Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 1
I. Mở bài
Nguyễn Tuân là nhà văn có phong cách độc đáo. Có người đã cho rằng mỗi sáng tác của ông như đóng một dấu triện riêng. Tuy nhiên, điều thú vị là, dấu ấn này không phải qua vài tác phẩm mới bộc lộ, mà ngay từ tập truyện ngắn đầu tay Vang bóng một thời (1940) đã được in đậm. Chữ người tử tù là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Tuân nằm trong tập truyện trên. Người đọc có thể nhận ra những nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của tác giả bậc thầy này qua cảnh cho chữ độc đáo của thiên truyện.
II. Thân bài
1. Khái quát về tác phẩm Chữ người tử tù
Chữ người tử tù là truyện ngắn hội tụ nhiều cái “nhất” trong sự nghiệp của Nguyên Tuân: Có nhân vật đẹp nhất (Huấn Cao), nhân vật lạ nhất (Quản ngục), cảnh độc đáo nhất (cảnh cho chữ). Đương nhiên, với tất cả những điều ấy, truyện ngắn này cũng có một vị trí đặc biệt, mọi người đều thống nhất rằng đây là một trong những truyện hay nhất trong Vang bóng một thời (1940) – tập truyện ngắn đầu tay của nhà văn đã được Tự lực văn đoàn trao giải. Câu chuyện xoay quanh những ngày cuối đời, trong biệt giam của Huấn Cao trước khi về kinh thụ án. Vẻ đẹp của nhân vật này, tư tưởng của thiên truyện đều toả sáng rực rỡ trong cảnh cho chữ, khi Huấn Cao viết tặng Quản ngục bức châm -“tiếng hát thiên nga” của một đời tài hoa. Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng ở cảnh này, mọi nét đậm nhất trong phong cách của Nguyễn Tuân đã tụ lại.
2. Khái quát về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Nguyễn Tuân là một nhà văn có phong cách độc đáo. Có thể thấy những nét nổi bật như sau:
Luôn nhìn các sự vật hiện tượng từ độ văn hoá, thẩm mĩ.
Luôn nhìn con người ở góc độ nghệ sĩ
Đi tìm những cái phi thường, độc đáo, đặc biệt.
Vận dụng kiến thức đa ngành để làm nổi bật đối tượng.
So sánh, tưởng tượng, liên tưởng rất phóng túng, bất ngờ nhưng chính xác.
– > Những điều này đều có thể thấy đựơc trong cảnh cho chữ ở cuối truyện Chữ người tử tù.
3. Phân tích sơ lược cảnh cho chữ.
Nếu nói như GS Nguyễn Đăng Mạnh: “Nguyễn Tuân là nhà văn của những tính cách phi thường, những tình cảm, cảm giác mãnh liệt”, thì có thể nhanh chóng nhận ra rằng cảnh cho chữ đã hội tụ tất cả những nét vượt trội ấy. Đây là một khung cảnh đặc biệt, và chính người khắc hoạ cũng khẳng định rằng đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
Sự đặc biệt này hiện ra ở mọi góc của cảnh: Nhân vật, thời gian, không gian.
– Nhân vật:
+ Bình thường, ngưòi cho chữ và người được cho chữ là những tri âm tri kỉ đến độ “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. ở họ luôn toát ra sự an nhiên, điềm tĩnh, ung dung của bậc túc nho.
+ ở đây, người cho chữ là 1 tử tù, người được cho chữ là quản ngục. Họ có vị trí đối nghịch trong xã hội. Hơn nữa, họ mới gặp nhau hơn nửa tháng. Đặc biệt, cảnh cho chữ đã diễn ra một sự thay bậc đổi ngôi, khi người tù thì dù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn đứng thẳng người và đĩnh đạc, còn quản ngục “khúm núm” và nghẹn ngào. Trong quan hệ xã hội họ là kẻ thù nhưng trong bình diện nghệ thuật, họ lại là tri âm tri kỉ.
– Không gian:
+Thông thường, người ta viết chữ cho nhau ở nơi thư phòng sạch sẽ, không gian của học thuật.
+ ở đây, người ta viết chữ cho nhau trong “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Đây là không gian mà cái xấu, cái ác thống trị.
– Thời gian:
+ Bình thường, người ta cho chữ khi thư nhàn, thong thả, trong ánh sáng của buổi mai ấm áp.
+ ở đây, người ta cho chữ vào ban đêm một cách vội vã, chạy đua với thời gian, gấp rút tránh những ánh mắt của bọn lính đến phiên canh buổi sáng và tránh cái công văn oan nghiệt giải người về kinh thụ án.
* Chỉ ra những nét tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trong cảnh này.
– Luôn nhìn sự vật hiện tượng dưới góc độ văn hoá thẩm mĩ và nhìn con người ở góc độ tài hoa nghệ sĩ.
+ Nếu nhìn cảnh cho chữ bằng con mắt xã hội học, không khó để thấy ngay mầm mống phản loạn ở đó: Những thứ không cần thiết lại được đem vào biệt giam, người cầm quyền trong tù lại “khúm núm”, “run run” trước tử tù…
Tuy nhiên, tác giả đã nhìn bằng con mắt văn hoá thẩm mĩ và thấy đây là cảnh phi thường. ở đó, mọi trật tự của xã hội dung tục đã bị đảo lộn hết, chỉ có cái đẹp thống lĩnh, cái cao cả và cái thiện lên ngôi để cứu rỗi tâm hồn con người như niềm hi vọng của thế giới.
+ Nguyễn Tuân cũng không nhìn nhân vật bằng con mắt thông thường. Với ông, Huấn Cao không phải là tử tù nguy hiểm mà là người nghệ sĩ bậc thầy trong nghệ thuật thư pháp, đang sáng tạo ra cái đẹp siêu việt trước khi đi vào cõi bất tử. Trong cảnh này, cái tài, thiên lương và khí phách của bậc chính nhân quyện vào nhau làm nên một vẻ đẹp có thể cứu rỗi những tâm hồn.
– Đi tìm những cái phi thường, quá độ, vượt ngưỡng.
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn của những gì nhàn nhạt, trong khuôn khổ, ông luôn tìm đến những cái độc đáo. Trong cảnh này, mọi thứ đều vượt lên trật tự thông thường và người ta phải lấy một tiêu chí khác để đánh giá. Chính Nguyễn Tuân cũng khẳng định đây là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
– Vận dụng kiến thức đa ngành để làm nổi bật đối tượng.
+ Kiến thức điện ảnh: Để làm nổi bật cảnh cho chữ, tác giả như một nhà quay phim lành nghề đưa máy quay đến cận cảnh, để thấy “tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”, rồi lại đưa ống kính lên cao để soi rõ “ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Tiếp đó lại quay viễn cảnh với động tác của cả ba nhân vật.
+ Kiến thức hội hoạ: Tác giả vẽ bức tranh cho chữ với sự đối chọi gay gắt của hai mảng màu sáng và tối. Màu sáng của bó đuốc, tấm lụa bạch còn màu tối của, phân chuột, phân gián, mạng nhện.
Hai mảng màu ấy làm nền cảnh cho tâm cảnh là hình tượng Huấn Cao đang xuất thần sinh thành ra những con chữ như một báu vật.
+ Kiến thức điêu khắc: Nguyễn Tuân khắc hoạ hình tượng như một bức điêu khắc sống động với tư thế “đứng thẳng người dậy và đĩnh đạc”, với trạng thái “ thở dài, buồn bã”. Ngoài ra, khi miêu tả ba người chăm chú trên tấm lụa bạch, người ta đã thấy đậm chất điêu khắc với những đường nét được chạm nổi, sống động.
– Ngoài ra, ngôn ngữ của Nguyễn Tuân sử dụng ở đây độc đáo, giàu chất tạo hình, có sắc thái biểu cảm cao và rất sáng tạo. Hơn nữa, chúng còn có nhịp điệu chậm rãi, trang trọng với những từ Hán Việt, gợi hồn xưa đất nước. Đây cũng chính là điều mà Tự lực văn đoàn ngạc nhiên khi đọc Vang bóng một thờivà trao giải cho tập truyện, điều làm nên cái riêng của Nguyễn Tuân.
– > Tóm lại, nhìn từ mọi góc độ, đều thấy được những nét đặc trưng của Nguyễn Tuân trong cảnh cho chữ. chính vì vậy, có thể thấy rằng bút lực của nhà văn tài hoa đã tập trung ở cảnh này.
* Mở rộng liên hệ với một số tác phẩm khác của Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng tháng Tám để thấy phong cách nghệ thuật của nhà văn bậc thầy này có những nét ổn định và có những cách tân.
Qua đó khẳng định rằng chính phong cách nghệ thuật đặc sắc đã góp phần làm nên thành công của Nguyễn Tuân trong Chữ người tử tù nói riêng và vị trí của Nguyễn Tuân trong văn học Việt Nam nói chung.
III. Kết luận
Nhà thơ Lê Đạt đã viết: “Mỗi công dân có một dạng vân tay/Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ”. Yêu cầu này không chỉ đối với nhà thơ, mà với nhà văn cũng thật cần thiết. Nguyễn Tuân chính là nhà văn có “vân chữ” không thể lẫn, điều ấy đã được chứng minh thuyết phục qua cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù.
Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 2
I. Mở bài
Có thể nói chủ đề của truyện ngắn Chữ người tử tù và vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao đã được bộc lộ sáng ngời trong cảnh Huấn Cao cho chữ viên quản ngục, bởi đây không đơn thuần là cảnh cho chữ, mà "đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn, của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ".
II. Thân bài
Chính Nguyễn Tuân đã viết trong truyện, cảnh cho chữ là "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có". Vì sao vậy? Bình thường thì nói không có cảnh cho chữ đẹp đẽ và trang nghiêm trong chốn tù ngục tăm tối và nhơ bẩn này. Nhưng ở đây lại có, bởi vì ở đây có sự chiến thắng của "thiên lương" con người. Và nhà văn, với nghệ thuật đặc tả tài tình, với thủ pháp tương phản sắc sảo, đã dựng lên những cảnh tượng đối lập để nêu bật ý nghĩa sâu xa và thâm thúy của sự chiến thắng đó.
1. Sự chiến thắng của ảnh sảng đối với bóng tối.
“Cảnh cho chữ diễn ra vào lúc đêm khuya trong nhà ngục. Nhà ngục vốn đã tối tăm, lại vào đêm khuya khoắt, càng dày đặc bóng tối. Nhưng "trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đqng chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ" và "lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo". Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân đã miêu tả đến hai lần cái "ánh sáng đỏ rực", cái "lửa đóm cháy rừng rực” đã xua tan và đẩy lùi cái bóng tối dày đặc trong phòng giam. Nhấn mạnh đến cái ánh sáng của bó đuốc tẩm dầu ấy, rõ ràng đó là dụng ý nghệ thuật của nhà văn.
– Ở đây, không chỉ là sự đối lập của ánh sáng và bóng tối theo ý nghĩa sắc màu vật lí, mà sâu xa hơn và khái quát hơn, đây là sự đối lập mang ý nghĩa nhân sinh của con người: ánh sáng của lương trí, thiên lương và bóng tối của tàn bạo, độc ác. Ánh sáng của thiên lương đã xua tan và đẩy lùi bóng tốì của tàn bạo chính tại nơi tù ngục này. Ánh sáng ấy đã khai tâm, đã cảm hóa con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện.
2. Sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn
* Sự phàm tục, sự nhơ bẩn ở đây được biểu thị rất rõ trong cảnh "một buồng chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián"; còn cái đẹp, cái cao thượng lại được nói đến sâu sắc trong hai chi tiết mang ý nghĩa tượng trưng: màu trắng tinh của phiến lụa óng và mùi thơm từ châu mực bốc lên – điều dường như không thể có trong chốn tù ngục. Màu trắng của phiến lụa tượng trưng cho sự tinh khiết còn mùi thơm của thoi mực là hương thơm của tình người, tình đời.
* Sự đốì lập nói trên đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, sự nhơ bẩn. Tâm hồn Huấn Cao bát ngát đến chừng nào khi ông nói về mùi thơm của mực: "Thoi mực, thầy mua ở đâu tốt và thơm quá. Thầy có thấy mùi thơm ở chậu mực bốc lên không?…”. Thế là, không có nhà ngục nào tồn tại nữa, chẳng còn bóng tối, cũng chẳng còn mạng nhện, phân chuột, phân gián nữa. Chỉ còn lại sự thơm tho của mực, sự tinh khiết của lụa – nó là sự thơm tho và tinh khiết của thiên lương con người.
3. Sự chiến thắng của tỉnh thần bất khuất trước thải độ cam chịu nô lệ.
– Đây là sự phối hợp giữa những con người trong cảnh cho chữ, và ở đây, ta thấy có sự thay bậc đổi ngôi: người tù lại như người làm chủ (đường hoàng, hiên ngang, ung dung, thanh thản); còn bọn quản lí nhà ngục lại khúm núm, sợ hãi và xúc động trước những lời khuyên dạy của tù nhân (viên quản ngục "khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ", thầy thơ lại "run run bưng chậu mực").
– Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ đã được khắc họa đậm nét trong cảnh cho chữ và những con người trong cảnh ấy. Không còn là cảnh cho chữ bình thường mà là một cảnh thọ giáo thiêng liêng giữa ngựời cho chữ và người nhận chữ. Lời khuyên dạy đĩnh đạc của Huấn Cao có khác gì một chúc thư về lẽ sống trước khi ông đi vào cõi bất tử. Và lời khuyên đầy tình người ấy đã có sức mạnh cảm hóa một tâm hồn bấy lâu vẫn cam chịu nô lệ, một con người lầm đường trở về với cuộc sống lương thiện. Câu nói nghẹn ngào trong nước mắt của viên quản ngục đã nêu bật sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện, của thiên lương con người: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh".
III. Kết bài
– Tóm tắt lại những sự chiến thắng trong cảnh cho chữ đã phân tích trên đây.
– Ý nghĩa nhân văn và giá trị nhân đạo gâu sắc của sự chiến thắng đó (lúc bấy giờ và bây giờ).
Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 3
Lí luận chung: Nêu được đặc điểm chính của bút pháp lãng mạn ( Bút pháp lãng mạn là phương thức phản ánh hiện thực trong đó nhà văn đề cao trí tưởng tượng, miêu tả thực theo cảm nhận chủ quan)
+ Khai thác nghệ thuật tương phản đối lập một cách triệt để
+ Tô đậm ấn tượng về cái phi thường dữ dội
+ Hình tượng được sáng tạo một cách biệt lệ,lãng mạn nhưng vẫn được kết hợp nhuần nhuyễn với chất hiện thực tạo nên vẻ đẹp riêng của văn xuôi lãng mạn
* Với "Chữ người tử tù"
- Thủ pháp nghệ thuật tương phản trong tình huống truyện độc đáo sáng tạo: Cuộc gặp gỡ khác thường của hai con người khác thường trong hoàn cảnh éo le
+ Tương phản giữa hoàn cảnh và tính cách
+ Tương phản giữa hiện thực và ước mơ lí tưởng
~> Thủ pháp tương phản thể hiện rõ nét nhất trong cảnh tượng Huấn Cao cho chữ viên quản ngục,nó được coi là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có"
+ Viết thư pháp là nghệ thuật thư pháp thường diễn ra ở nơi trang trọng như đại sảnh,thư phòng,vườn hoa,...,là thú vui tao nhã của các nhà nho,người cho chữ ngoài việc cho nét chữ còn gửi gắm những triết lí bài học về cuộc sống,hoài bão ,ước mơ của cả cuộc đời con người nhưng ở đây Huấn Cao cho chữ quản ngục ở ngay giữa nhà tù - nơi hiện thân của cái ác ,cái xấu xa
+ Lí do cho chữ: cảm phục tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" của viên quản ngục
+ Cảnh cho chữ với thời gian đêm khuya lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng tiếng mõ trên vọng canh,không gian buồng giam chật hẹp,ẩm ướt,tường đầy mạng nhện,trên đất bừa bãi phân chuột phân gián.
+ Người cho chữ là người tử tù ngày mai ra pháp trường nhận án chém,cổ đeo gông,chân vướng xiềng xích,ung dung tô đậm nét chữ
+ Người nhận chữ: khúm núm ,cất những đồng tiền kẽm
+ Thầy thơ lại run run bưng chậu mực
~> Vị thế của quản ngục và kẻ tử tù dường như có sự thay đổi.Ta cũng có thể thấy rõ trật tự xã hội đã bị đảo ngược hoàn toàn.Trong phòng giam không có người tù,người cai tù mà chỉ còn có người nghệ sĩ có tài viết chữ đẹp đang ung dung tô đậm nét chữ trên vuông lụa trắng và một người có thú chơi chữ đẹp đang kính cẩn nghiêng mình đón nhận.Như vậy,chuyện chính trị,xã hội ,sống chết của con người như bị gạt sang một bên để nhường chỗ cho điều đẹp đẽ thiêng liêng hơn."Cho chữ" giống như sự chuyển giao cái đẹp,lời khuyên của Huấn Cao với viên quản ngục giống như một lời di huấn để nhân vật thay đổi gìn giữ nhân cách,tìm được môi trường sống thích hợp
~> Trong cảnh tượng Huấn Cao cho chữ,sự tương phản bóng tối và ánh sáng được thể hiện rõ nét giữa không gian nhà tù ẩm thấp tăm tối- nơi cái ác cái xấu ngực trị và ánh sáng ngọn đuốc trên tay thầy thơ lại,ánh sáng của lụa óng căng trên mảnh ván,ánh sáng từ mỗi nét chữ của Huấn Cao và hơn hết là thứ ánh sáng tỏa ra từ nhân cách của mỗi nhân vật trong cảnh cho chữ.Khắc họa cảnh tượng lạ lùng đặc biệt như vậy,Nguyễn Tuân muốn mang đến một thông điệp với mỗi chúng ta " cái tài phải gắn liền với cái tâm", cái đẹp có thể vượt lên trên tất cả những giới hạn tầm thường,những thế lực xã hội xấu xa đang ngự trị
- Tô đậm ấn tượng và sáng tạo bằng những hình ảnh có tính biệt lệ,bộc lộ cái tôi cá nhân thông qua ngôn từ : Hình tượng Huấn Cao tài hoa rất đỗi nghệ sĩ mang một khí phách phi thường,tâm hồn thiện lương trong sáng trên nền nghệ thuật tương phản khác thường.Chính Huấn Cao là nhân vật được xây dựng bằng bút pháp lí tưởng hóa có nguyên mẫu từ hình tượng Cao Bá Quát- nhân vật có thật trong lịch sử Việt vừa có tài văn chương chữ nghĩa lại ngang tàng khí khái nhằm thể hiện tư tưởng,quan điểm thẩm mĩ,bộc lộ cái "ngông"
* Tài hoa nghệ sĩ: Huấn Cao là một nho sĩ tài hoa
- Là nghệ sĩ chân chính,rất mực tài hoa,hiếm có trong nghệ thuật thư pháp
+ Tài viết chữ nhanh,đẹp
+ Có được chữ ông Huấn Cao mà treo là một vật báu trên đời
+ Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm,vuông lắm~> Nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời người
~> Chữ viết ông Huấn trở thành những bức tranh nghệ thuật và là khao khát của những người say mê cái đẹp
~> Tài năng hiếm có trong nghệ thuật viết thư pháp
* Một người khí phách phi thường:
- Huấn Cao xuất hiện một cách trực tiếp
+ Miêu tả chiếc gông dài 8 thước,nặng 7-8 tạ,gỗ lim ~> Biểu tượng của quyền lực triều đình phong kiến-cái ác
+ Hành động chúc thang gông xuống đất: dứt khoát,không e dè ~> Phá vỡ chốn nghiêm trang ngục tù: Những việc Huấn Cao muốn làm thì không ai ngăn cản được
- Thản nhiên nhận rượu thịt của viên quản ngục và coi nó là việc làm trong lúc bình sinh ~> Huấn Cao coi ngục tù chỉ là chốn dừng chân
- Có tài bẻ khóa,vượt ngục không phải là tài lẻ của bọn tiểu nhân bình thường mà đó là khí phách hơn người của Huấn Cao,không ngục tù nào có thể giam hãm được ông
- Tỏ thái độ kinh bạc viên quản ngục " ngươi hỏi ta muốn gì.....đây nữa"
- Không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình cho chữ ~> Khí phách ở bậc anh hùng "bần tiện bất năng di,uy vũ bất năng khuất"
*Thiện lương trong sáng
- Trên đời không sợ quyền thế,tiền bạc,chỉ sợ phụ một tấm lòng trong thiên hạ
- Trong quan niệm của Nguyễn Tuân: cái tài phải đi đôi với cái tâm,cái thiện và cái đẹp không thể tách rời nhau.Sự hòa hợp giữa tài năng khí phách,thiện lương khiến Huấn Cao trở thành biểu tượng rực rỡ của cái đẹp
Chú ý: dẫn dắt đến hình tượng viên quản ngục- con người biểu tượng cái ngục tù nhưng lại có thú chơi thanh cao,tao nhã - chơi chữ
* Hiệu quả của bút pháp lãng mạn
- Tạo nên nội dung mới lạ,nghệ thuật đặc sắc cho tác phẩm
- Khắc họa hình tượng nghệ thuật ,bộc lộ thông điệp dù thực tại có tăm tối tàn bạo đến đâu cũng không thể tiêu diệt cái đẹp,cái đẹp bất khả chiến bại ~> Niềm tin mãnh liệt về một lối sống,một nhân cách,một mẫu người
- Nghệ thuật kể chuyện,kết cấu tình tiết,lời thoại độc đáo khắc họa nhân vật điển hình độc đáo
Kết bài:
- Khẳng định lại vấn đề
- Nêu cảm nghĩ của bản thân
Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 4
Mở bài
Bằng ngôn ngữ cổ kính, mới mẻ, giàu màu sắc tạo hình, qua “Chữ người tử tù”, Nguyễn Tuân đã tạo dựng lên được một hình tượng Huấn Cao mang vẻ đẹp lãng mạn, vừa có nhân cách, khí phách, lại vừa có vẻ đẹp nghệ sĩ tài hoa. Vẻ đẹp ấy dường như được kết tinh ở cảnh Huấn Cao cho viên quản ngục chữ tại nhà lao. Đây là đoạn văn thể hiện chủ đề và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Thân bài
Ý1: Tóm tắt bức tranh:
Trong buồng giam chật hẹp, bẩn thỉu, ẩm ướt, đầy phân chuột, phân gián, dưới ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang tô đậm những nét chữ trên nền lụa trắng tinh; hẳn đây là những dòng chữ cuối cùng của đời ông. Còn bên cạnh viên quản ngục “khúm núm” và thấy thơ lại “run run bưng chậu mực”. Không gian bên ngoài yên tĩnh, chỉ văng vẳng tiếng mõ trên chòi canh. Bằng một vài chi tiết sống động, gợi cảm và rất tạo hình như thế, Nguyễn Tuân đã khắc hoạ được một bức tranh thật xúc động, vừa trang trọng, vừa thiêng liêng.
Ý2: Vì sao có cảnh ấy?
Vì sao lại có cảnh độc đáo nói trên? Truyện “Chữ người tử tù” chỉ có hai nhân vật chính: một tên phản nghịch nay bị khép vào tội tử tù; đang chờ ngày ra pháp trường, nhưng rất có tài, đặc biệt là tài viết chữ đẹp. Còn người kia là một viên quản ngục mê chữ đẹp, kính phục tài năng của tên tử tù và hằng khao khát có được chữ của tên tử tù kia. Trên bình diện quan hệ xã hội thì họ là kẻ tử thù của nhau, nhưng trên bình diện chữ tâm và cái đẹp thì họ là tri âm tri kỉ của nhau. Sự gặp gỡ của họ tạo nên một tình huống oái oăm, đầy kịch tính, làm nổi bật tính cách của mỗi người. Là người giàu chữ tâm, có lòng tự trọng, có khí phách, khinh thường hết thảy những kẻ cam tâm làm nô lệ và tiền bạc, quyền lực phi nghĩa. Lúc đầu, Huấn Cao tỏ ra hết sức khinh bạc tên quản ngục. Nhưng khi biết rõ viên quản ngục có sở thích cao quý, yêu cái đẹp, Huấn Cao đã lập tức thay đổi thái độ và đã tặng chữ cho viên quản ngục và “cái đêm hôm ấy” để tỏ thái độ cảm kích, trân trọng của một người nghệ sĩ đối với một tri kỉ.
Ý3: Đây là một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
– Đúng là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Điều lạ lùng chưa từng có ở đây trước hết là việc viết chữ và cho chữ vốn là một thú chơi tao nhã có phần thanh tao của những bậc tài hoa nghệ sĩ đáng lẽ phải diễn ra ở nơi cảnh lầu son gác tía gió mát, trăng thanh, lộng ngát hương hoa, nhưng ở đây lại diễn ra trong khung cảnh nhà lao tăm tối, ẩm ướt, bẩn thỉu. Hơn thế, người nghệ sĩ viết chữ đẹp lại là tên tử tù đang bị gông xiềng và chỉ sáng hôm sau là bị giải về kinh chịu tội chặt đầu.
– Điều lạ lùng chưa có chính là trong cảnh tù ngục tăm tối đó, không phải là cái ác, cái bạo tàn đang thống trị mà chính là cái đẹp, cái tài hoa đang lên ngôi. Bằng thủ pháp đối lập, tương phản đặc sắc, Nguyễn Tuân đã làm nổi rõ đây là sự chiến thắng của ánh sáng trước bóng tối; của cái thiện trước cái ác; của cái đẹp trước cái xấu xa, nhơ bẩn; của cái cao cả trước cái thấp hèn; của tinh thần bất khuất hiên ngang trước thái độ cam chịu nô lệ. Đó cũng chính là sự chiến thắng của tính cách trước hoàn cảnh. Thật là lạ lùng không bình thường một chút nào. Vì tên tử tù thì nổi bật lên uy nghi, cao lồng lộng, còn viên quản ngục và tên thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đó thì “khúm núm”, “run run” trước tên tử tù kia.
Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 5
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân: Một nhà văn tài hoa uyên bác
- Giới thiệu truyện ngắn Chữ người tử tù và cảnh cho chữ: Chữ người tử tù là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách tài hoa nghệ sĩ của Nguyễn Tuân và cảnh cho chữ là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng thấy” trong truyện ngăn này
II. Thân bài
1. Hoàn cảnh diễn ra cảnh cho chữ
- Vị trí: Cuối tác phẩm
- Hoàn cảnh: Trong đêm cuối cùng trước khi Huấn Cao phải ra pháp trường chịu án chém
2. Nội dung cảnh cho chữ:
• Cảnh cho chữ diễn ra trong:
- Thời gian: đêm trước khi Huấn Cao ra pháp trường chịu án chém, khi chỉ còn “vẳng có tiếng mõ trên vọng canh”
- Địa điểm: trại giam tỉnh Sơn
- Không gian: buồng tối chật hẹp, ẩm ướt...
• Đây là "cảnh tượng xưa nay chưa từng có" :
- Thông thường, việc cho chữ, xin chữ thường được diễn ra ở những nơi thanh cao; ở đây lại diễn ra trong buồng giam tối tăm, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián.
- Thân phận và hành động của người cho chữ và nhận chữ đặc biệt:
+ Người cho chữ: Huấn Cao- người tử tù sắp chịu án chém, bị mất tự do lại nổi bật và đẹp đẽ, hiên ngang dậm tô nét chữ vuông tươi tắn ⇒ trở thành người nghệ sĩ.
+ Người nhận chữ: viên quản ngục- một người ngày thường nắm quyền cai quản tù nhân trong tay nay khúm núm, kính cẩn thu những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ
- Xây dựng được các cặp phạm trù đối lập nhau: trong cảnh có sự đối lập giữa cảnh vật, đồ vật, màu sắc, âm thanh, mùi vị...một cách gay gắt để làm nổi bật bức tranh bi hùng, đó là sự đối lập giữa: Ánh sáng - bóng tối, cái thiện- cái ác, cái đẹp- cái xấu xa, cái cao cả- cái thấp hèn, tự do- ràng buộc, thơm tho( mùi mực)- ẩm mốc( mùi nhà giam phân chuột, phân gián)
⇒ Tất cả những lí do trên đã làm nên “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
• Bài học về lẽ sống
Huấn Cao khuyên quản ngục thay chốn ở (khuyên về nhà quê) rồi hãy nghĩ tới việc chơi chữ bởi nếu cứ tiếp tục ở chốn "lao xao" thì sẽ " khó giữ thiên lương cho lành vững" .
⇒ Sâu xa hơn việc cho chữ chính là bài học về lẽ sống rất chân thành.
• Sự thức tỉnh của người quản ngục
Chi tiết quản ngục cúi đầu vái lạy người tử tù Huấn Cao: sự thức tỉnh trước cái đẹp, quản ngục đã thoát ra những cái tầm thường, ràng buộc để vươn tới cái cao đẹp.
3. Nghệ thuật xây dựng cảnh cho chữ
- Bút pháp lãng mạn lí tưởng hóa
- Nghệ thuật đối lập
- Khả năng dựng cảnh và tài năng ngôn ngữ tài tình
- Nhịp văn chậm rãi càng làm cho những câu, chữ ấy thấm sâu hơn vào lòng độc giả.
4. Ý nghĩa cảnh cho chữ
- Giữa chốn ngục tù tàn bạo, chính người tử tù lại là người làm chủ.Nhưng nhìn sâu xa hơn,trong khoảnh khắc ấy, cả hai dường như rũ bỏ mọi sự ràng buộc lễ giáo để trở thành những tâm hồn tri kỉ, đồng điệu.
- Qua cảnh tượng này, chủ đề tác phẩm đượcthể hiện sâu sắc , đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp đối với cái xấu xa, của cái thiện đối với cái ác...
- Toàn bộ cảnh cho chữ là bài ca tôn vinh cái đẹp, cái thiện, cái thiện lương của con người trong hoàn cảnh tối tăm ngục tù bậc nhất.
⇒ Đoạn văn thể hiện sâu sắc quan điểm tư tưởng và nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
III. Kết luận
- Khẳng định lại đây là cảnh tượng tiêu biểu nhất làm nên thành công của tác phẩm
Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 6
Mở bài:
– Dẫn dắt giới thiệu tác giả, tác phẩm
+ Nguyễn Tuân: Yêu thích, đam mê cái đẹp, luôn tìm tòi, khám phá và đưa chúng vào trong văn chương để tôn vinh, ngợi ca
+ Truyện ngắn “Chữ người tử tù” : trích tác phẩm “Vang bóng một thời” với 11 truyện ngắn
– Nội dung: cảnh cho chữ trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”
– Đánh giá chung
2. Thân bài:
* Không gian, thời gian:
– Lúc đêm khuya
– Tại trại giam vùng tỉnh Sơn chỉ còn tiếng mõ trên vọng canh, buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián
– Ánh sáng phục vụ cho việc cho chữ: bó đuốc được tẩm dầu
* Hình ảnh đối lập:
– Ánh sáng và bóng tối
+ Bóng tối nơi nhà tù đặc quánh như bao trùm, phủ kín tất cả
+ Ánh sáng vẫn cứ cháy rừng rực, không chịu lu mờ trước bóng tối dày đặc
=> Không còn đơn thuần là ánh sáng vật lí, ánh sáng tỏa ra từ bó đuốc tẩm dầu nữa mà nó đã được nâng cao thành ánh sáng của nhân sinh, ánh sáng của thiên lương, ánh sáng của những tâm hồn đẹp biết nâng niu, trân trọng và gìn giữ cái đẹp.
* Tư thế của con người:
– Huấn Cao: một người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên một tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván
– Quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm
– Thầy thơ lại gầy gò, run run bưng chậu mực
=> Sự chuyển giao về quyền lực, ngôi bậc
* Lời khuyên nhủ của Huấn Cao với quản ngục hay còn được coi là một chúc thư về lẽ sống gắn liền với giá trị của cái đẹp
=> Nó giúp khai tâm, cảm hóa con người trở về với cuộc sống lương thiện.
* Khái quát nghệ thuật:
* Liên hệ mở rộng (có thể đan xen vào bài viết)
3. Kết bài:
– Khái quát lại nội dung
– Phát biểu cảm xúc cá nhân
Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 7
I. Mở bài:
- Nguyễn Tuân là nhà văn yêu cái đẹp và luôn hướng tới nó. Văn ông không thiếu những con người, những hoàn cảnh đẹp đến hoàn bích mà cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù là ví dụ điển hình.
- Trong tác phẩm Chữ người tử tù thì cảnh cho chữ chính là trung tâm của mọi giá trị nghệ thuật, nó vừa khắc họa chân dung người tử tù hiên ngang, thi vị lại vừa thể hiện được tư tưởng nhân văn sâu sắc.
- Cảnh cho chữ là một áng văn "xưa nay chưa từng có"
II. Thân bài
1. Tóm tắt hoàn cảnh trước khi cho chữ
- Người tù Huấn Cao: vốn là người có tâm hồn phóng khoáng, thích tự do và chán ghét những kẻ nhũng nhiễu nhân dân. Ông còn là người nghệ sĩ tài năng yêu thích cái đẹp và luôn giữ gìn thiên lương trong sáng. Huấn Cao cũng có nguyên tắc riêng của mình, ông viết chữ nổi tiếng nhưng chỉ cho những người ông quý, không bao giờ cúi đầu trước uy quyền và đồng tiền.
- Quản ngục: một người có thiên lương, biết quý trọng người hiền và yêu cái đẹp nhưng lại làm nghề quản ngục. Khao khát được chữ của Huấn Cao treo trong nhà là khao khát lớn đời ông.
- Cảnh cho chữ diễn ra trong ngục tối.
- Trong bối cảnh giữa một người tù và một tên quản ngục, ban đầu Huấn Cao không nhận ra tấm lòng của viên quản ngục nhưng sau đó người tử tù không thể từ chối mong muốn chính đáng của một người biệt nhỡn liên tài.
2. Diễn biến cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
- Thời gian: Tình huống cho chữ diễn ra hết sức tự nhiên trong thời gian giữa đêm nhưng lại là thời gian cuối cùng của một con người tài hoa.
- Không gian: Cảnh cho chữ thiêng liêng lại được diễn ra trong cảnh u ám của ngục tối. Bối cảnh được khắc họa trên nền đất ẩm thấp, mùi hôi của dán, chuột…
- Người cho chữ là người tử tù nhưng oai phong, đang trong tư thế ban ân huệ cuối cùng của mình cho người khác. Kẻ xin chữ lẻ ra là người có quyền hành hơn nhưng cúi đầu mang ơn.
3. Giải thích tại sao Cảnh cho chữ là cảnh tượng xưa nay chưa từng có:
- Thông thường người ta chỉ sáng tác nghệ thuật ở nơi có không gian rộng rãi, trang nghiêm hay ít nhất là nơi sạch sẽ, đằng này cảnh cho chữ lại diễn ra nơi cái ác ngự trị.
- Người nghệ sĩ làm ra tác phẩm nghệ thuật phải thật sự thoải mái về tâm lí, thể xác trong khi Huấn Cao phải đeo gông, xiềng xích và nhận án tử vào ngày hôm sau.
- Người quản ngục là người có quyền bắt buộc kẻ tử tù nhưng ngược lại kẻ tử tù lại ở vị thế cao hơn có quyền cho hay không cho chữ.
4. Ý nghĩa của cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
- Ca ngợi tấm lòng thiên lương của hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục
- Ca ngợi sự chiến thắng của cái đẹp dù ở nơi u ám nhất.
- Khẳng định vẻ đẹp tâm hồn trong con người của Huấn Cao từ đó thể hiện quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân.
III. Kết bài
- Khái quát lại vấn đề
Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 8
1. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm “Chữ người tử tù” và cảnh cho chữ: Nguyễn Tuân được đánh giá là một cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại
2. Thân bài
· Sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối: Đáng lẽ ra việc cho chữ – việc sáng tạo nghệ thuật phải được thực hiện ở những nơi đàng hoàng, đẹp đẽ
· Sự chiến thắng của cái đẹp, cái thiện với các xấu, cái ác: Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ thù của nhau
· Sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu: người tử tù Huấn Cao đã hướng cho viên quản ngục đến một cuộc sống thiên lương
3. Kết bài
Ý nghĩa của cảnh cho chữ: Những dòng chữ cuối đời của Huấn Cao mang ý nghĩa truyền lại cái tài hoa và nhân cách cho những kẻ tri âm.