Bình giảng khổ thơ cuối tác phẩm Tràng giang
Nếu Xuân Diệu là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian thì Huy Cận lại được nhắc đến như là nhà thơ của nỗi khắc khoải không gian. Trước không gian ấy, ông thường bày tỏ cảm xúc buồn sầu đến mức ảo não, tuy nhiên ẩn sau nỗi sầu đó là khát khao tình đời, tình người. "Tràng giang" là một bài thơ như thế. Qua chặng đường ba khổ thơ đầu thể hiện tâm trạng buồn sầu của nhà thơ trước không gian bao la rợn ngợp, đến với khổ thơ cuối cùng, người đọc thấy được tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tràng giang được sáng tác vào năm 1939, cảm hứng được gợi từ cảnh thiên nhiên bao la của sông Hồng. Bài thơ là một trong những thi phẩm xuất sắc nhất được in trong tập "Lửa thiêng" (1940). Xuyên suốt ba khổ thơ đầu là nỗi buồn của Huy Cận: từ nỗi sầu khi đối diện trước không gian mênh mông đến tâm trạng cô đơn trước bức tranh thiên nhiên được mở rộng về nhiều phía và sau đó là nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn trước cuộc đời. Vậy nhưng, đến với khổ thơ cuối cùng, người đọc lại thấy được niềm khao khát gắn kết, tình cảm đối với quê hương đất nước của tác giả.
Ở đây, cái nhìn của Huy Cận như hướng lên trời cao để cảm nhận bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Đám mây - cánh chim vốn là motip quen thuộc trong thơ ca khi nói về trời chiều như "Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi" (Bà Huyện Thanh Quan) hay "Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ/ Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không" (Chiều tối - Hồ Chí Minh) để gợi nỗi buồn xa vắng.Huy Cận cũng đã đưa những hình ảnh quen thuộc đó vào "Tràng giang" càng nhấn mạnh hơn bức tranh thiên nhiên mang màu sắc cổ điển.Thiên nhiên hiện lên với Mây cao đùn núi bạc, với cảnh huy hoàng, tráng lệ biết bao. Thế nhưng, hình ảnh đó dường như cũng khắc họa tâm trạng buồn bã, cô đơn của con người trước không gian bao la rộng lớn bởi chim thì "mỏi" còn mây thì "trôi nhẹ" lững lờ. Không chỉ vậy, hình ảnh Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa đã khéo léo vẽ ra sự đối lập giữa cái nhỏ bé - cái bao la. Lời thơ giải thích phải chăng nhấn mạnh chỉ một cánh chim nhỏ nghiêng cánh cũng khiến cho bóng chiều "sa xuống" . Câu thơ đã khắc họa cảnh thiên nhiên rộng hơn, tráng lệ và hùng vĩ hơn nhưng cũng buồn hơn.
Không chỉ thể hiện cảm xúc buồn sầu một cách gián tiếp qua bức tranh thiên nhiên, mà ở đây nỗi khát khao tình đời, tình người của Huy Cận như bật ra một cách trực tiếp:
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Từ láy dợn dợn đã miêu tả cảm xúc dâng trào mãnh liệt giống như như sóng nước, động từ "vời" dường như nhấn mạnh nỗi cồn cào, hụt hẫng, chới với trong cảm xúc đồng nhất với ngoại cảnh. Bởi vậy lúc này, hồn thơ Huy Cận tha thiết nỗi "Nhớ nhà". Đó là nỗi nhớ về nơi chôn rau cắt rốn hay là đang nhớ về đất nước, tổ quốc mình? Đây là nỗi nhớ kín đáo, thể hiện nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên dưới thời thuộc Pháp, sống trên đất nước mình mà luôn có cảm giác bơ vơ, lạc lõng. Câu thơ cuối "không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" gợi nhớ ý thơ quen thuộc trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:
"Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu"
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)
nhưng nếu người xưa nhìn khói sóng mà nhớ nhà - tức là nỗi nhớ nhà được gợi lên từ ngoại cảnh, thì Huy Cận nhớ nhà mà không cần đến hoàng hôn - nỗi nhớ nhà không phụ thuộc vào ngoại cảnh, do đó nó càng mãnh liệt, thấm thía hơn bao giờ hết.
Có thể nói, khổ thơ kết bài "Tràng Giang" đã thể hiện cảm xúc của nhà thơ dành cho quê hương đất nước. Càng thấm thía nỗi cô đơn, hiu quạnh, con người càng khát khao tình đời, tình người. Bởi vậy, đúng như Xuân Diệu từng cho rằng: "đây là bài thơ dọn đường cho tình yêu quê hương đất nước của Huy Cận".