối thoại giữa hai nhân vật quản ngục và thơ lại, Huấn Cao tuy chỉ được hiện lên gián tiếp nhưng đã đủ để thấy ông là người văn võ song toàn, uy danh vang khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài nổi bật nhất chính là viết chữ đẹp, chữ thư pháp – một bộ môn nghệ thuật cao siêu của dân tộc, mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa, là sự kết tinh tâm hồn người viết.

Chữ của Huấn Cao thể hiện cho nhân cách Huấn Cao, cái quý giá của chữ Huấn Cao không chỉ vì viết nhanh, rất đẹp, đẹp mà vuông lắm mà còn vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một con người. Chính vì vậy mà nét chữ của Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất của cuộc đời viên quản ngục, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sinh mệnh của mình. Đối lại với tâm nguyện của viên quản ngục, Huấn Cao còn là một người mang trong mình tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.

Vốn trong mắt Huấn Cao, viên quản ngục chỉ là kẻ tầm thường, tỏ vẻ khinh bỉ không giấu diếm, nhưng đến khi nhận ra kẻ ấy chính là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản nhạc đang hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao lại hết sức ân hận, bằng tất cả sự xúc động, Huấn Cao đã nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn cao còn được Nguyễn Tuân tô đậm cho một khí phách siêu Việt, ông cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nhưng không thành, bị lãnh án tử hình. Dù có tù đày hay gông cùm, ngay cả cái chết cũng không khuất phục được ông, ông không hề run sợ, quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể thấy Huấn Cao sừng sững suốt cả thiên truyện với khí phách kiên cường bất khuất.

Tất cả những phẩm chất tuyệt vời ấy của Huấn Cao đã được bừng sáng trong một cảnh tượng xưa nay có – chính là cảnh cho chữ. Đây là một cảnh khá ngặt nghèo, và oái ăm, bởi thân phận của hai nhân vật về bình diện xã hội là những kẻ đối địch nhau, một bên là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại đế chế đương thời, ngược lại, một bên là viên quan đại diện cho đế chế ấy. Tuy nhiên về bình diện nghệ thuật họ lại là những người tri âm với nhau, một người có tài viết chữ đẹp nổi danh thiên hạ, một người lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó.

Mối tương quan như vậy khiến cho quan hệ giữa họ lúc ban đầu rất căng thẳng, viên quản ngục chỉ có một tâm nguyện lớn nhất là có được chữ của Huấn Cao, mà đây đã là cơ hội cuối cùng. Còn Huấn Cao, tuy ông có tài viết chữ nhưng lại chỉ cho chữ với những ai ông cho là tri kỉ. Ấy vậy mà trong mắt Huấn Cao, ông chỉ xem quan ngục là kẻ tiểu nhân, quan ngục thì dường như không thể trở thành tỉ kỉ của Huấn Cao trong vài ngày.

Nhưng may sao ở viên quan ngục lại có một tấm lòng biệt nhỡn liên tài, và chính tấm lòng đó đã làm cho Huấn Cao cảm động và cho chữ. Cảnh cho chữ đáng lẽ phải diễn ra nơi trang trọng, đàng hoàng thì lại diễn ra nơi buồng giam chật hẹp, hôi hám và bẩn thỉu. Người đem cho đi cái đẹp đáng lẽ phải thuộc tự do nhưng đây lại là tử tù sắp bị hành hình, tuy nhiên, kẻ cầm trong tay quyền hành thì đã bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao – một kẻ đã mất hết quyền sống. Quản ngục đã vái lạy Huấn Cao như một thánh nhân “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.  Cảnh cho chữ đã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, của thiên lương trước cái xấu, cái ác. Cái đẹp dù có bị vùi dập cũng sẽ không mất đi, đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Tác giả Nguyễn Tuân đã làm nổi bật thành công hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Bên cạnh đó nhà văn còn sử dụng một hệ thống ngôn ngữ cổ như: biệt lỡn liên tài, thiên lương, bãi lĩnh,… đã có tác dụng mang lại bầu không khí phong kiến xa xưa, giúp cho nhà văn tái hiện câu chuyện của môt thời vang bóng.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 15

Thế giới không chỉ được tạo lập một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ chân chính xuất hiện là mỗi lần thế giới được tạo lập. Mỗi tác phẩm là mỗi sự dâng hiến, một cuộc đời, một cảm xúc, một chân lý, một ý vị, không một tác phẩm nào viết ra mà không mang đến cho người, cho đời một chân lý, một thông điệp mới .Nhà phê bình người Nga bêlinxki từng viết “tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả. Nếu nó không phải là tiếng thét khổ đau hay lời ca tụng hân hoan. Nếu nó không đặt ra những câu hỏi hoặc trả lời những câu hỏi”. Điều này được thể hiện rất rõ qua tác phẩm  “ Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân.

Tác phẩm nghệ thuật sẽ chết nếu nó miêu tả cuộc sống chỉ để miêu tả, sự miêu tả trong văn chương bắt nguồn từ cuộc sống của con người. Mỗi khía cạnh của văn chương là một góc nhìn về cuộc sống hiện tại hoặc quá khứ nó là một thực trạng một hình thức của cuộc sống và nếu nhà văn chỉ dùng tài năng của mình mà tái hiện lại chúng trên những trang văn đẩy chữ mà không nhằm mục đích gì thì chỉ là một tác phẩm không có ý nghĩa, một tác phẩm chết. Phải chăng đó cũng là căn nguyên để tạo lập một tác phẩm văn học mang lại sự sống mãnh liệt, một tác phẩm sống và dâng hiến cho đời những hương sắc và ý nghĩa, là một tác phẩm mang những tiếng thét đau khổ, hay lời ca tụng hân hoan, là một tác phẩm đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó. Những đặc điểm giữa một tác phẩm chết so với những đặc điểm của một tác phẩm sống dường như có một hình thức đối lập giữa chúng, cái thông điệp là những tiếng kêu thét và những lời hân hoan, hay những câu hỏi và lời giải đáp chính là nguồn gốc tạo nên một tác phẩm đúng nghĩa, là lưu giữ cho đời những hương sắc lan tỏa.

Một tác phẩm khi được viết ra là sự kết tinh độc đáo giữa cảm xúc và lý trí của nhà văn, nhà văn đã phải giao thoa với đời bằng chính cái tâm hồn, cốt cách, dùng cái tài trong văn bản mà làm nên những trang văn đầy nhiệt huyết và năng động, mang lại những ý nghĩa, thông điệp nơi bể đời đầy đau khổ. Một nhà văn thực thụ sẽ làm như vậy chứ không phải chỉ tạo lập cho mình những văn bản đầy chữ mà không còn mục đích gì ngoài việc miêu tả, có lẽ cốt cách để làm nên một nhà văn chân chính không chỉ là những cảm xúc sâu thẳm, mà còn là ánh mắt nhân đạo nhìn đời, thấu hiểu đời và diễn đạt chúng trên những tài năng thiên bẩm. Không ít những nhà văn chân chính đã để lại cho đời những dấu ấn và thông điệp đáng quý của một sức sống mãnh liệt trong tác phẩm và cũng không ít những tác giả đã dùng văn chương để nhìn cuộc sống trong những khía cạnh riêng biệt. Nguyễn Tuân cũng không ngoại lệ, trong tư cách là một nhà văn Ông đã làm sáng tỏ tài năng và những thông điệp muốn gửi gắm đến cho đời qua tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”.

Là một trong những nhà văn uyên bác, là một trong những cây bút sắc sảo tác phẩm “Chữ Người Tử Tù”, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân đã để lại cho đời những thông điệp, những dư vị của một cuộc sống, những cốt cách và phẩm chất của một con người trong một hoàn cảnh với cách xây dựng hình tượng truyện và cách xây dựng quá trình tâm lý con người đã giúp cho Nguyễn Tuân thể hiện rõ tài năng và phong cách của mình.

“Chữ Người Tử Tù” là tác phẩm viết đến trong hoàn cảnh lao tù giữa Huấn Cao và Viên quản cai ngục và thầy thơ lại trong một hoàn cảnh. Cho một hoàn cảnh trái ngang với những nhân cách cao đẹp đã làm nên một áng văn chương sáng rọi, xua tan mọi tối tăm, dơ bẩn chốn lao tù. Nguyễn Tuân không chỉ thành công ở việc xây dựng tình huống và càng xuất sắc trong cách xây dựng tình thế giữa hai nhân vật Huấn Cao người tử tù, viên quan coi ngục và hoán đổi chúng trong tài năng và làm nên thông điệp chân chính tác phẩm. “Chữ Người Tử Tù” không phải là một tác phẩm chết, bởi những dư vị và dấu ấn nó để lại cho đời lớn hơn là việc miêu tả chỉ để miêu tả.

Đến với nhân vật Huấn Cao của “Chữ Người Tử Tù” là ta đang tìm đến một bậc thiên tài cái thế được biết đến với cái tài viết nhanh và đẹp. Người đời ngưỡng mộ ông và coi ông như một anh hùng cái thế, kính trọng và nể ông. cái tài của ông được người ta ví như vật báu có được, chữ của Huấn Cao mà treo là như có một vật báu trong nhà. Thật ra cái hoàn cảnh để huấn cao được giới thiệu cũng chính là lúc ông trong tư cách là một người tử tù, một người đang bị bắt và một ngông, ấy thế mà khí phách hiên ngang của ông vẫn không bị lay động. Khi bước chân tới nhà lao cách mà ông vứt bỏ cái gông trên cổ xuống đã phần nào chứng minh cho khí phách hiên ngang, trong quá trình ở lao tù viên quan coi ngục đã không ít lần có ý giúp Huấn Cao nhưng ông đều thẳng thừng từ chối và khinh miệt viên quan coi ngục bằng hành động và lời nói rất ngang ngược “ta không muốn nhà ngươi bước chân vào đây nữa”,  thái độ hống hách của người tử tù dường như đang giúp phần thể hiện cho cái ngông của Nguyễn Tuân. Phải chăng những thái độ ngang ngược chỉ là đang góp phần thể hiện cho một khí phách hiên ngang của Huấn Cao, một người tử tù. Bên cạnh đó Huấn cao được biết đến với một cái tâm trong sáng và đầy ngưỡng mộ “ta nhất sinh không vì tiền bạc, Xưa nay ta chỉ cho chữ đúng 3 người”, mặc dù là một thiên tài viết chữ đẹp nhưng Huấn Cao không vì tiền hay bất cứ thứ gì, mà cho chữ có lẽ cái tâm ấy cũng làm sáng tỏ cho cái cách mà Huấn Cao đối xử với viên quản, có chủ vì sợ bị lợi dụng để cho chữ, đồng thời cái tâm ấy cũng thể hiện ở cách khinh miệt, coi thường những con người sống trong dơ bẩn và tội lỗi. những định kiến của huấn cao đối với viên quân cai ngục cũng góp phần làm nên cái tâm trong sáng của Huấn Cao, nhân vật Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân được hiện lên với ba nhận định, một tài năng thiên bẩm, một khí phách hiên ngang và một cái tâm trong sáng. Qua nhân vật này Nguyễn Tuân dường như muốn hướng con người ta đến chân, thiện, mỹ và những thứ tốt đẹp nhất, đồng thời đó là sự khẳng định một người nghệ sĩ thực thụ luôn là sự kết hợp giữa cái tâm và cái tài.

Bên cạnh đó Nguyễn Tuân đã thể hiện rất rõ tư tưởng và thông điệp của mình qua viên quản ngục vẫn là một con người mang những trọng trách dơ bẩn đứng trong địa vị ghê sợ nhất xã hội thời bấy giờ. ấy thế mà viên quản cai ngục lại trở thành một viên ngọc lấp lánh giữa vũng bùn lầy dơ bẩn, một người chuyên làm những công việc xấu xa nhưng với sự đam mê và trân trọng cái đẹp là chữ của Huấn Cao đã trở thành một con người hướng đến lương thiện. Chi tiết miêu tả viên quản ngục “ngồi suy nghĩ mặt lặng như hồ nước áo xuân” đã thể hiện sự hình thành dần dần những lương thiện trong cốt cách nghệ thuật. Thật vậy viên quản ngục dường như bị đánh thức nhân cách bởi chữ của Huấn Cao, trong quá trình thức tỉnh ông đã chịu mọi sinh nhật của Huấn Cao, đến giờ phút cuối cùng đã cúi đầu lí nhí. Quá trình biến đổi từ một nhân cách dơ bẩn đến một tâm hồn lương thiện chính là mục đích và thông điệp mà Nguyễn Tuân muốn gửi đến cho đời “nghệ thuật có chức năng tái tạo và cảm hóa con người”.

Huấn Cao và viên quản ngục coi tù như một viên kim cương lấp lánh trong cõi tối tăm, u ám. Tỏa sáng một cách rạng ngời, đồng thời đó còn là minh chứng cho sự tỏa sáng sẽ không bị bùn lầy che dấu, cái thiện sẽ luôn chiến thắng nhân cách lương thiện, con người dù cho bị vùi dập thế nào nhưng chỉ cần tâm luôn có ý hướng thiện thì sẽ chiến thắng. Viên quan coi ngục chính là một điển hình sáng ở nhất cho hình tượng con người hướng thiên lương trong chốn tối tăm. Đó cũng chính là tài năng của Nguyễn Tuân trong cách xây dựng tình huống và đảo ngược tình thế, qua đó thấy được “lời ca tụng hân hoan” mà Nguyễn Tuân dành cho hai nhân vật tâm huyết, đồng thời Nguyễn Tuân còn thể hiện cái tài văn chương của mình một cách rõ nét nhất, qua cảnh cho chữ cuối cùng của câu chuyện.

Cảnh cho chữ được bắt nguồn từ những tấm lòng của viên quan coi ngục và sự đáp trả nghĩa tình của huấn cao trước tấm lòng biệt nhỡn hiền tài, nguyên nhân làm nên cảnh cho chữ đã trang trọng đầy ý nghĩa và cảnh cho chữ diễn ra lại càng đặc biệt và thấm thía hơn. Cảnh cho chữ được miêu tả là một “cảnh tượng Xưa nay chưa từng có” cả trong văn học lẫn ngoài đời. Người ta thường cho chữ tặng những bản sách, những giảng đường, những nơi trang trọng nhưng với Huấn Cao vị anh hùng cái thế hơn người lại cho chữ tại một nơi ẩm thấp, hôi hám và đầy phân gián. nhưng đó không làm nên tính chất của cảnh cho chữ thiêng liêng này, nhân cách và vẻ đẹp tâm hồn Huấn cao lúc này cao sáng và thăng hoa hơn bao giờ hết. Trước những giây phút cuối đời và tại cái nơi đầy u ám này Huấn cao vẫn thể hiện niềm đam mê nghệ thuật của mình “mực mua ở đâu mà thơm thế”? và huấn cao cho chữ trong bầu khí trang trọng và đầy thiêng liêng, có lẽ cảnh cho chữ còn lắng đọng vào tâm hồn người hơn ở những giây phút cuối cùng mà Huấn Cao dùng để khuyên viên quản ngục. Chi tiết ấy có lẽ đã chiếm đi bao nhiêu tình cảm và nước mắt của người đọc, bởi tình người trong giờ phút ấy và tại thời điểm ấy vô cùng giàu đẹp và thiêng liêng, một lời khuyên chân tình của một người được coi là thiên tài với một con người trông coi dơ bẩn, tối tăm mới lay động lòng người thật hiếm có.

Cảnh tượng cho chữ cuối cùng đã nói lên phong cách và tài năng của Nguyễn Tuân, ông đã xây dựng một cảnh tượng chưa bao giờ có, một cảnh tượng tầm thường nhưng là một chân lý phi thường. Nguyễn Tuân đã miêu tả cảnh cho chữ nhưng không chỉ để miêu tả mà qua đó thể hiện một hình ảnh, một chân lý về cái đẹp trong chốn tối tăm, không phải chỉ những nơi trang trọng ra hoa mới lạ, nơi cái đẹp lên ngôi kể cả trong chốn những nơi dơ bẩn cũng là nơi cái đẹp có thể hiện diện. Ngoài ra cái hệ quả tốt đẹp cuối cùng trong cảnh cho chữ là sự cúi đầu xin lĩnh ý của viên quan Cai ngục và sự cảm kích không ngừng ấy lại là một điểm nhấn cho hình tượng nhân vật. Đó là những câu hỏi vang vọng giữa đời về sự tiếp diễn cuộc sống của viên quan coi ngục, sẽ là những suy nghĩ về sự bỏ lại quyển tước để về quê sinh sống, hay tiếp tục tồn tại nơi chốn dơ bẩn ấy, đó còn là những câu hỏi, những trang chuyện cuối cùng của “Chữ Người Tử Tù”.

Nghệ thuật là một quá trình khổ hạnh Nguyễn Tuân. Thật vậy nghệ thuật cũng là quá trình đi tìm cái đẹp mà người nghệ sĩ sẽ là cây bút tìm và vẽ lại cái đẹp ấy, “Chữ Người Tử Tù” là một điệp khúc, là lời ca tụng hân hoan về con người trong chốn tối tăm bùn lầy, là sự hướng đến cái chân, thiện, mỹ và ca ngợi chúng, là một sự miêu tả nhưng không chỉ để miêu tả về cảnh cho chữ và là một những câu hỏi vang vọng giữa biển đời.

Một tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ không khép lại ở những trang cuối, mà nó kết thúc để mở đầu một cuộc sống mới “Chữ người tử tù” đã làm được điều đó qua những thông điệp ý nghĩa mà nó gửi đến cho cuộc đời, đó là một tác phẩm không chỉ để miêu tả và thực thi sứ mệnh chỉ miêu tả, nhưng đó là một lời ca hân hoan và là những câu hỏi sẽ tồn tại với đời.

Có lẽ một tác phẩm sống mãnh liệt với đời sẽ là một tác phẩm để lại cho đời những thông điệp, những ý vị của một cuộc sống, đó chính là một tiếng thét đau khổ hay lời ca tụng hân hoan, nó luôn đặt ra những câu hỏi và trả lời những câu hỏi đó.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 16

Nguyễn Tuân được biết đến là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nói đến nhà văn tài hoa Nguyễn Tuân là nói đến một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi lời văn của Nguyễn Tuân dường như đều là những nét bút trác tuyệt như một nét chạm khắc tinh xảo trên mặt đá quý của ngôn ngữ (Tạ Tỵ). Một trong những nét bút trác tuyệt đó thì không thể không nhắc đến là tác phẩm Chữ người tử tù. Nối bật lên trong tác phẩm là hình tượng nhân vật Huấn Cao và cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

Huấn Cao được xây dựng lên là nhân vật khá điển hình cho bút pháp lãng mạn. Chúng ta đều đã biết văn học lãng mạn thường được mô tả theo những mẫu hình lí tưởng. Có nghĩa là nhà văn thường thường thả trí tưởng tượng của mình để theo đuổi những vẻ đẹp hoàn hảo nhất. Bởi thế nhân vật viết theo lối lãng mạn có tầm vóc phi thường. Nó là biểu hiện cho những gì mà nhà văn mơ ước, khao khát. Huấn Cao là thế. Từ đầu đến cuối, ông hiện ra như một con người phi thường. Từ tài hoa đến thiên lương, từ thiên lương đến khí phách, nhất nhất đều có tầm vóc phi thường. Có thể nói Huấn Cao là một giấc mơ đầy tính nhân văn của ngòi bút Nguyễn Tuân.

Là nhân vật tài hoa nghệ sĩ, phẩm chất đầu tiên của Huấn Cao là tài hoa. Thiên truyện đã được mở đầu bằng cuộc đối thoại của hai nhân vật quản ngục và thơ lại. Ở đây tuynhân vật  Huấn Cao hiện lên gián tiếp nhưng cũng đủ để cho ta thấy ông nổi tiếng với tài văn võ song toàn, uy danh đồn khắp cõi tỉnh Sơn. Cái tài dường như đã được tô đậm nhất ở nhân vật này là tài viết chữ đẹp. Đó chính là nghệ thuật thư pháp – một bộ môn nghệ thuật truyền thống và cao siêu của dân tộc. Ở đây có thể nói chính sự gửi gắm, kí thác toàn bộ những tâm nguyện sâu xa của mình. Bởi thế mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật sâu xa của mình. Bởi thế mà dường như mỗi con chữ là một tác phẩm nghệ thuật, là sự kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người viết. Mỗi con chữ như chính là một hiện thân của khí phách, của thiên lương và tài hoa. Chữ Huấn Cao thể hiện nhân cách Huấn Cao. Có thể nói nó quý giá không chỉ vì được viết rất nhanh, rất đẹp, đẹp lắm, vuông lắm mà trước hết vì đó là những con chữ nói lên khát vọng tung hoành của một đời con người. Chính vì thế mà nếu như có được chữ của ông Huấn Cao đã trở thành tâm nguyện lớn nhất, thiêng liêng nhất của viên quản ngục. Để có được chữ của người tử tù Huấn Cao, quản ngục sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự hi sinh về quyền lợi và sinh mệnh của mình. Nhưng trái lại Huấn Cao không chỉ là một đấng tài hoa, sâu xa hơn, ông còn có một tấm lòng – đó là tấm lòng biết quý trọng thiên lương của con người.

Một nhà văn nước ngoài đã có những nhận xét qua câu nói về chân lí sâu xa là “Hãy đập vào trái tim mình thiên tài là ở đó”. Thì ra không đâu khác cái gốc của tài năng là ở trái tim, gốc của cái tài là cái tâm. Dường như tấm lòng biết trọng thiên lương là gốc rễ của nhân cách Huấn Cao. Trong con mắt của người tử tù Huấn Cao, quản ngục chỉ là một kẻ tầm thường không làm nghề thất đức. Bởi lí Huấn Cao đã như thể hiện sự khinh bỉ không cần giấu giếm, đến khi nhận ra viên ngục là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa bản đàn mà nhạc luật điều hỗn loạn xô bồ thì Huấn Cao rất ân hận. Bằng tất cả sự nhạt bén, sự xúc động, Huấn Cao đã nói ra câu “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi… Thiếu chút nữa ta phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Qua đây ta có thể thấy câu nói ấy đã hé mở cho chúng ta thấy phương châm của một nhân cách sống là phải xứng đáng với những tấm lòng.

Với một cảm hứng lãng mạn bao giờ cũng xui khiến các nghệ sĩ khắc họa những hình tượng sao cho hoàn hảo thậm chí đến mức phi thường. Nhân vật Huấn Cao cũng thế mà thôi, nhưng nhà văn Nguyễn Tuân đã khiến cho hình tượng này trở thành một con người siêu phàm với việc tô đậm một khí phách siêu việt. Huấn Cao là người luôn luôn căm ghét xã hội thối nát, ông đã cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình, sự nghiệp không thành, ông lĩnh án tử hình. Nhưng sống trong cảnh  tù đày, gông cùm và cái chết cùng không khuất lạc được ông. Ông dường như luôn luôn tìm thấy ở những nơi mà tự do bị tước bỏ. Đối với nhân vật Huấn Cao, mọi sự trói buộc, tra khảo, giam cầm đều vô nghĩa mà thôi. Và khi quản ngục hỏi ông muốn gì để giúp, thì ông đã trả lời bằng một sự khinh bạc đến điều… Và chính những lời nói của ông có thể là nguyên cớ để ông phải rước lấy những trận trả đũa. Nhưng một khi đã nói được ra thì có nghĩa là ông không hề run sợ, không hề quy phục trước cường quyền và bạo lực. Có thể thấy được ở Huấn Cao sừng sững trong suốt cả thiên truyện như một khí phách kiên cường bất khuất, uy vũ bất năng khuất.

Dường như những phẩm chất tuyệt vời đó của Huấn Cao đã chói sáng lên trong cảnh tượng cuối cùng mà Nguyễn Tuân đã gọi là ‘cảnh tượng xưa nay chưa từng có” – cảnh cho chữ. Có thể nói cảnh cho chữ là sự biểu hiện sống động rực rỡ của tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn Cao.

Và nếu như muốn hiểu được giá trị sâu sắc của cảnh cho chữ cho chúng ta không thể không nói tới quá trình dẫn đến cảnh cho chữ ấy. Người tinh ý thì thật sẽ dễ nhận thấy rằng câu chuyện có hai phần rõ rệt. Nếu như ở phần đầu giới thiệu các nhân vật và dẫn dắt câu chuyện chuẩn bị cho phần sau. Còn phần sau khắc họa cảnh cho chữ. Nếu như không có phần hai thì ta sẽ thấy phần đầu chỉ là những mẩu vụn vặt, thiếu sức sống. Có lẽ chính bởi thế phần hai tuy ngắn nhưng lại là kết tinh của toàn bộ câu chuyện. Và dường như bút lực của Nguyễn Tuân càng dồn vào phần này đậm nhất. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh một tình huống đặc biệt. Đó cũng chính là cuộc gặp hết sức éo le của Huấn Cao và quản ngục – Nơi gặp gỡ là nhà tù, thời gian là những ngày cuối cùng trước khi ra pháp trường của Huấn Cao. Những điều này dường như đã làm cho tình thế trở nên ngặt nghèo, bức xúc, khó xoay sở. Nhưng oái ăm hơn cả đó vẫn chính là thân phận của hai nhân vật, về bình diện xã hội, họ là những kẻ đối địch. Một người là kẻ phản loạn, dám nổi dậy chống lại thể chế đương thời,đối lập lại người kia lại là một viên quan đại diện cho chính thể ấy. Nhưng về bình diện nghệ thuật, họ lại là hai người tri âm vớinh au. Đó là một người có tài viết chữ đẹp còn người kia lại vô cùng ngưỡng mộ cái tài đó. Sự trái ngược nhau đến hoàn toàn này đã đặt quản ngục trước sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc là muốn làm tròn bổn phận cua một viên quan thi phải chà đạp lên tấm lòng tri kỉ hoặc muốn trọn đạo tri kỉ phải phản bội lại chức phận của một viên quan. Và chúng ta đềi có thắc mắc quản ngục sẽ hành độn như thế nào? Ông ta hành động như thế nào thì tư tưởng tác phẩm sẽ nghiêng về hướng đó.

Với một sự tương quan khác xa nhau như vậy, quan hệ giữa họ ban đầu rất căng thẳng. Tâm nguyện lớn nhất của quản ngục là có được chữ của ông Huấn Cao nhưng đây là cơ hội cuối cùng. Còn nhân vật Huấn Cao tuy có tài viết chữ thật đó nhưng lại chỉ cho chữ những ai ông cho là tri kỉ. Và vậy muốn có chữ của Huấn Cao thì quản ngục phải được ông thừa nhận là tri kỉ trong vòng mấy ngày tới. Điều đó lại dường như không thể đạt được. Dường như trong con mắt Huấn Cao, quản ngục chỉ là kẻ tiểu nhân, giữa họ là một vực sâu ngăn cách. Thực ra quản ngục cũng có những ưu thế để đối xử với những người tù thông thường. Đó là ông ta có thừa quyền lực và tiền bạc. Nhưng Huấn Cao không phải hạng tiểu nhân cho nên dù cho quyền lực không ép được ông cho chữ, tiền bạc không mua được chữ ông. May thay ở viên quản ngục lại có một tấm lòng trong trẻo, khác với những gì mà Huấn Cao nghĩ – tấm lòng biệt nhỡn liên tài. Và chính tấm lòng biệt nhỡn này đã khiến cho Huấn Cao cảm động. Sự cảm động này của Huấn Cao là cội nguồn dẫn đến cảnh cho chữ.

Chính vì vậy là việc Huấn Cao cho chữ không giống như việc trả nợ một cách tầm thường, không giống việc một kẻ sắp bị tử hình đang đem tài sản cuối cùng cho người sống, cũng không phải là cơ hội cuối cùng mà để Huấn Cao trình diễn tài năng, về bản chất việc cho chữ là sự xúc động của một tấm lòng trước một tấm lòng.

Và có thể nói cảnh cho chữ được tác giả Nguyễn Tuân gọi đó là cảnh xưa nay chưa từng có. Bởi trước hết lẽ ra nó phải diễn ra ở nơi sang trọng, đàng hoàng thì nó lại diễn ra trong căn buồng giam chật hẹp, hôi hám, bẩn thỉu. Và người đem cho cái đẹp lẽ ra phải thuộc thế giới tự do thì ở đây lại là tử tù sắp bị hành hình. Đặc biệt ở đây đã diễn ra một sự đổi ngôi cũng được xem là xưa nay chưa từng có. Dường như kẻ cầm quyền hành trong tay thì bị tước hết quyền uy, khúm núm trước Huấn Cao, kẻ tưởng chừng bị mất hết quyền sống là ông Huấn Cao trở nên đầy quyền uy khi chăm chú tô đậm những nét chữ và cho quản ngục những lời khuyên. Và quản ngục vái lạy Huấn Cao như một bậc thánh nhân “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cảnh cho chữ lã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, thiên lương trước cái xấu, cái ác. Trong căn phòng giam ẩm tháp đó, dường như ánh sáng rực rờ của bó đuốc đã đẩy lùi bóng tối, mùi thơm của chậu mực đã xua đuổi mùi phân chuột, phân gián, màu trắng của tấm lụa bạch đã xóa tan sự u ám của nhà tù. Lúc này có thể nói cái đẹp đang lên ngôi, cái đẹp đang đăng quang, chiến thắng hoàn toàn cái xấu. Trong những con người ấy lúc này chỉ còn là niềm kính trọng, tôn sùng cái đẹp. Và thiên lương của Huấn Cao đang tỏa sáng, soi đường dẵn dắt quản ngục – một kẻ nhầm đường, lạc lối. Qua đây tác giả cũng khẳng định rằng cái đẹp có thể tồn tại ở mọi nơi, mọi lúc, chiến thắng mọi cái xấu, cái ác. Và cái đẹp có thể cứu rỗi linh hồn con người, giúp con người hiểu nhau hơn, xích lại gần nhau hơn. Cái đẹp sẽ không mất đi ngay cả khi nó bị vùi dập. Đó là giá trị nhân văn của tác phẩm.

Chính với bút pháp nghệ thuật vẽ mây, nảy trăng và nghệ thuật đối lập, Nguyễn Tuân dường như đã làm nổi bật hình tượng Huấn Cao và khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp. Đồng thời nhà văn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ cổ: biệt nhỡn liên tài, thiên lương, bái lĩnh, sở nguyện… mang lại cho truyện bầu không khí và nhịp điệu của thời phong kiến xa xưa, giúp nhà văn tái tạo câu chuyện của một thời vang bóng.

Phân tích truyện ngắn Chữ người tử tù 17

Chữ người tử tù là một trong những thiên truyện xuất sắc nhất của Nguyễn Tuân và tiêu biểu nhất cho tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của ông trước Cách mạng tháng Tám 1945.

Tác phẩm ra mắt lần đầu trên tạp chí Tao đàn, số 1 (1938) lấy tên Giòng chữ cuối cung, với lời đề từ: ""Ngày xưa có một tử tù viết chữ đại tự rất đẹp" – Truyện cổ nước Nam".

Năm 1940, tác phẩm được in lại trong tập Vang bóng một thời và đổi tên là Chữ người tử tù.

Nguyễn Tuân là một cây bút có phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc. Ông luôn luôn tiếp cận thế giới, tiếp cận sự vật nghiêng về phương diện văn hoá nghệ thuật, phương diện thẩm mĩ, và tiếp cận con người nghiêng về phương diện tài hoa nghệ sĩ. Thế giới nhân vật của ông cũng có hai hạng chính diện và phản diện, nhưng có tiêu chí phân loại riêng (cũng nghiêng về phương diện thẩm mĩ): đấy là những con người, hoặc tạo ra cái đẹp và say mê cái đẹp, hoặc đối lập với cái đẹp, chà đạp lên cái đẹp. Đặc điểm này thấy rất rõ trong Chữ người tử tù.

Nhân vật chính diện ở đây là Huấn Cao, quán ngục và viên thơ lại. Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa trong nghệ thuật thư pháp: "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm […] có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Quản ngục và viên thơ lại không tạo ra được cái đẹp, nhưng say mê cái đẹp đến mức "lo mai mốt đây, ông Huấn Cao bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời”. Còn nhân vật phản diện là tất cả đám nhân sự còn lại của nhà ngục "sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc”.

Một trong những khâu quan trọng nhất của nghệ thuật truyện ngắn là sáng tạo tình huống truyện độc đáo. Mỗi truyện ngắn thường dược kết cấu xoay quanh một tình huống. Đặt vào tình huống ấy, tâm lí, tính cách nhân vật tự bộc lô rõ nét, đồng thời chủ đề tác phẩm cũng thể hiện sâu sắc. Ngoài ra, tình huống truyện còn có tác động tới kịch tính của tác phẩm, tạo thêm sức hấp dẫn cho thiên truyện.

Tình huống truyện của Chử người tử tù là gì? Ấy là một tình huống khá éo le: những nhân vật sau này sẽ là tri âm tri kỉ (ông Huấn Cao, quản ngục và viên thơ lại) lại bị đặt vào hai vị thế đối địch: tử tù và cai ngục.

Nhưng phải có tình huống này thì tính cách các nhân vật mới bộc lộ rõ.

Không có tình huống đó thì làm sao biết được tinh thần hiên ngang, bất khuất của Huấn Cao. Khi coi viên quản ngục chỉ như mọi tên cai ngục khác, nghĩa là kẻ đại diện trực tiếp cho chính quyền phi nghĩa, bất lương, ông đã cố tình tỏ thái độ khinh bạc: đối lại thái độ mềm mỏng của quản ngục, ông đã ném ra những lời lẽ rất khó chịu:

" – Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây".

Khi ném ra câu nói đầy tính chất gây sự ấy, ông Huấn sẵn sàng "đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục". Nhưng chính do thái độ ấy mà quản ngục vốn đã kính nể ông Huấn, lại càng cảm phục tinh thần bất khuất của vị thủ lĩnh nghĩa quân: "những người chọc trời quấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng còn chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù".

Nhưng đứng về phía viên quản ngục cũng vậy. Không có tình huống kia, làm sao ta biết được nhân vật này say mê nghệ thuật, yêu quý người tài, kính trọng người có nghĩa khí như thế nào. Chỉ vì mong mỏi xin được chữ ông Huấn, Quản ngục đã vứt bỏ trách nhiệm cai ngục của mình khi đối xử với tù nhân. Mà sự biệt đãi một tên tù trọng tội như Huấn Cao đâu phải không có thể bị trả giá rất đắt, nếu sự việc bị bại lộ ; đã thế lại còn phải chịu đựng nỗi oan ức bị ông Huấn khinh bỉ và sỉ nhục. Vì làm sao một người như Huấn Cao lại có thể dễ dàng hiểu được "thiên lương" ở một viên quản ngục!

Tình huống truyện nói trên còn tạo ra cho tác phẩm một mâu thuẫn có tính kịch khá hấp dẫn, và thiên truyện diễn ra tựa như cách trình bày, khai đoan, đĩnh điểm, thắt nút, mở nút của một vở kịch vậy.

Căn cứ vào mạch truyện, có thể phân chia tác phẩm làm ba đoạn. Từ đoạn đầu đến đoạn cuối, tính cách nhân vật ngày càng bộc lộ rõ hơn, sâu hơn, trong khi mâu thuẫn kịch cũng ngày càng phát triển mạnh để di đến đỉnh điểm và mở nút.

Mâu thuẫn "kịch" ở đây là gì? Ấy là sự đối lập giữa niềm khát khao của viên quản ngục nóng lòng muốn xin dược chữ của ông Huấn Cao, với thái độ khinh bỉ của ông Huấn đối với ngục quan.

a)Đoạn một: Quản ngục được lệnh tiếp nhận sáu tử tù, trong đó có Huấn Cao và tính cách hai nhân vật chính bước dầu được giới thiệu: Huấn Cao chẳng những "viết chữ rất nhanh rất đẹp" mà "văn võ đều có tài cả". Còn quản ngục là một người "biết kính mến khí phách […] biết trọng người có tài" nhưng bị đày ải vào "một đống cặn bã" ví như "một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ".

Ở đoạn thứ nhất này, mâu thuẫn "kịch" bắt đầu phát tín hiệu khi quản ngục tỏ ý sửa soạn tiếp đón Huấn Cao một cách khác thường: Ông ta lệnh cho viên thơ lại: "Thầy bảo ngục tốt nó quét dọn lại cái buồng trong cùng. Có việc dùng đến".

b)Đoạn hai: Huấn Cao nhập ngục. Sự biệt đãi của quản ngục đối với ông Huấn trước sự ngạc nhiên của bọn lính giải tù. Tính cách hiên ngang, bất khuất của vị thủ lĩnh nghĩa quân bộc lộ đậm nét. Mâu thuẫn "kịch" càng trở nên căng thẳng khi ông Huấn cố tình sỉ nhục viên quản ngục. Còn quản ngục thì vừa khổ tâm, vừa nóng lòng sốt ruột: "có một ông Huấn Cao trong tay mình, dưới quyền minh mà không biết làm thế nào mà xin được chữ. Không can đảm giáp lại mặt một người cách xa y nhiều quá, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà không kịp xin được mấy chữ, thì ân hận suốt đời".

c)Đoạn ba: Mâu thuẫn "kịch" đạt tới đỉnh điểm: Lệnh trên truyền xuống giải Huấn Cao vào kinh chịu tội khiến quản ngục "tái nhợt người”. Nhưng liền đó, kịch mở nút và mâu thuẫn triệt tiêu: Huấn Cao hiểu rõ lòng quản ngục và quyết định cho chữ: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ".

Ở đoạn kết thúc này, tính cách các nhân vật cũng bộc lộ đầy đủ, toàn vẹn. Té ra, trái tim Huấn Cao không phải chỉ đúc bằng sắt thép. Đúng là con người này, không vàng ngọc hay quyền thế nào có được, thậm chí đến "chết chém ông còn chẳng sợ", thế mà hoá ra cũng dễ mềm lòng trước những tâm hồn tri kỉ, nghĩa là cũng như ông, biết quý trọng cái tài, cái đẹp và chất thiên lương của con người. Ôi, trên đi mà không biết quý trọng ba cái đó thì là loài quỷ sứ chứ đâu phải giống người. Đánh giá vẻ đẹp của Huấn Cao mà chỉ thấy cái phía sắt thép, cái phía "vô uý" không biết sợ của ông, là một cách đánh giá phiến diện. Đây là một nhân cách toàn diện, là con người của một chủ nghĩa nhân văn cao quý.

Nhân vật quản ngục cũng vậy – rất xứng đáng là tri âm tri kỉ của Huấn Cao: dám biệt đãi một thù lĩnh phiến loạn, thì quả là cũng không thiếu chất thép ; nhưng đồng thời lại sẵn sàng cúi đầu vái lạy Huấn Cao, có nghĩa là biết kính trọng cái tài, cái đẹp và chất thiên lương cao đẹp ớ người tử tù: Sau khi cúi đầu lắng nghe mấy lời khuyên răn của người tù "Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt ri vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh"".

Đúng là có những cái cúi đầu làm cho con người trở nên hèn hạ, có những cái vái lạy làm cho con người đê tiện. Nhưng cũng có những cái cúi đầu làm cho con người bỗng trở nên cao cả hơn, lớn lao hơn, lẫm liệt hơn, sang trọng hơn. Đấy là cái cúi đầu trước cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.

Chính Cao Chu Thần, nguyên mẫu của nhân vật Huấn Cao trong Chữ người tử tù từng có một câu thơ thật đẹp, thật sang:

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa.

(Một đời chỉ biết cúi đầu vái lạy hoa mai).

Cái cúi đầu của thầy quản ngục vái lạy Huấn Cao chính là cái cúi đầu của Cao Bá Quát trước hoa mai vậy.

Chữ người tử tù kết thúc bằng một bức tranh đầy ấn tương. Người ta thường đặt cho Nguyễn Tuân danh hiệu: "Người đi tìm cải đẹp". Nhưng thế nào là đẹp? Đối với Nguyễn Tuân, cái đẹp phải là những gì đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ. Bức tranh kết thúc Chữ người tử tù quả là đã gây được ấn tượng mãnh liệt đúng như yêu cầu thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Thủ pháp đối lập được nhà văn khai thác triệt để đã tạo ra ấn tượng đó: đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, đối lập giữa cái đẹp và sự nhơ bẩn, nhem nhuốc, đối lập giữa thiên lương và tội ác.

Ba con người ở vị trí đối địch được cái đẹp của nghệ thuật tập hợp lại, tạo nên một cảnh tượng thật cảm động: "Trong một không khí khói toả như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hổ".

Tác giả gọi đây là "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Đúng là một cảnh tượng hết sức kì lạ ở một trại tù, trong đó mọi trật tự thông thường đều bị đảo ngược: nơi ngục thất tăm tối bỗng rực rỡ lửa hồng, chốn trại giam bẩn thỉu "tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phản gián" bỗng trở thành nơi sáng tạo nghệ thuật ; lạ hơn nữa là nhà tù lại là nơi tù nhân làm chủ: một tử tù, tư thế hiên ngang lồng lộng, đường hoàng dõng dạc răn dạy ngục quan. Còn ngục quan thì cúi đầu khúm núm: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh",…

Đây là cảnh tượng thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác phẩm: ca ngợi ánh sáng chiến thắng bổng tối, cái đẹp chiến thắng sự thô bỉ, thiên lương chiên thắng tội ác.

Cảnh tượng này cũng minh chứng cho tư tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: ông đâu phải là cây bút duy mĩ, chủ trương đặt nghệ thuật lên trên mọi thiện ác ở đời. Nguyễn Tuân quả đã có lúc phát biểu như vậy, nhưng xét ra đó chẳng qua chỉ là cách nói ngông, nói phẫn ném vào cái xã hội mà ông cho là thù địch với cái đẹp, chà đạp lên cái đẹp. Qua hình tượng Huấn Cao, ai dám bảo Nguyễn Tuân đối lập tài với tâm, cái đẹp với thiên lương! Đấy là chưa nói, ông còn đường hoàng ca ngợi Huấn Cao mà ai cũng biết nguyên mẫu là Cao Bá Quát, một thủ lĩnh nông dân nổi loạn chống lại triều đình.

5.Chữ người tử tù rút từ tập truyện Vang bóng một thời, ra đời trước Cách mạng tháng Tám 1945. Hồi ấy, ông quan niệm cái đẹp, sự tài hoa chỉ có thể có ở thời xưa, nay còn vương sót lại ở một số ít người ông gọi là "sinh lầm thế kỉ". Ông cho rằng, thời hiện đại là thời của văn minh vật chất, văn minh cơ khí, làm cho đầu óc con người trở nên máy móc, thời của đồng tiền phàm tục, vì thế cái đẹp không thể tồn tại được. Ông phải tìm về quá khứ, cố gắng dựng lại vẻ đẹp của cảnh cũ, người xưa. Mọi sự vật ông đều gọi bằng cái tên của thời ấy. Mọi nhân vật đều được ông mô tả theo tính cách, tâm lí, theo tập quán, cách ăn nói của người xưa. Ông cố dựng lại cả cái không khí trầm lặng, yên tĩnh và cái nhịp sống từ tốn khoan thai của con người thời ấy,…

Ông đã làm được như vậy nhờ am hiểu sâu sắc xã hội, văn hoá và con người thời ấy ; và quan trọng hơn nữa, nhờ yêu mến thật sự những điều mình thuật kể, khiến cho mỗi nét vẽ, mỗi câu văn đều có linh hồn ông gửi lại.

Nhưng cần chú ý điều này: tất cả từ cảnh vật, con người đến nhịp sống nói trên, sở dĩ Nguyễn Tuân "phục chế" được thành công chính là nhờ ông đã sử dụng thành thạo kĩ thuật của văn chương hiện đại. Đó là cách thuật kể gắn liền với bút pháp tá thực ; đó là con mắt quan sát tinh tường, kết hợp với óc phân tích sắc sảo,…

"Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó sủa ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không định".

"Sáu người đều quỳ cả xuống đất, hai tay ôm lấy thành gông đầu cúi cả về phía trước […].

"Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt. Một trận mưa rộp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen".

Không có kĩ thuật hiện đại làm sao có thể viết được những câu văn nổi hình nổi khối lên như thế!