Phân tích nhân vật Huấn Cao hay nhất (19 mẫu)

Phân tích nhân vật Huấn Cao 1

Chữ người tử tù là truyện ngắn xuất sắc được in trong tập “ Vang bóng một thời’’ của Nguyễn Tuân xuất bản năm 1940. Tấp truyện được xem là :”một văn phẩm đạt gần tới sự toàn mỹ” (Vũ Ngọc Phan). Một trong những làm nên giá trị của tác phẩm là ở đó tác giả đã xây dựng nhân vật Huấn Cao, một hình tượng nhân vật hết sức độc đáo.

Tác giả Nguyễn Tuân (1910-1987) là nhà văn nổi tiếng trước CM tháng Tám, người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ônng viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng là truyện ngắn và tùy bút. Trước CM thág Tám ông viết xoay quay 3 đề tài . Đề tài về cái tôi của chủ nghĩa xê dịch, cái tôi hưởng thụ trụy lạc và cái đẹp ngày xưa nổi tiếng một thời nay không còn nữa chỉ vang bóng lại. Sau Cách mạng tháng Tám ông viết phục vụ CM.

Tác phẩm Chữ người tử tù lúc đầu có tên là dòng chữ cuối cùng được đăng trên Tạp Chí Tao Đàn (1938). Vế sau tác giả đổi tên la Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời (1940).Chữ người tử tù là chữ viết của người có tội bị giam trong ngục. Ở tác phẩm, tác giả ca ngợi thú chơi chữ có tính truyền thống văn hóa, ca ngợi nhứng con người biết chơi , dám chơi đồng thời qua đó thể hiện tấm lóng yêu nước của nhân vật HC.

Trước một xã hội “ Tây Tàu nhố nhăng’’, Hán học suy vi ,mâu thuẫn xã hội gay gắt.Dường như con người ta muốn buông xuôi tắt cả. Thế nhưng "Thời thế tạo anh hùng" vẫn còn một số người, đại diện cho nhũng nho sĩ cuối mùa, nhũng con người tài hoa bất đắc chí muốn lấy cái “ tôi” tài hoa , ngông nghênh của mình để đối lập với xã hội phàm tục; phô diễn lối sống đẹp , thanh cao của mình như một thái độ phản ứng trật tự xã hội đương thời. Trong số những con người tài hoa ấy , nổi bật lên hình tượng nhân vật Huấn Cao.

Huấn Cao vốn là người văn võ song toàn, có tâm hồn và nhân cách cao đẹp.Ngừoi tỉnh Sơn ai cúng biết Huấn Cao có tài viết chữ đẹp và rất nhanh, ngoài ra ông còn có tài bẻ khóa nữa. Huấn Cao bị nhà nước thực dân ghép vào tội đại nghịch nên bị bắt giam chờ ngày về kinh chịu tội. Trong những ngày bị giam giữ cuối đời, Huấn Cao vẫn toát lên vẻ đẹp hiên ngang , bình tĩnh và sáng suốt của 1 ngừơi anh hùng . Qua đó mới thấy được vẻ đẹp tài hoa, khí phách , khí tiết của Huấn Cao .

Tài viết chữ đẹp của Huân Cáo đươc mọi ngừơi kính nể. Bởi lẻ, cái hiếu thẩm mỹ của người xưa về viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý. Huấn Cao viết chữ Hán đẹp, người ta xem những tác phẩm của ông như là những tác phẩm nghệ thuật để trang trí trong nhà . Ở trong truyện, Nguyễn Tuân không trực tiếp miêu tả vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao mà thông qua nhân vật Viên Quản ngục để làm bật lên cái tài viết chữ đẹp của ông. Viên quản ngục là một người rành chơi chữ, khi biết Huấn Cao sắp được giải đén nhà lao của mình , viên quản ngục đâm chiêu lưỡng lự, tìm cách đối xử với Huấn Cao như thế nào cho đúng. Lão ái mộ Huấn Cao đến mức xuống nước biệt đãi cơm , rượu , thịt cho Huấn Cao. Dù biết đó là việc hết sức nguy hiểm và nếu có người tố giác sẽ khiến viên quản ngục mất việc, hơn nữa là mất mạng nhưng lão vẫn bất chấp , đã thế còn bị Huấn Cao khinh bạc đủ điều: “ Ngươi hỏi ta muốn j, ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng đặt chân đến đây nữa”.

Viên Quản ngục nhịn nhục vì ông biết rằng:” Chữ HC đẹp lắm , vuông lắm có được chữ HC treo trong nhà là một vật báu ở trên đời”.

Vì sao Viên Quản Ngục lại chịu nhịn nhục và bất chấp nguy hiểm để biệt đãi HC. Phải chăng trước vẻ lạnh lùng , ngang tàn của một người anh hùng khiến VQN có thái độ đặc biệt như vậy. Không , mà vì VQN rất trân trọng , khâm phục, yêu quí cái tài viết chữ đẹp của HC.

Qua sở thich của VQN, ta thấy nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa của HC. VÌ chữ đẹp của HC mà VQN có thể sẵn sàng chịu nhịn nhục, chịu bị HC trách mắng đủ điều và hơn nữa bất chấp cả tính mạng.

Bên cạnh vẻ đẹp tài hoa , HC cò toát lên vẻ đẹp nhân cách, cái nhân cách cao đẹp chiếu sáng cả cuộc đời ông. Ông không luồn cúi, chịu cảnh cá chậu chim lồng mà đi làm giặc chốg lại triều đình. Điều này khiến ông hơn người

Nhân cách ấy còn được thể hiện khi ông bị giải tới nhà lao. Nhà lao là nơi cái nơi tối tăm, xiềng xích bủa vây , tra tấn con người ta về mặt thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhứng với HC khi giải tới nhà lao ông vẫn hiên ngang, cổ mang gông tử tù bước vào ngục tử tội chờ chết mà ông vẫn không hề biết sợ.

Cái hình ảnh của người anh hùng tuy thất thế mà vẫn hiên ngang ấy khiến người ta phải ngưỡng mộ. Đó là nhân cách của con người:” bần tiện, bất năng di, phú quí bất năng dâm, uy vũ bất năng khuất”. Bước vào nhà lao trước đông đảo bọn cai tù mặt nhìn soi mói như ăn tươi , nuốt sống . Nhưng như vậy cúng chẳng khiến HC bận tâm và cảm thấy sợ sệt một chút nào cả, ông lạnh lùng bảo 5 người cùng xích chung trong cùng một cái thang gông:”Rệp cắn tôi , đỏ cả cổ lên rồi, phải dỗ gông đi”. HC Cao cùng 5 người thúc thang gông xuống trong lúc bọn cai tù đe dọa châm biếm :” Các ngươi chỉ phải tập thêm nữa …cho mấy hèo bây giờ”.Nhưng HC vẫn thản nhiên: “ Khom mình cúi thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng”. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh , đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt, riêng HC vẫn lạnh lùng bình thản như không.

Không chỉ có vậy nhân cách của HC còn được thể hiện khi VQN xuống tận buồng giam thăm và nói HC “ Ngươi cần j xin cho biết rồi sẽ liệu”. Nếu một người không có khí phách chắn hẳn sẽ năn nỉ van xin hay cảm ơn. Nhưng với HC thì không đời nào, ông không vì rượu thit mà lung lạc tinh thần. HC nói: “ Ngươi hỏi ta muốn j, ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng đặt chân đến đay nữa”.Bất chấp sau câu nói ấy HC có thể sẽ làm VQN tức giận và không được ăn ngon như trước hay bị một trân đòn nhưng HC vẫn nói . Đó là khí phách của của một người có bản lĩnh kiên cường .

HC còn bật lên vẻ đẹp khí tiết nữa.Đối vơi Hc tiền bạc, uy vũ sức mạnh không làm lung lạc tinh thần:” ta không vì tiền bạc , quyền thế mà ép mình viết chữ cho ai bao giờ”. Nhưng khi được Viên Thơ kể lại về sự tình của VQN, HC đã nhận thức được một tâm hồn trong sáng của VQN, người yêu cái đép, vì cái đẹp mà bất chấp nguy hiểm.VQN thật sự la ngườt tốt, xh rối ren khiến lão lạc vào đám cặn bã này thôi , khiến HC không nhận ra: “…nào ta có biết …Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng thiên hạ”. Đúng là HC dù là con người lạnh lùng, mạnh mẽ , cứng đầu lúc nhận ra con người thực của VQN , Quản ngục chỉ là cái áo khoác bên ngoài còn thực chất lão là người tốt , không mưu mô , xảo quyệt như trc đây HC đâ nghĩ .Trước thái độ chân thành cũng như tình cảm của VQN đối với mình khiến HC mềm lòng cảm động và quyết đjnh cho chữ VQN.

Đêm hôm ấy, HC đã cho chữ VQN, một trong những cảnh tượng xưa nay chưa từng có. HC sàng tạo trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt: đêm khuya , trong căn phòng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy màng nhện , đất bừa bãi phân nhện và phân gián, người sáng tạo ra cái đẹp , cổ đeo gông, chân vướng xiềng xích mà lại là người tự do và đầy uy quyền nhất. Người đọc không chỉ thấy đây là cảnh tượng cho chữ mà là cảnh truyền ngôi thụ giáo. Đẹp hơn nữa, HC còn tguyết giáo cho VQN cải tà quy chánh . VQN cảm động vài người tù một vài, chắp tay nói một câu mà nước mắt rỉ vàokẽ miệng làm cho nghẹn ngào:”Kẻ mê mụi này xin bái lĩnh “ Đó là vẻ đẹp khí tiết của một nhân cách cao thượng và ở khả năng cảm hóa con người của HC.

Nguyễn Tuân đã khắc họa nhân vật Huấn Cao thật tài tình , ở nhân vật này người đọc không chỉ thấy sự tài hoa của người nghệ sĩ mà còn là một con người có khí phách , khí tiết cao đẹp.Đó cũng là ước muốn của Nguyễn Tuân cũng như cái nhìn của ông : người nghệ sĩ không chỉ có tài mà còn phải có tâm có nhân cách đẹp.Vì vậy tác giả xây dựng nhân vật HC nhú tấm gương sáng để các thế hệ sau có cái nhìn về cái đẹp tài hoa và cái đẹp trong nhân cách, khí tiết và để lại cho người đọc một sự yêu mến , một sự ngưỡng mộ. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã để lại ho nền văn học Việt Nam một tác phẩm đầy chất nhân văn .

Phân tích nhân vật Huấn Cao 2

Nguyễn Tuân là một nhà văn tài ba, không chỉ tài ba mà còn yêu cái đẹp, sống vì cái đẹp, và trên hết, ông tạo ra cái đẹp. Mỗi tác phẩm của ông đều ẩn chứa những cái đẹp riêng, có khi là phô trương, có khi lại sâu lắng đầy ý nghĩa sâu xa. Ví dụ như trong “Chữ người tử tù”, cái đẹp được ca ngợi ở đây không chỉ là tài viết chữ đẹp, cái thiên lương đẹp mà còn là cả một con người đẹp, đẹp từ trong tâm ra đến hành động, từng con chữ. Chữ người tử tù là tập truyện ngắn rút từ tập vang bóng một thời của Nguyễn Tuân (1940). Đây là truyện ngắn có nội dung tư tưởng sâu sắc và có nhiều thành công về tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm bộc lộ tập trung trong hình tượng nhân vật Huấn Cao.

Có thể khẳng định rằng, nhân vật Huấn Cao là hình mẫu xuất chúng, là linh hồn, là nhân tố tạo nên sự thành công của tác phẩm “Chữ người tử tù”. Để làm rõ chất xuất chúng trong xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, chúng ta cùng phân tích nhân vật trên ba phương diện nổi bật: Huấn Cao- Anh Hùng; Huấn Cao- Nghệ sĩ tài hoa và Huấn Cao – Thiên lương trong sáng.

Nguyễn Tuân xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao với tất cả những nét đẹp đáng quý nhất. Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài ba! Nếu ai  đã từng đọc “Chữ người tử tù” chắc hẳn đều ít nhất một lần rung động, cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuất, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí. Đó là Huấn Cao . Ông là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, trí;  là tập hợp của tất cả những gì tinh khiết nhất, cao đẹp nhất. Nhờ đó, Huấn Cao trở thành  một hình tượng thẩm mỹ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ, vừa là người có nghĩa khí. Nhiều nhà phê bình lẫn độc giả cho rằng, hình tượng nhân vật Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát. Người vĩ nhân đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là người có tài ,có đức, văn hay chữ đẹp, sống dưới thời Nguyễn, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, bọn cường quyền, đả kích xã hội PK thối nát, bỉ ổi.

Trong “Chữ người tử tù” Huấn Cao cũng vậy. Ông bị gọi là kẻ cầm đầu quân phản loạn, ông học rộng hiểu nhiều, dám đứng lên chống lại cái sai, cái bất công; đả kích sự mục ruỗng thối nát của nhà Nguyễn, đấu tranh vì lợi ích của nhân dân. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn hình tượng nhân vật Huấn Cao để ca ngợi Cao Bá Quát?  Và ngược lại, lấy nguyên mẫu từ Cao Bá Quát để khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa quyện với cái đẹp của khí phách, tuy chí không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy gian khổ, coi khinh cái chết. Khí chất của Huấn Cao giống như ánh sáng mặt trời hiên ngang, rực rỡ tỏa sáng trên cái nền đen nhơ nhớp, tối tăm chốn ngục tù.

Nói đến vẻ đẹp của hình tượng HC trước hết phải nhắc đến cái tài. Tài của Huấn Cao là tài viết chữ đẹp. Xét trong thị hiếu thẩm mỹ của người xưa từ Trung Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý. Tâm có đẹp, hồn có thanh, có tài ba, trí thức mới viết ra được những con chữ đẹp. Viết chữ đẹp và chơi chữ đẹp là biểu hiện của con người có tri thức, một vẻ đẹp hoàn mỹ trong văn hoá truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người khát khao, thèm muốn lẫn trân trọng, nâng niu. Chữ Huấn Cao viết là chữ Hán loại văn tự giàu tính tạo hình. Các nhà nho thuở xưa viết chữ để bộc lộ cái tâm, cái chí. Viết chữ thành một môn nghệ thuật gọi là thư pháp, có người viết chữ thì có người chơi chữ. Người ta treo chữ đẹp ở những nơi trang trọng trong nhà, xem đó như một thú chơi tao nhã.

Huấn cao là nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. “Tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh sơn.” Ngay cả viên quan quản ngục của một huyện nhỏ vô danh cũng biết “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm! có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời”. Cho nên “Sở nguyện của viên quan cai ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do ông Huấn Cao viết”. Để có được chữ ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải dụng công, phải nhẫn nhục mà còn phải liều mạng. Bởi vì biệt đãi Huấn Cao một kẻ tử tù là việc làm nguy hiểm có khi phải trả giá bằng tính mạng của mình.

Một cái tài nữa nghe có vẻ rất không thống nhất với tài viết chữ đẹp đó là tài bẻ khóa vượt ngục. Người trí thức bàn tay hoa mỹ những tưởng chỉ để phát lên những nét rồng bay phượng múa, ai ngờ lại còn có thể bẻ khóa, ra vào tù ngục như chốn không người. Nếu như viết chữ đẹp thể hiện một con người trí thức, nho nhã, yêu cái đẹp thì tài bẻ khóa vượt ngục lại thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành. Điều này rất hợp logic với tính cách của một con người luôn đấu tranh cho chính nghĩa, dũng cảm đứng lên chống lại triều đình Phong Kiến mục nát. Hai biệt tài của Huấn Cao tưởng rằng máu thuẫn nhưng lại thống nhất, bổ sung cho nhau; tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào lòng độc giả như một anh hùng, một trượng phu đã vượt lên tất cả cái bình thường nhỏ nhoi của cuộc đời để vẫy vùng để “chọc trời khuấy nước”. Nhưng anh hùng không gặp vận, người tài chẳng đúng thời! Giữa cái xã hội Phong Kiến còn đầy rẫy những chuyên chế, đàn áp, bất công ấy thì những người như Huấn Cao lại bị quy thành tội phạm, thậm chí là tội phản quốc phải gánh lấy cái án tử hình.

 Vẻ đẹp nổi bật thứ hai của Huấn Cao đó chính là khí phách hiên ngang, bất khuất của người anh hùng. Không chỉ văn võ song toàn, Huấn Cao còn là một người có khí phách, một người anh hùng dám làm dám chịu, không những không bị khuất phục trước quyền lực, bạo lực; mà còn không hề nao núng, sợ hãi khi đứng trước cái chết- kết cục tất yếu của tử tù phản quốc

Huấn Cao xuất thân là nho sĩ, tầng lớp trí thức, học giả; thường khi những người như ông sẽ cống hiến tài mình phục vụ cho triều đình. Đặc biệt, thời phong kiến, tư tưởng quân chủ chuyên chế vẫn còn đè nặng. Làm việc cho triều đình là một cách báo quốc, đền dân; nhưng triều đình mục ruỗng, thối nát thì không đáng để ông phụng sự. Ông là người tài, không chỉ tài ở tài viết chữ, mà còn là người có cái nhìn thức thời, sáng suốt. Một nhân tài không sợ hãi trước cường  quyền và bạo lực. Không chịu sống cảnh “cá chậu chim lồng”, “vào luồn ra cúi” nên ông đã tham gia khởi nghĩa cùng nông dân chống lại triều đình. Ông bị bắt và bị kết tội phản quốc chờ xử chém.

Khí phách của ông trước hết thể hiện ở thái độ lạnh lùng và hành động cương quyết của ông khi vừa được đưa đến nhà ngục. Mặc cho những tên lính áp giải nói gì, “Huấn Cao lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Phải là người có bản lĩnh, quyết đoán, tự chủ trước cường quyền, Huấn Cao mới có được hành động như vậy. Trong những ngày ở tù, ông luôn làm chủ bản thân, không luồn cúi. “Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù”. “Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm”. Thậm chí, ông còn có thái độ khinh bạc đối với viên quản ngục. Khi viên quản ngục hỏi ông xem ông có cần thêm gì thì cho viên quản ngục biết, ông đã thẳng thắn trả lời: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Quá thực, đó là một thái độ khinh bạc đến điều.“Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cảnh chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này”. Huấn Cao rất cứng cỏi, không dễ dàng bị mua chuộc.

Dù chí lớn không thành tư thế của Huấn Cao lúc nào cũng hiên ngang, bất khuất. Bị dẫn vào huyện ngục ông không chút run sợ trước những kẻ nắm giữ vận mệnh của mình. Chắc hẳn ai đã từng đọc “chữ người tử tù” đều không thể nào quên hình ảnh Huấn Cao thúc gông xuống thềm đá, chỉ một chi tiết ấy cũng làm toát lên khí chất kiên cường, có chút ngông lạnh của người anh hùng không màng cái chết. Hình ảnh đó thật đẹp, thật hào hùng khiến ta nhớ mãi không quên. Rõ ràng là một tử tù chỉ đợi ngày ra pháp trường vậy mà Huấn Cao vẫn luôn ung dung, đạo mạo, toát lên khí chất coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, trước sau không thay đổi. Điều đó thật đáng kính!

Tuy nhiên, có lẽ vẻ đẹp đáng kính nhất ở Huấn Cao là vẻ đẹp của tâm hồn. Ông là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp hiếm có, đáng trân trọng!

Trong truyện Chữ người tử tù khái niệm “thiên lương” được Nguyễn Tuân sử dụng với nhiều ý nghĩa khác nhau. Với quản ngục và thơ lại thì “thiên lương” là ý thức của ông trong việc sử dụng cái tài của mình. Huấn cao có tài viết chữ nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. Ông không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng ngọc hay quyền thế. Ông chỉ trân trọng những ai biết yêu quý cái đẹp, cái tài…Cho nên suốt đời Huấn Cao chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân. Lúc đầu, ông tỏ thái độ khinh bạc vì tưởng quản ngục có ý đồ đen tối gì khi thấy viên quan ấy biệt đãi mình. Rồi ông “cảm cái lòng biết ơn liên tài” của quản ngục và thơ lại, khi biết họ thành tâm xin chữ. Ông quyết không phụ tấm lòng của họ, nên mới diễn ra cảnh cho chữ trong tù được tác giả gọi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Cái đẹp từ “thiên lương” trong sáng của Huấn Cao chính là điểm sáng nhất của tác phẩm. Tuy nhiên, hình tượng nhân vật Huấn Cao chỉ thực sự tỏa sáng khi đạt được sự thống nhất giữa cả 3 vẻ đẹp từ cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng. Trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm Nguyễn Tuân đã để cho vẻ đẹp của cái tâm, của “thiện lương” chiếu rọi, làm cho cái đẹp của cái tài của khí phách anh hùng bừng sáng, tạo nên nhân cách cao đẹp của Huấn Cao. Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng là lí tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân là chuẩn mực để ông đánh giá nhân cách của con người. Nguyễn Tuân đặt nhân vật dưới ánh sáng của lí tưởng ấy để các hình tượng bộc lộ vẻ đẹp với những mức độ khác nhau. Trên cái nền đen tối của nhà tù, quản ngục và thơ lại là hai điểm sáng bên cạnh cái vần sáng rực rỡ của Huấn Cao. Cũng chính lý tưởng thẩm mỹ ấy chi phối mạch vận động của truyện, tạo thành cuộc đổi ngôi kì diệu kẻ tử tù trở thành người làm chủ tình huống, ban phát cái đẹp, dạy dỗ cách sống, quan coi ngục thì khúm núm sợ hãi. Hình tượng Huấn Cao vì thế trở thành biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp cái cao cả đối với cái phàm tục, dơ bẩn của khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ.

Để làm nổi bật vẻ đẹp của Huấn Cao Nguyễn Tuân đã đặt nhân vật vào một tình huống truyện độc đáo cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục và thơ lại. Đó là cuộc gặp gỡ của tử tù với viên quan cai ngục nhưng cũng là cuộc hội ngộ của những kẻ “liên tài tri kỉ”. Nguyễn Tuân thật tài tình khi miêu tả Huấn Cao để làm nổi bật sự chiến thắng của cái tài cái đẹp cái tâm và khí phách ngang tàng.  Ông triệt để sử dụng sức mạnh của nguyên tắc tương phản, đối lập của bút pháp lãng mạn đối lập giữa ánh sáng và bóng tối giữa cái đẹp cái cao cả với cái phàm tục dơ bẩn. Có sự tương phản ở những chi tiết tạo hình được sử dụng để miêu tả không khí của cảnh cho chữ : bóng tối phòng giam, ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tấm lụa bạch còn nguyên… Có sự đối lập tương phản giữa sự cho chữ và hoàn cảnh cho chữ. Đó là sự đối lập giữa công việc tạo ra cái đẹp “nói lên hoài bão tung hoành của một đời người” với chốn ngục tù hôi hám, bẩn thỉu, nơi giam cầm cùm trói tự do. Sự sự đối lập phong thái của người cho chữ với tư  của kẻ nhận chữ cũng góp phần không nhỏ vào việc khắc họa hình tượng nhân vật.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 3

Chữ người tử tù là tác phẩm ca ngợi sự chiến thắng của khí phách, tài hoa và nhân cách đối với cái xấu xa, thấp hèn, là bài ca đầy cảm hứng động viên con người gắng gìn giữ “thiên lương” dù trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc đời.

Nói đến những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, người ta nghĩ ngay tới “Vang bóng một thời”, trong đó truyện ngắn “Chữ người tử tù” từng được đánh giá là tác phẩm hay nhất của một nghệ sĩ tài hoa có phong cách độc đáo. Cái phong cách độc đáo ấy được gửi gắm trong nhiều hình tượng mà nổi bật nhất đó là nhân vật Huấn Cao – một con người có khí phách ngang tang, bất khuất, có tài hoa và phẩm chất thiên lương trong sang. 

Điểm nổi bật ở Huấn Cao đó là một con người mang vẻ đẹp của khí phách, tư thế hiên ngang. Vẻ đẹp ấy được bộc lộ ở lòng tự trọng sống hiên ngang, không khom lưng uốn gối. Là một con người cương trực, thẳng thắn và sống trong sang vô ngần, luôn gạt mọi quyền chức danh lợi sang một bên: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đó là một câu nói thể hiện một tư thế sống đẹp của Huấn Cao, rất có “thiên lương”. Sống trong một xã hội dơ bẩn nhưng tâm hồn của Huấn Cao vẫn ánh lên những tia sáng của sự trong sạch, ấy là điều đáng quý, đáng trân trọng, khâm phục. Tác giả đã rất khéo léo, khách quan khi để cho hình tượng Huấn Cao hiện lên với tư thế hiên ngang, bất khuất qua suy nghĩ của viên quản ngục: “Viên quản ngục không lấy làm oán thù thái độ khinh bạc của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước, đến trên đầu người ta, người ta cũng chẳng biết có ai nữa, huống chi cái thứ mình là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Huấn Cao, một con người đang trong tâm thế bị động, bị tù đày, lẽ ra khi được viên quản ngục quan tâm phải lấy đó làm vinh hạnh, làm ân huệ cuộc đời, nhưng vốn ông là người ngay thẳng, chính trực nên đã tỏ thái độ rất lạnh lùng, khinh bạc đối với viên quản ngục. Huấn Cao chưa bao giờ có ý nghĩ sẽ nhờ vả người quản ngục của mình. Trong hoàn cảnh éo le như thế, mạng sống đã bắt đầu không giữ nổi mà người tử tù vẫn giữ được thế đứng vững vàng, thật đáng phục biết bao. Đó là một nhân cách sáng lên giữa cảnh tăm tối của nhà tù, của xã hội lúc bấy giờ. Khi chí lớn không thực hiện được, Huấn Cao không hề có một chút run sợ trước thảm cảnh tương lai, tương lai đang đón đợi ông bằng cái chết. Nói về cái chết, Huấn Cao dửng dưng và coi thường mọi gian khổ, tư thế của ông đúng là tư thế người chiến sĩ: “Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa.” Chết chém mà không sợ thì còn sợ cái gì nữa đây? Có lẽ cái làm Huấn Cao sợ đó chính là sự phi lí của xã hội, sự dơ bẩn, xảo trá, đảo điên của thời đại !

Bên cạnh tư thế đĩnh đạc ông còn có những suy nghĩ , hành vi thật phóng khoáng. Ông không cố chấp, không gò bó bản thân mình, tuy vẫn kiêu bạc với viên quản ngục nhưng mỗi lần được ưu đãi ăn uống thì “ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt” , “coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm”. Ở trong ngục, khi đối diện với cái chết thì người ta thường lo đứng lo ngồi, ăn không ngon miệng, ngủ chẳng đủ giấc, nhưng riêng với Huấn Cao vẫn cứ “rượu thịt” như thường, thể hiện một tâm thế ung dung, đứng ở tư thế chủ động để đón đợi mọi tình huống trong tương lai, cho dù đó là cái chết đi chăng nữa.

Huấn Cao đã rất băn khoăn trước sự biệt đãi của viên quản ngục. Thực tình, ông không hiểu vì sao con người ấy không những đối đãi tử tế với một mình ông mà còn với năm người tử tù cùng đi với ông nữa. Cho dù vậy, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục vẫn vô cùng ngạo nghễ, khinh bạc. Khi quản ngục lo ấu, khép nép hỏi Huấn Cao có cần gì thêm nữa không để quản ngục cố gắng chu toàn, Huấn Cao đã lạnh lung nói một câu như tát nước vào mặt “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Điều đó thể hiện thái độ yêu ghét rất rõ ràng của Huấn Cao, dù viên quản ngục có tốt đến mấy nhưng trong mắt Huấn Cao, hắn vẫn là một kẻ cai ngục hèn hạ.

Nghệ thuật chơi chữ, viết chữ vốn là một thú vui tao nhã của người xưa. Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, đẹp đến nỗi nổi tiếng cả tỉnh, và cái danh của ông đã được truyền đi rất xa: “tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Tuy viết chữ đẹp nổi danh như thế nhưng ông Huấn Cao vẫn rất khiêm tốn, cả một đời mà ông chỉ mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường: “Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi”. Lần cho chữ viên quản ngục như môt ngoại lệ, đó cũng chính là nét bút cuối cùng của Huấn Cao. Huấn Cao cho chữ viên quản ngục đâu phải vì gã đối xủa tử tế với mình mà chính bở Huấn Cao cảm nhận được một sự đồng cảm hài hòa giữa mình với con người đó. Ông cho chữ vì “ta cảm cái tấm lòng biết nhìn liên tài của ngươi”. Có nghĩa Huấn Cao cho chữ viên quản ngục vì hiểu được rằng quản ngục là người có “thiên lương” trong sáng, có con mắt biết nhìn đời, nhìn người đặc biệt là thưởng thức, quý trọng giá trị của cái đẹp. Điều này đã gặp gỡ với tâm hồn, con người của Huấn Cao.

Cái cao đẹp, tài hoa của Huấn Cao được Nguyễn Tuân xây dựng trong một khung cảnh đối lập giữa bóng tối và ánh sáng, cái cao cả và cái thấp hèn. Viết chữ vốn là một việc thanh cao, long trọng với lụa trắng, mực thơm, nét chữ tươi tắn đối lập với cái dơ bẩn, ẩm ướt, đen tối của ngục tù đầy phân chuột, phân gián … Nhưng Huấn Cao vẫn chăm chú viết chữ là một hình tượng mà từ xưa đến nay chưa từng có “Một người tu, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang chậm tô nét chữ trên mảnh lụa trắng tinh căng trên mảnh ván” và “trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một mảnh lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt làm họ dụi mắt lia lịa”. Giữa cái chật chội hôi hám của nhà tù mà những con người có bản chất thiên lương ấy vẫn vượt lên trên tất cả mọi khó khăn để sáng tạo nên cái đẹp đã biểu hiện một ý nghĩa vô cùng sâu sắc: Cái đẹp có thể sản sin từ nơi cái ác hoành hành ngự trị , cái đẹp có thể tồn tại, sản sinh từ một mảnh đất chết. Cái đẹp ấy lại được sinh ra từ bàn tay của một người tử tù lại mang một ý nghĩa nhân văn cao cả: Dù cuộc sống có tàn nhẫn đến đâu thì giá trị nghệ thuật đích thực vẫn tồn tại vì nếu thiếu cái đẹp, cuộc sống sẽ tầm thường biết bao.

Huấn Cao không chỉ là người có khí phách “đội trời đạp đất” mà còn là con người mang nét đẹp tâm hồn tài hoa. Ông không chỉ tu dưỡng mình để trở thành một con người có “thiên lương” trong sáng, bản chất tốt đẹp mà ông còn muốn người khác cũng như vậy, đặc biệt là một người có “thiên lương” như viên quản ngục. “Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về quê nhà mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi”. Chữ “tâm” trong sáng của Huấn Cao trong lời khuyên bảo sau cuối đối với viên quản ngục. Lời khuyên ấy càng làm đẹp thêm hình tượng Huấn Cao – chỉ có con người “thiên lương” mới có tư cách khuyên bảo, nhắn nhủ những điều đầy lương trí ấy. Huấn Cao mong mỏi những điều tốt đẹp cho viên quản ngục, mong muốn viên quản ngục hãy giữ lấy khí tiết và tấm lòng trong sạch ấy, tránh xa nơi nhem nhuốc này. Như vậy, Huấn Cao là người yêu cái đẹp và cảm thong với người biết quý trọng, biết thưởng thức cái đẹp. Ông là người kiêu bạc là thế nhưng lúc hiểu được tấm lòng chân thành của viên quản ngục, ông đã vui vẻ nhận lời cho chữ và tự kết án mình “thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao là người tạo ra cái đẹp, viên quản ngục lại là người biết thưởng thức cái đẹp, như vậy hai tâm hồn đẹp đã gặp nhau và cất lên sự đồng điệu, hòa hợp.

Tác phẩm là câu chuyện về những người vang bóng một thời. Tác giả đã kết hợp hết sức nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ hiện đại và cổ kínhđể tạo được không khí trang trọng trong văn phong. Vận dụng tối đa thủ pháp tương phản, đối lập giữa cái sáng – tối nhằm làm nổi bật cái ác – cái thiện, cái cao cả – cái thấp hèn. Giọng văn chậm rãi, từ tốn, cách đối thoại làm bộc lộ tính cách tâm lý nhân vật một cách sâu sắc.

Chữ người tử từ là một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Tuân. Thông qua bút pháp tài tình, điêu luyện, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xấy dựng các nhân vật của mình, đặc biệt là Huấn Cao. Từ hình tượng ấy, đặt trong hoàn cảnh mất nước lúc ấy thì đó chính là một cách giãy bày cảm động, kín đáo tấm lòng yêu nước sâu sắc của nhà văn.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 4

Huấn cao được Nguyễn Tuân xây dựng dựa trên hình tượng Cao Bá Quát, một nhà nho yêu nước đồng thời cũng nổi tiếng về cái tài viết chữ đẹp. Tuy vậy, Huấn Cao luôn là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân bởi hình tượng nhân vật này là công sức sáng tạo của nhà văn.

Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, có tài viết thư pháp. Người viết chữ đẹp xưa nay đâu có hiếm, nhưng được tôn thờ nhờ tài viết chữ đến mức thần thánh thì hiếm vô cùng. Chữ Huấn Cao quý giá không chỉ vì được "viết rất nhanh và rất đẹp", không chỉ vì "đẹp lắm vuông lắm" mà quan trọng hơn đó là "những nét chữ vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người". Nguyễn Tuân không tả những nét chữ Huấn Cao mà dùng bút pháp ngợi, chủ yếu miêu tả cái thần thái tỏa ra từ những nét chữ đó. Nhà văn không trực tiếp giới thiệu cái tài đó mà thông qua lời ngợi khen của viên quản ngục và thầy thơ lại: "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm…Có được chữ ông Huấn Cao mà treo là có một vật báu trên đời". Cả đời ông Huấn mới cho chữ có 3 lần cho ba người bạn thân, vậy mà tiếng tăm của ông đã nổi danh khắp cả, đến viên cai ngục của một huyện cũng nghe đến tiếng Huấn Cao như sống động bên tai. Chi tiết Huấn Cao viết chữ rất nhanh mở ra một ông Huấn uyên bác, trí tuệ còn chi tiết viết chữ "rất đẹp" lại cho ta ấn tượng về những nét chữ vừa mềm mại uyển chuyển "như phượng múa rồng bay" lại vừa có cái phóng túng tự do trong hoài bão. Quan trọng hơn, nét chữ đó có khả năng lay động trái tim con người, khiến cho quản ngục tự bao giờ đã có cái mong muốn: "Một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do chính tay ông Huấn Cao viết". Chính cái tài của Huấn Cao đã nuôi dưỡng một ước mơ rất đẹp nơi quản ngục. Như vậy, tài năng của Huấn Cao được đối phương công nhận và ngưỡng mộ, đó là một tài năng chân chính.

Sáng hôm sau, Huấn Cao trực tiếp xuất hiện thông qua một chi tiết "dỗ gông" mặc cho mấy tên lính áp giải, ông Huấn vẫn lạnh lùng thúc mũi gông xuống đất đánh thuỳnh một cái, khiến cho trên nền đá điểm những chấm nâu nhạt của rệp. Huấn Cao đã cho thấy việc gì ông muốn là làm và hoàn toàn có thể làm được, bất chấp nó khó khăn đến đâu và có được phép hay không. Và từ đó, Huấn Cao cứ thế đi đến cuối chuyện, trong tư thế ung dung, đĩnh đạc, đường hoàng.

Trong thời gian ở tù, Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu, thịt coi đó là việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh. Thậm chí, khi quản ngục ngỏ ý muốn biệt đãi ông, Huấn Cao đã trả lời quản ngục bằng những lời "khinh bạc đến điều". Tất cả những chi tiết ấy cho chúng ta thấy Huấn Cao đúng là con người chọc trời khuấy nước và việc vào nhà tù tỉnh Sơn chỉ giống như việc người anh hùng "chạy mỏi chân thì hẵng ở tù" (Phan Bôi Châu). Đặc biệt chỉ ngày mai phải vào kinh lĩnh án tử hình, đêm nay tại trại giam quê hương ông vẫn ung dung cho chữ mà không hề để ý đến cảnh ngộ của bản thân. 

Điểm đặc biệt nhất khiến Huấn Cao trở thành nhân vật đẹp nhất đời văn Nguyễn Tuân chính là: ông là người có "thiên lương" trong sáng, cao đẹp. Điều này thể hiện rõ nét ở phản ứng của ông trước những người xin chữ: "ta không vì vàng ngọc hay quyền thế mà viết chữ bao giờ" vậy nên cả đời Huấn Cao mới cho chữ 3 lần cho 3 người bạn thân của ông mà thôi. Ông Huấn đúng là một người quân tử mà quyền thế không thể khuất phục, giàu sang không thể mua chuộc. Mà để làm được điều đó phải có cái tâm trong sáng, vững vàng, bất biến. Khi Ngục quan bước vào buồng giam, ông đã mắng bằng những lời lẽ kiêu bạc nhưng khi nghe tâm sự và nguyện vọng xin chữ của quản ngục ông vô cùng xúc động. Bởi vậy không đắn đo suy tính, khi đã hiểu tấm lòng quản ngục ông nhận lời ngay: "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Điều này làm cho hình tượng Huấn Cao trở nên trọn vẹn, hoàn hảo. Một con người cả đời kiêu bạc như ông Huấn, những tưởng không khuất phục một ai, vậy mà lại mềm lòng trước một tấm lòng. 

Sự thống nhất của cái tài, cái tâm khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao được hội tụ trong cảnh cho chữ ở cuối tác phẩm. Không còn hình tượng một người tử tù mà chỉ còn hình tượng Huấn Cao – một người nghệ sĩ đang say xưa trổ tài viết chữ đẹp, đang khai sinh chữ đẹp: "Một người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang đậm tô nét chữ". Không chỉ vậy ông còn để lại cho quản ngục những lời di huấn thiêng về đạo lý làm người: "Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên thay chốn ở đi, ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững rồi ra nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Cái đẹp của Huấn Cao là cái đẹp tổng hòa của tài năng, nhân cách, khí phách, một cái đẹp đạt đến mức lý tưởng.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 5

Nhà văn Pauxtopki từng khẳng định: “Nhà văn là người dẫn đường đến xứ xở của cái đẹp. Bước vào thế giới văn chương nghệ thuật là bước vào thế giới của cái đẹp”. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có một lí tưởng riêng. Nếu Thạch Lam đưa người đọc đến với thế giới cái đẹp dịu dàng, êm đềm mà u buồn, man mác thì Nguyễn Tuân – người nghệ sĩ tận hiến suốt đời cho cái đẹp lại dẫn ta đến thế giới thanh cao, sang trọng, lịch lãm mà cổ kính. Trong thế giới nghệ thuật độc đáo ấy của Nguyễn Tuân nổi bật lên hình tường Huấn Cao – nhân vật chính của “Chữ người tử tù”, một nét son chói lọi trong văn nghiệp của Nguyễn Tuân

Là một người nghệ sĩ coi cái đẹp là một tôn giáo, giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, trước Cách mạng, bất mãn xã hội Tây tàu nhặng xị, Nguyễn Tuân trở về quá khúe kiếm tìm, nâng niu nhữnng vẻ đẹp còn vương xót lại. Trong hành trình đi tìm kiếm cái đẹp “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân chợt phát hiện ra không gì đẹp bằng những con người tài hoa tài tử. Nổi bật trong lớp người tài hoa ấy là danh sĩ Cao Bá Quát, một nhà Nho uyên bác, một nhà thơ lớn của dân tộc, một nhà thư Pháp kiệt xuất. Dựa trên nguyên mẫu về danh sĩ Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên hình tượng Huấn Cao – một nhân vật đẹp và sang nhất trong cuộc đời Nguyễn Tuân. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, tài tử, Huấn Cao còn là một đấng anh hùng. Ở Huấn Cao có sự kết hợp tuyệt vời giữa vẻ đẹp của tâm hồn nghệ sĩ và khí phách của trang anh hùng hào kiệt.

Nghệ thuật thư pháp là một bộ môn nghệ thuật cổ xưa. Một nghệ sĩ thư pháp đòi hỏi một tay bút tài hoa điêu luyện, với những nét chữ rồng bay phượng múa, một học vấn uyên thâm, một cốt cách thanh cao. Với những đòi hỏi khắt khe như thế, thật ít nghệ sĩ dám theo đuổi bộ môn nghệ thuật thư pháp cao siêu. Thế mà Huấn Cao dám dấn thâm và tận hiến đời mình cho nghệ thuật thư pháp và trở thành người nghệ sĩ tài hoa tột bậc. Huấn Cao có tài viết chữ nhanh, đẹp, vuông. Hơn thế nữa, mỗi con chứa đựng cả hoài bão khát vọng của người nghệ sĩ. Danh tiếng của Huấn Cao lan truyền đến chốn ngục tù khiến cho những kẻ suốt đời tưởng chỉ biết đến đòn roi đánh đập, hành hạ, tra tấn cũng phải ngưỡng mộ. Đặc biệt đối với quản ngục. Ngay từ nghi đọc vỡ sách thánh hiền, ngục quan đã ấp ủ được treo ở nhà riêng đôi câu đối do tay Huấn Cao viết. Vì ngưỡng mộ tài năng, sùng kính nhân cách của ông Huấn, quản ngụ đã có lối ứng xủa lạ lùng chưa từng thấy đối với kẻ từ tù. Không chỉ tỏ thái độ kiêng nể kính trọng, ngục quan còn sẵn sàng hi sinh tất cả những gì vốn được coi là quý báu. Có được chữ của ông Huấn, quản ngụ vô cùng hạnh phúc, cảm động cung kính vái lạy người tử tù trong dòng nước mắt ngọt ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vẫn biết những tác phẩm nghệ thuật chân chính luôn có khả năng thanh lọc tâm hồn, cảm hóa con người nhưng thực sự hiếm có tác phẩm nào có sức cảm hóa mạnh mẽ diệu kì, lạ lùng chưa từng thấy như những con chữ viết của Huấn Cao.

Là người nghệ sĩ tài hoa tột bậc, đồng thời Huấn Cao còn là người anh hùng có khí phách phi thường. Nếu vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ Huấn Cao được miêu tả gián tiếp thì khí phách hiên ngang bất khuất được miêu tả trực tiếp qua hành động, ngôn ngữ. Là một nhà Nho có chí khí, Huấn Cao không chấp nhận cảnh sống cá chậu chim lồng, nhắm mắt làm ngơ trước cảnh đời thối nát để mong vinh thân phì gia. Vì sự công bằng của xã hội, hạnh phúc dân lành, Huấn Cao nổi dậy chống lại triều đình. Sự nghiệp anh hùng không thành, Huấn Cao bị khép vào án tử hình. Trước cái chết cận kề, Huấn Cao không hề hối tiếc hay lo lắng, sợ hãi. Trái lại, Huấn Cao luôn tỏ rõ dũng khí hiên nganh, bất khuất. Bẻ khóa vượt ngục đã trở thành tài của Huấn Cao khiến quản ngục và thầy thơ lại thán phục. Bất cứ lời nói hành động nào của Huấn Cao dường như cũng toát lên khí phách hiên ngang, bất khuất của vị đại trượng phu. Tuy nhiên, nếu phải chọn một hành động điển hình cho khí phách ấy, nhiều người chọn hành động dỗ gông lúc nhập ngục. Đối mặt với bọn tiêu lại giữ tù, cai tù hống hách, bạo ngược, Huấn Cao không hêd khúm núm, sợ sệt như những tù nhân khác. Hành động của Huấn Cao có khác nào một cái tát khinh bỉ vào mặt bọn cai tù cặn bã. Dõi theo hành động, thái độ của Huấn Cao trong nhà giam những ngày cuối cùng, người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chẳng những Huấn Cao thản nhiên nhận rượu thịt – quà biếu của quản ngục coi đó là việc vẫn là trong hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Trước cường quyền không lùi bước, trước cái chết không chịu khuất phục, đó là khí phách anh hùng Huấn Cao. Khi thầy thơ lại ngập ngừn báo tin cho ông biết sáng sớm mai ông phải về kinh lãnh án tử hình, không một phút lo âu, không một giây sợ hãi, Huấn Cao đón nhận cái chết bằng nụ cười. Đó là nụ cười ngông ngạo của người sẵn lòng tin “giữ trinh bạch linh hồn trong bụ bẩn”. Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao đúng là trang anh hùng có khí phách phi thường

Nhà văn vĩ đại V.Hugo đã từng nói: “ Trước bộ óc vĩ đại ta phải cúi đầu nhưng trước trái tim vĩ đại ta phải quỳ gối”. Học theo tư tưởng của văn hòa Hugo, trước hình tượng Huấn Cao, mỗi người đọc chúng ta ắt phải cúi đầu và quỳ gối. Bởi Huấn Cao không chỉ là một nghệ sĩ tài năng siê biệt, một đấng anh hùng có khí phách phi thường mà ông còn là hiện thiên của nhân cách cao đẹp, thiên lương trong sáng vô ngần. Là một người nghệ sĩ thư pháp tài hoa tột bậc, những con chữ của Huấn Cao là một vật báu đối với bao người. Cả đời, Huấn Cao mới tặng chữ cho ba người. Không mềm lòng trước tiền bạc, quyền uy, trước sau Huấn Cao chỉ trân trọng tình tri âm, tri kỉ. Đến khi hiểu được ước nguyện của quản ngục, Huấn Cao chẳng những cho chữ mà còn mỉm cười mãn nguyện. Quả thật, không hạnh phúc sao được khi giữa thế giới ngục tù, tối tăm, bẩn thỉu ta lại bắt gặp một tấm lòng trong sáng, biết trọng người ngay, biết kính mến khí phách và tài năng. Tuy sẵn lòng cho chữ quản ngục nhưng Huấn Cao vẫn day dứt “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Ở trên đời này, khi mắc lỗi, hầu hết con người ta tìm cách trốn tránh và đổi lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh thế nên hành động ăn năn, hối hận là rất đáng quý chỉ có ở những nhân cách tử tế. Lại day dứt ân hận trước những sai lầm suýt mắc phải, những sai lầm chỉ mình mình biết, mình mình hay, chỉ có ở những nhân cách cao đẹp mới như vậy.

Kết lại truyện “Chữ người tử tù” là cảnh cho chữ – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Không chỉ vậy, nó còn là bệ phóng hoàn hảo làm nổi hình nổi bật các nhân vật và nổi bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Đặc biệt ở cảnh cho chữ, ta thấy tài năng và khí phách của Huấn Cao. Vậy là, bằng tài năng bà tâm huyết, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao, sự hiện thân cho cái đẹp kì diệu cùng hình tượng quản ngục và cảnh cho chữ. Không chỉ “Vang bóng một thời”, mà “Chữ người tử tù” sẽ neo đạu mãi trong tâm hồn người đọc như một dấu son không bao giờ phai.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 6

Nguyễn Tuân là người nghệ sĩ tài hoa suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp, cái đẹp tỏa ra từ những con người, những sự vật, sự việc tưởng chừng như hết sức bình thường. Nguyễn Tuân trong tập “Vang bóng một thời” đã khắc họa thành công những nhân vật điển hình, tài hoa như thế, tiêu biểu là nhân vật Huấn Cao trong “Chữ người tử tù”.

Trong truyện “Chữ người tử tù”, có ba nhân vật được nhắc đến đó là Huấn Cao, nhân vật viên quản ngục, thầy thơ lại, Nguyễn Tuân đã tập trung khắc họa nhân vật Huấn Cao ở ba đặc điểm, là một người nghệ sĩ tài hoa, một người có khí phách hiên ngang và một tâm hồn thiện lương. Huấn Cao là một nhân vật điển hình cho cái đẹp, được Nguyễn Tuân chú trọng xây dựng và để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Trước tiên, ta thấy Huấn Cao là một người có tài, một người nghệ sĩ không những giỏi thư pháp mà còn hiểu biết về võ thuật và có tài bẻ khóa. Tài năng của ông được giới thiệu trước khi ông xuất hiện, đã được biết đến khắp vùng với “tài viết chữ nhanh và rất đẹp”. Tài năng ấy chính là lý do khiến người quản ngục sùng kính Huấn Cao ngay từ khi chưa gặp mặt “Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông Huấn mà treo là một vật báu trên đời.

Không chỉ có tài viết chữ mà Huấn Cao còn là người kẻ sĩ dám xả thân vì nghĩa lớn. Ông là người đứng đầu đứng về phía nhân dân chống lại triều đình, ông được xem là người “chọc trời khuấy nước”, coi thường cường quyền bạo lực, dường như chẳng biết ai trên đời nữa. Trong con mắt của thầy thơ lại Huấn Cao là một người toàn tài đến nỗi thầy thơ lại phải thốt lên “văn võ toàn tài cả, chà chà”.

Toàn tài như vậy, Huấn Cao trong miêu tả của Nguyễn Tuân còn là một người có khí phách hiên ngang, ông có tài và biết trọng cái tài của mình. Được nhiều người mến mộ bởi nét chữ đẹp nhưng không phải ai Huấn Cao cũng cho chữ, ông chỉ viết chữ tặng cho những người bạn tri âm tri kỷ mà ông trân quý. Chính vì vậy mà cả cuộc đời ông chỉ có một bức hoành phi và ba bức bình phong. 

Huấn Cao luôn biết trọng cái tài, ông tự biết “chữ thì quý thật” nhưng không bao giờ “vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình bao giờ”. Bởi vậy mà đã từ lâu, có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà đã trở thành sở nguyện của viên quản ngục.

Khí phách hiên ngang của ông còn được thể hiện ở phong thái khi ông bước vào nhà giam. Là một người bị cầm tù, chịu sự cai quản của cai ngục, dưới chế độ nhà tù, nhưng thái độ của Huấn Cao rất điềm nhiên, không đếm xỉa đến ai, coi như trốn không người mà “khom mình, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh vào đầu thanh gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Bị nhốt giam trong ngục tối nhưng thái độ của ông vẫn rát thản nhiên, vẫn làm những việc như lúc bình sinh thường làm, vẫn thản nhiên nhận rượu thịt như không hề cảm thấy đó là sự đối đãi đặc biệt.

Trước cường quyền bạo lực, ông cũng không hề e sợ, khi được viên quản ngục hỏi lễ phép có cần gì nữa không thì Huấn Cao trả lời rất thản nhiên như một lời tuyên bố “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây nữa”. Phàm là người quân tử, thường có ba cái “không” là “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất nang di, uy vũ bất nang khuất” (Giàu sang không phóng đãng, nghèo hèn không dối lòng, vũ lực không khuất phục), Huấn Cao chính là người quân tử “uy vũ bất nang khuất”.

Nét đẹp tâm hồn thứ ba mà Nguyễn Tuân khắc họa ở nhân vật Huấn Cao chính là vẻ đẹp của sự thiện lương. Huấn Cao không những nhận thấy và trân trọng tài năng của mình mà còn biết trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của người khác. Tấm thiên lương trong sáng của ông có sức cứu rỗi những tâm hồn khác, mà ở trong tác phẩm đó chính là nhân vật quản ngục.

Từ khi biết được tấm chân tình của quản ngục, ông Huấn đã thay đổi hẳn thái độ, xem trọng tấm chân tình mà quản ngục dành cho mình. Trước đó, ông khinh bỉ quản ngục bao nhiêu, xem thường bao nhiêu thì sau khi nghe thầy thơ lại kể những tâm tình của quản ngục thì Huấn Cao coi như đã hiểu “sở nguyện cao đẹp” của ông: “nào ta có biết, người như thầy quản đây lại có sở nguyện cao đẹp đến thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao đã xem quản ngục như là “một tấm lòng trong thiên hạ”, từ đây hai người đã thấu hiểu nhau, trở thành những người tri kỷ.

Tất cả vẻ đẹp tâm hồn, khí phách của Huấn Cao dường như được quy tụ lại trong cảnh cho chữ. Đây là một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”, chưa từng có bởi vì người cho chữ là người tử tù mai ra pháp trường chịu án chém, người xin chữ là người quản ngục, đại diện cho tầng lớp thống trị, “chưa từng có” bởi trước ngày chịu án tử mà ở con người ấy vẫn ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách, vẫn thản nhiên tặng chữ.

Nét chữ trong tờ giấy trắng như tấm lụa bạch vuông vắn, tươi tắn, thể hiện cái ý chí “tung hoành của cả một đời người”. Cảnh cho chữ dường như đối lập hoàn toàn với khung cảnh đen tối, u ám, bẩn thỉu nơi phòng giam đầy những màng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Hình ảnh người tù “dậm tô nét chữ” trong nhà lao, đang đeo gông cùm, chân vướng xiềng xích chính là nét đẹp của người nghệ sĩ chân chính trong cảnh ngục tù. Mọi sự thăng hoa dường như đều được nén lại để quy tụ lại trong cảnh cho chữ ấy.

Vẻ đẹp tâm hồn của Huấn Cao còn thể hiện ở lời khuyên cuối cùng mà ông dành cho người quản ngục, trước tiên là phải thay chốn ở, nơi làm việc bởi ông Huấn hiểu được không gian sống có thể tác động đến nhân cách của một con người như thế nào. Ông đưa ra lời khuyên chân thành, trước khi ra pháp trường chịu án tử, ông vẫn kịp cứu rỗi một tâm hồn thiện lương nhưng phải sống trong môi trường có thể khiến con người ta thay đổi nhân tính “ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời người”, ông càng hiểu rõ “ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. 

Với nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặt nhân vật vào những tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật đối lập, miêu tả nhân vật giàu chất tạo hình, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc khắc họa nét đẹp tài hoa, khí phách, thiên lương trong sáng của người tử tù Huấn Cao. Vẻ đẹp hài hòa, tài hoa ấy sẽ còn sáng mãi trong những trang văn của Nguyễn Tuân- người tự nhận là người suốt đời đi tìm kiếm cái đẹp, cho đến mãi về sau. 

Phân tích nhân vật Huấn Cao 7

Nguyễn Tuân là một cây bút xuất sắc ở cả trước và sau Cách mạng Tháng Tám. Ông nổi tiếng tiếng với nhiều tác phẩm như: vang bóng một thời, Chùa Đàn,… cùng với một số tùy bút. Trong số đó, “Chữ người tử tù” được cho là một trong những văn phẩm đạt tới sự hoàn hảo và hoàn mĩ. Trong truyện, nhân vật Huấn Cao nổi bật với những phẩm chất tài hoa, thiên lương và khí phách anh hùng.

Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ say mê, suốt đời đi săn tìm cái đẹp. Nhân vật Huấn Cao là sản phẩm của lí tưởng thẩm mĩ ấy. Nhân vật càng được tỏa sáng và thăng hoa dưới bút pháp lí tưởng hóa của ngòi bút lãng mạn. Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn không chịu sự chi phối của hoàn cảnh, vượt lên hoàng cảnh và hướng về những điều tốt đẹp. Cũng giống như các nhân vật chính diện khác trong “Vang bóng một thời”, Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hòa với thiên lương trong sáng. Điểm đặc biệt ở nhân vật là ông còn là một bậc anh hùng lẫm liệt. Cả ba phẩm chất tài hoa, thiên lương và khí phách của Huấn cao đều mang  nét khác thường nhưng cũng là đặc điểm của chủ nghĩa lãng mạn. Nguyên mẫu của hình tượng Huấn Cao là Cao Bá Quát- một bậc danh sĩ tùng đứng lên chống lại cả triều đình. Tuy nhiên, nhân vật Huấn Cao lại mang những tính cách và tâm hồn của chính Nguyễn Tuân. Trong truyện, vẻ đẹp của Huấn Cao được thể hiện trong mối quan hệ với quản ngục và Thầy thơ lại. Cả ba nhân vật đều là điểm sáng đặc biệt trong chốn ngục tù tăm tối, trong đó Huấn Cao được tỏa sáng nhất

Ở trước và sau cách mạng, Nguyễn Tuân đều nhìn con người dưới phương diện tài hòa, nghệ sĩ. Tài hoa của Huấn Cao được thể hiện qua tài viết chữ Nho- chữ tượng hình vuông vắn trong văn tự tiếng Hán. Nét chữ không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Hơn nữa, Huấn Cao không chỉ là nhà Nho bình thường mà còn là một nhà thư pháp nổi tiếng. Đối với người xưa thì thư pháp là nghệ thuật cao cấp chỉ dành cho các vị quan chức, nho sĩ những tao nhân, những mặc khách. Thư pháp chỉ có ý nghĩa khi nó chuyên chở tài năng và nhân cách đáng trọng của người sáng tạo ra nó. Còn người thưởng thức cũng phải có vốn hiểu biết văn hóa nhất định. Vì vậy thú chơi chữ được đặt ở vị trí đầu tiên trong bốn thú chơi tao nhã thời xưa “nhất chữ nhị tranh tam sành tứ gốm”. Tài năng của Huấn Cao còn được người đời truyền tụng như một huyền thoại, “Cái người mà ở vùng tỉnh Sơn ấy có tài viết chữ rất nhanh và đẹp”, đó là lời mà mọi người dành tặng cho ông. Không chỉ thế, phe đối địch còn dành những lời ca ngợi ông “Huấn Cao không chỉ có tài viết chữ đẹp mà còn có tài bẻ khóa, vượt ngục” khiến cho vị Quản ngục nghe tiếng và ngưỡng mộ tài năng của Huấn từ rất lâu. Chính vì vậy, sở nguyện của quản ngục chính là một ngày nào đó được treo một đôi câu đối của ông Huấn Cao, và trân trọng những chữ đó như báu vật. Thật vậy, chữ ông Huấn không chỉ đẹp mà còn hiếm. Từ lúc xuất thần ngòi bút tới giờ ông chỉ cho chữ có ba người bạn thân. Nét chữ của ông không phải để đem ra mua bán đổi trác mà để dành tặng cho người biết trân trọng người tài, cái đẹp. Chính vì thể ngay từ lúc gặp ông Huấn, quản ngục đã quên mất vai trò của một nhà hành chức mà biệt đãi Huấn Cao, bất chấp mọi rủi ro có thể xảy ra nếu bại lộ. Điều đỏ chứng tỏ quản ngục coi trọng nét chữ ông Huấn hơn cả tính mạng mình. Tuy bị Huấn Cao khinh miệt, xua đuổi nhưng quản ngục vẫn tâm niệm” Không xin được chữ Huấn Cao là ân hận cả đời”. Có thể nói, tài năng của ông Huấn đặc biệt khách thường, thái độ của quản ngục làm nên cái khác thường thứ hai, đam mê cái đẹp khác thường. Cái khác thường sau nổi bật cái khác thường trước. Đó là thư pháp vẽ mây nảy trăng của hội họa phương đông. Quan việc trân trọng tài năng của Huấn Cao và sở nguyện tha thiết của quan ngục, tác giả bày tò sự trân trọng người tài, cái đẹp cũng như sự luyến tiếc với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc đàng dần mai một



Không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa, Huấn Cao còn là người anh hùng có khí phách, có lí tưởng. Người anh hùng ấy dám đứng lên đấu tranh với cả triều đình, sẵn sàng xả thân vì đại nghĩa, đã từng bẻ khóa vượt ngục vào sinh ra tử nhiều lần. Qua thái độ của phe đối địch cũng thể hiện phẩm chất anh hùng của Huấn Cao. Trước khi Huấn Cao đến, quản ngục đã sai người quét dọn buồng cho Ông Huấn với thái độ trân trọng. Trái với phong tục nhận tù hàng ngày thì hôm nay quản ngục nhìn 6 ngục tù với con mắt hiền lành. Quản ngục còn sai thêm người canh gác thêm vì vẫn còn e dè với người tử tù này. Ngoài ra hành động của Huấn Cao khi ở trại giam càng khẳng định thêm phẩm chất anh hùng ấy. Những buổi đầu mới dến, Huấn Cao đã xuất hiện ấn tượng, đứng trước sự dọa nạt của bọn lính canh, ông luôn lạnh lung và chúc mũi gông nặng trịch đó xuống nền đá khiến nó đánh thình một cái. Mấy tiếng pháp trường căn bản không làm Huấn Cao run sợ. Ông chỉ coi lũ lính canh như lũ sâu bọ. Đến cái chết còn không sợ huống hồ là lũ tiểu nhân vô lại

Sau nửa tháng ở trại giam, Huấn Cao không hề thay đổi thói quen như những ngày tự do. Đứng trước sự biệt đãi của quản ngục, ông thản nhiên nhận và coi đó là việc làm bình thường trong hứng sinh bình. Đối với ông, nhà tù chỉ thay đổi về chỗ ở chứ không làm thay đổi cái hứng trong cuộc sống, vật chất tầm thường không làm lung lay ý chí. Khi quản ngục ân cần muốn chu tất thêm thì Huấn Cao khinh bạc đáp lại là chỉ muốn quản tù đừng bao giờ đặt chân vào nơi đây nữa. Sau câu nói đó Huấn Cao bất chấp mọi thủ đoạn có thể xảy ra khi sỉ nhục tên cai ngục. điều đó càng khẳng định Huấn Cao là một bậc anh hùng dù trong thế sa cơ vẫn ung dung, đàng hoàng. Có thể nói, Nguyễn Tuân miêu tả người anh hùng không cần tới những đường kiếm hay phút so đao nảy lửa mà là người anh hùng luôn hiên ngang lẫm liệt dù vào thế sa cơ

Huấn Cao còn được đặc biệt ca ngợi bởi thiên lương trong sáng- bản tính tốt đẹp trời phú cho. Ở đây nếu tác giả chỉ khác họa tài năng và khí phách của ông Huấn thì người đọc sẽ cảm phục chứ chưa chắc yêu quý nhân vật. Điều làm người đọc ấn tượng nhất có lẽ là cái tâm trong sáng của người nghệ sĩ- anh hùng này. Trong truyện, Huấn Cao đã từng tuyên bố về lẽ sống nhân sinh đầy kiêu hãnh của mình” ta nhất sinh không vì tiền bạch hay quyền thế mà éo mình cho chữ bao giờ. Điều đó cho thấy ông rất coi trọng nét chữ của mình cũng như không bao giờ chịu cúi đầu trước tiền bạc hay quyền thế. Ngoài ra thiên lương trong sáng của Huấn cao được thể hiện qua thái độ đối với cái xấu cái ác. Lúc đầu tưởng quản ngục là tên vô lại xấu xa tàn ác, Huấn cao đã xua đuổi khinh miệt bất chấp mọi thủ đoạn có thể xảy ra. Trong những ngày ở tù, ngoài việc nghĩ đến chí lớn không thành thì Huấn Cao cũng bận tâm đến sự tươm tất của quản ngục. Điều dó thể hiện ông còn là người biest phân biệt phải trái, đúng sai, tốt xấu. Khi biết được tấm lòng của quản ngục, Huấn Cao đã rất xúc động “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của ngươi… Thiếu chút nữa ta đã phụ tấm òng trong thiên hạ” Người anh hùng ấy không sọ áp bức cường quyền nhưng lại sợ phụ một tấm lòng. Phải là người có nhân cách cao đẹp biết bao mới có nỗi sợ đẹp đẽ ấy. Như vậy bề ngoài tuy ông Huấn lạnh lùng kiêu bạc nhưng lại là người có trái tim ấm nóng, cảm đọng trước những tấm lòng. Cả đời ông dùng cái tâm để xử thế. Hành động cho chữ của Huấn Cao là hành động lấy tấm lòng để trả tâm lòng. Quan đó, tác giả bày tỏ quan niệm về nhân sinh thế kỉ XX” Đạo đức học chính là mĩ học của tương lai” Huấn Cao chính là biểu tượng của sự tiên đoán sớm ấy. Quan nhân vật, nhà văn cũng bày tỏ quan niệm “ Cái đẹp phải gắn liền với cái thiện, cái tài phải gắn liền với cái tâm”

Có thể nói, Huấn Cao là đại diện của chủ nghĩa lãng mạn, là nhân vật dược lí tưởng hóa với đủ 3 phẩm chất tài- tâm – dũng. Nhân vật này được khẳng định ca ngợi trong mối quan hệ với Thơ lại và quản ngục. Huấn Cao chính là hiện thân của cái đẹp trong đời sống văn hóa cổ truyền, của khí phách dân tộc. Với nhân vật, Nguyễn Tuân đã bộc lộ tình cảm nồng hậu và khẳng định tư tưởng “ Cái đẹp nằm ngoài quy luật của sự băng hoại, chỉ mình nó nằm ngoài cái chết”

Có thể nói, thành công trong tác phẩm “chữ người tử tù” là việc sáng tạo nên nhân vật Huấn Cao với ngòi bút lí tưởng hóa. Quan nhân vật người đọc càng thêm trân trọng người tài cái đẹp và những thấm nhuần những tư tưởng nhân sinh sâu sắc. Cảm ơn Nguyễn Tuân vì văn phẩm hoàn mĩ khiến người đọc khó có thể nào quên này.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 8

Nguyễn Tuân - một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam. Ông có những sáng tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương” và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phẩm “Chữ người tử tù”.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng Cao Bá Quát làm nguồn cảm hứng sáng tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sáng ngời và rất đỗi tài hoa.

Vẻ đẹp của Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa.

Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu , tấm lòng trong sáng của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp. Huấn Cao trước hết là một người có tài viết thư pháp. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách con người. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Tài năng của Huấn Cao còn được miêu tả qua lời người dẫn truyện và trong suy nghĩ nhân vật. Chữ của Huấn Cao “đẹp lắm, vuông lắm”, nét chữ còn thể hiện khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một vật báu ở trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng, phi thường có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.

Sự thống nhất của cái tài, cái tâm và khí phách anh hùng ở hình tượng Huấn Cao:

Huấn Cao có cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, làm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”. Nếu như Huấn Cao phục tùng bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khóa, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiến có trên đời.

Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lý của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang, kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh một cái” và “lãnh đạm” không thèm chấp sự đe dọa của tên lính áp giải. Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu gông, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dù cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục! Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời:

“Ngươi hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây ”.

Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ …”. Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Huấn Cao là người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp . Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý. Thế nhưng khi biết được nỗi lòng của viên quản ngục, Huấn những vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt rằng: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay uy quyền mà ép cho chữ bao giờ”.

Hành động cho chữ viên quản ngục chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang hàng với mình.

Cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa con người. Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.

Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi. Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi. Huấn Cao, người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xóa tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.

Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 9

Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã dành trọn đời mình để viết nên những trang văn mà ở đó có một nguồn mĩ cảm dạt dào dành cho tất thảy những gì đẹp nhất trên đời. Viết rất hay về những thú chơi đẹp, uống đẹp, nhắm đẹp, Nguyễn Tuân cũng không bỏ quên cái đẹp ngời ngời như ngọc sáng trong nhân cách con người. Có người nói sự nghiệp Nguyễn Tuân sẽ không thể toàn vẹn nếu thiếu đi “Vang bóng một thời”, và “Vang bóng một thời” cũng sẽ khiếm khuyết nếu không có sự góp mặt của thiên truyện “Chữ người tử tù”. Huấn Cao trong tác phẩm là một nhân cách sáng và đẹp mà Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên bằng cả niềm trân trọng và tài năng của mình, gửi vào đó nhân sinh quan về cái đẹp một cách sâu sắc.

Huấn Cao được nhớ đến trước hết là bởi vẻ đẹp của một tài năng siêu việt, toàn diện trên cả văn và võ. Bằng một cách rất tinh tế và rất Nguyễn Tuân, nhà văn đã không để nhân vật của mình xuất hiện trực diện mà qua cuộc trò chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại. Nhưng dẫu là nhìn qua nhãn quan của những kẻ đối nghịch, tài năng của Huấn Cao vẫn không thể bóp méo. Như người xưa nói, “văn kì thanh bất kiến kì hình”, Huấn Cao đã bước vào trang văn Nguyễn Tuân như một hình tượng tuyệt mỹ.

Cái tài của ông Huấn là tài nghệ thư pháp. Là một người “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, danh tiếng của ông Huấn đã lan ra khắp một vùng tỉnh Sơn, đến tai cả những người như quản ngục và thơ lại, khiến họ cũng phải trầm trồ và dè dặt. Quả thực, tiếng lành đồn xa, tài viết chữ của Huấn Cao vốn đã thành danh bất hư truyền. Thú chơi chữ mà Huấn Cao say mê là một trong những nhã thú thanh cao của cổ nhân, là biểu trưng cho văn hóa cổ truyền dân tộc. Những con chữ tượng hình nói lên nhân cách phẩm giá và chí khí của con người. Chính quản ngục cũng phải cảm khái: “Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm, có được chữ ông treo trong nhà là một vật báu ở đời.” Trong một xã hội mà Đông Tây bát nháo, ối a bông phèng, cái cũ thì chưa suy hẳn mà cái mới thì chưa kịp thay thế hết, Nguyễn Tuân là một nhà nho mang tâm thế bất hòa, bất mãn, bất lực với thực tại, xây dựng nhân vật với một tài năng siêu việt về thú chơi cổ truyền như một cách để nhà văn bày tỏ những tiếc nuối về một quá khứ vàng son đã qua nay chỉ còn vang bóng.

Khi Huấn Cao diện kiến trực tiếp với bạn đọc, thì người quân tử ấy còn được biết đến như một trang anh hùng nghĩa liệt với khí phách hiên ngang. Vốn là một người song toàn văn võ, bên cạnh tài thư pháp còn có tài “bẻ khóa và vượt ngục”, Huấn Cao là cái tên khiến những người trong ngục tù phải dè chừng. Trong mắt triều thần, ông là một người cầm đầu bọn phản nghịch, nhưng thực chất đó là một anh hùng đứng lên vì chính nghĩa, dám chống lại triều đình vì bảo vệ lẽ phải. Ông là hiện thân của một con người kinh bang tế thế, anh hùng cái thế.

Khi được đặt vào hoàn cảnh lao tù, hình ảnh Huấn Cao càng nổi bật lên với những vẻ đẹp khí phách hiên ngang lẫm liệt. Thản nhiên bước vào nhà lao, hành động đầu tiên của Huấn Cao là dỗ gông, không mảy may đếm xỉa đến vương quyền trên đầu: “Huấn Cao khom mình, chúc mũi gông nặng, thúc mạnh vào đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Đó là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.

Những ngày bị giam chân nơi chốn ngục tù, Huấn Cao không một chút khiếp sợ. Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt như việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Câu nói của Huấn Cao với quản ngục cũng thể hiện một khí phách ngang tàng trước cường quyền bạo lực: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng bao giờ đặt chân vào đây.” Lời tuyên bố dõng dạc đủ để thấy Huấn Cao đã bỏ ngoài hết thảy những sợ hãi và lo âu, không để tâm người mình đang đối đầu là kẻ đang nắm quyền, đang nắm giữ sự sống. Trong con người của kẻ tử tù ấy thể hiện đúng tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Uy quyền trên đầu không thể ràng ép, bạo lực chực chờ không thể đánh gục. Dẫu ngày mai là ngày bị giải ra pháp trường và đón nhận lấy cái chết thì khí chất người anh hùng vẫn thế, luôn vững vàng.

Sáng lên hơn cả trong nhân cách người tử tù là một thiên lương trong sáng, vững lành, có sức mạnh cứu rỗi những tâm hồn đang dần bị bôi đen. Đó là nhân cách của bậc đại trí, đại dũng, không bao giờ bị lung chuyển trước uy quyền phi nghĩa và đồng tiền phàm tục: “Ta nhất sinh không vì vàng bạc hay quyền quý mà ép mình phải viết chữ bao giờ”. Một con người ý thức sâu sắc được thiên chức và phẩm giá của nghệ thuật. Một con người không bao giờ thị tài.

Đáng quý hơn, Huấn Cao không chỉ trọng thiên lương của mình mà còn trọng thiên lương của kẻ khác. Điều này được thể hiện trong cách ứng xử chân tình mà ông dành cho quản ngục. Khi chưa hiểu được tấm lòng quản ngục, ông khinh bỉ đến điều, coi thường y như coi thường một kẻ cầm tay đao suốt đời chỉ sống trong nhơ bẩn, sống vì phi nghĩa. Còn khi đã hiểu ra cái “sở nguyện cao đẹp” của y, ông hết sức cảm mến và trân trọng: “Nào ta có biết, người như thầy quản đây lại có sở nguyện cao đẹp như thế. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.” Cũng chính sự thấu hiểu này đã đưa hai con người từ đối đầu thành tri âm tri kỉ.

Nhưng có lẽ tài năng khí phách và nhân cách cao đẹp của ông Huấn thể hiện rõ nhất, tập trung nhất, hài hòa nhất ở cảnh cho chữ – cảnh mà Nguyễn Tuân gọi là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Đêm đã khuya, chỉ sáng mai thôi là người tử tù phải vào gánh chịu án chém, nhưng ông Huấn vẫn trút hết tài năng sáng tạo vào ngòi bút và viết ra những con chữ vuông tươi tắn nói lên cái “chí khí tung hoành của đời một con người”. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm, màu trắng của tấm lụa bạch như xua tan đi bóng tối ngục thất đầy màng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Ánh sáng đỏ rực của bó đuốc hay ánh sáng thiên lương làm cho hình ảnh tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ, uy nghi. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng, cái chết kề bên, ông Huấn vẫn “dậm tô nét chữ” trong tư thế của người nghệ sĩ chân chính đang làm chủ lao tù. Sự thăng hoa của tài năng và bản lĩnh phi thường của ý chí đã đồng hiện và sáng lên trong cảnh cho chữ ấy.

Huấn Cao còn hiện lên thật đẹp ở khoảnh khắc ấy trong vai trò của người hướng thiện, hướng đạo cho kẻ mê muội. Lời khuyên chân thành dành cho kẻ tri âm đã làm sáng lên vẻ đẹp ấy: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý, làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: – Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.

Vẫn cái chất Nguyễn Tuân ở đó, uyên bác và tài hoa, trong cả tư tưởng và cách biểu hiện. Nhà văn đã thật thành công khi xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 10

Nguyễn Tuân, một nhà văn nổi tiếng của làng văn học Việt Nam; có những sang tác xoay quanh những nhân vật lí tưởng về tài năng xuất chúng, về cái đẹp tinh thần như “chiếc ấm đất”, “chén trà sương”… và một lần nữa, chúng ta lại bắt gặp chân dung tài hoa trong thiên hạ, đó là Huấn Cao trong tác phầm Chữ người tử tù”.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã lấy nguyên mẫu hình tượng của Cao Bá Quát vớI văn chương “vô tiền Hán”, còn nhân cách thì “một đời chỉ cúi đầu trước hoa mai” làm nguồn cảm hứng sang tạo nhân vật Huấn Cao. Họ Cao là một lãnh tụ nông dân chống triều Nguyễn năm 1854. Huấn Cao được lấy từ hình tượng này với tài năng, nhân cách sang ngời và rất đỗI tài hoa.

Huấn Cao là một con người đại diện cho cái đẹp, từ cái tài viết chữ của một nho sĩ đến cái cốt cách ngạo nghễ phi thường của một bậc trượng phu đến tấm long trong sang của một người biết quý trọng cái tài, cái đẹp.

Huấn Cao với tư cách là người nho sĩ viết chữ đẹp thể hiện ở cái tài viết chữ. Chữ viết không chỉ là kí hiệu ngôn ngữ mà còn thể hiện tính cách của con người. Chữ của Huấn Cao “vuông lắm” cho thấy ông có khí phách hiên ngang, tung hoành bốn bể. Cái tài viết chữ của ông được thể hiện qua đoạn đối thoại giữa viên quản ngục và thầy thơ lại. Chữ Huấn Cao đẹp và quý đến nỗi viên quản ngục ao ước suốt đời. Viên quản ngục đến “mất ăn mất ngủ”; không nề hà tính mạng của mình để có được chữ của Huấn Cao, “một báu vật trên đời”. Chữ là vật báu trên đời thì chắc chắn là chủ nhân của nó phải là một người tài năng xuất chúng có một không hai, là kết tinh mọi tinh hoa, khí thiêng của trời đất hun đúc lại mà thành. Chữ của Huấn Cao đẹp đến như vậy thì nhân cách của Huấn Cao cũng chẳng kém gì. Ông là con người tài tâm vẹn toàn.

Huấn Cao trong cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Ông theo học đạo nho thì đáng lẽ phải thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng ông đã không trung quân mà còn chống lại triều đình để giờ đây khép vào tội “đại nghịch”, chịu án tử hình. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo thối nát. Huấn Cao rất căm ghét bọn thống trị và thấu hiểu nỗi thống khổ của người dân “thấp cổ bé họng”.

Nếu như Huấn Cao phục tùng cho bọn phong kiến kia thì ông sẽ được hưởng vinh hoa phú quý. Nhưng không, ông Huấn đã lựa chọn con đường khác : con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Cuộc đấu tranh không thành công ông bị bọn chúng bắt. Giờ đây phải sống trong cảnh ngục tối chờ ngày xử chém. Trước khi bị bắt vào ngục, viên quản ngục đã nghe tiếng đồn Huấn Cao rất giỏi võ, ông có tài “bẻ khoá, vượt ngục” chứng tỏ Huấn Cao là một người văn võ toàn tài, quả là một con người hiếm có trên đời.

Tác giả miêu tả sâu sắc trạng thái tâm lí của Huấn Cao trong những ngày chờ thi hành án. Trong lúc này đây, khi mà người anh hùng “sa cơ lỡ vận” nhưng Huấn Cao vẫn giữ được khí phách hiên ngang,kiên cường. Tuy bị giam cầm về thể xác nhưng ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do bằng hành động “dỡ cái gông nặng tám tạ xuống nền đá tảng đánh thuỵch một cái” và “lãnh đạm” khong thèm chấp sự đe doạ của tên lính áp giải.

Dưới mắt ông, bọn kia chỉ là “một lũ tiểu nhân thị oai”. Cho nên, mặc dù chịu sự giam giữ của bọn chúng nhưng ông vẫn tỏ ra “khinh bạc”. Ông đứng đầu goong, ông vẫn mang hình dáng của một vị chủ soái, một vị lãnh đạo. Người anh hùng ấy dùng cho thất thế nhưng vẫn giữ được thế lực, uy quyền của mình. Thật đáng khâm phục!

Mặc dù ở trong tù, ông vẫn thản nhiên “ăn thịt, uống rượu như một việc vẫn làm trong hứng bình sinh”. Huấn Cao hoàn toàn tự do về tinh thần. Khi viên cai ngục hỏi Huấn Cao cần gì thì ông trả lời: “Người hỏi ta cần gì à? Ta chỉ muốn một điều là ngươi đừng bước chân vào đây nữa thôi”.

Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là…” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội.

“Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý.

Thế nhưng khi biết được nỗi lòng viên quản ngục, Húan Cao không nhữg vui vẻ nhận lời cho chữ mà còn thốt ra rằng :
“Ta cảm tấm lòng biệt nhãn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.

Huấn Cao cho chữ là một việc rất hiếm bởi vì “tính ông vốn khoảnh. Ta không vì vàng bạc hay quyền uy mà ép cho chữ bao giờ”.

Hành động cho chữ viên quản ngụ chứng tỏ Huấn Cao là một con người biết quý trọng cái tài, cái đẹp, biết nâng niu những kẻ tầm thường lên ngang tàng với mình.

Quay cảnh “cho chữ” diễn ra thật lạ, quả là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Kẻ tử từ “cổ đeo gông, chân vướng xích” đang “đậm tô từng nét chữ trên vuông lụa bạch trắng tinh” với tư thế ung dung tự tại, Huấn Cao đang dồn hết tinh hoa vào từng nét chữ. Đó là những nét chữ cuối cùng của con người tài hoa ấy. Những nét chữ chứa chan tấm lòng của Huấn Cao và thấm đẫm nước mắt thương cảm của người đọc. Con người tài hoa vô tội kia chỉ mới cho chữ ba lần trong đời đã vội vã ra đi, để lại biết bao tiếc nuối cho người đọc. Qua đó, tác giả Nguyễn Tuân cũng gián tiếp lên án xã hội đương thời đã vùi dập tài hoa của con người.

Và người tù kia bỗng trở nên có quyền uy trước những người đang chịu trách nhiệm giam giữ mình. Ông Huấn đã khuyên viên quản ngục như một người ca khuyên bảo con:
“Tôi bảo thực thầy quản nên về quê ở đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ được thiên lương cho lành lắm rồi cũng có ngày nhem nhuốc mất cái đời lương thiện”.

Theo Huấn Cao, cái đẹp không thể nào ở chung với cái xấu được. Con người chỉ thưởng thức cái đẹp khi có bản chất trong sáng, nhân cách cao thượng mà thôi.

Những nét chữ cuối cùng đã cho rồi, những lời nói cuối cùng đã nói rồi’ Huấn Cao , người anh hùng tài hoa kia dù đã ra đi mãi mãi nhưng để lại ấn tượng sâu sắc cho những ai đã thấy, đã nghe, đã từng được thưởng thức nét chữ của ông. Sống trên cõi đời này, Huấn Cao đã đứng lên đấu tranh vì lẽ phải; đã xoá tan bóng tối hắc ám của cuộc đời này. Chính vì vậy, hình tượng Huấn Cao đã trở nên bất tử. Huấn Cao sẽ không chết mà bước sang một cõi khác để xua tan bóng tối nơi đó, đem lại hạnh phúc cho mọi người ở mọi nơi.

Ở Huấn Cao ánh lên vẻ đẹp của cái “tài” và cái “tâm”. Trong cái “tài” có cái “tâm” và cái “tâm” ở đây chính là nhân cách cao thượng sáng ngời của một con người tài hoa. Cái đẹp luôn song song “tâm” và “tài” thì cái đẹp đó mới trở nên có ý nghĩa thực sự. Xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng nên chân dung nghệ thuật điển hình lí tưởng trong văn học thẩm mĩ. Dù cho Huấn Cao đã đi đến cõi nào chăng nữa thì ông vẫn sẽ mãi trong lòng người đọc thế hệ hôm nay và mai sau.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 11

Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn… sau cách mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà… Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập Vang bóng một thời. Nổi bật trong tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng người anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí phách anh hùng lẫm liệt khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.

Là nhà văn “duy mỹ”, suốt đời đi tìm cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thổi hồn vào những trang viết mang đến cho người đọc bao hình tượng đẹp. Tập truyện Vang bóng một thời có lẽ là nơi hội tụ những nét đẹp cao quý: thú uống trà đạo, thú chơi thư pháp, thả thơ, đánh thơ…Gắn liền với những thú chơi tao nhã ấy là những con người tài hoa bất đắc chí. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân trích trong tập truyện ấy và Huấn Cao là nhân vật được ông miêu tả đặc sắc nhất. Đó là anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.

Sinh thời Cao Bá Quát có hai câu thơ sáng ngời nghĩa khí:

Thập cổ luân giao cầu cổ kiếm

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa

(Mười năm lặn lội tìm gươm báu

Chỉ biết cúi đầu trước cành hoa mai) 

Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời trò chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà còn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ông Huấn. Tuy nhiên, đây không phải là trò của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của một người anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp bức, muốn bứt phá gông cùm xiềng xích để thoát khỏi vòng nô lệ.

Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường thể hiện lòng trung quân một cách mù quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than muôn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính ông lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngoài vòng cương tỏa, lững lẫy chẳng khác gì 108 vị anh hùng Lương Sơn Bạc ở Trung Hoa năm xưa. Tuy chí lớn của ông không thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời. 

Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ tù càng làm cho ông thêm phần ngang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gông, phủi rệp, hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn.

Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngoài). Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ông lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là chốn ngục tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.

Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô "ta – ngươi", miệt thị hạ nhục“Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng còn chẳng sợ nữa là…” Ông không thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình trong xã hội, ông biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, không hề có một chút trầy xước nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương”, bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng quý.Có lẽ chính vì vậy mà khi nghe tin xử trảm: ông vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất chấp cái chết, coi thường cái chết. 

Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của con người tài hoa. Ông có tài viết chữ đẹp. Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý (Thư pháp). Chơi chữ đẹp là một thú chơi thanh tao. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hoá một thời. "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng "có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Tuy nhiên, ông lại là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lòng tự trọng: “ Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình nhưng lại không thể nào có được chữ ông Huấn. Quản ngục và Huấn Cao là hai con người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù, nắm giữ pháp luật; Huấn Cao là kẻ tử tù. Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái đẹp lại là người bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình huống truyện là ở chỗ ấy, cả hai kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này. 

Lúc hiểu được tấm lòng viên quản ngục: Ông Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười”, ngạc nhiên “ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài… thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Lời nói rất chân tình, xúc động. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất có nghĩa khí. Không thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.

Hai con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của mình dồn tụ lại trong một không khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao:VIẾT THƯ PHÁP. 

Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho chữ bi tráng chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và thiên lương trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm; tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián. “Ở đây sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ không như ánh sáng leo lét, buồn rầu của ngọn đèn con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đoàn tàu rồi lại chìm vào hư không của bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sâu xa hơn thì ánh sáng đó không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự lương tri, của nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự chiến thắng đó là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng. Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài, nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện… Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người thiên lương” (Lưu Thế Quyền)

Viết thư pháp là nơi thư phòng thư sảnh sạch sẽ thoáng mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay nồng. Nhưng khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ: “một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Sự nhem nhuốc, phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi mùi ô uế. Nhưng sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ đeo gông chân vướng xiềng” nhưng ông Huấn vẫn tung hoành ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vuông lụa trắng. Đó là thái độ uy nghi, đường hoàng, một thái độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ”mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hoàng làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông như rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí phách đã hợp nhất thành Huấn Cao. Dũng và Mỹ hợp thể làm nên bức tranh cho chữ sáng ngời. Kỳ lạ thay, trong cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị sụp đổ. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó không còn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó chỉ còn những con người yêu quý và biết thưởng thức cái đẹp. Cái xấu xa, cái ác, cái chết chóc nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử”. 

Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của con người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: – Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện, cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhòa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.

Thành công của Chữ người tử tù là ở cách tạo tình huống truyện độc đáo. Hai kẻ lúc đầu là đối lập, sau lại thống nhất hài hòa, cùng tỏa sáng hào quang. Nghệ thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời thoại và độc thoại, khắc họa tính cách nhân vật đặc sắc. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường, tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm uyên bác về lịch sử, về xã hội. Đúng như lời Vũ Ngọc Phan đã nói: "… văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức".

Phân tích nhân vật Huấn Cao 12

Hình tượng nhân vật Huấn Cao được hiện lên qua sự miêu tả của tác giả là người có tài, có tâm và có khí phách phi thường. Là anh hùng trong thời loạn lạc, muốn thực hiện chí lớn để giúp dân giúp nước nhưng Huấn Cao đã bị bắt, sắp phải chịu án tử nhưng người chiến sĩ dũng cảm ấy vẫn thể hiện một ý chí sôi sục, một tinh thần quả cảm khiến người đọc phải trầm trồ thán phục.

Rất nhiều người đã đánh giá rằng Huấn Cao là nhân vật đẹp nhất của đời văn Nguyễn Tuân. Bởi bằng ngòi bút của Nguyễn Tuân, Huấn Cao hiện lên là một đấng tài hoa nghệ sĩ, một bậc anh hùng nghĩa khí và một con người ngời sáng thiên lương. 

Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút sắc sảo nhưng hết sức chân thật để miêu tả cái tìa của Huấn Cao. Trong truyện, nhà văn tô đậm cái tài viết chữ đẹp của ông Huấn. Như ta đã từng biết: chữ Hán là một chữ hội ý, hội hình, nét chữ đẹp, nghĩa chữ sâu. Cho nên viết chữ đẹp là một bộ môn nghệ thuật có từ cổ xưa và rất cao siêu (gọi là thư pháp). Tài năng hội họa thì nhiều, nhưng họa sĩ có tài thư pháp thì rất hiếm hoi. Chữ trong những tác phẩm thư pháp không phải là sản phẩm của sự khéo tay, quen việc, thạo nghề của môt người thợ. Trái lại, mỗi lần đặt bút đối với nhà thư pháp là một lần sáng tạo. Mỗi nét bút là sự tập trung cao độ, kết tụ tinh hoa và tinh huyết của người nghệ sĩ. Mỗi nét chữ đều là sự hiện hình của những khát khao thầm kín mà lãnh liệt chất chứa trong thẳm sâu tâm hồn, trong nhân cách của người viết. Chữ Huấn Cao là nhân cách cao khiết phi thường của Huấn Cao. Nó quý giá không chị vì được "viết rất nhanh và rất đẹp", không chỉ vì "đẹp lắm, vuông lắm" mà quan trọng hơn là những nét vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người. Hiểu như thế ta mới thấy được tại sao Nguyễn Tuân lại để cho viên quản ngục khao khát "có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời". Chữ của Huấn Cao đã trở thành mơ ước suốt cả cuộc đời quản ngục. Và để đạt được ước mơ ấy quản ngục đã dám coi thường cả quyền lợi của một viên quản ngục và cả sự an nguy đến sinh mệnh mình.

Ngoài tài năng hiếm có, Huấn Cao còn là một con người có ý chí kiên cường bất khuất. Trong thời buổi loạn lạc, Huấn Cao đã cầm gươm chống lại triều đình, để cứu dân cứu nước. Mặc dù chỉ lớn không thành nhưng ông vẫn giữ được tư thế đường hoàng, oai phong, lẫm liệt. Là một tử tù đợi ngày ra pháp trường nhưng Huấn Cao vẫn hoàn toàn tự do về tinh thần. Ông làm những gì mình muốn và không làm bất cứ việc gì mà mình không thích. Trước mặt ngục quan và đám lính giữ tù bắng nhắng, Huấn Cao lạnh lùng cùng sáu bạn đồng chí "khom mình thúc mạnh đầu thanh gông xuống nền đá tảng đánh thình một cái" để đuổi rệp, cũng là để khẳng định cái oai phong của mình. Quản ngục vào buồng giam "khép nép hỏi ông Huấn: ngài có cần gì thêm nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất". Ông trả lời: "Người hỏi ta muốn? Tả chỉ muốn có một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Đúng là Huấn Cao đã "cố ý làm ra kinh  ngạc đến điều". Thật ngang tàng và kiêu dũng. Rồi nữa, trong cảnh ngộ "một ngày tù nghìn thu ở ngoài", thế mà "Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhân rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm". Đặc biệt, khi thấu hiểu quản ngục là "một tấm lòng trong thiên hạ", Huấn Cao đã bằng lòng cho chữ trong tư thế "một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván". Không có một ý chí ngang thép thì không thể có được cái phong thái ung dung nghệ sĩ trong cảnh cho chữ này. Thế đó, xích xiềng, cường quền và bảo lực không thể làm cho Huấn Cao nao núng tinh thần. Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, hình tượng Huấn Cao là hiện thân sinh động của một đại trượng phu với phương châm sống: "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" (phú quý không thể cám dỗ, nghèo khó không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất phục).

Là người có tài và muốn đem tài năng ấy để giúp ích cho dân, cho nước, nhưng ông Huấn đã thất bại, phải biệt giam chờ ngày xử tội, nhưng Huấn Cao vẫn ung dung tự tại, sẵn sàng đón nhận cái chết đến với mình một cách bình thản. Tuy sống trong nhà tù tối tăm của chế độ phong kiến bẩn thỉu, nhưng ông vẫn được thiên lương trong sáng của mình. Cả một đời, Huấn Cao luôn có ý thức giữ gìn bản tính tốt của con người do trời phú cho. Tiền tài, danh vọng và cường quyền không thể làm cho lương tâm của ông thay đổi. Ông Huấn ngẩng đầu kiêu hãnh trước điều này: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Tôn thờ chữ "tâm", sống một đời thanh sạch, cho nên ông Huấn thực sự cảm kích trước những người "sống giữa một đống cặn bã" mà còn giữ được "thiên lương". Khi biết quản ngục là một người "có sở thích cao quý" và có "tấm lòng biệt nhỡn liên tài", ông đã ân hận chân thành: "Thiếu chút nữa, ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ". Và người anh hùng "chọc trời quấy nước", khí phách ngang tàng, giờ đây chí lớn không thành, ngày đếm bị gông xiềng trong ngục tối để chờ ngày bị đem ra pháp trường chặt đầu nhưng tư thế ung dung, hiên ngang bất khuất đó, đã để cái đêm cuối cùng dành những "dòng chữ cuối cùng" của đời mình cho viên quản ngục nọ. Đó không phải là sự dâng nộp báu vật của một người nghệ sĩ đối với kẻ liên tài, người tri kỉ; là sự đáp lại của một tấm lòng trước một tấm lòng... Danh sĩ Cao Bá Quát là nguyên mẫu lịch sử để Nguyễn Tuân xây dựng nhân vật Huấn Cao. Ông Huấn Cao không cúi đầu bái lạy quản ngục vì quản ngục hứa phải là hiện thân của nhân cách cao khiết tuyệt vời; nhưng ông vẫn nâng niu trân trọng chút "thiên lương", "một tấm lòng" ở con người phải sống trong cái ác, cái xấu nhưng vẫn hướng về cái thiện, cái đẹp đó. Cảm kích trước tấm lòng của quản ngục, ông Huấn không chỉ bằng lòng cho chữ mà còn "đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo": "...Tôi bảo thực đấy, thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi". Có thể coi đây là lời cuối cùng của Huấn Cao trước khi ông đi vào cõi vĩnh hằng. Nó giống như, trong đời thường trước lúc lâm chung, có người ông căn dặn các cháu, người cha dặn dò các con: sống ở đời phải biết theo cái "đói cho sạch rách cho thơm". Như vậy là, ở đâu vào lúc nào, đối với mình cùng như đối với người, Huấn Cao luôn luôn tâm niệm về cái điều cốt lõi trong đạo làm người: hãy biết "giữ thiên lương cho lành vững".

Hình tượng Huấn Cao thật phi thường, con người ấy với tài năng, khí phách và thiên lương đã chiến thắng tất cả, dẹp bỏ tất cả để một mình mình ung dung tự tại tận hưởng cuộc sống tươi đẹp mà mình tự tạo ra.

Mượn hình ảnh nhân vật lịch sử có thật là Cao Bá Quát, Nguyễn Tuân đã xây dựng lên Huấn Cao với sự hội tụ của hai nhân cách, nhân cách Cao Bá Quát và nhân cách Nguyễn Tuân mang đầy đủ những phẩm chất mà Nguyễn Tuân cho rằng cần phải có ở một con người chân chính. Khi ca ngợi nét tài hoa nghệ sĩ ở nhân vật yêu quý của mình, nhà văn như muốn nói: con người lí tưởng trước hết phải là con người có tài, có tầm cao văn hóa và biết làm đẹp cho đời bằng cái tài đó của mình. Thật tự nhiên, tài phải đi song với bản lĩnh, khí phách, với ý thức giữ gìn bản ngã, thậm chí khi cần kẻ có tài phải biết chống lại môi trường phi nhân tính vốn thù địch với tài năng. Nhưng con người chỉ có tài, có khí phách vẫn là chưa đủ, mà phải có tâm nữa. Tuy Nguyễn Tuân không khẳng định như thiên tài Nguyễn Du: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài", nhưng qua sự vận động của hình tượng Huấn Cao ta vẫn thấy nhà văn rất coi trọng chữ tâm, coi trọng"thiên lương". Với Nguyễn Tuân, cái tâm vẫn là gốc rễ của nhân cách, là điểm xuất phát cũng là nơi đi đến của tài năng và khí phách.

Thật là một nhân vật tài năng, phi thường, thật là một nhà văn tài năng, hai sự tai năng đó đã tạo nên một tác phẩm, một nhân vật đáng trân trọng trong làng văn học Việt Nam. Hình tượng Huấn Cao thật đẹp, thật đáng trân trọng, là biểu tượng của những con người anh hùng, khí phách của dân tộc Việt.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 13

Nguyễn Tuân là một trong những tác giả có đóng góp lớn nhất đối với sự phát triển của nền văn học Việt Nam thế kỉ 20. Có thể nói, Nguyễn Tuân đã khám phá ra một vẻ đẹp có sức quyến rũ mạnh mẽ của tiếng Việt vốn tiềm ẩn trong đời sống thường ngày. Ông lại có cái thú tiềm kiếm vẻ đẹp xưa cũ và khoát lên cho nó bộ áo mới, có sức mạnh làm lay động lòng người. Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc thể hiện rõ phong cách ấy của ông. Nhân vật Huấn Cao là một thành công rực rỡ của Nguyễn Tuân

Người đọc Việt Nam không lạ gì với tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Bởi nó quá đẹp, quá xuất sắc. Một tác phẩm được trau chuốt bởi tình yêu cái đẹp, tình yêu sự sống và sự cảm phục trước tấm lòng cao cả của con người, Chữ người tử tù đứng giữa nền văn học thế kỉ 20 như một tuyệt phẩm quyến rũ đến ngất ngây. Vũ Ngọc Phan nhận xét đó là “một văn phẩm đạt gần tới sự toàn thiện, toàn mĩ”.

Tác phẩm lựa chọn một bối cảnh chứa đựng nhiều xung đột dữ dội. Đó là thời đại của các nhà Nho cuối mùa. Họ vốn tài hoa nhưng không gặp thời. Giữa buổi Tây – Tàu nhố nhăng, đạo học bị phỉ báng, lễ nghi xuống cấp, những con người này, mặc dù buông xuôi bất lực nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với xã hội đương thời. Dù đã thấy rõ sự vận động tất yếu của thời đại nhưng ở họ vẫn khát khao gìn giữ những giá trị tốt đẹp.

Họ không chạy theo vòng danh lợi mà vẫn cố giữ “thiên lương” và sự trong sạch của tâm hồn. Sự xung đột dữ dội giữa cái mới và cái cũ, giữa cái thanh cao và cái phàm tục, giữa cái bất biến và cái thường biến đã đẩy họ vào tình thế sống còn, gây cấn. Họ dùng hết sức lực cuối cùng để chống lại, quyết không khuất phục.

Trong số những con người tài hoa ấy, nổi bật lên hình tượng ông Huấn Cao trong Chữ người tử tù. Huấn Cao là một con người tài hoa, xuất chúng. Không chỉ có tài mà, ông còn có cái tâm trong sáng. Mặc dù chí lớn không thành những tư thế vẫn hiên ngang, bất khuất.

Huấn Cao là một nhân vật rất thành công của Nguyễn Tuân. Có lẽ, trong các nhân vật trong trang văn của Nguyễn tuân, Huấn Cao là nhân vật được ông để tâm nhiều nhất. Một mặt, khí phách của Huấn Cao có nhiểu tương đồng với ông: tài hoa và ngạo mạn. Mặt khác, tính cách của Huấn Cao cũng là niềm khát khao mà ông mong có được.

Nguyễn Tuân đã cho nhân vật Huấn Cao xuất hiện có trình tự. Trước hết, Huấn Cao sơ lược hiện ra qua lời bàn luận của viên quản ngục và thầy thơ lại. Cuộc trò chuyện làm rộ rõ danh tính và tính cách lẫn tài năng của Huấn Cao. Sự xuất hiện của Huấn Cao được báo trước và đón nhận một cách long trọng, nghiêm ngặt. Nó giống như là sự xuất hiện đặc biệt của một nhân vật anh hùng. Một con người vừa có uy quyền lẫm liệt vừa có sức đe dọa ghê gớm đối với cương pháp nhà tù.

Từ cuộc trò chuyện của viên quản ngục và thầy thơ lại, tính cách của Huấn Cao cũng được hiện rõ. Trước hết, Huấn Cao là một con người tài hoa xuất chúng. Ông nổi tiếng khắp thiên hạ là người viết chữ đẹp. Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm. Ông lại có tài “viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Cái đẹp của chữ thánh hiền dưới bàn tay tài hoa của ông trở thành một nghệ thuật trác việt. Có được chữ Huấn Cao mà treo là có một báu vật trên đời.

Tài năng ấy được viên quản ngục thấu cảm một cách sâu sắc, vừa trân trọng vừa hối tiếc. Trân trọng bởi đó làm một người hiếm có ở trên đời. Hối hận vì, ngôi sao ấy sắp phải ra đi. Tình yêu cái đẹp khiến cho viên quản ngục cảm thấy đau lòng. Trong khi, chính ông lại đang có trong tay Huấn Cao. Bằng quyền lực, ông có thể cưỡng ép Huấn Cao cho chữ, cách mà nhiều kẻ hèn kém khác đã làm. Nhưng viên quản ngục cũng nhìn rõ Huấn Cao không phải là người có thể dùng quyền lực hay nhục hình mà khuất phục được.

Không chỉ tài hoa, Huấn Cao còn là người có võ nghệ cao cường. Ông có thể bẻ khóa vượt ngục một cách dễ dàng. Nhà tù đối với ông là nơi ra vào dễ như đến chỗ không người. Đó thực sự là một nỗi lo lắng của viên quản ngục khi nhận được lệnh tiếp quản Huấn Cao.

Hội tụ đủ tài năng, Huấn cao lại còn là người khí phách hiên ngang, luôn biết giữ đạo nghĩa, khí tiết, không khuất phục trước uy quyền bạo lực. Bởi bất mãn với triều đình phong kiến thối nát mà chiêu binh khởi nghĩa. Tuy thất bại, trở thành tử tù nhưng rất ung dung, bình thản. Đối với Huấn Cao, cái chết nhẹ như lông hồng. Người anh hùng vì đại nghĩa chỉ sợ sự nghiệp không thành, nào màng đến bản thân sống chết. Nhà tù phong kiến và chiếc gông tàn bạo kia có thể giam cầm được thân thể Huấn Cao nhưng không thể nào giam giữ nổi cái chí lớn của ông. Bởi thế, mỗi bước chân của Huấn Cao đều toát lên niềm kiêu hãnh khiến cho mọi cái nhìn đều phải khiếp sợ.

Hành động rỗ gông trước lời dọa và giễu cợt của tên lính toát lên khí phách phi thường ấy. Huấn Cao lạnh lùng chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thanh gông xuống thềm đá tảng đáng thuỳnh một cái.  Một đống rệp ào ào rơi xuống xanh cả nền đất. Đó cũng là lời cảnh báo đối với cái thế lực xấu xa đang đẩy ông vào chỗ khốn cùng, tận tuyệt. Nó cảnh tỉnh những kẻ đang thực thi luật pháp rằng chúng có thể giết chết ông nhưng không thể xúc phạm ông.

Đến thái độ đầy cao ngạo, khi trả lời quản ngục, người đại diện cho chính quyền phong kiến, cũng hết sức khinh bạc: “Ngươi hỏi ta muốn gì ? Ta chỉ muốn một điều là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Huấn Cao không chấp nhận bất cứ một lòng thương hèn yếu nào. Ông không cần lòng thương hại của người khác. Ông không cần nhận lấy một ân huệ bỉ ổi nào. Ông khinh thị tất cả. Trong bước đường cùng này, ông dũng cảm bước đến cái chết với tư thé lẫm liệt, uy nghi. Ông không muốn để cám dỗ đời thường làm mất đi cái cao cả của bậc anh hùng đầu đội trời, chân đạp đất. Đến cái cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là cái trò tiểu nhân oái thị này.

Huấn Cao ung dung, bình thản đón nhận, chờ đợi cái chết. Ông thản nhiên nhận rượu thịt, coi đó như việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh lúc chưa bị giam cầm. Rượu để làm tâm hồn thêm say men khí tiết. Cơm để an lòng, đủ sức mà lẫm liệt đi vào vĩnh hằng thiên thu. Mọi sự dơ bẩn của nhà tù và cuộc đời giờ đây đối với Huấn Cao như phù du cõi người. Sự đời nhân gian như gió thổi mây bay, đến rồi đi, không lưu luyến gì. Ông đã thực sự rũ bỏ lòng mình, rũ bỏ cái tầm thường, chỉ giữ lại cái tinh túy của linh hồn và bước tới.

Vượt lên trên tất cả, Huấn Cao là người có thiên lương trong sáng, nhân cách cao đẹp. Ông không tham quyền hám lợi mà bán rẻ giá trị của bản thân mình. Ông không vì vàng ngọc hay quyền thế mà bắt mình phải viết câu đối bao giờ. Đó là cái mà viên quản ngục và thầy thơ lại cảm nhận được. Ông thực sự có tài. Ông có thể dùng nó để mưu lợi hoặc giải thoát mình.

Nhưng không. Huấn Cao sẽ không bao giờ làm thế. Bởi ông là người trọng nghĩa khí. Ông không muốn lợi dụng tấm lòng ân sủng của viên quản ngục đối với ông mà làm điều bất nghĩa ấy. Vốn khinh bạc nhưng khi biết phẩm chất tốt đẹp và sở thích cao quý của quản ngục, Huấn Cao rất trân trọng. Huấn Cao cảm được cái tấm lòng “biệt nhỡ nhân tài” của viên quản ngục. Vì thế, ông đã sẵn sàng cho chữ. Không những thế, ông còn tỏ bày lòng mình: “thiếu chút nữa phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Đó là lời cảm khái vừa thể hiện cái khí phách của Huấn Cao vừa tôn vinh phẩm chất cao quý của viên quản ngục.

Không chỉ giữ gìn, quý trọng thiên lương của mình, Huấn Cao còn chân thành khuyến thiện con người. Không chỉ cho chữ, Huấn Cao còn cho quản ngục những lời khuyên hết sức chân thành và ý nghĩa. Huấn Cao khuyên quản ngục thoát khỏi cái nghề đao thương bất luận này đã rồi mới nghĩ đến việc chơi chữ. Chốn ngục tù tăm tối, luật pháp bất minh thé này khó mà giữ được thiên lương.

Lời khuyên ấy cũng là lời ông muốn gửi đến cuộc đời đó thôi. Đôi khi giữa đời và đạo có nhiều điểm không tương khớp với nhau. Thôi thì chọn lấy một hướng đi tốt đẹp, tuy nghèo mà sống một cuộc đời thanh cao. Đó cũng là lựa chọn của những con người biết trọng bản thân, trọng cái đẹp và đạo lí ở đời.

Huấn Cao quả thật là một nhân vật toát lên một vẻ đẹp khá toàn diện. Ông vừa là một con người rất mực tài hoa vừa là một con người hiên ngang khí phách, sống với một mục đích, lý tưởng cao đẹp bất chấp cả uy quyền và bạo lực. Ông luôn luôn đặt chữ “tâm” trên chữ “tài” và có quan niệm thống nhất giữa cái đẹp và cái thiện. Cái đẹp và cái thiện phải luôn luôn đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, không thể tách rời nhau được. Huấn Cao quả là một nhân vật thật lý tưởng, đại diện cho thiên lương cao cả, bất biến của con người.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 14

Nguyễn Tuân được mệnh danh là một cây bút tài hoa và xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Nhân vật của Nguyễn Tuân được xây dựng lên là một người tài hoa nghệ sĩ. Trong tác phẩm “Chữ người tử tù” thì nhân vật Huấn Cao cũng không nằm ngoài khuôn mẫu này. Xây dựng lên một nhân vật anh hùng Huấn Cao vừa phí phách vừa có thiên lương là một thành công lớn của Nguyễn Tuân.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết về cái đẹp và luôn để cho nhân vật của mình ngời sáng lên những vẻ đẹp đa dạng nhất. Xây dựng lên vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trước hết là vẻ đẹp của con người nghệ sĩ tài hoa. Tài hoa thể hiện ở cái tài viết chữ Hán – loại văn tự giàu chất tạo hình. Thời xưa thì các nhà nho viết chữ để có thể bộc lộ cái tâm, cái chí của con người cho nên nó đã trở thành một bộ môn nghệ thuật gọi là thư phát. Có người viết chữ thì sẽ có người chơi chữ, treo chữ trong nhà cũng thường chọn ở vị trí đẹp nhất, trang trọng nhất. Chơi chữ cũng là một thú vui tao nhã.

Nhân vật Huấn Cao lại có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp, tài năng của ông nổi tiếng khắp một vùng tỉnh sơn. Quản ngục cũng biết đến tài của Huấn Cao và ông có một cái sở nguyện có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết cho. Thông qua đây độc giả có thể nhận thấy được Huấn Cao có một vẻ đẹp tài hoa khó ai có được. Việc trân trọng tài năng – sở nguyện của quản ngục cũng đã cho thấy được ông luôn bày tỏ thái độ trân trọng người tài.

Huấn Cao không chỉ là người nghệ sĩ tài hoa thôi đâu mà ông còn là người anh hùng có khí phách hiên ngang bất khuất. Có thể dễ dàng nhận thấy được hình ảnh người anh hùng ấy dám tố cáo sự trắng trợn của triều đình. Người anh hùng đó cũng đã đứng lên đấu tranh chống lại triều đình phong kiến mục nát, thối rữa. Nhân vật Huấn Cao lúc này cũng không chấp nhận sự giam cầm của bè lũ khốn kiếp cho nên ông đã từng bẻ khóa vượt ngục, hay cũng lại vào sinh ra tử nhiều lần. Huấn Cao trong con mắt của bọn lính gác, Huấn Cao chính là một kẻ vô cùng ngạo ngược và nguy hiểm nhất cho nên luôn phải đề phòng. Huấn Cao đối với thầy thơ lại thì ông lại hiện lên lại là một người văn võ đều có tài cả. Còn với quản ngục thì Huấn Cao là một người anh hùng, coi thường tiền bạc cũng như quyền thế. Nhân vật Huấn Cao chính là một người tài ba trong mắt của mọi người, đồng thời ông cũng là một kẻ tử tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung và lại toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn.

Huấn Cao là một người tử tù nhưng lại không tỏ vẻ gì sợ hãi, khúm núm khi đứng trước sự thúc giục hay những roi vọt của sai nha. Đặc biệt ông cũng lại thản nhiên nhân sự biệt đãi của quản ngục. Với phong thái thật ung dung và bất khuất như vậy, độc giả nhận thấy rằng Huấn Cao chính là một định nghĩa hoàn chỉnh hoàn mĩ về những con người tài năng, nhân cách và uy vũ.

Nhân vật Huấn Cao không những là một anh hùng mà ông còn là một con người có vẻ đẹp thiên lương trong sáng, có một tâm hồn cao đẹp. Tử tù Huấn Cao có tài viết chữ đẹp nhưng không phải ai ông cũng dễ dàng cho chữ. Nguyên do không phải vì Huấn Cao kiêu ngạo mà là vì Huấn Cao cũng chỉ tặng chữ cho những ai biết trân trọng yêu quý cái đẹp, cái tài mà thôi. Cho nên suốt đời ông cũng chỉ viết có hai bộ tứ bình và thêm với đó là một bức trung đường cho ba người bạn thân của ông. Với ông chơi chữ phải là một con tài đức vẹn toàn. Khi nhận ra được viên quản ngục biệt đãi mình như thế thì ông cảm phục cái tài của Huấn Cao. Khi biết được sự tình thì Huấn Cao đã nói: “suýt chút nữa thì ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”.

Huấn Cao đã quyết định cho chữ quản ngục và đây cũng là một cảnh tượng xưa nay chưa từng quá. Bởi trong cảnh cho chữ này thì vẻ đẹp thiêng lương, vẻ đẹp của cái thiện lương như đã soi rọi làm cho cái đẹp của cái tài, phí phách anh hùng như bừng sáng lên chính giữa chốn tù ngục tối tăm. Chính sự thống nhất giữa cái tài, cái tâm cũng như cái khí phách anh hùng đã làm toát lên nhân cách cao đẹp của Huấn Cao. Xây dựng nhân vật Huấn Cao mang vẻ đẹp của người anh hùng lý tưởng, đó chính là một cái đẹp mà Nguyễn Tuân luôn tìm kiếm. Thêm với đó là lý tưởng thẩm mĩ ấy chi phối mạch vận động của truyện, tất cả như đã tạo thành cuộc đổi ngôi bất ngờ khi kẻ tử tù trở thành người bậc trên để ban phát cái đẹp, để có thể dạy dỗ cách sống. Nhân vật quản lục lại còn khúm núm sợ hãi của mình. Hình tượng nhân vật Huấn Cao cũng vì thế mà trở thành một biểu tượng cho sự chiến thắng của ánh sáng và bóng tối, của cái tốt với cái xấu, của cái đẹp với cái phàm tục dơ bẩn.

Thông qua từng nét bút phác họa của Nguyễn Tuân thì nhân vật Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong và vô cùng đĩnh đạc cũng lại khiến cho người đọc không khỏi khâm phục và thêm phần quý trọng. Nguyễn Tuân làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật thông quan ngôn ngữ miêu tả nhân vật của Nguyễn Tuân cũng rất giàu chất tạo hình. Nhà văn đã cũng đã sử dụng nhiều từ Hán Việt để nói lên được khẩu khí của bậc trượng phu để làm tăng lên vẻ đẹp của một thời vang bóng ở hình tượng nhân vật Huấn Cao.

Thành công trong tác phẩm “Chữ người tử tù” chính là việc xây dựng nhân vật Huấn Cao hiện lên là một nhân vật tài năng, nhân cách trong sáng và khí phách hơn người. Chính sự chiến thắng của cái tài, cái đẹp cũng như cái tâm trước cái phàm tục, dơ bẩn của sự khí phách ngang tàng đối với thói quen nô lệ cũng đã lại cho thấy lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn Nguyễn Tuân và ý nghĩa tư tưởng nhân sinh sâu sắc của ông được gửi gắm.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 15

 Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ tài hoa. Mỗi tác phẩm cửa ông là đều là những trang văn tài hoa và hấp dẫn, Trọng số đó, ngoài những tùy bút, truyện ngắn Chữ người tử tù cũng là một thành công lớn của ông. Đặc biệt tác phẩm thành công nhất ở nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật Huấn Cao.

Huấn Cao là một con người tự trọng, sống hiên ngang bất khuất, không có sức mạnh quyền thế, bạc vàng nào có thể khuất phục Huấn Cao… Những con người chọc trời khuấy nước, đếm trên đầu ngón tay, người ta cũng chẳng còn biết nữa.. Một con người khẳng khái như vậy còn sợ gì cường quyền hay tham gì tiền bạc? Là một kẻ tù nhưng ông vẫn hiệ lên với khí chất cao ngạo , anh hùng. Huấn Cao bị bắt giam sở dĩ là do dấy quan khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến mục nát. Do đó trong mắt người đọc, Huấn Cao vẫn là một vị anh hùng cứu giúp nhân dân, là một đấng nam nhi được nể phục, kính trọng.

      Giữa chốn lao tù Huấn Cao còn được biết đến với danh “ cái người mà ở tỉnh Sơn  đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sùng bái và ngưỡng mộ như vậy, huống gì một anh hùng nhân dân lại mang trên mình vẻ đẹp cao quý được người quý trọng như Huân Cao. Con chữ của Huấn Cao còn thể hiện cả một hoài bão đời người chính bản thân ông. Chữ của ông xin được cũng khó bởi cả đời ông mới chỉ viết hai bức tứ bình tặng người bạn thân. Chữ đã đẹp, xin khó do tính Huấn Cao rất khoảnh, ông muốn cho chữ những người thực sự am hiểu về con chữ, về nghệ thuật chứ không cần sự ngưỡng mộ phù phiếm, danh vọng mua bằng tiền của bao kẻ thầm mong có được con chữ của ông. Bởi ông ý thức được giá trị chữ của mình, ý thức được giá trị của cái đẹp, của nghệ thuật chân chính.

       Ngay từ lúc bước chân vào chốn lao tù, Huấn Cao đã thể hiện rõ nét tính cách hiên ngang, không sợ chết của mình. Khi nơi ở chốn lao tù sinh ra chấy rận bám trên gong cổ, tay Huân Cao đã đứng lên nói muốn dỗ gong, mây tên lính tưởng ông định làm gì liền ra vẻ khinh thường nói ông “ Các người chả phải làm trò nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò cười ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Đứng dậy không ông phết cho mấy hèo bây giờ”. Lời dọa nạt như một lẽ thường tình nơi ngục tù chẳng thể tác động đến nỗi sợ trong con người tử tù này, Hay nỗi sợ vốn chẳng còn trong người ông mà thay vào đó là khí phách hiên ngang? “Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thanh gông xuống thềm đá đánh thuỳnh mộ cái”- hành động Huấn Cao dỗ gông trước mặt lính canh ngục cho thấy sự khinh thường coi rẻ những lời dọa dẫm kia của chúng. Còn viên quản ngục lại đối đãi với Huấn Cao rất nhiệt tình thân thiện, hắn nhìn ông bằng ánh nhìn biệt nhưỡng nhân tài. Bởi lẽ quản ngục cũng là một người biết đến cái tài của Huấn Cao, yêu con chữ, yêu cái đẹp và khao khát có được chữ ông Huân như có vật báu treo trong nhà. Mặc cho viên quan ngục có chăm soc mình ân cần, đặc biệt đến đâu thì Huấn Cao vẫn chi điềm nhiên hưởng thụ rượu thịt như thú vui lúc bình sinh bên ngoài ngục tù. Thậm chí Huấn Cao còn thẳng thắn xua đuổi mắng viên quản ngục khi quản ngục vào thăm ông. Khi mà quản ngục có ý tốt tới thăm và ngỏ ý muốn giúp đỡ Huấn Cao trong những ngày cuối đời thì ông vẫn nhìn những kẻ cai trị ngục tù nơi này với con mắt khinh thường, thơ ơ. Bởi lẽ trong tù ngục luôn lấy quyền hành để chèn ép tù nhân, đánh đạp hành hạ, những thủ đoạn tiểu nhân không lường trước được do đó Huấn Cao không tin tưởng một ai ngoài những người bạn tù của mình. Ông đã trả lời viên quản ngục rằng : Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một diều. Là nhà người đừng bao giờ đặt chân vào đây. Khi nói những lời lẽ đầy ý  mỉa mai, khinh thường ấy, Huấn Cao đã nghĩ ngay đến sự tức giận rồi đòn roi vọt giáng xuống người ông khi giám đắc tội với người cầm quyền chốn lao tù này. Thế nhưng mọi chuyện lại xảy ra nằm ngoài dự đoán của ông. Những ngày sau dó rượu thịt vẫn được đưa đến phòng giam của ông đều đặn và viên quản ngục cũng không xuất hiện nữa. Huấn Cao quả thực là anh hùng đầu đội tròi chân đạp đất chẳng sợ hiểm nguy rình rập, quyết giữ danh tiết trong sạch cho bản thân mình, thẳng thắn mắng kẻ làm quan cho triều đình mục nát lúc bấy giờ.

      Không chỉ có vẻ đẹp tài năng, tính khí anh hùng mà Huấn Cao còn khiến người đọc cảm phục hơn ở tấm thiên lương trong sáng của ông. Khi biết con người thật của viên quản ngục qua lời thuật lại của thầy thơ lại, Huấn cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười nói với thầy thơ lại :” Về nói với chủ của ngươi, tối nay, lúc nào lính canh về trại nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây ta cho chữ… Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Điều đó cho thấy Huấn Cao trân trọng con người yêu cái đẹp, cảm nhận được giá trị của cả quá trình sáng taho cái đẹp chứ không phải riêng kết quả của việc sáng tác cái đẹp. Vốn quý chữ là thế, vốn chẳng bao giờ ép mình cho chữ vì quyền thế bao giờ nhưng ông lại cho chữ Viên quản ngục. Đấy là ông thấy được “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”. Ông quý trọng cái đẹp, trân trọng, nâng niu cái đẹp cái tài của người. Huấn Cao còn khuyên nhủ thầy Quản nên đổi chỗ ở, bỏ nghề đang làm đi để về sống với sự thiện lương vốn có. Tất cả những suy nghĩ và hành động của Huấn Cao đủ để cho thấy sự nghĩa khí trong cái hiên ngang của một bậc anh hùng.


Đọc tác phẩm Chữ người tử tù, phải chăng bạn cũng sẽ cảm thấy được sư rực rỡ của khung cảnh cho chữ “xưa nay chưa từng có”. Đó là khoảnh khắc hợp nhất của thiên lương, khí phách và tài hoa. Nguyễn Tuân đã xây dựng một khung cảnh đầy dụng ý nghệ thuật. Với thủ pháp đối lập, Nguyễn Tuân đã vẽ nên hình ảnh tương phản giữa bóng tối và ánh sáng, giữa sự bẩn thỉu, nhơ nhớp của nhà tù với sự thiện lương, trong sáng và khí phách của con người; giữa chậu mực thơm, khuôn lụa trắng với bức tường đây mạng nhện… Trong cảnh cho chữ ấy, có thể thấy rằng, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã bị khuất phục trước cái đẹp, cái thiện. Huân Cao cao ngạo cầm bút viết những con chữ vuông vắn mang trong mình hoài bão cả một kiếp người quân tử quang minh chính đại, hiên ngang. Còn viên quản ngục lại yên lặng, có lẽ là phải nín thở , thầm phục trong lòng Huấn Cao dích thực là người hắn mong muốn được gặp, được xin con chữ quý giá. Trong phòng giam Huấn Cao không còn là người tử tù, thầy Quản không còn là Viên quản ngục nữa mà họ đã trở thành những con người cùng hướng về cái đẹp và biết trân trọng cái đẹp. Ở nơi ấy, cái ác, cái xấu đã phải nhường bước cho cái đẹp, cái thiện.

       Huấn Cao là một đứa con tinh thần đẹp và đầy tinh xảo trong tổng thể bức tranh về những “đấng tài hoa” của Nguyễn Tuân. Bởi Nguyễn Tuân là nhà văn đi tìm cái đẹp và viết về cái đẹp. Huấn Cao và chữ của Huấn Cao chính là nét đẹp đặc sắc mà nhà văn muốn truyền tải đến người đọc.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 16

Tác phẩm “Chữ người tử tù” được đánh giá là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn tài năng Nguyễn Tuân. Ngoài ngôn ngữ hay, chính xác, bố cục truyện mạch lạc,…thì làm lên thành công của tác phẩm phải nói đến nhân vật Huấn Cao.

Huấn Cao chính là nhân vật được biết đến là một kẻ sĩ dám xả thân vì đại nghĩa, dũng cảm đứng về phía nhân dân để chống lại triều đình phong kiến mục nát đựơng thời, trở thành "người đứng đầu bọn phản nghịch". Có thể thấy được chính trong tâm hồn quản ngục thì Huấn Cao là một çon người "chọc trời quấy nước" coi thường cường quyền bạo lực, "chẳng biết có ai nữa" trên đầu mình. Đối với chính thày thơ lại thì ở Huấn Cao ta như thấy được ông là người "văn võ đều có tài cả, chà chà!". Còn khi đối với bọn lính thì Huấn Cao là "thủ xướng", và dường như " hắn ngang ngược và nguy hiểm nhất trong bọn". Chính với những cách nhìn nhận ấy của ngục quan, của viên thư lại, của bọn lính dường như cũng đã đều cho thấy Huấn Cao là một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân, có mốt tiếng tăm lừng lẫy. Đặc biệt hơn đó chính là khi trở thành tử tù vẫn được,người đời khâm phục hoặc kinh sợ! Nguyễn Tuân quả thật là nhà văn bậc thầy, ông đã miêu tả chiếc gông bằng gỗ lim dài đến tám thước, nặng đến bảy tám tạ "đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn", chỉ với việc miêu tả cái "dỗ gông" cùng với đó chính là "một trận mưa rệp" trước cửa ngục và trước mũi bọn lính, điều đó càng như cho thấy Huấn Cao và các đồng chí của mình vô cùng hiên ngang, vô cùng bất khuất coi thường mọi nhục hình, đày đọa. Hơn nữa tinh thần đó còn thể hiện qua việc trước cái chết vẫn ngẩng cao đầu. Chính cái câu nói của Huấn Cao với quản ngục cũng thể hiện một khí phách ngang tàng trựớc cường quyền bạo lực đó chính là "Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều đó “Là nhà ngươi dừng tới quấy rầy ta". Có lẽ rằng cũng chỉ bằng một vài chi tiết nghệ thuật rất chọn lọc về nhân vật đó là về hành động, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật, một vài lời nhận xét bình phẩm. Nguyễn Tuân tài tình đã khéo khắc họa thành công tinh thần "đại vô úy" của Huấn Cao. Và ta như thấy được những nét vẽ chân dung của Nguyễn Tuân rất độc đáo và có thần thái đến lạ.

Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm đó chính là kẻ sĩ tài tử, tài hoa được nhiều người mến mộ bậc nhất đó là "cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viêt chữ rất nhanh và rất đẹp"… Còn về chữ của ông Huấn là "một báu vật trên đời", tượng trưng cho cái đẹp, cái cao quý trong thiên hạ lúc bấy giờ mà tác giả muốn gửi gắm.

Nhân vật quản ngục cũng là một người có học đã "biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền". Có thể nói cũng đã từ rất lâu, "từ những ngày nào, cái sở nguyện của viên quan coi ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết cho. Bởi vì chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm”. Huấn Cao quả chính là một khách tài tử, không chỉ tài hoa sáng tạo ra cái đẹp mà còn có một tâm hồn thanh cao, trong sạch. Lúc này đây ông cũng như đã tự biết "chữ thì quý thật", nhưng không bao giờ "vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết bao giờ”. Điều đó càng như khẳng định cho thấy rằng nhân vật Huấn Cao đi "làm giặc” không phải để mưu bá đồ vương mà chính là để "cứu vớt dân đen đang đói khổ" kia. Và con chữ là một thứ "vật báu" nhưng ông ta không bán văn bán chữ để được phú quý giàu sang. Và đây cũng đúng với “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ". Huấn Cao vừa có tài vừa có cái tâm đẹp thiên lương sáng.

Được mệnh danh là một khách tài lử, Huấn Cao dường như cũng luôn luôn coi trọng tình bạn tri âm tri kỉ. Ông như luôn có sự mến mộ những con người có tinh thần biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Ông đã nhận ra một tấm lòng thiên lương của quản ngục rồi đã quyết định cho chữ với câu nói “Thiếu chút nữa, tu phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.

Có lẽ trong tác phẩm thì cảnh cho chữ là mội cảnh tượng "xưa nay chưa từng có " chính cảnh tượng này cũng đã làm cho tất cả những bức chân dung nhân vật Huấn Cao, ngục quan, thầy thơ lại trong cảnh tượng ấy vô cùng đẹp đẽ. Có thể thấy được cái ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, mùi mực thơm, màu trắng của tấm lụa bạch dường như có thể xua tan đi bóng tối ngục đày đầy mạng nhện, tổ rệp, phân gián, phân chuột. Người tử tù Huấn Cao thêm ngạo nghễ, uy nghi, cổ đeo gông, chân vướng xiềng, tử tù vung bút viết "những nét chữ vuông vắn rõ ràng" thật đẹp. Như có một sự đổi ngôi trong cảnh cho chữ này, người tử từ như người chiếm lĩnh và là tâm điểm sáng ngời, còn những kể cầm quyền kia như khúm lúm hơn

Qủa thật nghệ thuật xây dựng nhân vật Huấn Cao rất đặc sắc. Người đọc khó có thể tìm ra được những chi tiết nghệ thuật nào thừa. Tất cả như đã xây dựng lên được một Huấn Cao hiên ngang bất khuất, tài tử tài hoa, quý trọng bằng hữu và trân trọng những tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ. Qủa thực từ một nhân vật lịch sử trong thế kỉ XIX, nhân vật như lại được gắn liền với những giai thoại, những câu đối đó là "Một chiếc cùm lim chân có đế – Ba vòng xích sắt bước thì vương"…, Nguyễn Tuân tài tình và khéo léo cũng như đã sáng tạo nên một hình tượng văn học Huấn Cao cho chữ trước lúc ra pháp trường. Có thể thấy được văn học lãng mạn Việt Nam thời tiền chiến chỉ có một hình tượng Huấn Cao đẹp bi tráng như vậy mà thôi

Việc xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao – kẻ sĩ tài tử, anh hùng – nhà văn Nguyễn Tuân dường như cũng đã vừa biểu lộ một tấm lòng kính phục, ưu ái đặc hiệt, vừa thể hiện một bút pháp tài hoa cyar mình. Ngay chính việc ca ngợi một con người tài tử, bất khuất, anh hùng, truyện "Chữ người tử tù" còn như đã hàm chứa một ý tưởng sâu sắc làm sao để giữ được thiên lương. Tóm lại "Chữ người tử tù" là một truyện ngắn kiệt tác lung linh vẻ đẹp thiên lương của Nguyễn Tuân thông qua nhân vật Huấn Cao.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 17

Nguyễn Tuân (1910- 1987) – một bậc phù thủy ngôn ngữ, một nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp với phong cách viết tài hoa, uyên bác, độc đáo. Mỗi trang văn của ông đều có thể là một tờ hoa, nhiều tác phẩm gần đạt đến sự toàn thiện toàn mĩ. Tiêu biểu trong những sáng tác ấy chúng ta phải kể đến truyện ngắn chữ người tử tù trích trong tập Vang bóng một thời (1940). Đặc biệt trong tác phẩm ấy nổi bật lên nhân vật Huấn Cao một người tử tù rất tài hoa, uyên bác và anh hùng.

Huấn Cao là một nhân vật trung tâm trong tác phẩm này. Nhân vật này được ví như là: “ chấm son đỏ rực trên cái nền vàng vọt u ám”. Con người ấy vừa là một người nghệ sĩ tài danh vừa là một trang hùng dũng liệt. Có thể nói Huấn Cao hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của tài năng phi thương, khí phách phi phàm, thiên lương trong sáng.

Nói tới nghệ thuật truyện ngắn thì người ta hay nhắc đến tình huống truyện, giọng điệu trần thuật, nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trong đó nhân vật được coi là hệ xương sống vận hành cốt truyện. Đặc biệt những nhân vật trung tâm thường phát ngôn cho những quan điểm tư tưởng của nhà văn. Trong tác phẩm này Huấn Cao là một người như thế.

Trước khi đi vào tìm hiểu người tài hoa uyên bác này đã nên đi tìm hiểu về những nghệ thuật của viết bút lông mực tau hay chính là viết chữ Hán. Thứ chữ này hay còn gọi là chữ nho là thứ chữ tượng hình khối chữ vuông, được viết bằng bút lông mực tàu, nét thanh nét đậm cân đối hài hòa. Chữ này có bốn cách viết đó là chân, thảo, triện, lệ. Chữ thường được viết trong những ô vuông trên lụa hay trên gỗ và được treo ở một trung tâm nhất trong nhà để thể hiện

Tại sao phải tìm hiểu lối viết chữ kia bởi vì nó chính là cái để thể hiện lên một vẻ đẹp của Huấn Cao. Đó chính là vẻ đẹp của một con người tài hoa uyên bác. Huấn Cao một người tử tù có tài viết chữ rất đẹp. Đôi tay tài hoa và tài năng ấy của ông được bàn dân thiên hạ hay những người hay chữ biết đến. Thế nhưng tại sao ông lại là một người tử tù?. Bởi vì ông đã dũng cảm đứng lên chống lại triều đình mục nát lạc hậu chính vì thế mà ông bị triều đình bắt và trở thành tử tù. Người nghệ sĩ tài hoa uyên bác ấy được người đọc biết đên qua những lời nói của viên quan coi ngục – người mà sẽ trông giữ Huấn Cao và thấy thơ lại. “Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm”. Chính vì thế mà ta thấy được tài năng của Huấn Cao. Chữ Huấn Cao không chỉ đẹp về mặt chữ nghĩa mà chữ Huấn Cao còn thể hiện được cái đẹp nhân cách của Huấn Cao. Nó thể hiện khát vọng ngông hành và cái ngông của người tài hoa nghệ sĩ. Đặc biệt chữ viết của Huấn Cao đẹp còn được thể hiện ở sở nguyện cao quý của viên quan ngục.

Không những thế Huấn Cao còn là một con người có vẻ đẹp thiên lương trong sáng và tâm hồn cao đẹp. Huấn Cao có tài nhưng không bao giờ ông bán chữ mình một cách linh tinh. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dành cho ông một chữ “khoảnh” để chỉ sự quý chữ mình của ông. Cả đời Huấn Cao mới viết cho những người bạn thân của mình mà cụ thể là hai người ngoài ra chưa một ai cả. thế nhưng đó không phải là sự tự kiêu về chữ và tài năng của mình mà Huấn Cao muốn nói đến sự quý trọng hay chính là những thái độ trân trọng của mình đối với ai, người đó có xứng thì ông mới cho chữ của ông được. Viên quản ngục cũng có sở nguyện xin chữ Huấn Cao để treo trong nhà những chính bình diện xã hội đã cản trở sở nguyện ấy. Huấn Cao khinh thường viên quản ngục. thế nhưng khi được thầy thơ lại nói hết về sở nguyện cao quý ấy thì Huân Cao đã nói suýt chút nữa “ thì ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Như thế có thể nói phải là người có thiên lương trong sáng thì mới nhận ra và trân trọng thiên lương trong thiên hạ kia. Cũng phải là người có tâm hồn cao đẹp lắm thì Huấn Cao mới có quyết định trao cái đẹp cho những người thật sự xứng đáng. Ở đây nhà văn đã đề cao vẻ đẹp thiên lương của Huấn Cao nhằm thể hiện ý đồ nghệ thuật của mình. Đó chính là nhấn mạnh trân trọng những cái thiện cái đẹp.

Không chỉ thế Huấn cao còn là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất. ông có tư tưởng tiến bộ và dám đầu tranh để chống lại triều đình đã mục nát. Chính vì thế mà ông bị bắt và tử tù. Thế nhưng Huấn Cao đã bị bắt rất nhiều lần nhưng ông lại có cái tài bẻ khóa vượt ngục. Khi đến nhà giam bị rệt cắn đầy người trước sự thúc giục và những roi vọt của bọn sai nha Huấn Cao vẫn thể hiện sự ngông nghênh của mình qua hành động dỗ gông. Ông thản nhiên trước sự biệt đãi của quản ngục và còn dám mắng lại chính vị quan coi ngục ấy mà không hề sợ sẽ bị trả thù. Nghĩ đến những hành động trả thù đáng khinh của những bọn quan cai sai nha mà Huấn Cao chỉ thấy khinh chứ không thấy sợ. Không những thế vẻ đẹp anh hùng của Huấn Cao còn được thể hiện qua hành vi của viên quan ngục. Dẫu bị mắng như thế nhưng viên quan coi ngục vẫn không hề tức giận mà khúm núm trước mặt Huấn cao. Viên quan ngục cho rằng những kẻ chọc trời khuấy nước thì thường chẳng biết đến ai huống chi cái thứ như mình. Qua đây ta thấy được Huấn Cao là một định nghĩa hoàn chỉnh hoàn mĩ về con người tài năng, nhân cách, uy vũ.

Huấn Cao chính là nguyên mẫu của chu thần Cao Bá Quát, một người từng đứng lên chống lại triều đình phong kiến, một nhà nho, một anh hùng, có tài văn thơ viết chữ đẹp. Qua hình ảnh Huấn Cao nhà văn đã kết án xã hội đã vùi dập cái đẹp, đi ngược lại cái thiện, sát hại cái tài. Nói tóm lại nhân vật Huấn Cao đã được xây dựng lên mọt cách thành công nhất

Phân tích nhân vật Huấn Cao 18

Một tác phẩm thơ hay không chỉ ở nội dung mà còn là nghệ thuật của tứ thơ ấy, một tác phẩm truyện hay không chỉ hấp dẫn người đọc ở cốt truyện đầy kịch tính li kì mà còn ở hình tượng nhân vật. Nếu như nhà văn Nam Cao xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo với hình hài quỷ dữ xong làm nổi bật lên bản chất tốt đẹp của người nông dân thì Nguyễn Tuân một nhà văn tài hoa uyên bác lại xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao là một người tử tù nhưng mang nét tài hoa của những bậc tao nhân mặc khách. Đúng vậy, Huấn Cao giống như một viên ngọc sáng lấp lánh trong trang văn của Nguyễn Tuân.

Tình huống truyện của tác phẩm chữ người tử tù là một điều không thể không nhắc đến. Chính sự oái oăm của tình huống truyện đã khiến cho nhân vật Huấn Cao được thể hiện. Huấn Cao là một tội phạm của triều đình nhưng lại có tìa viết chữ rất giỏi, trong một lần làm nghiệp lớn chống lại triều đình ông bi bắt và chờ ngày tử hình. Tại nhà giam ẩm thấp và tối tăm nhưng Huấn Cao vẫn hiện lên là một viên ngọc sáng lấp lánh lấn át đi sự tối tăm ấy.

Nhà văn đã xây dựng nhân vật Huấn Cao là một người có thiên lương trong sáng, có tài năng viết chữ rất đẹp. Tài năng ấy được thể hiện qua lời khen ngợi của viên quản ngục và thầy thơ lại. Khi nhận được tráp báo rằng sẽ có tên tử tù nguy hiểm tên Huấn Cao sẽ bị giải về nơi đây chờ tử hình thì cả hai người đều tỏ ra buồn thay cho một người tài hoa uyên bác như thế. Đặc biệt là viên quản ngục luôn tỏ ra kính trọng người có tài. Có thể nói Huấn Cao phải viết chữ đẹp lắm thì mới khiến cho viên quản ngục ngày đêm tìm cách mong Huấn Cao có thể cho chữ. “Có chữ ông Huấn Cao mà treo trong nhà thì cứ như là vật báu”. Cảm phục trước tài năng nên quản ngục tỏ ra kính trọng và biệt đãi Huấn Cao. Là một tử tù nhưng Huấn Cao được biệt đãi được ăn rượu uống thịt. Về phần Huấn Cao thì ông là một người vốn khoảnh. Trừ những chỗ tri kỉ không bao giờ ông cho chữ ai một cách tùy tiện cả. Cả đời ông cũng mới viết có mấy bức cho mấy người bạn thân chứ ông chưa viết cho ai cả. Điều đó cho thấy Huấn Cao tôn trọng chính chữ viết của mình. Ông chỉ cho những ai biết thưởng thức nó và thực sự xứng đáng với nó mà thôi. Đó chính là thiên lương trong sáng trong ông. Không những thế khi được biệt đãi Huấn Cao còn quát mắng viên quản ngục nhưng đến khi được thầy thơ lại nói về tấm lòng của viên quản ngục thì Huấn Cao nhận ra được tấm chân tình và quyết định cho chữ. Đối với Huấn Cao chữ của ông chỉ cho những người có tấm lòng yêu nó. Và ông bật lên câu nói: “Suýt chút nữa thì ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Và thế là cảnh tương xưa nay chưa từng có” được diễn ra.

Không chỉ là người tài năng và có thiên lương trong sáng Huấn Cao còn là một anh hùng. Có thể nói Nguyễn Tuân đã sử dụng nguyên mẫu Cao Bá Quát để xây dựng lên hình ảnh nhân vật này. Huấn Cao được biết đến là một tử tù tội ác tày đình và có tài bẻ khóa vượt ngục. Không nhà lao nào có thể giam giữ nổi ông. Nghe đến đây thôi thì ta tưởng Huấn Cao là một người xấu thế nhưng lại không phải vậy. Khi ấy triều đình có những tư tưởng sai lệch, một người có chí lớn như Huấn Cao không thể dương mắt làm ngơ, trong khi dân chúng khổ cực. Chính vì thế mà Huấn Cao không ngần ngại đứng đầu đội quân để chống lại triều đình. Điều đó khẳng định ông quả là một anh hùng không sợ trời sợ đất chỉ biết làm việc nghĩa cho nhân dân mà thôi. Thế rồi ông bị bắt và giam giữ, khi đến nhà lao nơi quản ngục và thầy thơ lại trông coi. Huấn Cao không hề tỏ ra sợ hãi. Biết rằng mình sắp chết nhưng vẫn không ngần ngại có những hành động coi thường những kẻ chỉ biết lấy uy quyền ra dọa nạt. Đầu tiên là hành động giỗ gông khi một trận dệp làm cho Huấn Cao không thê chịu nổi. Mặc cho bọn lính thúc và đánh liên tục Huấn Cao cũng không sợ mà quyết định giỗ gông. Hay khi được biệt đãi Huấn Cao nghĩ rằng viên quản ngục có thể cho thuốc độc vào thức ăn nhưng ông đã không sợ cái chết và vẫn ăn ngon lành. Khi mắng lại quản ngục Huấn Cao cũng nghĩ đến mấy trò trả thù hèn hạ của bọn cai ngục thế nhưng ông cũng chẳng sợ gì. Qua đây ta thấy Huấn Cao quả thật là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất.

Điều thứ ba làm nên một Huấn Cao hoàn hảo đó là khí phách hơn người. Khí phách của ông được thể hiện rất rõ qua những hành động của một vị anh hùng của một người làm chí lớn. Khí phách lớn là khi dám một mình đứng lên chống lại triều đình. Không những thế khí phách của Huấn Cao còn được thể hiện ở suy nghĩ của viên quản ngục. Đó là một người chí lớn thì chỉ biết đứng ở trên đầu của người khác chứ làm sao có thể hiểu được những nhỏ nhặt.

Tóm lại ở Huấn Cao ta thấy toát lên một vẻ đẹp của một người có danh tiếng lớn. Đối với triều đình thì Huấn Cao là một tên tử tù nguy hiểm cần bắt gấp và đề phòng còn đối với nhân dân Huấn Cao là một người tài năng có thiên lương trong sáng, là một vị anh hùng có khí phách hơn người.

Phân tích nhân vật Huấn Cao 19

Trong các sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng 8, hình tượng người anh hùng xuất hiện thường là người tài hoa vẹn toàn, một con người vừa có khí phách vừa bản lĩnh lại rất tài năng, Huấn Cao chính là một người như vậy. Xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm Chữ người tử tù, nhà văn Nguyễn Tuân đã ngợi ca cái đẹp và con người sáng tạo ra cái đẹp.

Huấn Cao trước hết là con người có khí phách đẹp, ông yêu nước thương dân, giàu bản lĩnh, có chí làm trai. Chính vì đau đáu trước thời cuộc, không chịu được sự thối nát của chế độ cho nên ông mới đứng lên khởi nghĩa, cầm đầu nghĩa quân làm việc lớn. Nhưng việc lớn không thành, ông và những người cộng sự đều bị bắt giam và bị kết án tử hình. Thế nhưng cường quyền và bối cảnh lao tù đều không thể đánh bại được Huấn Cao, ông vẫn vô cùng hiên ngang, chững chạc. Ông cùng cộng sự bước vào nhà lao một cách ngông nghênh ngạo nghễ, tỏ ý khinh khi nhà tù và bộ máy quan lại ở đây. Khi được viên quản ngục “mua chuộc” bằng những khoản đãi đặc biệt, rượu, thức ăn, Huấn Cao đều từ chối thẳng thừng. Ông cũng dứt khoát đuổi viên quản ngục ra ngoài mặc cho viên quản đã hết sức nhún nhường và nhẹ nhàng đích thân đến hỏi xem ông còn cần gì không. Tất cả những hành động trên đều cho thấy Huấn Cao là một người có lòng yêu đất nước, có tinh thần trượng nghĩa, không khuất phục trước cường quyền, không lung lay trước hành động, lời nói của người khác. Ở ông người ta nhìn thấy những phẩm chất và thái độ của một con người hiên ngang, phóng khoáng, thẳng thừng và rất rõ ràng.

Huấn Cao là con người có tài năng, cái tài của ông đặc biệt được nhắc đến là khả năng viết chữ nổi tiếng khắp cả tỉnh. Con chữ của ông viết vừa nhanh, vừa vuông vắn lại như có linh hồn, hoài bão ở trong. Rất nhiều người trong đó có cả viên quản là những người biết chơi chữ thì chỉ mong trong nhà có được một đôi câu do Huấn Cao viết. Đã vậy, bình sinh ông không bao giờ vì cường quyền hay tiền bạc mà ép mình cho chữ bao giờ. Điều đó đã được chứng minh qua việc viên quản luôn biệt đãi Huấn Cao, nhỏ nhẹ hỏi thăm nhưng Huấn Cao vẫn khinh thường từ chối thẳng thừng. Bình sinh ông từng nói chỉ cho chữ có hai lần, đó đều là tặng những người tri kỉ. Vậy mà khi nghe câu chuyện của viên quản ngục, Huấn Cao gần như ngay lập tức mà đồng ý, còn ăn năn hối hận mà nói rằng suýt chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ. Ông tự trách bản thân rằng không biết rằng viên quản ngục lại là người có thiên lương trong sáng mà đối xử tệ bạc. Huấn Cao đã cho chữ viên quản bằng cả những tâm tình, tài hoa của mình. Những con chữ cuối đời của ông còn đi kèm với lời nhắn nhủ dặn dò viên quản tìm về một chốn yên bình mà sống cuộc sống thanh cao, giữ lấy nhân cách của bản thân. Có thể thấy Huấn Cao đã coi viên quản là một người tri kỉ của mình để dốc những nỗi lòng của bản thân, cho viên quản những lời khuyên chân thành nhất.

Huấn Cao là một con người có tài năng, có khí phách lại biết trân trọng và yêu mến cái đẹp. Ông là một người anh hùng tài hoa, khí chất, vẹn toàn. Chính ông đã sáng tạo ra cái đẹp, gìn giữ cái đẹp và có những hành vi, cử chỉ rất thẳng thắn. Chính nhờ những tài năng và đức tính của Huấn Cao mà mới nảy sinh nên những tình huống truyện vô cùng độc đáo, có một không hai đó là tình huống viên quản xin chữ hay cảnh tượng cho chữ rất đặc biệt.

Huấn Cao là người tài nhiều năm mới có một, cái tài cái đức của ông đã khiến cho hình ảnh của ông còn đọng lại mãi. Người anh hùng này trở thành một tượng đài của cái đẹp trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân và trong nền văn học Việt Nam.

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Ông  là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo. Sáng tác của ông có nhiều thể loại và ở thể loại nào cũng có những thành công đáng kể. Một trong số tác phẩm kết tinh tài năng độc đáo của Nguyễn Tuân ở thể loại truyện ngắn là “ Chữ người tử tù”. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Huấn Cao hội tụ nhiều vẻ đẹp.
Truyện “ Chữ người tử tù” lúc đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng” in trên  tạp chí “Tao đàn” (1939), sau được tuyển in trong tập “Vang bóng một thời” và đổi tên thành “Chữ người tử tù”.
Truyện “Chữ người tử tù” kể về nhân vật Huấn Cao, một người “văn võ toàn tài”. Mở đầu truyện là cảnh nhà ngục tỉnh Sơn chuẩn bị đón sáu tên tử tù nguy hiểm, trong đó đứng đầu là Huấn Cao. Trước khi tù đến, viên quản ngục đã tỏ lòng khâm phục Huấn Cao vì cái tài viết chữ đẹp, vì tài cầm quân, tài bẻ khóa, vượt ngục. Suốt nửa tháng, quản ngục đã biệt đãi Huấn Cao và năm tử tù nhưng vì chưa hiểu nỗi niềm của viên quản ngục nên Huấn Cao vẫn tỏ ra  “khinh bạc”. Có lệnh chuyển tù, quản ngục đã nhờ viên thơ lại đến nói với Huấn Cao tâm sự của mình (muốn xin mấy chữ đại tự trên lụa trắng). Nhận ra tấm lòng của quản ngục, Huấn Cao đã đồng ý. Đêm hôm đó, cảnh cho chữ kì lạ diễn ra trong ngục tối. Viết xong, Huấn Cao khuyên quản ngục thay chốn ở mà giữ “thiên lương”. Quản ngục cảm động, vái  người tử tù “xin lĩnh ý”.
          Trước hết, vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao thể hiện ở phương diện tài hoa. Huấn Cao là một nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp. Chữ của Huấn Cao “ đẹp lắm”, “vuông lắm”. Để thể hiện tài hoa ở chữ, Nguyễn Tuân không miêu tả kĩ lưỡng về chữ đó mà ông tập trung thể hiện sức hấp dẫn, sức chinh phục của những nét chữ. Tài hoa trong nghệ thuật thư pháp của Nguyễn Tuân đã nức tiếng gần xa. Trước khi đến nhà ngục, danh tiếng của Huấn Cao đã được quản ngục biết đến và hằng ngưỡng mộ, kính phục. Khi Huấn Cao đặt chân đến nhà ngục, tài hoa của ông đã khơi dậy trong viên quản ngục niềm khao khát cháy bỏng: được treo riêng ở nhà một câu đối do ông Huấn Cao viết và đó sẽ là “báu vật trên đời”. Không chỉ ao ước, khao khát, viên quản ngục còn tìm mọi cách “biệt đãi” để mong Huấn Cao cho chữ. Ngay cả khi bị Huấn Cao tỏ ra  khinh bạc, viên quản ngục cũng chỉ biết vâng lời, nhẫn nhục và vẫn hết lòng trọng đãi. Có thể nói, tài hoa của Huấn Cao đã hoàn toàn chinh phục viên quản ngục. Trước cái đẹp tài hoa của ông Huấn, quản ngục đã bất chấp sự nguy hiểm đến danh vị và sinh mạng. Hành động hạ mình trước Huấn Cao của viên quản ngục chính là  sự khuất phục của quyền uy trước cái đẹp.
         Cùng với tài hoa, ở Huấn Cao còn chói ngời khí phách hiên ngang. Huấn Cao mang ý chí “chọc trời khuấy nước” nên đã cầm quân chống lại triều đình phong kiến thối nát, khi bị bắt thì “bẻ khóa, vượt ngục” để tiếp tục thực hiện lí tưởng. Điều này cũng thể hiện rõ qua ý nghĩ của Quản ngục về Huấn Cao “những kẻ chọc trời khuấy nước đến trên đầu người ta cũng chẳng biết có ai nữa”. Như vậy Huấn Cao rõ ràng là một trang anh hùng nghĩa liệt có lí tưởng, có dũng khí, có chí lớn, yêu công bằng và tự do. Khí phách hiên ngang của Huấn Cao còn hiện rõ ở tinh thần “uy vũ bất năng khuất”(không sợ gông xiềng, đòn roi, cường quyền). Vừa đến nhà ngục, bất chấp việc lính giơ roi dọa dẫm, Huấn Cao vẫn điềm  nhiên chỉ huy những người tù dỗ cái gông nặng đến bảy, tám tạ xuống nền đá làm rơi ra một trận mưa rệp. Hành động này cho thấy, với Huấn Cao việc gì ông muốn là ông có thể làm được, bất chấp khó khăn đến đâu và có được phép hay không. Lúc viên quản ngục cho người đem rượu thịt đến, Huấn Cao đã điềm nhiên ăn uống như cái lúc còn tung hoành ngoài đời. Như vậy, với Huấn Cao, nhà giam và án tử hình treo trên đầu chẳng có gì là đáng sợ, nhà tù chỉ có thể giam cầm ông về thể xác, còn về tinh thần, ông vẫn hoàn toàn tự do. Đặc biệt, khi Huấn Cao tưởng viên quản ngục đến để mua chuộc mình, ông đã tỏ ra “ khinh bạc đến điều” và nói: “Ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Với câu nói đó, Huấn Cao đã đuổi thẳng cổ viên quản ngục đi mà không sợ sự lôi đình, sự báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của một ngục quan bị sỉ nhục. Khí phách của Huấn Cao càng ngời sáng rực rỡ hơn khi ông nhận được tin ngày mai sẽ bị đưa về kinh xử chém. Với những con người bình thường, khi đối mặt với cái chết, họ thường tỏ ra khiếp sợ. Vậy mà , khi được tin cái chết đã đến, Huấn cao vẫn thanh thản “mím cười”. Hơn thế, Huấn Cao vẫn ung dung , chủ động sắp xếp kế hoạch để cho chữ viên quản ngục sau khi đã nhận ra tấm lòng yêu quý cái đẹp của ông ta. Trong cảnh cho chữ, Huấn cao đã hiện lên thật uy nghi : cổ đeo gông, chân vướng xiềng, tay tung hoành những nét chữ thể hiện khí phách của một con người hoài bão. Như vậy, ở Huấn Cao có vẻ đẹp hiên ngang của một trang anh  hùng nghĩa liệt.
          Không chỉ là một nghệ  sĩ tài hoa, một trang anh hùng hiên ngang khí phách, Huấn Cao còn là ngừơi có thiên lương cao đẹp. Thiên lương đó được thể hiện ở sự tự trong, coi khinh tiền bạc để bảo vệ cái đẹp. Huấn Cao không bao giờ vì vàng bạc, quyền uy mà ép mình cho chữ bao giờ. “ Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Vẻ đẹp thiên lương của Huấn Cao còn thể hiện rõ ở chỗ ông coi trọng  những tâm hồn luôn hướng tới cái đẹp. Huấn Cao đã rất cứng cỏi khi nghĩ rằng Quản ngục là kẻ đại diện cho quyền lực phi nghĩa. Khi biết Quản ngục có tấm lòng yêu chuộng cái đẹp, thái độ của ông khác hẳn, ông đồng ý cho chữ và nói những lời chân thành “ Ta cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài…Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Lời nói đó đã hé mở lối sống của Huấn Cao: sống là phải đáp lại những tấm lòng tốt. Huấn Cao không chỉ yêu và bảo vệ cái đẹp của nghệ thuật, ông còn luôn hướng tới bảo vệ cái đẹp của cuộc sống, của tâm hồn con người. Điều đó được thể hiện trong lời khuyên của ông với viên quản ngục:  hãy bỏ nghề, về quê mà ở vì ở đây khó giữ thiên lương cho “ lành vững”. Như vậy, Huấn Cao là người có cái tâm trong sáng.
          Xây dựng nhân vật Huấn Cao với vẻ đẹp ngời sáng, Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ tài hoa độc đáo trong  phong cách sáng tác của mình. Nguyễn Tuân đã đặt cả hai nhân vật vào tình huống éo le. Trong tình thế ngang trái đó, các nhân vật sẽ dần dần bộc lộ nhân cách của mình. Trong tác phẩm, Nguyễn Tuân còn sử dụng nghệ thuật tương phản : Huấn Cao xuất hiện luôn trong tư thế ung dung, hiên ngang, còn viên quản ngục và  thầy thơ lại luôn khép nép , nhún nhường. Chính nhờ nghệ thuật  này, Nguyễn Tuân đã tạo nên một ngôi sao chính vị rực rỡ – Huấn Cao. Đặc biệt, Nguyễn Tuân còn sử dụng nghệ thuật “ vẽ mây nảy trăng”. Để tô đậm nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân lại nói nhiều đến viên quản ngục và thầy thơ lại. Những lời nhận xét, đánh giá của thầy thơ lại và viên quản ngục càng làm cho vẻ đẹp của Huấn Cao ngời sáng rực rỡ hơn. Hình tượng nhân  vật Huấn Cao đã in đậm dấu ấn về phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân.
Tóm lại, tài hoa, khí phách, thiên lương trong sáng đã hội tụ và tỏa sáng ở nhân vật Huấn Cao. Qua hình tượng Huấn Cao, Nguyễn Tuân muốn khẳng định cái đẹp là bất diệt, cái tài và cái tâm, cái đẹp và cái thiện không thể tách rời; đồng thời thể hiện sự trân trọng những giá trị tinh thần của dân tộc. Tác phẩm khép lại nhưng để lại dư âm trong lòng người đọc nhiều cảm xúc. Đó là sự cảm phục trước vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao và trước tài năng của nhà văn Nguyễn Tuân. Với tác phẩm này, Nguyễn Tuân không chỉ “Vang  bóng một thời” mà còn mãi mãi “vang bóng” trên văn đàn văn học Việt Nam.