Phân tích hai câu thơ cuối của bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

Dàn ý chi tiết Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

1/ Mở bài

Giới thiệu tác phẩm: Bài thơ “Thương vợ” không chỉ thể hiện tình thương, sự trân trọng của nhà thơ Trần Tế Xương với sự tần tảo, hi sinh của bà Tú mà còn là lời tự giễu, chê trách chính bản thân nhà thơ khi thân nam nhi nhưng lại chẳng thể hoàn thành trách nhiệm với gia đình mà mãi lận đận với con đường công danh.

2/ Thân bài

– Sinh sống trong xã hội nửa tây nửa ta, công danh có thể mua bằng tiền thì những con người dẫu tài năng như Trần Tế Xương cũng phải lận đận lên xuống với thi cử, công danh.

– Mãi theo đuổi con đường công danh, lý tưởng lớn của cuộc đời mà Tú Xương đã không thể hoàn thành vai trò trụ cột của một người đàn ông trong gia đình, mọi gánh nặng con cái, gia đình vô tình đã trút hết lên đôi vai gầy yếu của bà Tú.

– Bà Tú đã không quản ngược xuôi, tần tảo với công việc buôn bán nhiều bon chen, xô bồ để nuôi sống cả gia đình.

– Tác giả Tú Xương đã tự chế giễu bản thân khi đặt mình ngang hàng với bốn đứa con thơ.

– Ông đã tự giễu sự vô dụng của bản thân, đồng thời thể hiện sự trân trọng, cảm thương với cái vất vả, lam lũ của bà Tú “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”.

– Càng thấu hiểu với nỗi khổ của bà Tú bao nhiêu thì tác giả Tế Xương càng tự trách mình bấy nhiêu.

– Bằng ngôn ngữ đời thường, tác giả Tế Xương đã lên án xã hội phong kiến đầy bạc bẽo đã mang đến bao thử thách khắc nghiệt của con người.

–> Cũng chính xã hội nửa tây nửa ta ấy đã khiến Tú Xương mãi lận đận với con đường thi cử mà trở thành kẻ vô dụng mang gánh nặng đến cho vợ con.

– Tác giả ý thức được nỗi khổ của vợ, cũng thấy được sự thiếu sót trong trách nhiệm của bản thân đối với gia đình nên ông đã cay đắng thừa nhận mình là người chồng hờ hững.

3/ Kết bài: Hai câu thơ cuối của bài thơ đã thể hiện được nỗi bất bình của nhà thơ Tế Xương đối với cuộc đời bạc bẽo, tự giễu bản thân khi chưa hoàn thành được trách nhiệm với gia đình, thân làm nam nhi nhưng lại để vợ bươn chải với cuộc sống lam lũ vất vả.

Bài văn mẫu số 1

Bài thơ “Thương vợ” không chỉ thể hiện tình thương, sự trân trọng của nhà thơ Trần Tế Xương với sự tần tảo, hi sinh của bà Tú mà còn là lời tự giễu, chê trách chính bản thân nhà thơ khi thân nam nhi nhưng lại chẳng thể hoàn thành trách nhiệm với gia đình mà mãi lận đận với con đường công danh, mang đến gánh nặng cho đôi vai gầy yếu của vợ. Nỗi bất bình với thời thế, lời tự trách đối với sự hờ hững của bản thân được tác giả Trần Tế Xương thể hiện rõ nét qua hai câu thơ cuối của bài thơ:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Sinh sống trong xã hội nửa tây nửa ta, công danh có thể mua bằng tiền thì những con người dẫu tài năng như Trần Tế Xương cũng phải lận đận lên xuống với thi cử, công danh. Ông đã từng nhiều lần thể hiện nỗi cay đắng với nghiệp công danh đầy trắc trở của bản thân “Thi không ăn ớt thế mà cay” hay “Đau quá đòn hằn rát hơn lửa bỏng”.

thương vợ

Mãi theo đuổi con đường công danh, lý tưởng lớn của cuộc đời mà Tú Xương đã không thể hoàn thành vai trò trụ cột của một người đàn ông trong gia đình, mọi gánh nặng con cái, gia đình vô tình đã trút hết lên đôi vai gầy yếu của bà Tú. Để lo cho gia đình, chồng con bà Tú đã không quản ngược xuôi, tần tảo với công việc buôn bán nhiều bon chen, xô bồ “quanh năm buôn bán ở mom sông” cùng với gánh nặng gia đình đổ lên đôi vai gầy yếu “nuôi đủ năm con với một chồng”.

Tác giả Tú Xương đã tự chế giễu bản thân khi đặt mình ngang hàng với bốn đứa con thơ. Ông đã tự giễu sự vô dụng của bản thân, đồng thời thể hiện sự trân trọng, cảm thương với cái vất vả, lam lũ của bà Tú “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”. Tuy gánh trên vai mọi gánh nặng nhưng bà Tú không hề than vãn, trách móc số phận mà chấp nhận toàn bộ gian khó về mình chỉ mong mang đến cuộc sống lo đủ cho chồng con.

Càng thấu hiểu với nỗi khổ của bà Tú bao nhiêu thì tác giả Tế Xương càng tự trách mình bấy nhiêu. Đến hai câu thơ cuối của bài thơ, tác giả đã thể hiện sự phẫn uất trước cái bạc bẽo của cuộc đời, trước sự vô dụng của bản thân:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Bằng ngôn ngữ đời thường, tác giả Tế Xương đã lên án xã hội phong kiến đầy bạc bẽo đã mang đến bao thử thách khắc nghiệt của con người. Cũng chính xã hội nửa tây nửa ta ấy đã khiến Tú Xương mãi lận đận với con đường thi cử mà trở thành kẻ vô dụng mang gánh nặng đến cho vợ con. Lời chửi của Tế Xương gợi liên tưởng đến lời chửi đầy chua chát của Hồ Xuân Hương trước cảnh chung chồng:

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Năm thì mười họa hay chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không”

Vì mải theo đuổi nghiệp công danh, Tế Xương trở thành người chồng hờ hững, tác giả ý thức được nỗi khổ của vợ, cũng thấy được sự thiếu sót trong trách nhiệm của bản thân đối với gia đình nên ông đã cay đắng thừa nhận mình là người chồng hờ hững “có chồng hờ hững cũng như không”.

Hai câu thơ cuối của bài thơ đã thể hiện được nỗi bất bình của nhà thơ Tế Xương đối với cuộc đời bạc bẽo, tự giễu bản thân khi chưa hoàn thành được trách nhiệm với gia đình, thân làm nam nhi nhưng lại để vợ bươn chải với cuộc sống lam lũ vất vả. Bài thơ cũng thể hiện được tấm lòng đáng trân trọng của con người đầy tình nghĩa của Tế Xương.

Bài văn mẫu số 2

Trần Tế Xương (1870-1907), thường hay gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định, sinh thời là người học rộng tài cao, có chí nhưng lại không gặp may mắn trong con đường công danh. Vì bất đắc chí trong chuyện học hành thi cử nên ông Tú thường lấy việc sáng tác văn chương làm thú vui để đỡ đi nỗi chán chường, day dứt. Thơ văn của ông là sự kết hợp, lồng ghép giữa các yếu tố trữ tình, trào phúng và hiện thực sâu sắc, đôi lúc người ta thường ví đôi mắt nhìn của ông Tú và những tác phẩm của ông chính là cuốn nhật ký đặc sắc về một thời đại mà xã hội rối ren Tây, Tàu, Ta lẫn lộn. Với cuộc đời ngắn ngủi chỉ khoảng 37 năm trời thế nhưng Tú Xương đã để lại một sự nghiệp thơ ca khá đồ sộ với 100 tác phẩm, ấn tượng hơn cả là trong số những tác phẩm ấy ông đã dành hẳn một đề tài để viết người vợ tào khang - bà Tú. Trong số đó, bài thơ Thương vợ là một trong những tác phẩm đặc sắc và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, tình cảm ấy được bộc lộ một cách chân thực và rõ nét nhất là ở hai câu kết tự như lời "chửi" của bài thơ "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/Có chồng hờ hững cũng như không".

Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu về đề tài trữ tình của Tú Xương, thơ xưa dưới quan niệm phong kiến cổ hủ, trọng nam khinh nữ thường hiếm có các tác phẩm viết về người vợ, người phụ nữ. Phái nam nhân thường thường giam mình trong một lối mòn suy nghĩ rằng người vợ phải tam tòng tứ đức, đã theo chồng thì việc chịu gian khó, cực nhọc hầu hạ, nâng túi sửa khăn cho người chồng đã là điều đương nhiên, có mệt có khổ âu cũng là thường tình, không việc gì phải trăn trở, thay vào đó cái họ trăn trở thường cao xa, vượt khỏi cuộc sống tầm thường. Nhưng đến Tú Xương thì lại khác, không phải vì ông vô công rỗi nghề, vì ăn lương vợ mà ông phải viết thơ, viết văn để ca ngợi vợ, mà chính xuất phát từ tình yêu thương và lòng trân trọng vô hạn của một người chồng dành cho người vợ tào khang của mình. Xuất phát từ ý thức về cuộc đời, ý thức về những nỗi vất vả gian lao của vợ, mà cái cuộc đời khốn nạn đã không cho ông có thể san sẻ với bà Tú, để cả gia đình với bảy miệng ăn đè nặng lên đôi vai một mình bà Tú. Phải công nhận rằng, Tú Xương có một gia tài thơ ca đồ sộ đến hơn trăm bài như thế, một phần lớn nhà nhờ công lao của vợ ông, ông có thể thiếu may mắn trong con đường công danh, thế nhưng trái lại ông trời đã cho ông một người vợ thảo hiền hết mực, bà tôn trọng, thương yêu, hy sinh vì chồng con hết mực. Dẫu áp lực cơm áo đang trĩu nặng trên vai nhưng bà Tú cũng không muốn chồng mình rời khỏi nghiệp bút nghiên để lao vào cuộc sống lao động vất vả, bà vẫn muốn ông là một tú tài được thỏa sức với nghiệp văn chương, không phải chịu nhiều gian khó. Tấm lòng ấy của vợ, Tú Xương nhìn thấy một cách rõ ràng, ông không vô tình gạt sang một bên hay giấu giếm ở trong lòng để giữ tự tôn của một người đàn ông phong kiến, mà trái lại ông đưa hết những tình cảm ấy vào thơ văn của mình, bằng ngôn từ giản dị, chân thực, đôi lúc có chỗ đanh đá, chua ngoa, nhưng đó lại mới đúng là đặc sắc thơ văn Tú Xương, trữ tình, hiện thực và trào phúng luôn đan xen với nhau.

Hai câu cuối trong bài Thương vợ của Tú Xương, đích xác nghe giống một câu "chửi".

"Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không"

"Cha mẹ" ở đây không phải có ý trách móc gì phụ mẫu, chẳng qua là Tú Xương thương vợ khổ cực quá, ông tức cho cái thói đời nhiễu nhương rối loạn, không cho nổi ông một con đường công danh sáng lạn, không để ông vung hết cái tài của mình, mà bấy nhiêu lâu thi thố cũng chẳng ăn ai, vẫn chỉ một kiếp tú tài bé con. Giá như thời buổi Nho học còn thịnh, cỡ tú tài cũng khấm khá, cũng có thể gõ đầu vài lớp trẻ, thế nhưng đời bạc, phận cũng bạc theo ông lại sinh ra đúng cái buổi Tây, Tàu trà trộn làm bát nháo đi cái nề nếp văn hóa lâu đời của đất nước. Xã hội phong kiến suy tàn, Nho học suy tàn, những bậc trí thức đương thời cũng chán chường lui về chốn thôn quê, không màng thế sự, bởi khi ấy đạo đức xã hội xuống cấp, đồi bại, nhân cách con người biến dạng, họ sẵn sàng vứt bỏ liêm sỉ, đạo đức chà đạp lên nhau mà chuộc lợi, ăn sung mặc sướng. Còn những người có tâm, có tài như Tú Xương lại phải chịu cái kiếp để bọn ô hợp đè đầu cưỡi cổ, phải chịu cảnh lực bất tòng tâm. Thử hỏi có thể không uất ức, không buông một tiếng chửi cái "thói đời ăn ở bạc" được hay không?

Tiếng chửi đời ấy, cũng là tiếng tự chửi mình của Tú Xương, ông tự trách mình bất tài, vô dụng không thể san sẻ bớt gánh nặng cho vợ, mà chỉ biết làm một người chồng ngày ngày ăn lương vợ, giương mắt nhìn vợ mình chịu biết bao khó nhọc. Như vậy bà Tú đúng như lời Tú Xương nói "Có chồng hờ hững cũng như không", dưới chế độ phong kiến, đạo lí vẫn là người chồng gồng gánh việc mưu sinh, là trụ cột của cả gia đình, còn người vợ có trách nhiệm tề gia nội trợ, nuôi dạy con cái, thượng đế sinh ra đàn ông và đàn bà thực tế cũng đã có ý như thế rồi. Thế nhưng trong gia đình của Tú Xương thì lại khác, một mình bà Tú gánh cả hai gánh nặng ấy trên vai, bà không nỡ để chồng đi làm thuê cho bè lũ tay sai, cho quân xâm lược mà ông vốn ghét cay ghét đắng, bà cũng chẳng yên tâm để ông bếp núc, con cái, thế là bà ôm tất. Ý thức được hoàn cảnh gia đình, Tú Xương lại càng thêm tự trách, càng thêm đau đớn và căm ghét cái xã hội đẩy đưa, đốn mạt lúc bấy giờ.

Nhưng phải chăng Tú Xương chỉ chửi đời, chửi mình? Tú Xương còn chửi cả những kẻ giống mình nữa, ông chửi những kẻ bạc bẽo, tinh ăn lười làm, thích hưởng thụ, coi vợ là người ăn kẻ ở, phải phục dịch cho những thói ăn chơi, hưởng thụ của mình. Chửi những ông chồng, những kẻ đốn mạt, nỡ vứt lên đôi vai người vợ kết tóc những gánh nặng chất chồng, nhưng lại chẳng có lấy một sự day dứt, thương cảm, không biết tôn trọng yêu quý vợ mình, để những người phụ nữ bất hạnh ấy phải chịu biết bao đắng cay, khổ cực của cuộc đời. Như vậy đúng với cái câu "Có chồng hờ hững cũng như không" thật, chẳng bằng họ không lấy chồng có khi cuộc đời lại đỡ vất vả.

Bài thơ Thương vợ đã thể hiện một cách sâu sắc và cảm động tình cảm chân thành của người chồng dành cho vợ mình, dẫu rằng ông không cho bà được một cuộc sống ấm no, êm đềm thế nhưng cách mà ông tôn trọng, yêu thương bà Tú khiến bà có một chỗ dựa tinh thần vững chắc, là động lực để bà Tú tiếp tục cố gắng vì gia đình, điều ấy khiến người ta thật ngưỡng mộ. Hai câu thơ cuối là những lời tâm huyết tận đáy lòng, cũng là tiếng phản kháng của Tú Xương trước cuộc đời đen bạc, là lời tự trách đầy chua xót, cay đắng của ông với chính bản thân, với cả những đức ông chồng tệ hại, vô dụng, để vợ phải vất vả cực nhọc cả cuộc đời.