Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử hay nhất (69 mẫu)

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 1

Khi được gọi tên cho Phong trào thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã gọi đó là một "Cây nấm lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc". Cái "lạ" của thơ mới, có người biết, có người chưa biết, nhưng cái "lạ" mà người thi sĩ Hàn Mặc Tử mang theo khi bước vào làng thơ, thì hẳn ai cũng rõ. Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tượng của hồn, trăng, và máu đã không thôi ám ảnh những ai yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng chẳng ai có thể tưởng đến giữa một rừng thơ ma quái và kì dị ấy, lại mọc lên một bông hoa trong sáng tinh khôi, còn vương bao hương sắc ở đời. Bông hoa ấy Hàn đặt tên "Đây thôn Vĩ Dạ", trong nó chứa chở bao cảm xúc và hoài nhớ về một miền quê từng gắn bó biết bao...

Thi phẩm chỉ vỏn vẹn ba khổ, nhưng là sự kết đọng của bao nhiêu nỗi nhớ, bao nhiêu khát khao, có cả bao nhiêu hoài nghi và tuyệt vọng. Bài thơ gắn với chuyện tình giữa thi sĩ và người con gái Huế tên Hoàng Cúc. Giữa những ngày đau đớn nhất cuộc đời, chàng lại nhận được bức ảnh sông nước xứ Huế đêm trăng, nhận thêm mấy dòng thư tín từ người con gái chàng từng thầm thương. Bao cảm xúc ùa về, cuộc hành hương trong tâm tưởng cũng từ đó, và những vần thơ hay nhất được gợi hứng từ xứ Huế mộng mơ đã bật trào trong nỗi nhớ...

Thi phẩm bắt đầu bằng một câu hỏi mang đầy ý vị của Huế mộng và Huế thơ. Không phải là hàng loạt câu hỏi tự vấn đầy quằn quại và đau đớn như ta từng gặp:

Tôi vẫn ở đây hay ở đâu
Ai đem bỏ tôi xuống trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

Câu hỏi cất lên ở đây vừa như một lời mời, một lời hỏi, lại như một lời trách móc, lời thở than: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Là người con gái Huế hỏi chăng? Hay là Hàn tự phân thân ra hỏi mình? Dù là gì thì cái điều cốt nhất ta thấy được ở đây cũng chỉ là một niềm tha thiết, một nỗi xúc động của người thi sĩ khi được trở về với mảnh đất nhiều kỉ niệm, dù chỉ là trong tâm tưởng. Câu thơ chơi vơi trong sáu thanh bằng và vút lên ở thanh cuối đủ gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó mờ. Là "không về" chứ không phải "chưa về", là "về chơi" chứ không phải "về thăm". Nếu đọc cho kĩ, ngẫm cho sâu, ta sẽ thấy một câu thơ mà hàm ẩn bao ý niệm. "Chưa về" nghĩa rằng sẽ còn về được nữa, "về thăm" nghe thật xa lạ biết bao. Đứng ở tâm thế của một người con từng rất gắn bó với xứ Huế, Hàn đã dùng chính tâm thức của mình để viết những câu thơ tiếp theo. Cảnh vườn thôn Vĩ hiện ra, ngời ngời sắc xanh, long lanh ánh sáng:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Ấn tượng sâu nhất vương lại từ câu thơ chính là không gian ngập tràn sắc nắng. Không phải "nắng ửng" trong làn khói mơ tan, không phải "nắng chang chang" dọc theo bờ sông trắng, nắng ở đây, là thứ "nắng mới", không huyền hồ ảo diệu, không đậm màu đậm hương, nó tinh khôi và trong trẻo đến lạ. Nắng đổ xuống hàng cau, cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhàng, một khu vườn mướt xanh được gội sạch bởi sương đêm, sáng sớm nay được đằm mình trong nắng mới. Cái "mướt" mà Hàn gọi dậy ở khu vườn, cái "ngọc" mà Hàn ví với màu xanh, chúng gợi ra bao nhiêu là sắc điệu. Vừa gợi màu mà vừa gợi ánh, vừa óng chuốt lại thật tinh khôi. Người ta ngỡ ngàng về một cảnh vườn thôn từng quen nay trong trẻo đến lạ.

Nhớ về thôn Vĩ còn là nhớ về những nét dáng thân thương của con người nơi đây. Không tả mà chỉ gợi, bằng bút pháp cách điệu hóa, thi sĩ đủ cho ta cảm nhận về con người Huế chân thật, dịu dàng, về con gái Huế đằm thắm, nữ tính, thấp thoáng sau một mảnh trúc che ngang là gương mặt chữ điền rất Huế. Ta từng gặp hình dáng ấy trong câu thơ của Bích Khê:

Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc không buồn mà say.

Những nét vẽ thanh tao, những cảm nhận tinh tế, chúng gọi dậy một hồn thơ thánh thiện, nặng tình nặng nỗi với một mảnh đất thân thương. Tìm đâu xa tình yêu quê hương xứ sở, đôi khi niềm thương bắt đầu từ những ấn tượng ngọt ngào quá đỗi bình thường như thế. Hóa ra, không chỉ Hoàng Phủ, không chỉ Trịnh Công Sơn mới viết hay về Huế. Hàn cũng góp cho Huế mấy vần thơ thật chân tình đượm nồng những yêu thương...

Nhưng liệu có phải sẽ thật thiếu sót khi nhắc về Huế mà bỏ quên cảnh sông nước đêm trăng vốn đã thành mảnh hồn riêng nơi đây? Bắt trọn được cái hồn riêng ấy, thi sĩ đã kéo cái nhìn của người đọc sang một miền không gian khác, chơi vơi giữa gió mây, lặng mình theo dòng nước:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Một bức tranh gợi buồn, gợi sầu. Gió nhẹ thổi, mây nhẹ trôi, hoa bắp nhẹ lay, dòng Hương giang trầm mặc. Cái dáng Huế qua mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế. Không khí trầm tịch của đất cố đô được gợi lại chỉ qua mấy nét chấm phá.

Nhưng hãy thử đọc kĩ, và nhìn đằng sau câu thơ xem còn bao nhiêu nét nghĩa nữa. Quả vậy, đây không chỉ là một bức tranh ngoại cảnh, nó là tranh tâm cảnh, là điệu tâm hồn. Cứ nghe cái điều ngang trái trong câu thơ là rõ. Lẽ thường gió thổi mây bay, ở đây gió mây đôi ngả, xa cách như chẳng thể chung đường. Cảnh đã được nội tâm hóa, thấm đượm sự chia li. Đến nỗi mà, cái buồn đã được gọi thành tên: "buồn thiu". Hai chữ "buồn thiu" đã gói trọn nỗi buồn đau của con người, của mối trần duyên tê tái. Thấp thoáng nơi ấy câu dân ca thuở nào:

Ai về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em?

Nhưng không biết vì nỗi buồn đã choán ngập tâm hồn, hay vì nhớ mong không thể làm chủ, mà ngay hai câu thơ sau, cảnh trở nên thật hư ảo huyền hồ:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Thuyền, trăng, bờ bãi vốn không phải lần đầu đồng hiện. Thơ xưa từng có ai viết:

Nước biếc non xanh thành gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạch khách lên lầu.

Nhưng cái khác biệt ở đây là, thi sĩ không đứng đó mà ngắm trăng hay ngắm sông, người đang chìm dần trong cảm giác ảo hóa. Trăng xuất hiện trở lại, nhưng không phải "trăng vàng trăng ngọc", "trăng nằm sóng soãi", mà là trăng huyền hồ tan trên mặt nước. Trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bóng người cũng trở thành hình ai thấp thoáng, mờ nhòa trong trăng. Tất cả ngập một màu trăng. Trăng ở đây mang chở nỗi niềm khắc khoải, lo âu, nuối tiếc trước nỗi đau sắp phải xa lìa thực tại.Sự phấp phỏm âu lo và những mong được níu giữ thời gian ấy hiện lên rõ nhất ở chữ "kịp" và câu hỏi đầy tội nghiệp kia. Ta nhìn thấy ở đây một cuộc chạy đua với thời gian, thời gian đang dồn đuổi từng bước, nhưng chạy đua không phải để tận hưởng tối đa thanh sắc cuộc đời như mong muốn của Xuân Diệu, mà chỉ mong tận hưởng cái tối thiểu - đó là được sống. Được sống không thôi đã thỏa nguyện rồi. Trong câu thơ là bao nhiêu sự âu lo, cũng là bấy nhiêu niềm khao khát. Nhân văn của thi hẩm cũng là ở đó: Hãy luôn sống trọn từng ngày khi còn đang được sống.

Niềm khao khát tình đời, tình người của thi nhân cất lên rõ nhất ở khổ thơ thứ ba, khi mà thế giới đã về với thực tại, ngập chìm hoàn toàn ở cõi mơ:

Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đâm đà?

Chữ "mơ" đặt ở đầu, chơi vơi sau đó là tiếng gọi "khách đường xa" đầy khắc khoải, mang theo sự chơ vơ hụt hẫng, bỏ lại bao ngẩn ngơ buồn tiếc. Hình ảnh khách thể xuất hiện trở lại, ngỡ như cứ bước xa dần khỏi vòng tay Hàn, đi về một cõi xa xăm không thể chạm đến. Người con gái mang sắc áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô ngần, suốt đời Hàn tôn sùng nay lại trở nên mờ nhòa, khó giữ. Tất cả như mờ ảo hơn:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Không gian mông lung, lạnh lẽo, mịt mùng trong sương khói, huyền hồ trong ảo ảnh. Nó choán trùm lên cả ý thức và tiềm thức, thắt buộc lòng người đến tê dại. Nghe câu hỏi khắc khoải cuối cùng: "Ai biết tình ai có đậm đà?", ta thảng thốt nhận ra, hóa ra bấy lâu người thi sĩ cũng chỉ mong chờ điều ấy, khao khát điều ấy, đó là tình người, tình đời. Đời thi sĩ sống đã vốn chẳng được vui, đến cuối đời cũng chỉ mong tìm được mảnh hồn tri ngộ. Hàn Mặc Tử của chúng ta, không "kì dị" như bao người nói. Chàng có trái tim rất người, có những tình cảm rất người, mà có lẽ đến nhiều năm sau này vẫn có không ít người ghi nhận điều ấy.

Bài thơ như một khúc đoản ca về tình yêu và niềm khao khát, hướng về một mảnh vườn, cũng là hướng về một mảnh đời. Đặc sắc của thi phẩm còn được tạo nên ở những nghệ thuật mang phong cách riêng của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh tượng trưng đầy hàm nghĩa, với nhưng câu hỏi tu từ trải đều trên các khổ thơ mang thoe ý niệm riêng, cùng lối viết cách điệu hóa, pha lồng ảo thực, "Đây thôn Vĩ Dạ" xứng là một thi phẩm có những thi từ đẹp nhất, trong sáng nhất.

"Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và còn lại của thời kì này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử". Lời trân trọng mà người bạn thơ Chế Lan Viên gửi cho Hàn đã nói thay về những gì Hàn để lại cho đời. Mãi mãi là như thế...

Trong chương trình học Ngữ Văn lớp 11, phần bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, tác giả là một trong những nội dung rất quan trọng mà các em cần quan tâm và trau dồi kiến thức Ngữ Văn 11 của mình.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 2

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác "Đây thôn Vĩ Dạ" đã ra đời.

Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.

"Sao anh không về chơi thôn Vĩ?"

Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tâm thức.

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên"

Câu thơ này xuất hiện hai từ "nắng". Một cái nắng được phát hiện được miêu tả "nhìn nắng hàng cau" và một cái năng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con "nắng mới lên". Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp nên trên những hàng cau.

Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết phải có một cuộc dạo chơi như vậy. Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạt vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ.

"Vườn ai mướt qua xanh như ngọc" Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã "vườn ai mướt quá" lại còn phát hiện ra cái "mướt quá" ấy là "xanh như ngọc". Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc.

"Lá trúc che ngang mặt chữ điền"

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng "mặt chữ điền" chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì "vườn ai" chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí. Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên - bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi đánh giá phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là "mặt chữ điền" là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.

Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế. Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để đươc yêu. Hình tượng "lá trúc che ngang" càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên.

"Gió theo lối gió, mây đường mây"

Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.

Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói nóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kể phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tường dại khờ.

Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dung hiện ra thật nhân từ và độ lượng.

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"

Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

Nhân vật "ai" ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. Đó là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử. Thế nhưng chữ "kịp" ở đây lửng lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa... Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phúc ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.

"Mơ khách đường xa, khách đường xa"

Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy "khách đường xa, khách đường xa". Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:

"Người đã đi rồi khôn níu lại
Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi đến dại khờ".

Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình. Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như "khách đường xa". Nhưng cũng liền sau đó, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ "em" thật giản dị, gần gũi biết bao:

"Áo em trắng quá nhìn không ra"

Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng. Đáng lẽ "áo em trắng quá" thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao... Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật "em" trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình.

Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh:

"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh"

Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:

"Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm"

Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được "nhân ảnh" chứ không thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu. Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa "nhân ảnh" của nhân vật "em"... Đó là một nhận thức thật chua chat, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu:

"Ai biết tình ai có đậm đà?"

Hai đại từ "ai" ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không? Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy "mờ nhân ảnh", càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của "Đây thôn Vĩ Dạ" chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.

Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta giá trị nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. Chúng ta không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 3

Hàn Mặc Tử - một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào yêu thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây mà ông đã thả hồn mình vào tronq thơ, những giây phút ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu ấy. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ buồn đau.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau.

Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ.

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ - vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ - quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những lia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánh nắng và buổi bình minh. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên rọi xuống làng quê mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được dính vào chiếc choàng nhung xanh mịn:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đên thẫn thờ. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền - khuôn mặt ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo nhưưong giấc mộng:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử - một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa hắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối lăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui - thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Cỏ chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các hài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gởi, lả lơi:

Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa
Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.

Hay:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu đên sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tôi nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?

Trái tim khao khái yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế - kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Đọc, phân tích Đây thôn Vĩ Dạ, người đọc càng thấy hay, ngậm ngùi, thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghe thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lòng người.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 4

  “Ai mua trăng tôi bán trăng cho
                                     Không bán đoàn viên, ước hẹn hò.”

Nhắc đến những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mạc Tử. Một sự nghịch lí, lạ đời vì trăng cũng là chung cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của nhà thơ. Và một lần nữa sự thủy chung ấy lại được tái hiện qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm không những là bức tranh thủy mặc về một vùng của cố đô Huế mà nó còn là nỗi lòng gửi tới phương xa của nhà thơ Hàn Mạc Tử.

Mở đầu bài thơ, không phải là lời chào mà là lời trách móc:  “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Giọng điệu mang tính hỏi han, trách móc nhân vật  trữ tình sao không về với thôn Vĩ, về với những kỉ niệm. Câu thơ còn nói lên sự tiếc nuối khi nhân vật trữ tình không thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp thôn Vĩ.

Sự tiếc nuối của người con gái đã nhắc đến âu cũng có căn cứ vì với một loạt “vẻ đẹp" sau đây thì dù ai bỏ lỡ chuyến về đều phải luyến tiếc.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
 Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
  Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ba câu thơ này đã bước đầu khắc họa bức tranh quê hương thôn Vĩ với vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết. Ở câu thơ thứ hai tác giả khéo léo dùng biệp pháp điệp từ “nắng". Nếu như “nắng" ở vế đầu chỉ vị trí nó xuất hiện (nắng trên hàng cau) thì “nắng" ở vế sau lại nói về tính chất (nắng mới). Khung cảnh ở thôn Vĩ xuất hiện trước mắt người đọc là vẻ đẹp vườn tược, vẻ đẹp vùng nông thôn ngoại ô thành phố. Hàng cau chính là hình ảnh điển hình nhất cho vườn tược chốn Thừa Thiên, nhưng tác giả khéo léo hơn khi lồng vào hình ảnh này là một “gia vị" đậm chất Huế. Cái nắng ở đây xuất hiện với tính chất - mới. “Nắng mới" có thể hiểu là nắng buổi sáng, ánh nắng bắt đầu cho ngày mới. Nhưng ánh nắng này không chỉ bắt đầu cho một ngày mà còn khởi đầu cho một mùa xuân tươi trẻ. “Nắng mới" đi kèm với động từ “lên" tạo cảm giác tươi trẻ, tràn đầy sức sống và thi sĩ chính là người may mắn khi được chiêm ngưỡng khoảnh khắc này. Từ đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp miền quê thôn Vĩ.

Từ ánh nhìn “nắng hàng cau", tác giả đã chuyển qua quan sát “đối tượng" khác là vườn thôn Vĩ. Có thể thấy từ câu thơ này, góc nhìn của tác giả đã có sự dịch chuyển. “Vườn” hiện lên gần hơn, tầm nhìn của nhà thơ rất gần. Nghệ thuật tu từ “vườn ai" gợi lên sự tò mò, hiếu kì vì không xác định chủ nhân khu vườn này là ai. Nhưng cái người ta quan tâm không phải là danh tính người chủ khu vườn, mà quan trọng mà sự trong xanh của nó. Tác giả so sánh vườn với ngọc để cho thấy sự trong xanh, tinh khiết của khu vườn vào buổi sáng ban mai. Nhìn vào hình ảnh này người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, cơ mắt cũng thực sự được thư giãn. Tuy nhiên, tài năng của Hàn Mạc Tử không đơn thuần chỉ có thế. Tác giả khéo “tặng" chữ “mướt"  khi miêu tả màu sắc khu vườn. Từ này tạo cho người đọc cảm giác về sự trơn tru, tròn trịa và thêm phần mịn màng. Đã thế nó còn đi kèm với thán từ “quá" làm cho vườn tược của thôn Vĩ thêm phần thanh tao. Làm người đọc tò mò muốn được nhìn thấy một lần. Nếu như câu hai, câu ba giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về thiên nhiên xứ Huế thì tới câu thứ tư nhà thơ đã giới thiệu về con người nơi đây. Hình ảnh “mặt chữ điền" chỉ về khuôn mặt phúc hậu, hiền từ và đây cũng là cách tác giả giới thiệu về tính cách con gái Huế. Ẩn mình sau nét đẹp ấy là chi tiết “lá trúc che ngang" gợi lên sự e ấp, ngại ngùng của cô gái xứ mộng mơ. Như vậy chỉ với khổ thơ đầu người đọc đã có cái nhìn đầu tiên về khung cảnh thôn Vĩ. Mảnh đất ở đây không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tinh túy mà con người cũng rực rỡ muôn phần.

Đến với khổ thơ hai, độc giả tiếp tục chứng kiến những đường nét mà “thi sĩ" vẽ nên. Bức tranh ấy đã mở rộng cả về không gian lẫn thời gian.
“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mở đầu khổ hai, Hàn Mạc Tử mở rộng không gian thôn Vĩ bằng hình ảnh từ trên cao. Ở đây tác giả rất tinh tế khi sử dụng biệp pháp điệp cấu trúc câu và điệp từ đồng thời với nhau. “Gió" và “mây" được nhấn mạnh hai lần nhưng không phải cảm giác gắn bó, khăng khít mà là sự chia lìa. Vì gió đi lối riêng, mây lại có đường khác. Nếu như câu đầu tác giả nói về sự chia lìa nhưng bằng cách gián tiếp thì câu tiếp theo nhà thơ đã nhấn mạnh cảnh vật với tâm trạng sầu thảm bằng động từ “buồn thiu”. “Buồn thiu" là tâm trạng sầu thảm pha chút cô đơn. Và nhân vật mang tâm trạng này là “dòng nước". Bằng thủ thuật nhân hóa, tác giả đã ví dòng nước thôn Vĩ như một sinh vật có suy nghĩ, có tâm trạng. Cảnh vật chuyển mình mạnh mẽ từ tươi tắn lúc ban mai và lại mang nét hoài cổ vào thời điểm này. “Hoa bắp lay" có thể là một sự rung rinh khi có đợt gió đi qua làm rõ hơn sự buồn bã, đơn côi. Không gian đang ở trên cao liền được  kéo xuống dưới thấp làm cho hình ảnh thêm phần sinh động . Ý đồ của tác giả thực sự xuất sắc khi để cho cái buồn của thiên nhiên hiện ra trước, làm người đọc tò mò, suy nghĩ rồi tác giả mới đưa ra cái trầm tư của con người.

 “Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nếu như câu hỏi tu từ ở khổ thơ đầu tiên mang nét trách móc thì ở khổ này lại đượm buồn và có chút xót xa. Xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “thuyền", “bến" cùng với hình ảnh “sông Trăng". Sông Hương bây giờ đã nhuốm đầy ánh trăng, làm cho cả một vùng sông tràn ngập ánh vàng. Câu hỏi cuối khổ thơ như thể chính tác giả đang hỏi bản thân. Câu thơ đã bộc lộ nỗi niềm lo lắng khi trong hoàn cảnh này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác. Và liệu nhà thơ có đủ thời gian để chờ vầng trăng ấy về kịp. Câu hỏi khiến cho cả khổ thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang.

Đành là vậy! Như khi đến khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục sống cho mộng ước của mình

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”

Lần này tác giả sống trong mộng tưởng của mình. Hình ảnh khách đường xa nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng, nhớ thương của tác giả dành cho người thương. Theo một số tư liệu thì lúc làm nhân viên ở Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử có thầm thương trộm nhớ cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì gia đình cô Cúc đã về lại Vĩ Dạ (Huế). Trong thời gian nhà thơ bạo bệnh, được sự gợi ý của người bạn, cô Cúc đã gửi cho nhà thơ bức ảnh chụp cảnh cô mặc áo dài trắng cùng với đó là hình ảnh sông, nước, bến, thuyền. Nhận được bức ảnh ấy, nhà thơ đã rất vui. Cũng chính vì thế mà hình ảnh “áo em trắng quá" có thể bắt nguồn từ tà áo trắng mà cô Hoàng Thị Kim Cúc đã chụp. Tuy nhiên, cái màu trắng ấy lại “nhìn không ra". Có một số giả thiết cho rằng lúc tác giả mắc  bệnh thì con mắt đã kém đi nên nhìn mọi vật có thể không rõ. Vậy nên màu trắng này có phải là sự lạ lẫm hay cái nhìn đã phần giảm xuống?

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”

Câu thơ thứ ba của khổ cuối đã miêu tả đúng cái không gian của xứ Huế. Với vùng quê được bao quanh bởi sương và khói, màu trắng ấy đã làm mờ đi mọi thứ kể cả “nhân ảnh". Con người dường như cũng bị khuất lấp sau màn sương ấy. Cảm giác vừa thực vừa ảo, như thể tác giả đang lạc vào thế giới thần bí mà ở đó mọi vật đều khó hiện rõ nét sau “tấm rèm trắng". Và có lẽ ý tứ, tình cảm của tác giả lại được gói ghém ở câu thơ cuối cùng. Tiếp tục là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Nhà thơ hỏi người mà cũng giống như hỏi mình liệu tình cảm ấy còn “đậm đà", son sắt như ngày xưa. Liệu cố nhân có còn giữ tình cảm xưa cũ. Đọc câu thơ này, độc giả sẽ không biết nhân vật hỏi và được hỏi sẽ là ai. Thế nhưng cái người ta để tâm là tình cảm ấy có trường tồn, và lòng người có còn giữ chút niềm riêng. Tất cả đều là một ẩn số!
Bằng cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật một cách xuất sắc và linh hoạt như biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… người đọc đã có dịp chứng kiến cây bút tài hoa vẽ nên những đường nét mềm mại của bức tranh chốn Thừa Thiên một cách sinh động và có hồn nhất.
Với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ" Hàn Mạc Tử đã đưa độc giả đến với không gian xứ Huế mộng mơ mà cụ thể là cảnh thôn Vĩ Dạ. Với một khung cảnh trữ tình, nên thơ cùng với tình yêu tha thiết, nhớ mong tác giả đã giãi bày tình cảm của mình với người con gái Huế mà tác giả thầm đơn phương. Tình cảm ấy son sắt, thủy chung nhưng lại bồn chồn, lo lắng về “người cũ” có còn giữ nỗi niềm xưa. Tình cảm ấy còn đọng mãi và trở thành một câu hỏi không nguôi trong lòng tác giả và cho cả người đọc.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 5

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một nhận định rất sâu sắc về phong trào thơ Mới như sau: “Đời chúng ta nằm trong vòng một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Nếu như Xuân Diệu luôn đắm say với những cảm xúc thiết tha, rạo rực băn khoăn thì nhà thơ Hàn Mặc Tử lại gắn liền với sự kỳ dị, điên cuồng và trong thế giới kỳ dị điên cuồng đó người ta vẫn tìm thấy một tình yêu đến đau đớn, khắc khoải hương về cuộc đời trần thế, dẫu nó đã để lại cho ông nhiều bất hạnh, bi ai. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất và hay nhất của phong trào thơ Mới cũng như trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình công giáo nghèo tại Quảng Bình, nổi tiếng là thần đồng thơ từ những năm 15, 16 tuổi. Phong cách thơ của ông có sự đan xen kết hợp giữa những hình ảnh thân thuộc, trong trẻo, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những thứ rùng rợn, ma quái, cuồng loạn đã tạo nên một diện mạo thơ vô cùng kỳ dị và phức tạp. Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 in trong tập thơ Điên, sau đổi tên thành Đau thương, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô gái gốc Huế là Hoàng Thị Kim Cúc dường như đã trở nên vô vọng khi hai người vừa cách biệt cả địa vị lẫn địa lý. Trong sự hẫng hụt đến tột cùng ấy Hàn Mặc Tử đã viết rất nhiều thơ về sự kiện này, trong đó khác biệt có bài Đây thôn Vĩ Dạ được viết trong lúc bệnh tình của Hàn Mạc Tử trở nặng nhưng lại nhận được tấm bưu thiếp của người xưa, điều ấy đã khơi gợi lên trong lòng ông sự vui sướng, niềm ham sống vô cùng, tất cả đều được thể hiện một cách trọn vẹn trong bài thơ này. Không chỉ vậy Đây thôn Vĩ Dạ còn là thông điệp mà Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm cho cả cuộc đời này, là nỗi niềm khát khao, tha thiết với cuộc sống trần thế một cách mãnh liệt của nhà thơ.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Ở khổ thơ đầu của bài thơ phong cảnh thiên nhiên của thôn Vĩ Dạ, một góc của xứ Huế mộng mơ đã được mở ra với dáng vẻ trong sáng thanh khiết dưới cái nắng mai dịu dàng. Câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” mang một âm sắc đặc biệt bởi đã số chữ đều mang thanh bằng đã đem đến một cảm giác rất Huế, rất ngọt ngào êm ái tựa như bức rèm mỏng đã mở ra và khơi gợi nên mạch cảm xúc mộng và thơ cho toàn bộ tác phẩm. Câu hỏi tu từ ấy cũng khiến ta có một mối băn khoăn không dứt về chủ thể “anh”, đó là câu hỏi nhớ mong của một cô gái xứ Huế, mang ý trách móc, hờn dỗi một cách duyên dáng chàng trai sao không chịu tỏ lòng mình, rồi cũng có ý nhắc nhở, mời mọc người bạn cũ về thăm Huế. Hoặc đó cũng có thể là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử, vừa chất vấn, cũng vừa nhắc nhở bản thân sao “không về chơi thôn Vĩ” và trong cái “không về” ấy là cả một dự cảm đớn đau về cuộc đời bất hạnh, trước đó anh đã không về được thì có lẽ sau này cũng không thể về được nữa, Hàn Mặc Tử đã chẳng còn nhiều thời gian, đành lỡ hẹn với Huế và người xưa. Có thể nhận ra được rằng về Huế có lẽ là nỗi trăn trở, nuối tiếc vô cùng của thi sĩ, đó không chỉ là nơi ông từng gắn bó một thời gian dài mà ở tại nơi ấy còn có người con gái mà ông yêu thương tha thiết, chẳng biết nàng có đợi không, nhưng ông vẫn chỉ hướng về người. Sau câu hỏi tu từ mang đậm nỗi khát khao cháy bỏng được về lại Huế một lần, thì Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ rất đẹp để tái hiện lại cảnh thôn Vĩ Dạ đầy chất thơ và mộng ảo. Đó là cảnh thôn quê trước buổi bình minh với những nét vẽ tươi tắn và đặc sắc, đó là vẻ đẹp của nắng với hai từ “nắng” lặp lại trong một câu thơ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”.  Có thể nói rằng ngòi bút của Hàn Mặc Tử là một ngòi bút tài hoa trác tuyệt, người sẵn sàng phá vỡ cái quy tắc lặp từ tối kỵ của thi ca để tạo nên một bức tranh với cái nền vàng nhàn nhạt, ánh nắng nhu hòa tràn ngập khắp không gian, khiến vần thơ cũng như được thổi bừng sức sống ấm áp và tươi trẻ. Và cái nắng ở đây cũng rất riêng ấy là “nắng hàng cau”, phải nói rằng cau là biểu tượng của xứ Huế, loài cây có lợi thế về chiều cao, lúc nào cũng vươn lên thẳng tắp và đón nhận một cách trọn vẹn nắng trời, toàn cây lấp lánh những ánh sáng xanh vàng, khiến hồn người trở nên yêu đời hơn cả. Rồi “nắng mới lên” lại cũng là những cảm tưởng mới về hình ảnh nắng của thôn Vĩ đó không phải là cái nắng gay gắt đổ lửa giữa trưa hè mà đó là cái nắng trong trẻo, thanh khiết, dịu dàng hoàn toàn tương khớp với “nắng hàng cau”, cũng mang một sức sống mới, tựa như tâm hồn của thi nhân lúc nhận bưu thiếp của người cũ, có lẽ phải nói rằng đó là biểu tượng của sự khởi đầu. Dưới vẻ đẹp của nắng vàng bao phủ là vẻ đẹp của khu vườn xứ Huế với một màu xanh rất “mướt” đầy sức gợi với màu “xanh như ngọc”. Chỉ một từ “mướt” thôi nhưng đã gợi ra cái sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ, rồi cũng gợi ra cảnh một khu vườn mới tắm sương đêm đang còn đọng nước, từng giọt sương trong trẻo đang lung linh dưới ánh mặt trời, phản chiếu lại những tia nắng mới khiến cho từng tán lá xanh phát sáng, khơi gợi liên tưởng về một màu xanh ngọc ngà, trong trẻo, tươi mát. Câu thơ lại thêm một từ “ai” phiếm chỉ khiến cho toàn cảnh bức tranh trở nên có hồn và tình tứ hơn cả, từ đó làm nổi bật lên vẻ đẹp của người thôn Vĩ trong câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hàn Mặc Tử đã dùng bút pháp “thi trung hữu họa” của văn học trung đại với những nét vẽ vừa thanh của lá trúc lòa xòa làm nổi bật lên cái nét đậm của một khuôn mặt chữ điền duyên dáng, phúc hậu của người con gái. Đó là gương mặt mang những nét đẹp phẩm chất mà người ta vẫn mong cầu ở người con gái, nhân hậu, thủy chung, mang tướng hình có phúc phần về sau.

Hết tả cảnh ngày tươi tắn, trong trẻo, Hàn Mặc Tử lại đưa người đọc về với cảnh đêm của xứ Huế, có nước có mây, có thuyền và đặc biệt là có cả ánh trăng, thi liệu quen thuộc trong thơ của tác giả. Có thể thấy rằng giữa hai  khổ thơ có sự chuyển đổi cảm xúc rất rõ rệt từ tình yêu đời, lòng vui sống tựa như nắng mai thì Hàn Mặc Tử lại trở về với cảm giác hoang mang, lo lắng với những cảm giác bất an, buồn rầu tựa như cảnh sông nước mênh mông lạnh lẽo.  

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hai câu thơ đầu tả thực cảnh mây trời, sông nước xứ Huế với lối ngắt nhịp 4/3 tựa như bẻ đôi câu thơ làm hai nửa, tạo cảm giác hụt hẫng khó tả, điệp từ “mây”, “gió” lại mang đến sự đóng khung trong việc tả cảnh. Như vậy dường như mây và gió chẳng hề liên quan gì đến nhau, đường ai nấy đi trong khi từ xưa tới nay mây đi theo gió đã là chuyện kinh thiên định nghĩa, điều này bộc lộ rõ nội tâm và dự cảm không lành của Hàn Mặc Tử trước sự chia ly, cách biệt ghê gớm, đó là sinh tử, chứ chẳng còn là khoảng cách hay tâm hồn nữa. Từ điệu chảy lững lờ, ngập ngừng “buồn thiu” của dòng sông Hương nổi tiếng đi vào thơ đã trở thành hình ảnh nhân hóa phản chiếu nỗi lòng sầu muộn của thi nhân trước số phận. Mà có lẽ rằng “hoa bắp lay” chính là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa, buồn tẻ và lặng lẽ chán chường. Hai câu thơ tả cảnh sông nước dường như đã xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc, tươi trẻ tràn ngập sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh của tác giả trước cảnh ngộ thê lương của bản thân, trước con đường tăm tối vô hương, vô sắc hiện hiện tại. Rồi dường như không chịu đựng được cái đau đớn của thực cảnh Hàn Mặc Tử lại tiếp tục chìm vào cõi mộng với ánh trăng vàng, vốn là tri kỷ tri âm suốt đời của tác giả ở chốn cô đơn này. Trăng xuất hiện rất diễm lệ là cả một dòng sông dát ánh trăng vàng, cả một con thuyền chuyên chở trăng, trăng đã đem đến cho tác giả một hiện thân về trần thế tươi đẹp, về cuộc đời mà tác khao khát được chiếm lĩnh hòa nhập. Câu hỏi “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?” ẩn hiện sự lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận hưởng ánh trăng sáng, hay chính là cuộc đời vốn còn nhiều nuối tiếc.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Khao khát về cuộc sống trần thế của tác giả càng trở nên nổi bật trong khổ thơ cuối khi đi vào cụ thể ấy là khao khát về hơi ấm tình người, Hàn Mặc Tử muốn thoát khỏi cái cảm giác cô độc, lạnh lẽo muốn tận hưởng cuộc sống bằng tình yêu. Cõi đời đã được chỉ rõ bằng hình bóng của giai nhân, là người trong mộng tưởng của tác giả thế nhưng “Mơ khách đường xa, khách đường xa” ý thơ lặp lại đã diễn tả một cảm giác xa lạ, hình bóng người con gái ấy đang dần khuất ra khỏi tầm với của tác giả, cứ xa mãi mà dần vụt mất đến độ đôi mắt u sầu của người quá thi sĩ cũng phải xót xa “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Có lẽ đời này đã định hai người không chung một điểm cuối, chỉ có thể bất lực nhìn cái cõi trần thế, cái bóng hình giai nhân lần lượt trở nên vô tung vô ảnh, còn thi nhân thì chết lặng trong nỗi sầu muộn cô đơn. Và khi thi nhân không thể hòa nhập vào với thế giới mà mình khao khát ông lại phải quay về với thế giới của mình, một thế giới mờ mịt “mờ nhân ảnh” thiếu vắng đi tình người, bị cách li, phải đối mặt với cái chết cận kề, sắp xa rời đi cái trần thế mà ông vẫn khao khát nắm giữ, đó là nỗi đau đớn không tưởng. Đặc biệt tâm hồn ấy của nhà thơ còn mãi luẩn quẩn trong một câu hỏi băn khoăn, băn khoăn về tình cảm của người xưa, liệu rằng cô gái ấy có từng một lần có tình cảm với ông, hay cô gái ấy có biết đến mối duyên thầm lặng mà ông chẳng dám ngỏ đã bao năm. Rõ ràng rằng ta có thể cảm nhận được niềm hy vọng mong manh về mối duyên tình đã lỡ dở, bởi vì một tấm bưu thiếp mà lại dấy lên trong lòng thi nhân nhiều cảm xúc, thế nhưng kết lại vẫn là nỗi cô đơn, trống vắng và đau khổ của một con người còn nhiều điều tiếc nuối với thế gian.

Có thể trích đôi lời Hoài Thanh về thơ Điên của Hàn Mặc Tử để nói về Đây thôn Vĩ Dạ, đó là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một linh hồn vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu tích còn hoi hóp của một tình duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện ấy trong thơ ta không thiếu gì nhưng thường là một thứ buồn, dầu có thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu”. Đọc thơ ta yêu cái khát khao được sống được yêu, yêu cái ánh mắt nhìn đời đầy tươi đẹp thế nhưng cũng xót xa cho số phận của người thi sĩ, một cuộc đời đớn đau khiến Hàn Mặc Tử không thể mộng ước lâu được, nên cuối cùng vẫn phải quay về cái chốn cô đơn lạnh lẽo, không người yêu, không hơi ấm tình người, đợi chờ cái chết trong đau khổ và tuyệt vọng.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 6.

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho nhân gian. Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương, đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà nhà thơ đã gắn bó ở đây.

Xứ Huế chính là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông đang còn làm nhân viên sau đó mới chuyển vào Sài Gòn và viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ có biết bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp đẽ. Huế cũng chính là mảnh đất có đặc trưng trồng rất nhiều cây cau ấy vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nói đến:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Đó là lời trách mắng dịu dàng và nhẹ nhàng mà khi ai đọc đến cũng có thể đoán được đó chính là lời trách của một cô gái đối với một chàng trai. Nhưng nghe câu nói sao thấy mượt mà nửa dỗi hơn đáng yêu đến vậy! Cô gái trách cứ với chàng trai rằng sao không về chơi thôn vĩ để xem những hàng cau mới mọc lên và được những ánh nắng “rót” vào.

Những cây cau mọc cao và có lá màu xanh mướt nhìn đã rất đẹp nay lại còn được phủ trên mình những ánh nắng màu vàng óng ả nữa! Ôi chao thật đẹp đúng là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp chan hòa ánh sáng. Chưa dừng lại ở đó mà khi đọc đến hai câu thơ tiếp theo ta lại được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoàn mỹ đến khó tưởng:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Nếu các bạn đã từng đi tham quan ở Huế thì sẽ thấy những mảnh vườn xinh xắn có cỏ và những cây cau mọc bên vườn. Người Huế đơn giản lắm họ chỉ cần sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc mà trữ tình vậy thôi cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật nên thơ và tuyệt đẹp khi họ không cần những tòa nhà cao tầng chọc trời hay những chiếc xe ô tô to lớn, khi vào đến Huế chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa được hiện diện như thế nào.

Đường phố thì đông đúc người qua lại người đi bộ người đi xe đạp không hề ồn ào cũng không hề hấp tấp. Tác giả miêu tả: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” chính là vẻ đẹp của những cây cỏ xanh mướt được những giọt sương sớm đọng lại. Khoảnh khắc ấy đã tuyệt đẹp nay còn đẹp hơn khi có những tia nắng chiếu vào.

Cảnh vật như hoa lệ và mỹ miều hơn bao giờ hết. Mướt quá chỉ sự vật cỏ cây mọc tốt mà xanh non quá đến nỗi xanh như ngọc. Mà ngọc có màu xanh thể hiện cho màu xanh biếc. Tác giả thật khéo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ cây và màu xanh của ngọc. Qua đây ta mới thấy được sự tinh tế cũng như khéo quan sát của nhà thơ Hàn Mặc Tử biết bao.

Người xứ Huế hiện lên vẻ đẹp trung thực và hiền lành biết bao qua câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khuôn mặt hình chữ điền chính là sự thể hiện cho phúc hậu, vuông vắn mà toát lên sự hiền lành và đôn hậu của những con người nơi đây. Đến khổ thơ thứ hai thì tác giả đã đặc biệt khắc họa rõ nét hơn về nhịp sống của những con người nơi xứ Huế chậm rãi mà êm ả:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Dòng nước chảy chậm đến nỗi mà “buồn thiu” hoa bắp lay động cũng rất chậm. Câu thơ khiến ta cũng liên tưởng tới sự xa cách giữa lối gió một hướng , hướng mấy một hướng. Phải chăng đó chính là sự ly biệt, là đường thẳng song song không bao giờ có điểm chung của mối tình giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc - một cô gái mà ngày xưa nhà thơ đã thầm thương trộm nhớ.

Và khi đọc đến câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” khiến người đọc có thể liên tưởng được một thuyền nằm trên mặt sông và nơi đó có cả vầng trăng sáng. Thuyền đi đến đâu như thể chở trăng đi theo đến đó. Liệu thuyền có chở trăng kịp về hay không?

Khổ thơ cuối chính là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái xứ Huế mà ông vẫn luôn thương thầm được miêu tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Tác giả mơ đến một giấc mơ ở đó có người khách lạ mà đó chính là cô gái mà tác giả đang yêu. Áo trắng quá khiến nhà thơ không còn nhận ra được cô gái nữa rồi. Màu áo trắng cũng làm chúng ta dễ dàng liên tưởng đến màu áo trắng của tà dài nữ sinh Huế. Câu thơ lặp từ khách đường xa đến 2 lần càng thể hiện sự sâu lắng và xa lạ giữa nhà thơ với nhân vật mà tác giả nhắc đến.

Sương và khói đã làm mờ đi hình ảnh của người con gái khiến cho tác giả cảm giác xa xôi, khó gần. Tác giả tự hỏi bản thân mình: “Ai biết tình ai có đậm đà?” không biết liệu rằng cô nàng đó còn nhớ và còn thương Mặc Tử hay không? Đọc xong câu thơ cảm thấy phảng phất nỗi buồn, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đơn phương gửi gắm đến một cô gái mà không được đáp trả lại.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 7

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã dùng biết bao tâm huyết của mình viết lên. Bài thơ thể hiện niềm yêu thương nhung nhớ về quê hương xứ Huế nơi mà tác giả đã từng làm việc ở đây.

Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) ông được sinh ra tại Bình Định nhưng có 1 thời gian ông được học tập tại Huế và làm việc tại đây. Đối với ông xứ Huế chính là quê hương thứ 2 và cũng là nơi để lại trong ông có nhiều dấu ấn và kỷ niệm nhất. Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp chúng ta có thể hình dung được cảnh vật cũng như con người xứ Huế nơi đây.

Mở đầu bài thơ là lời nói ngọt ngào nghe sao mà tha thiết của một cô gái dành cho 1 chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thôn Vĩ là một làng quê xinh đẹp nằm gần bên con sống Huế thơ mộng. Làng Vĩ hay còn được gọi là làng Vĩ Dạ nơi tác giả nhắc đến là một làng quê yên bình và xinh đẹp.

Đây cũng chính là nơi mà tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đây chính là những lời thì thầm nhắc nhở của cô gái dành cho chàng trai rằng hãy về làng Vĩ Dạ chơi vì có biết bao nhiêu cảnh quan đẹp kỳ bí mà chàng trai đã lâu rồi không ghé thăm. Cảnh vật ở đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã miêu tả rõ nét từng hình ảnh dung dị nhất:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ở đây cảnh vật có hai màu chủ đạo chính là màu xanh và màu nắng vàng. Cảnh vật ở đây có những hàng cau mọc lên cao và mang màu sắc xanh. Hình ảnh những hàng cau mọc theo hàng lối và đến mùa ra hoa cau thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm đó chính là lý do mà cây cau không thể thiếu ở Huế được. Nếu như bạn đã từng đi Huế thì sẽ có dịp được chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp đến mê hồn của những con người nơi đây.

Ở xứ Huế các bạn sẽ còn trông thấy những vườn cỏ rộng rãi bên trong là những cây cau. Một không gian toàn màu xanh và được điểm sáng bởi những ánh nắng vàng khiến cho không gian trở nên thơ mộng và trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả phải thốt lên: “mướt quá’’ một từ ngữ thể hiện được sự tươi tốt và màu mỡ của cảnh vật nơi đây. Những giọt sương long lanh vẫn còn đọng lại ở những cây cỏ và khi ấy những ánh nắng đã khẽ chiếu vào tạo nên những viên ngọc được tác giả miêu tả: “xanh như ngọc’’.

Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến cho người đọc liên tưởng được hay hình dung được một bức tranh muôn màu sắc mà tác giả đã vẽ lên. Nhưng đến khổ thơ thứ hai giọng thơ trở nên sâu lắng và pha một chút tâm trạng buồn bã:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?’’

Hai sự vật là gió và mây khi được nhắc đến luôn gợi cho chúng ta suy nghĩ về tình yêu đôi lứa. Mây và gió vẫn luôn không rời thể hiện cho tình cảm khăng khít và gắn bó của lứa đôi. Nhưng ở đây thì tác giả lại thể hiện ngược lại đó chính là sự chia ly và xa cách giữa gió và mây mỗi vật lại đi một hướng. Phải chăng đây chính là lời nhắn nhủ của nhà thơ đối với người con gái Hoàng Kim Cúc ấy. Họ đã bị xa cách nhau trong 1 thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ cha làm việc.

Câu thơ thứ hai trong khổ chính là khắc họa về cuộc sống, nhịp sống đời thường của những người xứ Huế chậm rãi và yên bình như sự miêu tả dòng nước thì buồn thiu chảy nước chầm chậm, từ từ. Hoa bắp lay động một cách nhẹ nhàng khi có gió thổi.

Câu thơ tiếp theo là một câu nhớ khiến cho người đọc liên tưởng ra được cảnh vật nhiều nhất có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và tỏa sáng cả một dòng sông khi có ánh trăng hiện lên soi tỏ cho cả một con thuyền. Liệu rằng thuyền có chở trăng về kịp tối nay hay không hay lỡ làng? Đây chính là cách nói ẩn của tác giả về chuyện tình yêu của mình có còn kịp để quay lại và yêu thương nữa hay không hay là hai người sẽ mất nhau mãi mãi?

Khổ thơ cuối cùng là lời thốt lên từ đáy lòng tác giả và cũng là những suy tư của tác giả về người con gái ấy:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Câu đầu tiên trong khổ thơ cuối tạo sự ấn tượng cho người đọc với sự lặp từ hai lần khách đường xa càng gợi lên sự xa cách hơn. Áo của người con gái ấy trắng quá đến nỗi mà tác giả không nhận ra nữa chính là vì người con gái ấy xinh đẹp mặc trên mình chiếc áo tinh khôi khiến tác giả không thể nhận ra được người con gái mình đã yêu năm nào. Sương khói dày đặc khiến làm mờ đi hình ảnh con người và tác giả tự hỏi liệu rằng cô ấy còn yêu còn tình cảm đậm đà với mình nữa hay không? Câu thơ cuối chính là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.

Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chúng ta sẽ biết được rằng đây chính là bài thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử đã viết lên trước khi qua đời bởi căn bệnh phong. Thông qua bài thơ chúng ta có thể tưởng tượng được cảnh đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi xứ Huế xinh đẹp nơi mà đã từng là cố đô của nước ta năm nào. Bài thơ cũng thể hiện khắc họa được tình yêu chân thành mà nhà thơ đã dành tặng cho một người con gái xứ Huế thật đậm đà mà ngọt ngào xiết bao!

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 8.

Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương nhưng là một nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”, “Chơi giữa mùa trăng”… Đặc sắc và gây xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ” được trích trong tập “Thơ điên”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?

….

Ai biết tình ai có đậm đà”

“Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940. Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. Đó là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này.

Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp còn tình người thì tha thiết nhớ mong:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Có lẽ, với bất cứ ai khi đọc bài thơ này, cũng đều bị cuốn hút ngay từ câu thơ đầu với những băn khoăn, vừa như hờn dỗi, như trách yêu. Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. Tại sao lâu rồi anh không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng, có người con gái anh thương? Nhà thơ sử dụng từ “chơi” mà không sử dụng từ “thăm”.

Nếu sử dụng từ “thăm” thì cấu trúc câu thơ không thay đổi nhưng nó trở nên khách sáo, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, thân tình. Trong câu thơ, nhà thơ đã hé lộ cho người đọc tình cảm của mình đối với cô gái Huế, xem cô gái Huế là một người thân thương hay chính cô gái ấy xem nhà thơ như bạn tâm giao, tri kỷ.

Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: sao cảnh Huế đẹp vậy mà mình không trở về ? Đó là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy khao khát, hoài niệm. Vì không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng. Ba câu thơ tiếp theo là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy “nắng hàng cau nắng mới lên”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi ra trong mắt người đọc một không gian tràn đầy ánh sáng. Cảnh hiện lên rõ nét sống động, đầu tiên là vẻ đẹp của “nắng hàng cau”. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của ngày mới.

Không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng đãng, khoáng đạt. Đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta thấy đó là ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, trong sáng. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm.

Ánh nắng mới mẻ, tinh khôi như làm sáng bừng lên không gian khoáng đạt, rộng lớn. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hàng cau là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân thôn Vĩ. Hình ảnh tưởng chừng như đơn sơ, bình dị ấy lại có sức gợi hình, gợi cảm lớn và có ý nghĩa sâu sắc trong trái tim nhà thơ.

Nhắc đến cau còn là nhắc đến loại cây rất thân thuộc với làng quê Việt Nam, nơi có phong tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Nguyễn Bính – một nhà thơ cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền phong cảnh có hình ảnh thân cau quen thuộc ấy:

“Nhà anh có một hàng cau

Nhà em có một giàn trầu”

Trong bài thơ “Hoa Lư” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:

“Đường cỏ lơ mơ nắng

Mái tranh chìm chơi vơi

Vài tán cau mộc mạc

Thả hồn quê lên trời”

Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn đầy nhựa sống “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của hàng cây khiến cho người đọc cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn.

Tác giả dùng màu xanh như ngọc để diễn tả sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một màu sắc cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy.

“Vườn ai”? không xách định nhưng ngầm hiểu đó là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Xuân Diệu viết:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”

Thủ pháp nghệ thuật so sánh “xanh như ngọc”. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, người đọc có thể hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ với “vườn ai mướt quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cảm ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.

Và cảnh vật thôn Vĩ càng đẹp hơn trước bởi sự xuất hiện hình bóng con người “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc – một loài cây họ tre được trồng trước ngõ. Trong tâm tưởng thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc.

Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu. Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật đồng thời qua đó người đọc nhìn thấy không chỉ vẻ đẹp phúc hậu của người con gái Huế mà còn là vẻ đẹp của sự kín đáo, duyên dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế. Cũng viết về thôn Vĩ, nhà thơ Bích Khê viết:

“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biếc che cần trúc không buồn mà say”

Viết về trúc, Hàn Mặc Tử không chỉ là “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mà còn là:

“Thầm thỉ hỡi ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Thiên nhiên và con người có sự gắn bó, hòa quyện hấp dẫn tạo xúc động mạnh trong lòng nhà thơ. Nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc, lắng đọng trong ký ức hoài niệm, trong nỗi niềm nhớ thương. Bằng việc miêu tả vẻ đẹp thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm đối với cảnh và người xứ Huế. Tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.

Nếu như ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang khổ thứ hai, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc mặc cảm chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy lững lờ, chậm rãi – đó là “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lay động. Thế mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ.

Đó là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh. Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp… Gió và mây là hai sự vật luôn sánh đôi với nhau như thuyền và nước nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử thì gió mây chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây đóng khung trong mây “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Nhìn xuống dòng sông, thi nhân thấy dòng sông trở nên “buồn thiu”, còn hoa bắp chỉ khẽ “lay” – một cử động rất nhỏ tạo cho bức tranh nỗi buồn hiu hắt vắng lặng. Chữ “lay” ấy như từ trong ca dao bay về đậu vào thơ Hàn Mặc Tử :

Ai về Giồng Dứa qua truông

Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em

Không gian sông nước xứ Huế nhuốm màu sắc hư ảo. Nỗi buồn phủ khắp cảnh vật từ gió mây đến dòng nước và hoa bắp bên sông. Buồn đến não ruột, buồn đến mềm lòng. Gió và mây vốn gắn kết cũng đã có sự chia lìa đôi ngả, dòng sông mang đầy tâm trạng chảy về niềm tâm tưởng. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương. Ths Phan Danh Hiếu

Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người đọc vào cõi mộng. Vẫn là dòng sông Hương, là Huế thơ mộng nhưng không còn nắng, còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian ngập đầy ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền trăng, dòng sông thì sông trăng, bến thì thành bến trăng.

Từ xưa đến nay, có thuyền trăng, bến trăng nhưng nay lại có sáng tạo sông trăng độc đáo của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Đọc câu thơ, người đọc có cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng, dường như đang sống trong khắc khoải hoài mong của thi nhân. Đây không phải lần đầu Hàn Mặc Tử viết về trăng mà trong thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử, trăng là một người bạn, một người tình không thể thiếu trong đời sống tâm hồn thi nhân:

“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi”

“Không gian đắm đuối toàn trăng cả

Anh cũng trăng mà em cũng trăng”

Hay:

“Gió lùa ánh sáng vào trong bãi

Trăng ngập dòng sông chảy lãng lai”

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ

Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”

Thơ Hàn Mặc Tử ít nhiều nhuộm màu sắc trường phái tượng trưng siêu thực của phương Tây vì thế nên có nhiều hình ảnh khó nắm bắt, ví như câu viết về trăng trong tác phẩm này. “Thuyền ai” phải chăng đó là con thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ đang mơ ước chở trăng và phải chăng trăng chính là tình yêu mà nỗi chờ mong của Hàn Mặc Tử. “Tối nay” là tối nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của nhà thơ là cuộc chạy đua với thời gian.

“Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của con người. Ths Phan Danh Hiếu

“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo sợ. Một niềm hy vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính vì vậy mà người đọc càng thấu hiểu hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.

Mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hết hy vọng mà vẫn mong ước một cách riết róng:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ đợi và niềm khát khao đến mãnh liệt. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể hiện rõ tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. Thầy Phan Danh Hiếu. “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì không mong được nên mơ, vì sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải. “Khách đường xa” có lẽ chính là cô gái Huế, và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng.

Màu trắng tượng trưng cho vẻ đẹp trong trắng tinh khôi của cô gái Huế – nhất là Hoàng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh. Trong sự đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở đây vượt lên trên mức bình thường nên đã hóa thành màu của ảo ảnh và chính vì nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nhoè, hư ảo.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – nơi mà Hàn Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. “Ở đây” và “ngoài kia” có xa xôi mấy đâu vậy mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đó giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi ca:

“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói

Gió trăng có sẵn làm sao ăn

Làm sao giết được người trong mộng

Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”

Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Đây là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong trạng thái bị dày vò vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Ths Phan Danh Hiếu. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong mặc cảm chia lìa nhưng cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.

Bài thơ sử dụng một số biện pháp tu từ như: điệp từ, nhân hóa, so sánh, câu hỏi tu từ… Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Thầy Phan Danh Hiếu.

Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương vô vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. Nhắc đến Huế, ta không thể quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, đặc biệt là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu Bồn thay cho lời kết gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:

“Xin chào Huế một lần anh đến

Để ngàn lần anh nhớ trong mơ

Em rất thực nắng thì mờ ảo

Xin đừng lầm em với Cố Đô”

-Thầy Phan Danh Hiếu-

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 9.

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc đến ông, chúng ta lại nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.

Bài thơ về xứ Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, là tiếng lòng tha thiết về quê hương, nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những câu hò đượm chút tình của Huế:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi tu từ, như lời trách nhẹ nhàng, không có chút giận hờn nào của một cô gái Huế với chàng trai mà cô thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong đợi, sự trách móc nhẹ nhàng, sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. Đó còn là một lời mời “dịu ngọt”, thôn Vĩ hiện lên, vẻ đẹp không mang nét hùng vĩ như cảnh “Đèo Ngang” hay mang trong mình sự huyền bí hư không, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất Huế.

Cái đẹp được tả từ ánh nắng ban mai “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết nhẹ nhàng buổi sớm soi rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón lấy những tia nắng đầu tiên đó. Tất cả như được phủ kín với ánh sáng, một thử ánh sáng tinh khôi, dưới ánh sáng đó tất cả vạn vật như rực lên sức sống đang tuôn trào.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Một khoảng vườn hiện lên trước mắt chúng ta, ta có thể cảm nhận được dù có nhắm mắt cũng có thể cảm thấy cái màu xanh mượt mà, ngời lên dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống tươi mát, nhựa sống của cây cối đang đâm chồi nảy lộc.

Giữa khung cảnh thiên nhiên trữ tình đó, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đây “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ một khuôn mặt hiền lành, phúc hậu.

Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ màng, hình ảnh hư thực. Đây có phải là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng. Thôn Vĩ nằm cạnh dòng sông Hương hiền hòa, xinh đẹp, những thửa vườn xanh mát, nằm cạnh đôi bờ sông Hương, vẻ đẹp hiện lên bâng khuâng:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi lòng của người thi sĩ. Chúng ta thường nói “gió thổi mây bay”, gió và mây cùng đi chung một hướng. Vậy mà trong thơ của Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não lòng. Dòng nước sông Hương cũng đượm vẻ buồn hiu hắt với “hoa bắp lay” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự chia lìa, lay động.

Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình thương yêu, sự nuối tiếc khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường hay xuất hiện trong thơ ca “gió trăng chưa một thuyền đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất trữ tình đó để nói lên nỗi lòng của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”.

Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của thi nhân không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “sông trăng”, làm cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Có ai ngờ được rằng “dòng nước buồn thiu” vì “hoa bắp” bay theo ánh chiều tà lại có thể trở thành một dòng “sông trăng” nên thơ như thế.

“Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi nhưng không có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ dở trong tình yêu, “kịp” khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp với những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà thơ hằng ấp ủ?

Nhưng tất cả những khắc khoải, nhớ thương ấy chỉ là trong tiềm thức, dễ dàng tan biến như chính ánh trăng dưới dòng sông Hương kia. Hiện thực chỉ một giấc mơ đến phũ phàng:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá, nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Nhà thơ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa... khách đường xa” làm cho giọng thơ trở nên sâu lắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. Tất cả như mờ đi bởi màu áo trắng, màu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là màu tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế.

Và trong bài thơ này nó còn là màu nhớ nhung của chính tác giả. Dưới làn sương mờ buổi sớm mai “sương khói mờ nhân ảnh” hình ảnh màu trắng ấy như nhạt nhòa, như ẩn, như hiện, trở nên xa vời, khó nắm bắt. Giữa cái hư không ấy, câu thơ cuối như một sự thất vọng của chính tác giả “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Sự thất vọng của một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phất sự u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. Nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói với chính lòng mình, sự băn khoăn không biết tình cảm kia có “đậm đà” hay chỉ hư ảo như màu áo trắng trong không rõ ràng trong làn sương mờ buổi sớm.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kết hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng khâm phục hơn nghị lực sống của chính tác giả, cùng sự tài hoa của một nghệ sĩ giàu tình yêu thương.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 10.

Hàn Mặc Tử một người yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, trân trọng cuộc sống. Ông cũng là người từng yêu và cảm giác giang dở trong tình yêu của mình. Nhưng ông lại là một con người lạc quan, hòa mình vào cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp.

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là những tâm sự của ông trước cảnh thiên nhiên thôn Vĩ cùng với nỗi niềm tâm trạng của mình.Bắt đầu bằng một câu hỏi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” câu hỏi vang lên như một lời trách thầm, nhắn nhủ của nhân vật trữ tình trong tâm trạng vời vợi nhớ mong.

Câu thơ bảy chữ nhưng có tới sáu thanh bằng, thanh trắc duy nhất vút lên cuối câu như một nốt nhấn khiến cho lời thơ nhẹ nhàng mà thấm thía những nỗi niềm tiếc nuối vọng lên da diết khôn nguôi. Từ niềm nhớ thương được khơi nguồn như thế, hình ảnh thôn Vĩ chợt sống dậy trong lòng nhà thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Chỉ ba câu thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa được những nét đực trưng của thiên nhiên xứ Huế. Mỗi câu thơ là một nét vẽ, mỗi chi tiết sống động tạo thành sự khắc họa sống động đẹp đẽ của thôn Vĩ trong hoài niệm. Trước tiên là vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi của buổi sớm mai: nắng hàng cau nắng mới lên không phải là cái nắng chang chang dọc bờ sông trắng mà là cái nắng trong trẻo tin khôi của một ngày.

Chỉ miêu tả nắng thôi mà đã gợi lên trong lòng người đọc bao nhiêu liên tưởng đẹp. . Điệp từ “nắng” đã vẽ ra một bức tranh ánh nắng trong không gian nắng lan đến đâu vạn vật bừng sáng đến đó từ trên cao tràn xuống thấp và tràn đầy cả khu vườn, thôn Vĩ như được khoác lên một chiếc áo mới thanh tân, tươi tắn.

Đến câu thơ thứ ba là cảnh vườn tược được tắm đẫm trong nắng mai ngời sáng lên như một viên ngọc xang diệu kì: “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.” Câu thơ như một tiếng reo đầy ngỡ ngàng thích thú, không phải xanh non xanh biếc mà là xanh như ngọc. Cảnh giản dị mà thanh khiết cao sang vô cùng. Chữ “mướt” tác động mạnh mẽ vào giác quan người đọc ấn tượng vẻ mượt mà loáng mướt của khu vườn.

Nhưng cái thần của câu thơ lại dồn cả vào chữ “ai” chỉ một chữ mà khiến cho cảnh đang gần gũi bỗng bọ đẩy ra xa, hư thực khó nắm bắt. Âm hưởng nhẹ bẫng của tiếng này khiến hơi thơ như thoáng xuôi về một cõi hư ảo mơ hồ. Và rất tự nhiên theo mạch cảm xúc, nhắc đến “ai” lập tức nhà thơ nhớ đến hình bóng con người:“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

Hình ảnh cành trúc đã trở nên quen thuộc khi nhắc đến con người nơi đây, mảnh đất cố đô văn hiến. Con người như hòa vào, như ẩn vào thiên nhiên một vẻ đẹp kín đáo tao nhã. Đó là vẻ đẹp riêng trong mảnh đất cố đô nhưng ngay trong dòng cảm xúc miên man ấy ta đã thấy nỗi buồn man mác xa nỗi thấm vào lòng người.Cảm giác về cái đẹp mơ hồ mong manh ấy càng rõ hơn ở khổ 2 trong bức tranh mây trời sông nước:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hai câu đầu: Bức tranh có những nét rất đặc trưng của xứ Huế: gió thổi, mây nhẹ trôi, dòng nước lặng lờ và hoa bắp khẽ lay động ven sông. Tả thực mà gợi lên cái hồn xứ Huế: gió mây nhẹ nhẹ bay, dòng sông trôi lững lờ, cây cỏ khẽ đung đưa. Nhưng ngắm kĩ sẽ thấy đường nét chia lìa, rời rạc của tạo vật,sự sống hiện lên lắt lay, mệt mỏi, âm điệu câu thơ buồn bã, xa vắng.

Tả cảnh thực hay là cảnh đã được tâm trạng hoá, bộc lộ nỗi niềm thi nhân. Cái ngược chiều của gió, mấy khơi gợi sự chia lìa đôi ngả của tình đời, tình người, như rạch vào nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của chủ thể trữ tình khi viết bài thơ này.Hai câu kết đoạn cũng đem đến ân tượng về bức tranh tâm cảnh như vậy.

Cảnh đẹp song vẫn thoáng bâng khuâng gợi nên từ những hình ảnh: thuyền ai- sông trăng.... Dòng sông dường như bị ảo hoá, không còn là song nước mà là sông trăng, lấp ánh ánh trăng vàng, là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian thơ trở nên hư ảo.

Đại từ phiếm chỉ " ai" nghe thật mơ hồ xa vắng; và con thuyền chở trăng trên dòng sông kia thật mong manh như một ảo ảnh. Để rồi chỉ cần một chữ " kịp tối nay" là lập tức đủ kéo thi nhân về với thực tại, đối diện với nỗi cô đơn của chính mình. Ba chữ thôi nhưng gợi lên thật nhiều những khắc khoải, mong ngóng, hi vọng, lo ấu, vừa mới khao khát đấy rồi lại chợt vội vàng hoài nghi.

Tín hiệu mong chơ thật mong manh nhưng vô cùng da diết. Khao khát của thi nhân hướng tới cái đẹp của tình đời tình người không tránh khỏi những nghi ngại băn khoăn.Khổ cuối bài thơ là tiếng nói giúp nhà thơ hiểu thêm nỗi thiết tha dường như vô vọng đó:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hình ảnh " khách đường xa" đã từng xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử? : khách xa gặp lúc mùa xuân chín.hành trình của người khách từ xa xôi- em- là cả một giấc mộng dài say đắm của Hàn Mặc Tử . Bản thân " khách" đã diệu vợi, khách đường xa càng diệu vợi xa xăm hơn. Phải chăng vì hoàn cảnh đặc biệt của mình,vì mối quan hệ với cuộc đời trong tâm trí nhà thơ trở nên xa xăm cách trở.

Nhà thơ cảm thấy mình chỉ đi song song với tình yêu, hạnh phúc mà không bao giờ nắm bắt được. Phải chăng vì thế mà mọi hình bóng đều xa vời hư ảo: áo em trắng quá nhìn không ra. Câu thơ đầy đam mê " áo em trắng quá" nhưng cũng thật hụt hẫng xót xa " nhìn không ra". Sắc trắng thiên thần tinh khôi ấy sao cứ vượt khỏi tầm tay. Hai câu kết là lời lí giải: Xuất hiện một lí do thật khách quan: ở đây sương khói mờ nhân ảnh.

Xưa nay xứ Huế vốn bảng lảng sương khói, nhưng còn lí do chủ quan : trái tim trong tà áo trắng kia cung hư vô bí mật như sương khói. Đó là sương khói của thời gian, hay sương khói của một mối tình mong manh chưa một lời ước hẹn, sương khói phủ lấy một trái tim biết mình sắp từ giã cõi đời…sương khói ấy che phủ khiến nhà thơ không thể nhận ra, không thể nắm bắt.

Câu kết bài đọng lại nỗi buồn khắc khoải băn khoăn " ai biết tình ai" có đậm đà không hay chưa kịp nồng trên mà khác đã phôi pha". Câu thơ gợi lên nhiều cách hiểu; nhà thơ sao có thể biết tình người xứ Huế có đậm đà hay không?; người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ với cô rất đậm đà?

Đây thôn Vĩ Dạ hấp dẫn người đọc bởi vẻ đẹp bức tranh xứ Huế trầm mặc cổ kính mà rất tao nhã quý phái. Nó gợi nên cái linh hồn của mảnh đất cố đô nhưng không thể nói rằng bài thơ chỉ đơn thuần tả cảnh. Bài thơ đã làm chúng ta thêm yêu cuộc sống hơn.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 11

Nhắc tới Hàn Mặc Tử không thể không nhắc tới bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ". “Đậy thôn Vĩ Dạ” đã gắn chặt với thi sĩ họ Hàn như hình với bóng, vì đây là bài thơ vừa thể hiện cái tài, lại vừa thể hiện cái tình; cái tâm của Hàn Mạc Tử chứ đây “chỉ thể hiện tình yêu đối vời một người con gái xứ Huế như bạn nào đó đã nhận xét.

   Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mạc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc - con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơ, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mạc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế - Vĩ Dạ, Hàn Mạc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ

    Em lấy chồng rồi, hết ước mơ

  Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,

 Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.

   Hàn Mạc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến có trăng, cùng những hàng cau cao vút kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.

   Đây thôn Vĩ Dạ gồm 12 câu thất ngôn, chia làm 3 khổ.

   Khổ thứ nhất mớ đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của "thôn Vĩ”.

   Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lên". Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp lánh như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như những viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.

   Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mạc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhưng cảnh vật Vĩ Dạ bỗng sinh động hẳn lên, khi bóng dáng con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu. trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa.


Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu qúy phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái linh hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.

   Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mạc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.

   Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: Dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.

   Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mạc Tử cũng cảm nhận được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử có sông nước, bờ bài, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.


Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia li buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gãy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió" và “mây” đã thể hiện ra điều dó. Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”

   Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp khoan thai chậm rãi cũng đã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.


Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:

      “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó


Có chở trăng về kịp tối nay?”

   Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. Ở đây Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy sẽ sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).

   Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mạc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mĩ và thánh thiện. Nhưng lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu. phấp phỏng về sự muộn màng. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.


Khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.

      “Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

   Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khác khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách đường xa” tác giả chỉ thấy “áo’’ nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ khiến cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi gần gũi tha thiết vừa xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực, xa vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hẹn “Áo em trắng quá nhìn không ra" là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòa cả thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi lẩn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn.


Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng? “Ai biết tình ai có đậm đà?".

   Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây thả hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đây mộng ảo để tạo nên một “viên ngọc thơ tuyệt vời, chói lọi nghìn năm” Chế Lan Viên.

   Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.

   Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử không chỉ là một bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ một Hàn Mạc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 12

“Đây thôn Vĩ Dạ" là một trong những bài thơ hay nhất của phong trào Thơ mới.  Bài thơ lần đầu in trong tập “Nắng xuân” (1937). Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài năng, quãng đời sống và sáng tác của ông là rất ngắn ngủi ( 1912 – 1940).

          Cuộc đời của Hàn Mặc Tử cũng phát triển không bình thường: ông phải chịu đựng những đớn đau giày vò của bệnh tật và sống trong trạng thái cô đơn giữa cuộc đời.

          Hàn Mặc Tử là một người đa tình, ông khơi nguồn cho thơ từ nhiều nguồn cảm xúc: lòng tin nơi Đức chúa Trời mà tác giả có lúc tự nhận mình là “Thi sĩ của đội quân Thánh giá” với bao lời cầu nguyện vẻ đẹp của quê hương, một tình yêu than thiết với nhiều cái tên đẹp: Ngọc Sương, Mộng Cầm, Thương Thương, Hoàng Cúc… “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử được sáng tạo nên từ hai nguồn cảm hứng – cảnh đẹp của Vĩ Dạ mà có lần Bích Khê đã viết:

                                                           “Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

                                                 Biếc che cần trúc không buồn mà say”

          Thiên nhiên đẹp, làng quê đất đai trù phú tạo cho tác giả tình yêu cuộc sống, yêu con người. Nguồn mạch thứ hai là tấm lòng yêu mến, tình yêu nửa thực, nửa hư như một mong ước muốn được bày tỏ. Nhà thơ Quách Tấn cho biết Hoàng Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu ảnh có phong cảnh xứ Huế và dòng Hương có con đò, bóng tre cần trúc hai bên bờ. Tấm ảnh cũng gợi cho Hàn Mặc Tử những tình cảm, xúc động để từ đó tạo nên cảm hứng trong thơ. Nhà nghiên cứu Văn Tâm lại nói thêm: “Khoảng năm 1937 nghe tin Hàn Mặc Tử mắc bệnh nan y, Hoàng Cúc đã gửi vô Quy Nhơn cho Hàn Mặc Tử một tấm hình chụp hồi còn mặc áo dài trắng trường Đồng Khánh có kèm lời thăm hỏi sức khỏe và trách Hàn Mặc Tử sao lâu nay không ra thăm Vĩ Dạ?” Và đó là nguyên nhân trực tiếp cho sự ra đời của “Đây thôn Vĩ Dạ”.

          Câu thơ mở đầu như một lời chào mời, một lời thăm hỏi hay một lời trách móc, dường như tất cả đều có và ẩn ý trong lời thơ:

                                                    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

          Thôn Vĩ Dạ bên bờ sông Hương là một làng quê đẹp, có nhiều khu vườn xanh tươi, buổi sáng khi mặt trời mọc, khung cảnh thiên nhiên rất gợi cảm, ánh nắng ban mai và vườn cây tươi tốt dễ tạo nên những tình cảm gắn bó và thiết tha với cuộc sống. Ở đây tác giả miêu tả những hàng cau thân vút cao trong buổi bình minh gợi một cái gì khỏe khoắn của thiên nhiên:

                                                    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

          Hàng cau còn gợi lên không khí của làng quê như đã có từ lâu đời. Nhà thơ Vũ Quần Phương cũng nhận xét : “Cái “nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi một nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế.”

                                                   Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

          Chữ “mướt” ở đây được dùng rất khéo, nói lên cái tốt tươi của sự sống trong khu vườn, nói “mướt” là nói đến trạng thái mượt mà, mềm dịu đang độ phát triển tơ non. Màu “xanh như ngọc” là màu xanh như được lọc qua ánh sáng rất đẹp và gợi cảm. Đó là màu xanh được miêu tả ban mai hoặc khi bầu trời đang bừng sáng thì mới có một màu xanh như ngọc. Có thể so sánh với nhiều từ ngữ khác nhau, những trạng thái, sắc thái của màu xanh: xanh lơ, xanh lục, xanh nõn, xanh thẳm, xanh biếc…Vườn cây vừa chiếm lĩnh chiều cao của không gian với những hàng cau cao vút và bề rộng với cây xanh tươi tốt. Trong những vườn đó ẩn hiện những khuôn mặt phúc hậu:

                                                         Lá trúc che ngang mặt chữ điền

          Ở đây tác giả miêu tả quan hệ giữa người và cảnh như hài hòa, phù hợp và gắn bó với nhau.Tuy chỉ là những nét thấp thoáng nhưng cũng gợi lên được ấn tượng về những con người chân chất ở vùng quê, những người lao động trung thực với khuôn mặt chữ điền. Nhìn chung, trong khổ một tác giả đã miêu tả được vẻ đẹp của vùng quê xứ Huế, đất đai trù phú, cây cối xanh tươi, một vẻ đẹp của làng quê thịnh vượng đã có từ lâu đời; về phía chủ quan là tình cảm mến yêu cuộc sống. Ngoài lòng yêu đời có thể còn là những tình cảm riêng gắn bó với mảnh đất, với người thân quen. Khổ một của bài thơ như gây ấn tượng về sự hiện diện của nhà thơ trong cách miêu tả làng quê đẹp bên bờ sông Hương. Tuy nhiên, đọc kĩ cả bài thơ thì tất cả trôi trên dòng tâm tưởng của một tình cảm thiết tha và dè dặt của một nỗi nhớ thương như nén lại trong cảnh ngộ riêng của mình.

          “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ mà tứ thơ vận động theo cảm xúc ở bên trong rồi bộc lộ qua những hình ảnh phù hợp bên ngoài. Cũng vì thế mà tứ thơ path triển không theo một dòng chảy liên tục và có lúc như gián cách, như bất ngờ xuất hiện những ý tứ và hình ảnh mới. Đất Huế không chỉ có một vẻ đẹp mà thiên nhiên có nhiều sắc thái, khung cảnh có vui, có buồn và tấm lòng của tác giả với những thiết tha nhớ mong về nơi ấy và về con người ấy nên tránh sao khỏi buồn. Tác giả lại miêu tả một bức tranh thiên nhiên khác gợi buồn gợi nhớ:

                                                        Gió theo lối gió mây đường mây

                                                       Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

          Dòng nước trôi nhẹ, ngọn gió hiu hiu thổi, những cánh hoa bắp lay lay, nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần da diết, đây là một khung cảnh thiên nhiên có thực nhưng đồng thời cũng phản ảnh tâm trạng của chính tác giả.

          Tình cảm buồn xuất phát từ nhiều lý do, nỗi bâng khuâng trước một miền đất lạ, nhiều mơ ước, nhiều dè dặt, những thoáng nghi ngờ.

          Nói đến Huế, các nhà thơ đều đặc biệt quan tâm đến dòng sông Hương với vẻ đẹp đặc biệt của một dòng sông nước trong chảy lững lờ giữa thành phố. Các nhà thơ Nam Trân, Tố Hữu đều có nhiều bài thơ đẹp viết về sông Hương, như câu thơ rất chân tình của Tố Hữu:

                                                         Hương Giang ơi, dòng sông êm

                                                        Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình

          Với Tố Hữu, đó là dòng sông tuổi thơ, dòng sông quê hương đã nuôi dưỡng tâm hồn tác giả. Còn với Hàn Mặc Tử đây là dòng sông thơ mộng như thực như hư, nhất là trong đêm trăng, đó là một dòng sông trăng. Không gian ngời ngợi ánh trăng, con thuyền cũng đầy trăng và ghé nhiều bến trăng. Hàn Mặc Tử là nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của trăng với nhiều sắc thái lạ:

                                                     Không gian đắm đuối toàn trăng cả

                                                    Tôi cũng trăng và nàng cũng trăng

          Tác giả đã nhân cách hóa vầng trăng theo con mắt đa tình:

                                                     Mới lớn lên trăng đã thẹn thò

                                                      Thơm như tình ái của ni cô

                                                Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

                                                     Đợi gió đông về để lả lơi

          Trong bài thơ, dòng sông Hương được miêu tả rất thơ mộng như một dòng sông trăng và con thuyền cũng trở đầy trăng và cập bến như vừa xác định vừa mơ hồ. Cảm xúc với Huế là những cảm xúc đẹp.

          Ở khổ thơ cuối tác giả bộc lộ tâm trạng:

                                                  Mơ khách đường xa, khách đường xa

                                                  Áo em trắng quá nhìn không ra

          Phải chăng khách đường xa nhớ đến miền đất thân yêu này để tìm lại một hình ảnh, một kỉ niệmnhưu đã có ở trong đời hay đúng hơn chỉ một niềm mong ước? Tất cả như thực như hư; hình ảnh áo trắng của người con gái là hình ảnh đẹp gợi lên sự trong trắng, thanh khiết mà một số nhà Thơ Mới thường dùng. Câu thơ “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” đã được dùng trong thơ xưa để nói lên cái hư ảo của kiếp người: “Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.

          Hàn Mặc Tử nói đến hình ảnh “mờ nhân ảnh” là chân thực vì hình ảnh của một người thân yêu nào đó còn mờ ảo, như thực, như hư. Đó là một tình cảm lãng mạn, một bóng dáng xa xôi, một ước mơ đẹp. Cũng vì thế mà trong lòng tác giả nảy sinh một câu hỏi rất thực mà cũng có tính chất văn chương của nghệ thuật tu từ:

                                                   Ai biết tình ai có đậm đà?

          “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hay, thiên nhiên đẹp và tình người với những mơ ước, những dè dặt, tình đời như nửa thực nửa hư. Bài thơ bộc lộ tấm lòng của tác giả, một nhà thơ mang theo nhiều nỗi niềm mơ ước và cũng hiểu rõ giới hạn mà mình có thể tìm đến với cuộc đời. Nhà phê bình Lê Đình Kỵ nhận xét: “Hai bài thơ được thừa nhận rộng rãi đến thành cổ điển của Hàn Mặc Tử: Mùa xuân chín và Đây thôn Vĩ Dạ không xa lạ với những trình tự quê hương và vào loại trong sáng nhất của Thơ Mới”.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 13

Trong phần lớn những áng thơ của Hàn Mặc Tử, trăng là nguồn cảm hứng bất tận xuyên suốt. Thi sĩ nhắc đến mọi hình ảnh về trăng: thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng… Cả một trời trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Khi phân tích bài thơ đây thôn vĩ dạ lớp 11 ta cũng sẽ thấy được hình ảnh trăng hiện lên như một người bạn tri kỉ của nhân vật trữ tình

Về Hàn Mặc Tử, ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới. Dẫu cuộc đời ngắn ngủi chỉ với 28 tuổi đời (1912-1940), song ông để lại cho nền thơ ca hiện đại Việt Nam hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ (“Đây thôn Vĩ Dạ”) như Hàn Mặc Tử.

Vĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ sông Hương, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Câu đầu tiên của bài thơ là một câu hỏi như một lời chào mời, vừa như một câu dỗi hờn, nũng nịu. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhân vật trữ tình nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Phải có sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá, phải có đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà, con người cần cù chăm bón mới có “màu xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống.

Câu thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn đầy đặn, phúc hậu. Trúc cũng là một hình ảnh thường xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử, như trong bài Mùa xuân chín, Hàn Mặc Tử viết:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý nhị và thơ ngây”

Khi viết bài nghị luận bài đây thôn vĩ dạ lớp 11 khổ thơ đầu tiên, ta thấy được hình ảnh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả lòng tha thiết mến thương.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Sông Hương êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng, man mác. Nhịp điệu khoan thai thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đò mộng nằm bến sông trăng. Sông Hương trở thành sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Hình ảnh vầng trăng là một hình ảnh thơ đẹp mà các em có thể sử dụng để viết mở bài gián tiếp bài đây thôn vĩ dạ 

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Đương thời nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương:

“Những nàng thiếu nữ sông Hương

Da thơm là phấn, má hường là son”

Thôn Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. Trong thơ văn cổ đại, “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sông khói làm nhoà đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không ra hình dáng em (nhân ảnh). Khổ thơ thứ ba mang lại cảm giác chập chờn, bâng khuâng.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình nhưng suốt cuộc đời phải sống trong cô đơn bệnh tật.
Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này.

Trong quá trình lập dàn ý bài thơ đây thôn vĩ dạ, suốt bài thơ là 4 lần xuất hiện đại từ phiếm chỉ ai. Cả 4 lần đại từ phiếm chỉ “ai” xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh: “vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” – “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi với trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhoà và mờ đi cùng sương khói?

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã vẽ nên một bức tranh với cảnh sắc thiên nhiên hữu tình rực rỡ, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu – tình yêu thơ mộng say đắm, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Qua phân tích bài thơ đây thôn vĩ dạ lớp 11 nhân vật trữ tình đã giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh mừng vui hội, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao nhớ đợi chờ.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 14

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút xuất sắc của dòng văn học thơ ca lãng mạn. Thơ của ông mang nhiều sắc thái khác nhau, có những vẫn thơ thấm đẫm nước mắt, nhưng cũng có những vần thơ vô cùng trong trẻo, tinh khiết. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử về chủ đề tình yêu. Bài thơ được sáng tác khi ông đã mắc bệnh nặng, vì thế mang một vẻ đượm buồn sâu sắc.

Mở đầu bài thơ là câu hỏi:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Thôn Vĩ Dạ nằm bên bờ sông Hương thơ mộng, đã đi vào trong rất nhiều bài thơ, bài văn. Câu thơ là một câu hỏi, như một lời trách nhẹ nhàng, nhưng cũng có thể coi là một lời mời về thăm thôn Vĩ để thưởng thức những cảnh sắc tươi đẹp nơi đây. Và quả thật, những câu thơ tiếp theo là những câu thơ nói về cảnh vật thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Hàng cau là một điểm đặc trưng của các thôn xóm Việt Nam, bởi nhân dân ta đã có tập tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Cây cau cũng gắn với rất nhiều câu chuyện về tình yêu đôi lứa mà ông cha ta đã kể từ ngàn đời nay. Không chỉ có thế, hàng cau trong thơ Hàn Mặc Tử còn có thêm cả ánh nắng mới lên biểu sớm, hay chính là biểu tượng của sức sống của niềm vui, của tuổi trẻ và tình yêu.

Nhìn xa xa hơn, đó là cả một khu vườn tươi tốt, xanh um. Vườn cây được chăm sóc kĩ lưỡng nên tươi tốt, xanh um. Tác giả dùng chữ "mướt", vừa để chỉ sự óng ả, tươi tốt của lá, vừa để chỉ màu xanh ngọc đẹp đẽ của lá. Ở đó ánh lên một sự khoẻ mạnh, chứa chan đầy sức sống của cảnh vật cũng như con người nơi đây.

Giữa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp, đầy sức sống, đã có bóng dáng con người xuất hiện, khiến cho cảnh càng trở nên sinh động hơn. Trúc là biểu trưng cho người quân tử, lại che ngang khuôn mặt chữ điền của ai đó, có thể là người khách đến thăm thôn Vĩ chăng? Thật là hai hình ảnh thật đẹp, hài hoà, làm cho khung cảnh thêm vài phần thi vị.

Đến những câu thơ tiếp theo, cảnh vật càng ngày càng mở rộng ra, thấy gió, thấy mây, thấy dòng nước sông Hương lững lờ:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng cũng chứa đựng trong đó nỗi buồn của con người, khiến cho cảnh vật cũng trở nên hiu hắt. Thường thì gió thổi mây bay, mây với gió thường đi với nhau, nhưng ở đây gió với gió, mây với mây lại tách riêng ra, mỗi vật một hướng. Dòng nước cũng buồn hiu hắt với những bông hoa bắp nhẹ nhàng lay động ở hai bên bờ. Đây là cảnh tả thực ở thôn Vĩ, cảnh vật đều thơ mộng, nhẹ nhàng chuyển động, nhưng nhà thơ cũng lồng vào trong đó tâm trạng của mình, một nỗi buồn man mác vì nuối tiếc, không thể về gặp người trong mộng.

Hàn Mặc Tử là một người rất yêu trăng, rất nhiều bài thơ của ông xuất hiện hình ảnh trăng. Trong bài thơ này cũng vậy. Hình ảnh vầng trăng hiện lên một cách độc đáo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chờ trăng về kịp tối nay?

Vầng trăng là biểu tượng của cái đẹp, của thanh bình, của hạnh phúc. Thế nhưng, nhà thơ lại hỏi một cách day dứt, liệu ai đó có kịp chở trăng về? Là hỏi ai, hay hỏi chính mình. Câu hỏi bày tỏ một nỗi niềm hoang mang, mặc cảm của nhà thơ, về sự lỡ dở, muộn màng, vô phận với tình yêu.

Dòng thời gian trong bài thơ trôi thật nhanh. Vừa buổi sáng với khu vườn mướt xanh như ngọc, thoắt cái lại đến tối bên bến trăng, bến mơ.

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra

Vì nhớ mong da diết, nên vị khách đường xa đi cả vào trong giấc mơ của Hàn Mặc Tử. Hình ảnh trong mơ vừa gần lại vừa xa, vừa thân thiết nhưng lại xa không cách nào với tới. Màu áo trắng là màu đặc trưng của áo dài – đồng phục quen thuộc của nữ sinh Huế. Mối tình chưa lời ước hẹn của nhà thơ với người con gái trong trắng, tinh khôi vẫn đau đáu trong tim ông chẳng bao giờ phai nhạt.

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Giữa mênh mông khói sương mờ ảo, hay cũng chính là giữa dòng đời nhiều hư ảo, liệu trong tâm trí đối phương còn nhớ đến hình bóng của mình hay không? Câu hỏi cuối như hỏi "ai", nhưng cũng là tự vấn chính mình. Chỉ có lòng dạ này ghi tạc, chứ cuộc sống ngắn ngủi, khiến ông phải nuối tiếc quá nhiều về mối tình còn dang dở. Đau đớn thay!

Tình yêu trong thơ Hàn Mặc Tử, đẹp, nhưng buồn quá! Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng. Trong khi mắc căn bệnh hiểm nghèo, nhưng không vì thế mà trong bài thơ thấm đượm một nỗi tuyệt vọng sâu sắc. Ta chỉ thấy đâu đó sự nuối tiếc đối với sự sống ngắn ngủi, với cuộc đời dang dở mà thôi. Ta càng thấy khâm phục hơn, một nhân cách cao đẹp, dù trong khó khăn nhưng vẫn dùng những câu chữ chau chuốt nhất, những tình cảm đẹp nhất để gửi đến người thương của mình.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 15

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho nhân gian.  Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương, đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà nhà thơ đã gắn bó ở đây.

Xứ Huế chính là quê hương thứ hai của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông đang còn làm nhân viên sau đó mới chuyển vào Sài Gòn và viết báo.  Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ có biết bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp đẽ. Huế cũng chính là mảnh đất có đặc trưng trồng rất nhiều cây cau ấy vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nói đến:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Đó là lời trách mắng dịu dàng và nhẹ nhàng mà khi ai đọc đến cũng có thể đoán được đó chính là lời trách của một cô gái đối với một chàng trai. Nhưng nghe câu nói sao thấy mượt mà nửa dỗi hơn đáng yêu đến vậy! Cô gái trách cứ với chàng trai rằng sao không về chơi thôn vĩ để xem những hàng cau mới mọc lên và được những ánh nắng “rót” vào. những cây cau mọc cao và có lá màu xanh mướt nhìn đã rất đẹp nay lại còn được phủ trên mình những ánh nắng màu vàng óng ả nữa! Ôi chao thật đẹp đúng là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp chan hòa ánh sáng.

Chưa dừng lại ở đó mà khi đọc đến hai câu thơ tiếp theo ta lại được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoàn mỹ đến khó tưởng:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Nếu các bạn đã từng đi tham quan ở Huế thì sẽ thấy những mảnh vườn xinh xắn có cỏ và những cây cau mọc bên vườn. Người Huế đơn giản lắm họ chỉ cần sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc mà trữ tình vậy thôi cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật nên thơ và tuyệt đẹp khi họ không cần những tòa nhà cao tầng chọc trời hay những chiếc xe ô tô to lớn, khi vào đến Huế chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa được hiển diện như thế nào.

Đường phố thì đông đúc người qua lại người đi bộ người đi xe đạp không hề ồn ào cũng không hề hấp tấp. Tác giả miêu tả: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” chính là vẻ đẹp của những cây cỏ xanh mướt được những giọt sương sớm đọng lại. Khoảnh khắc ấy đã tuyệt đẹp nay còn đẹp hơn khi có những tia nắng chiếu vào. Cảnh vật như hoa lệ và mỹ miều hơn bao giờ hết. Mướt quá chỉ sự vật cỏ cây mọc tốt mà xanh non quá đến nỗi xanh như ngọc. Mà ngọc có màu xanh thể hiện cho màu xanh biếc. Tác giả thật khéo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ cây và màu xanh của ngọc. Qua đây ta mới thấy được sự tinh tế cũng như khéo quan sát của nhà thơ Hàn Mặc Tử biết bao.

Người xứ Huế hiện lên vẻ đẹp trung thực và hiền lành biết bao qua câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khuôn mặt hình chữ điền chính là sự thể hiện cho phúc hậu, vuông vắn mà toát lên sự hiền lành và đôn hậu của những con người nơi đây.

Đến khổ thơ thứ hai thì tác giả đã đặc biệt khắc họa rõ nét hơn về nhịp sống của những con người nơi xứ Huế chậm rãi mà êm ả:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Dòng nước chảy chậm đến nỗi mà “buồn thiu” hoa bắp lay động cũng rất chậm. Câu thơ khiến ta cũng liên tưởng tới sự xa cách giữa lối gió một hướng , hướng mấy một hướng. Phải chăng đó chính là sự ly biệt, là đường thẳng song song không bao giờ có điểm chung của mối tình giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc - một cô gái mà ngày xưa nhà thơ đã thầm thương trộm nhớ. Và khi đọc đến câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” khiến người đọc có thể liên tưởng được một thuyền nằm trên mặt sông và nơi đó có cả vầng trăng sáng. Thuyền đi đến đâu như thể chở trăng đi theo đến đó. Liệu thuyền có chở trăng kịp về hay không?

Khổ thơ cuối chính là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái xứ Huế mà ông vẫn luôn thương thầm được miêu tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Tác giả mơ đến một giấc mơ ở đó có người khách lạ mà đó chính là cô gái mà tác giả đang yêu. Áo trắng quá khiến nhà thơ không còn nhận ra được cô gái nữa rồi. Màu áo trắng cũng làm chúng ta dễ dàng liên tưởng đến màu áo trắng của tà dài nữ sinh Huế. Câu thơ lặp từ khách đường xa đến 2 lần càng thể hiện sự sâu lắng và xa lạ giữa nhà thơ với nhân vật mà tác giả nhắc đến. Sương và khói đã làm mờ đi hình ảnh của người con gái khiến cho tác giả cảm giác xa xôi, khó gần. Tác giả tự hỏi bản thân mình: “Ai biết tình ai có đậm đà?” không biết liệu rằng cô nàng đó còn nhớ và còn thương Mặc Tử hay không? Đọc xong câu thơ cảm thấy phảng phất nỗi buồn, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đơn phương gửi gắm đến một cô gái mà không được đáp trả lại.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 16

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã dùng biết bao tâm huyết của mình viết lên. Bài thơ thể hiện niềm yêu thương nhung nhớ về quê hương xứ Huế nơi mà tác giả đã từng làm việc ở đây.

Hàn Mặc Tử (1912 - 1940) ông được sinh ra tại Bình Định nhưng có 1 thời gian ông được học tập tại Huế và làm việc tại đây. Đối với ông xứ Huế chính là quê hương thứ 2 và cũng là nơi để lại trong ông có nhiều dấu ấn và kỷ niệm nhất. Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp chúng ta có thể hình dung được cảnh vật cũng như con người xứ Huế nơi đây.

Mở đầu bài thơ là lời nói ngọt ngào nghe sao mà tha thiết của một cô gái dành cho 1 chàng trai:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Thôn Vĩ là một làng quê xinh đẹp nằm gần bên con sống Huế thơ mộng. Làng Vĩ hay còn được gọi là làng Vĩ Dạ nơi tác giả nhắc đến là một làng quê yên bình và xinh đẹp. Đây cũng chính là nơi mà tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đây chính là những lời thì thầm nhắc nhở của cô gái dành cho chàng trai rằng hãy về làng Vĩ Dạ chơi vì có biết bao nhiêu cảnh quan đẹp kỳ bí mà chàng trai đã lâu rồi không ghé thăm.

Cảnh vật ở đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã miêu tả rõ nét từng hình ảnh dung dị nhất:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ở đây cảnh vật có hai màu chủ đạo chính là màu xanh và màu nắng vàng. Cảnh vật ở đây có những hàng cau mọc lên cao và mang màu sắc xanh. Hình ảnh những hàng cau mọc theo hàng lối và đến mùa ra hoa cau thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm đó chính là lý do mà cây cau không thể thiếu ở Huế được. Nếu như bạn đã từng đi Huế thì sẽ có dịp được chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp đến mê hồn của những con người nơi đây.

Ở xứ Huế các bạn sẽ còn trông thấy những vườn cỏ rộng rãi bên trong là những cây cau. Một không gian toàn màu xanh và được điểm sáng bởi những ánh nắng vàng khiến cho không gian trở nên thơ mộng và trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả phải thốt lên: “mướt quá’’ một từ ngữ thể hiện được sự tươi tốt và màu mỡ của cảnh vật nơi đây. Những giọt sương long lanh vẫn còn đọng lại ở những cây cỏ và khi ấy những ánh nắng đã khẽ chiếu vào tạo nên những viên ngọc được tác giả miêu tả: “xanh như ngọc’’.

Biện pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến cho người đọc liên tưởng được hay hình dung được một bức tranh muôn màu sắc mà tác giả đã vẽ lên.  Nhưng đến khổ thơ thứ hai giọng thơ trở nên sâu lắng và pha một chút tâm trạng buồn bã:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?’’

Hai sự vật là gió và mây khi được nhắc đến luôn gợi cho chúng ta suy nghĩ về tình yêu đôi lứa. Mây và gió vẫn luôn không rời thể hiện cho tình cảm khăng khít và gắn bó của lứa đôi. Nhưng ở đây thì tác giả lại thể hiện ngược lại đó chính là sự chia ly và xa cách giữa gió và mây mỗi vật lại đi một hướng. Phải chăng đây chính là lời nhắn nhủ của nhà thơ đối với người con gái Hoàng Kim Cúc ấy. Họ đã bị xa cách nhau trong 1 thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ cha làm việc.

Câu thơ thứ hai trong khổ chính là khắc họa về cuộc sống, nhịp sống đời thường của những người xứ Huế chậm rãi và yên bình như sự miêu tả dòng nước thì buồn thiu chảy nước chầm chậm, từ từ. Hoa bắp lay động một cách nhẹ nhàng khi có gió thổi. Câu thơ tiếp theo là một câu nhớ khiến cho người đọc liên tưởng ra được cảnh vật nhiều nhất có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và tỏa sáng cả một dòng sông khi có ánh trăng hiện lên soi tỏ cho cả một con thuyền. Liệu rằng thuyền có chở trăng về kịp tối nay hay không hay lỡ làng? Đây chính là cách nói ẩn của tác giả về chuyện tình yêu của mình có còn kịp để quay lại và yêu thương nữa hay không hay là hai người sẽ mất nhau mãi mãi?

Khổ thơ cuối cùng là lời thốt lên từ đáy lòng tác giả và cũng là những suy tư của tác giả về người con gái ấy:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Câu đầu tiên trong khổ thơ cuối tạo sự ấn tượng cho người đọc với sự lặp từ hai lần khách đường xa càng gợi lên sự xa cách hơn. Áo của người con gái ấy trắng quá đến nỗi mà tác giả không nhận ra nữa chính là vì người con gái ấy xinh đẹp mặc trên mình chiếc áo tinh khôi khiến tác giả không thể nhận ra được người con gái mình đã yêu năm nào. Sương khói dày đặc khiến làm mờ đi hình ảnh con người và tác giả tự hỏi liệu rằng cô ấy còn yêu còn tình cảm đậm đà với mình nữa hay không? Câu thơ cuối chính là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.

Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chúng ta sẽ biết được rằng đây chính là bài thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử đã viết lên trước khi qua đời bởi căn bệnh phong. Thông qua bài thơ chúng ta có thể tưởng tượng được cảnh đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi xứ Huế xinh đẹp nơi mà đã từng là cố đô của nước ta năm nào. Bài thơ cũng thể hiện khắc họa được tình yêu chân thành mà nhà thơ đã dành tặng cho một người con gái xứ Huế thật đậm đà mà ngọt ngào xiết bao!

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 17

 Hàn Mặc Tử đã mang cả tiếng lòng quằn quại, đớn đau của mình vào trong thơ, để kiếm tìm sự đồng điệu của những điệu hồn. Đây Thôn Vĩ Dạ là một trong những kiệt tác của Hàn Mặc Tử mà ở đó người đọc dường như thấy một cái tôi đang đau đớn trong mặc cảm về sự chia lìa, đồng thời thấy được một hồn thơ với tình yêu đời, lòng khát sống mãnh liệt mà cũng đầy uẩn khúc, bế tắc của Hàn Mặc Tử.

       Mở đầu bài thơ là một câu hỏi, mà cũng như đã là một câu trả lời, hay một lời trách móc ý nhị, mà có chăng cũng là một lời mời đầy bất lực để tiếp đó dẫn người đọc vào bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tươi đẹp, giàu sức sống: 

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

        Câu hỏi mở đầu như đã phân tích ở trên, thực chất không phải là câu hỏi đề trả lời, nó cứ buông ra thế để thành dòng độc thoại bộc lộ tâm tình của một cái tôi cô độc, cô đơn đang khao khát được đồng cảm, gắn kết. Ba câu thơ tiếp theo mở ra một không gian thôn Vĩ tươi đẹp biết bao. Nắng hàng cau mới lên, gợi lên vẻ đẹp thanh khiết, tươi mới, trong trẻo. Câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi, chỉ với vài từ ngữ giản dị, nhưng lại mở ra cho ta hiểu hơn rất nhiều về hồn thơ này, rằng Hàn Mặc Tử luôn khát vọng về một vẻ đẹp tinh khiết, trong ngần, tươi mới, đó không chỉ là ngưỡng vọng của một hồn thơ, mà còn là khát khao của một tín đồ. Tiếp cái nắng trong trẻo, tươi xanh là hình ảnh “Xanh như ngọc”, vừa gợi sự sang trọng, quý giá, vừa gợi sức sống, nhựa sống căng tràn trên từng dòng thơ. Mướt gợi lên vẻ đẹp óng ả mà đầy xuân sắc, mảnh vườn bình dị bỗng chốc hiện lên đầy vẻ thanh tú cao sang mà cũng kiều diễm biết chừng nào. Câu thơ cuối hình ảnh lá trúc che ngang mặt chữ điền, gợi sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên, đồng thời cũng gợi nên vẻ đẹp cân đối hài hòa đầy hoàn hảo. 

        Nhưng cái dị, cái bất thường cái lạ để làm nên một hồn thơ điên chính là trong khổ thơ thứ hai này đây, khi đang trong khổ trên hình ảnh tươi mới, tràn đầy sự gắn kết, sự sống thì khổ thơ thứ hai lại mang màu sắc ảm đạm ngược lại:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

         Hình ảnh gió mây trong cuộc sống vốn là hai thứ không thể tách rời, mà luôn song hành với nhau, sự chia cắt trong thơ Hàn Mặc Tử của hai hình ảnh này vì thế gợi lên nhiều niềm ám ảnh cũng như đầy sức gợi. Đúng vậy, đây không còn là hình ảnh của thị giác, mà là hình ảnh của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã chia lìa cả những thứ tưởng như không thể chia lìa, không gian không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã bỏ buồn vào dòng sông “dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Dòng nước lững lờ, ngưng đọng, hay chính dòng đời mệt mỏi, cay đắng chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi buồn xa xăm. Tất cả cảnh vật, sự vật trong hai câu thơ đầu đều nhuốm mình trong mặc cảm chia lìa đau thương của Hàn Mặc Tử, đến hai câu thơ cuối, phải chăng là sự níu giữ trong tuyệt vọng của hồn thơ đầy đau thương. Từ kịp gợi sự chấp chới, chơi vơi, vô định đồng thời cũng như khắc khoải đâu đây nỗi bất lực vô định. “Có chở trăng về kịp tối nay?” Trăng dường như đã là một nơi nương tựa duy nhất, một tri âm, một cứu tinh, một cứu chuộc. Chỉ trong hai câu thơ thôi mà dường như ta thấy được bao nhiêu dồn nén chất chứa của một hồn thơ điên, nhà thơ khát khao được sống dẫu biết lưỡi hái của thần chết đang đến gần, nên vội vàng chới với trong từng phút giây để được sống, và khao khát kiếm tìm sự đồng điệu để sẻ chia. Nhưng tiếc thay: 

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

        Cả “em”, cả thôn Vĩ tươi đẹp ấy đều đã vượt xa khỏi tầm với, đều là thế giới “ngoài kia” trong trẻo, tươi đẹp, tinh khôi. Đối lập hoàn toàn với thế giới tối tăm, đơn độc, lạnh lẽo trong này. Tất cả chỉ còn là mờ nhân ảnh, tiếng lòng của hồn đau không ngừng hướng ra ngoại giới để kiếm tìm sự đồng vọng, nhưng càng khao khát thì hiện thực phũ phàng lại càng đánh bật lại những đòn giáng trớ trêu. Câu hỏi cuối vang lên đầy khắc khoải, bởi đó vừa như tiếng thở dài, hay cũng là lời cầu mong của một kẻ tha thiết gắn bó đến cháy lòng.

        Thơ là sự lên tiếng của thân phận, trớ trêu thay định nghĩa ấy lại thật đúng với Hàn Mặc Tử, thơ ông là tiếng kêu xé lòng của một niềm đau, một hồn đau đầy cô độc, cất tiếng vọng hướng đến tìm kiếm sự đồng điệu, nhưng đáp trả mãi chỉ là những ảo ảnh thực tại đầy phũ phàng, nghiệt ngã. Đây thôn Vĩ Dạ vừa đẹp mà cũng vừa thật ám ảnh, chở đi biết bao nỗi niềm của Tử gửi vào hậu thế sau này.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 18

“Trước không ai có, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình” (Chế Lan Viên). Vâng, Hàn Mặc Tử thật sự là một nhà thơ khẳng định phong cách riêng biệt, có cá tính. So với những thi sĩ cùng thời, chất trữ tình trong thơ của ông luôn khác biệt, tạo cho người đọc một sự liên tưởng, tầng ý nghĩa sâu xa. Tác phẩm chứng minh rõ chất thơ của thi sĩ chính là bài thơ “Đây thôn vĩ dạ”.

        Cái tên Hàn Mặc Tử trong làng thơ mới của nền văn học Việt Nam luôn có dấu ấn riêng không thể không nhắc đến. Ông luôn mang lại cho độc giả một điều gì đó đặc biệt trong thơ của mình mà không thể nhầm lẫn với bất kì nhà thơ nào. Cách viết thơ của ông có sự đan xen kết hợp giữa những hình ảnh giản dị, thân quen, thuần khiết lồng ghép với những yếu tố ma quái, rợn ngợp thế là tạo nên chất riêng trong thơ ông. Đây thôn vĩ dạ là một sáng tác năm 1938 được trích từ tập thơ Điên của tác giả.

Một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp mang lại một năng lượng tràn đầy, tươi mới được nhà thơ chọn mở đầu rất thú vị, đầy cuốn hút:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

… mặt chữ điền”

       Một bức tranh gợi tả về thôn Vĩ được nhà thơ thể hiện ngay ở đoạn thơ. Mở đầu ta bắt gặp ngay một câu hỏi thăm nhẹ nhàng nhưng hàm ý trách móc của nhân vật trữ tình, hay đó là tiếng lòng cô gái Thôn Vĩ chan chứa yêu thương, đầy mong đợi. Bức tranh làng quê Thôn Vĩ Dạ tiếp sau đó được vẽ ra tràn đầy sức sống. Khung cảnh thiên nhiên đầy gợi cảm, xanh tươi rực rỡ khi mặt trời mọc rọi những tia nắng ấm áp ban mai, cây cối tốt tươi, căng mọng tạo nên một nhịp sống yên bình, gắn bó. Hàng cau thẳng tắp trong buổi sớm mai được miêu tả khá là đặc biệt, gợi nhắc một điều gì khoẻ khoắn, chắc chắn của thiên nhiên. Hơn nữa nỗi niềm mộc mạc, yêu thương của làng quê được gợi lên qua hàng cau. Chữ “mướt” ở đây thật đắt, nhà thơ dùng khéo để nói về sức sống tươi tốt của khu vườn, đó là sự mượt mà, mướt mát của tơ non trong độ phát triển. Ẩn hiện trong khu vườn là nét đặc sắc nhành lá trúc thanh mảnh che ngang mặt chữ điền, tưởng chừng không liên quan mà lại gắn kết đến lạ. Sau lá trúc khuôn mặt chữ điền thấp thoáng mơ màng, hư thực.

        Nếu như ở khổ đầu tình cảm nhà thơ hé mở thì ở khổ thơ thứ 2 là một sự chuyển tiếp tinh tế từ việc hé mở tình yêu đến tả cảnh sông nước với niềm bâng khuâng, hư ảo:

“Gió theo lối gió…

… về kịp tối nay?”

        Hình ảnh gió và mây trôi nổi, lênh đênh, lang thang được sử dụng ở đây chỉ về nỗi buồn da diết và trong cách tả “mây đường mây”, “gió theo lối gió” càng thấm đượm thêm nỗi buồn sầu thương hơn nữa. Sự xa cách của mây và gió khi chúng không thể đồng hành cùng nhau được ví như tình yêu thầm kín của nhà thơ. Sự chia ly, tiễn biệt ở đây có lẽ đã đọng lại trong lòng người nỗi niềm man mác, tâm hồn u uất. “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” diễn tả rõ nét về những dòng thơ ở đoạn này. Dòng sông Hương hiện ra trong thơ cũng buồn vô cùng, tẻ nhạt một màu khói. Giờ đây trong lòng tác giả dòng sông thơ mộng, lờ lững trở nên buồn lặng, quạnh hiu một nỗi niềm xa vắng. Tuy buồn là thế nhưng nối tiếp đó là hai câu cuối của đoạn được diễn đạt đầy thơ mộng với hình ảnh ánh trăng sáng rực, huyền ảo. Trong đó là một trái tim khát khao yêu thương, nỗi mong nhớ  được đặt để vào thuyền trăng. Qua cách tả của nhà thơ bức tranh xứ Huế mộng mơ tuy buồn nhưng lại đẹp, thơ mộng vô cùng.

       Dù có thế nào thì nhà thơ vẫn cứ tiếp tục sống, chạy theo giấc mơ trong lòng đầy mãnh liệt:

 “Mơ khách đường xa, khách đường xa

Ai biết tình ai có đậm đà?”

       Chưa lúc nào nhà thơ ngừng trái tim khát khao yêu thương, dù đau, dù buồn cùng những kỉ niệm tình yêu nhưng ông gửi nó vào trang thơ thật đẹp. Mơ khách đường xa, ai trong chiếc áo trắng… mọi thứ trôi vào trong bao giấc mơ, màu trắng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ khiến tác giả như ngây ngất trước sự thuần khiết, tinh khôi, cao quý của người ông yêu thương.

        Lúc này nhà thơ có chút khựng lại, giữa không gian sương khói đó ông thấy con người có thể mờ nhạt, nhòa đi và tình người cũng thế. Lúc này nhà thơ dành vài câu đặt tình cảm vào để tả tình, tâm trạng mình. Ẩn hiện trong sương khói, những cô gái Huế thấp thoáng xa vời, kín đáo, lòng tác giả chợt lóe lên suy nghĩ rằng liệu khi yêu họ có đậm đà chăng, lí do ông không dám khẳng định về tình cảm của cô gái Huế.

 "Ai biết tình ai có đậm đà?"

        Một lời nhắc nhở, bộc bạch nỗi lòng cùng một chút thất vọng được thể hiện qua câu thơ nhẹ nhàng. Trái tim khao khát yêu thương này thất vọng khi trọn vẹn của tình yêu không đến với tác giả. Nhìn có vẻ là câu hỏi tu từ nhưng sâu xa trong đó là lời tự sự rất thực của chính lòng tác giả đầy chất văn, da diết cảm xúc.

       Bài thơ “Đây thôn vĩ dạ” tuy ngắn ngủi nhưng từng dòng thơ luôn khiến người đọc thổn thức, da diết trước tình cảm chân tình tác giả đặt vào trong thơ. Bài thơ không chỉ nói về nỗi lòng khao khát tình yêu huyền ảo nửa thực nửa hư mà còn hiện ra một bức tranh tuyệt diệu say đắm lòng người. 

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 19

Hàn Mặc Tử tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên chúa. Năm 1936,ông mắc bệnh phong về Quy Nhơn chữa bệnh và mất ở trại phong Quy Hoà. Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng tác giả là nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào thơ mới. Với hồn thơ đau thương, đầy bí hiểm nhưng thể hiện được tình yêu quê hương, cuộc sống. Đây thôn Vĩ dạ là thi phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của tác giả, được viết năm 1938 in trong tập Thơ Điên (Đau Thương). Bài thơ khắc họa bức tranh xứ Huế đẹp thơ mộng, tràn đầy sức sống. Qua đó thể hiện nỗi niềm khắc khoải, và tình yêu với quê hương, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Điều đó được thể hiện qua đoạn thơ sau:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

…..

Ai biết tình ai có đậm đà“

         Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với cô gái thôn quê ở Vĩ Dạ - một làng quê thanh bình nằm trên bờ Hương Giang, thuộc ngoại vi thành phố Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum xuê hoa trái với dòng sông Hương lững lờ trôi. Nếu ai một lần đến xứ Huế sẽ mang một nỗi niềm vấn vương, lưu luyến “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt”. Và nơi đây cũng là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca, âm nhạc. Thi sĩ Hàn Mặc Tử có dịp về thăm Thôn Vĩ và thương thầm trộm nhớ người con gái xứ Huế - Hoàng Cúc. Năm 1938, khi đang chữa bệnh tại trại phong Quy Hoà và nhận được một bức tranh phong cảnh có mây nước hữu tình, chiếc đò ngang và cô gái mặc áo dài trắng tinh khôi, kỉ niệm chợt ùa về. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ, nhà thơ đã dành cho nơi đây vần thơ đẹp nhất với tất cả lòng mến thương. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là tiếng lòng của một thi sĩ tha thiết yêu cảnh, yêu đời.

         Tác giả vừa như phân thân vừa như mời gọi thân mật, vừa như trách móc nhẹ nhàng: ”Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Mở đầu bài thơ tác giả sử dụng câu thơ 7 chữ với 6 thanh bằng nhẹ nhàng lan tỏa và kết thúc câu thơ bằng một thanh trắc gợi cảm giác như xoáy sâu vào tâm trạng khắc khoải của tác giả. Trong lòng thi nhân luôn khát khao về thôn Vĩ. Bằng cặp mắt quan sát tinh tường  kết hợp với động từ “nhìn”, cảnh Vĩ Dạ lúc bình minh với những ngọn cau, tàu cau ngợi lên màu nắng mới, ”nắng mới lên” rực rỡ. Đó là những tia nắng ấm áp của ngày mới bắt đầu, tinh khôi. Khi những giọt sương đêm còn sót lại trên tàu lá cau, tạo nên một vẻ đẹp long lanh, ánh nắng ban mai chiếu xuyên qua tạo nên bức tranh căng tràn nhựa sống. Và đây cũng là ánh nắng ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng“

          Vẻ đẹp của Vĩ Dạ không phải tạo nên ở hình ảnh “nắng hàng cau” mà phải là hình ảnh “nắng mới lên” trên “hàng cau”. Trong khoảnh khắc ấy thì mới bộc lộ hết vẻ đẹp tuyệt vời như tranh vẽ. Với câu hỏi tu từ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” kết hợp đại từ phiếm chỉ “ai” và phép so sánh đầy sức gợi, tác giả đang miêu tả một”màu xanh như ngọc”. Ngoài ra , tính từ chỉ mức độ “mướt quá” tạo ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc, nhà thơ đang ngợi ca vẻ đẹp lung linh, xanh trong. Sắc xanh ấy gợi cho người đọc nhớ đến câu thơ của Xuân Diệu:

“Đổ trời xanh trong sang trọng

Thu đến nơi nơi đọng tiếng huyền”

          Chỉ với hai câu thơ, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã khắc họa bức tranh thiên nhiên căng tràn nhựa sống,tinh diệu ở thôn Vĩ Dạ trong khoảnh khắc bình minh.Bức tranh bình minh sinh động hơn khi con người xuất hiện thấp thoáng sau vòm lá trúc “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Trong quan niệm của người xứ Huế, ”mặt chữ điền” mang ý nghĩa cho một khuôn mặt phúc hậu, rắn rỏi. Tác giả dân gian ca ngợi “mặt chữ điền” qua câu thơ :

“Mặt em vuông tựa chữ điền

Da em thì trắng áo đen mặc ngoài

Lòng em có đất có trời

Có câu nhân nghĩa,có lời thuỷ chung"

          Câu thơ cuối, tác giả  đã tạo nên vẻ đẹp hài hoà giữa thiên nhiên và con người qua hình ảnh “lá trúc” mong manh, mềm mại còn “mặt chữ điền” đôn hậu, khoẻ mạnh. Hai nét đẹp ấy tưởng chừng như đối lập nhưng kết hợp hài hoà tạo nên một nét duyên ngầm của con người Vĩ Dạ. Khuôn mặt ấy ẩn hiện sau “vòm lá trúc”. Khuôn mặt “chữ điền” xuất hiện tạo nên một sự sống động, hữu tình gợi lên sự kín đáo, đằm thắm, rất Huế.

        Nếu khổ một là bức tranh làng quê lúc bình minh đẹp đẽ thơ mộng thì khổ hai là chìm vào hoàng hôn với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng:

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

          Hai câu thơ đầu tác giả tạo dựng nên những hình ảnh nối tiếp nhau “gió”, “mây”, “dòng nước”, “hoa bắp” kết hợp nhịp điệu thơ chậm chạp gợi lên một nỗi buồn mênh mang, sâu thẳm của Huế. Phải chăng, đó là nỗi lòng của thi nhân khi rơi vào bi kịch và ý thức được bi kịch của mình. Bằng nghệ thuật đối lập”Gió theo lối gió, mây đường mây” kết hợp với điệp từ “gió”, “mây” được sử dụng rất đắt, hình ảnh được lặp lại không phải để nhấn mạnh cường độ của gió hay sắc thái của mây mà để đẩy gió và mây đôi đường ngăn cách. Mượn hình ảnh của gió và mây tác giả muốn nói lên nỗi buồn tủi, tuyệt vọng, về sự xa cách của mình. Dường như Hàn Mặc Tử dự cảm về một tình yêu không thành, từ đó người đọc cảm nhận được tâm trạng cô đơn, buồn đau. Câu thơ thứ hai hay nhất ở hai chữ ”buồn thiu” đặt giữa câu thơ kết hợp biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” diễn tả nỗi buồn trong lòng thi nhân, hình ảnh dòng sông trở nên u buồn xa vắng, dòng sông như bất động, ngừng chảy như vĩnh viễn đánh mất sự sống của chính mình. Có lẽ đó cũng là nỗi lòng của Hàn Mặc Tử, bởi lẽ:”Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, cái buồn ấy lan tỏa cả sang “hoa bắp lay”. Hình ảnh “hoa bắp lay”gợi một nỗi buồn hiu hắt - một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ gió đến mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách của một mối tình vô vọng, tất cả chỉ là hư ảo trong mộng tưởng. Hai câu thơ cuối, thi nhân rơi vào một thế giới của mộng ảo: ”Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”. Bằng hai câu hỏi tu từ cùng với những hình ảnh mê hoặc lòng người “dòng sông trăng” và “thuyền” chở trăng. Trăng là thế giới riêng của nhà thơ, là bạn tri âm tri kỉ.Trăng là nơi trú ngụ cuối cùng của linh hồn ông,trốn tránh sự truy đuổi đến cùng của đau đớn và cái chết. Mở đầu bài thơ là “nắng” thoắt cái là “trăng”. Nắng và trăng đều mang đến ánh sáng cho con người. Nắng mang đến cõi thực,còn trăng là cõi mơ ảo. Tại sao thuyền phải chở trăng về kịp tối nay”- đó là câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai . Tác giả hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời  mình. Giờ đây đối với ông sống là chạy đua với thời gian, ông luôn trân trọng từng ngày từng giờ trong cái quỹ thời gian ít ỏi của mình. Từ “ kịp” nghe có gì đó khắc khoải , tha thiết và đầy hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa , không biết khi nào trở lại.Tối nay không biết là tối nào nhưng nếu không “kịp” chắc sẽ không còn thêm cơ hội nào nữa. Đây chính là nỗi ước ao, tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi nhớ mong về Thôn Vĩ. Khổ thơ thứ hai vừa vẽ lên cảnh trời mây nước lung linh, huyền ảo nhưng lại ẩn chứa nỗi lòng tha thiết của thi nhân, niềm đau dự cảm chia lìa,thất vọng trong hi vọng. Qua đó bộc lộ khát vọng sống, khát khao tình yêu.     

        Giọng thơ trở nên gấp gáp, khẩn thiết nhân vật trữ tình đã chìm trong mộng ảo “một bước nhảy vọt rất Hàn Mặc Tử không có ở đâu và không ai có”(Lê Trí Viễn):

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

         Nhà thơ đắm chìm trong cõi mộng nhưng rồi mộng trần gian say đến bao nhiêu cũng phải tỉnh. Vì thế tác giả như quay về với cõi thực nhưng tất cả lại rơi vào ảo ảnh qua điệp ngữ “khách đường xa” lặp lại hai lần kết hợp với nhịp thơ 4/3, nhà thơ hi vọng, khát khao, mong đợi người thân đến thăm để vơi bớt nỗi cô đơn, sầu tủi, nhưng càng hi vọng càng cảm thấy xa vời. Sự cách xa không chỉ về mặt không gian mà còn xa cách cả về tâm hồn và tình cảm. Giọng văn như trùng xuống, khắc khoải. Trong cõi mộng ảo, nhà văn mong chờ trong vô vọng. Thế giới ảo cũng giúp cho thi sĩ tạo nên một hình ảnh nên thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng ảo tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Tà áo dài ấy, mối tình ấy, người con gái ấy dường như rất gần lại hoá xa xôi. Tưởng như thực hóa ra ảo ảnh. Hình ảnh nàng thơ trong thơ tác giả luôn mang nghĩa biểu tượng cho cho vẻ đẹp tinh khôi và trong trắng. Vì thế màu áo trắng cứ như một ám ảnh kì lạ không thể đến gần khiến cho tác giả “ nhìn không ra”. Cụm từ “nhìn không ra” kết hợp với tính từ chỉ mức độ “ trắng quá” để miêu tả sắc trắng một cách kì lạ bất ngờ. Đây không còn là màu trắng của thực tại mà là màu của tâm tưởng. Câu thơ tạo nên một thế giới ảo nhưng có lí, làm cho người đọc ngỡ rằng là một bài thơ tả cảnh thiên nhiên xứ Huế nhưng đã trở thành một bài thơ tình - tình đơn phương khó xác định, khát vọng tình yêu đẹp giờ nhạt nhoà trong kí ức. Hai câu kết dẫn người đọc đi xa hơn cõi tâm tưởng. “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mờ ảo với “sương” và “khói” khiến cho mọi vật trở nên hư không. “Ở đây” có thể là thế giới ở trại phong Quy Hoà với bệnh tật đau thương. Nhưng ở đây cũng có thể ở Huế, nơi thôn Vĩ thơ mộng trữ tình. Có lẽ từ “đây” trong nhan đề “ Đây thôn Vĩ dạ” tươi đẹp nên thơ. Còn “ đây” trong khổ thơ cuối là thế giới riêng của Hàn Mặc Tử , giữa hai thế giới ấy cách đúng một tầm tuyệt vọng. Qua đó người đọc cảm nhận được khát khao tình yêu, khát vọng sống của thi nhân. Mọi tâm tư của nhà thơ đều dồn vào câu thơ cuối ”Ai biết tình ai có đậm đà”. Tác giả không dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ nói “ai”, đại từ phiếm chỉ “ai” dường như xuyên suốt bài thơ . Nét độc đáo sáng tạo thể hiện ở ba khổ thơ, Hàn Mặc Tử đều dùng “ai”, “vườn ai”, “thuyền ai” và bây giờ “ai biết tình ai có đậm đà”. Câu thơ ngân xa như một tiếng than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời thơ dường như nhắc nhở nhưng không bộc lộ tuyệt vọng hay hi vọng mà toát lên một sự thất vọng. Sự thất vọng của một thi sĩ - người chủ của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Theo cảm xúc mạch thơ, với khổ thơ đầu lời ngợi ca vẻ đẹp ở Vĩ Dạ tràn đầy sức sống , còn khổ hai là niềm lo lắng trăn trở của thi nhân. Đọng lại ở khổ thơ cuối là tâm trạng hoài nghi, khắc khoải. Có lẽ câu thơ cuối là lời đáp lại cho câu mở đầu. Bằng câu hỏi tu từ ẩn chứa sự hoài nghi của thi nhân đối với con người thôn Vĩ. Không biết người xứ Huế có dành tình cảm cho mình hay không và khẳng định tình cảm của mình đối với con người xứ Huế. Hàn Mặc Tử là một người yêu đời, yêu người tha thiết và khát vọng được sống hạnh phúc trong tình yêu. Vì vậy, dòng thơ cuối như xoáy vào tâm can người đọc.

          Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được viết theo thể thơ 7 chữ, ngôn ngữ tinh tế, gợi hình gợi cảm, giọng điệu thiết tha, sâu lắng nhẹ nhàng. Ngoài ra bài thơ còn để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bởi 3 câu hỏi tu từ và đại từ phiếm chỉ “ai”. Hàn Mặc Tử không chỉ  ca ngợi vẻ đẹp của xứ Huế mộng mơ mà còn bộc lộ nỗi niềm khắc khoải trân trọng từng giây phút cuộc sống và khát khao hạnh phúc. Cám ơn Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều tác phẩm hay cho nền văn học Việt Nam. Người đọc mượn lời thơ của Trần Ninh Hổ thay cho nén nhang lòng tri ân cùng thi sĩ :

“Nếu nhân loại không còn khao khát nữa

Và nhà thơ- nghề chẳng kẻ nào yêu

Người thi sĩ cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử

Vẫn hiện lên ở đáy vực đợi chờ”

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 20

“Trời hỡi! Nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng
Để trả thù cho duyên kiếp phũ phàng”.

Hàn Mặc Tử yêu Hoàng Cúc, một thiếu nữ xinh đẹp ở thôn Vĩ Dạ - Huế. Rồi xa cách. Rồi lâm bệnh. Hoàng Cúc gửi thơ, gửi ảnh vào Quy Nhơn thăm Hàn Mặc Tử. Đọc thư, xem ảnh người tình, quá xúc động, Hàn Mặc Tử lật tấm ảnh Hoàng Cúc đề thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” rồi gủi ra Huế cho Hoàng Cúc. Khoảnh khắc kì diệu của tâm linh thi nhân đã để lại cho đời một bài thơ bất tử.

Thơ đến một cách tự nhiên, xúc cảm dào dạt trên đầu ngọn bút. Lời thư và lời thơ, quá khứ và hiện tại, con người và thiên nhiên, tình và cảnh hòa quyện trong một bức tranh thơ mĩ lệ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Nguồn cảm xúc được khơi dậy bằng một lời trách yêu của người tình trong thư:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Lời trách nhỏ nhẹ êm ái, thiết tha vì lời thư đã hóa thành lời thơ. Lời của em tất nhiên là đậm tình của em' rồi, nhưng còn là tình của anh nữa. Từng chữ trong lời thư được véo von lên trong lời thơ. Băng (xen-luy-lô chứ chưa phải băng nhựa) được kéo qua cái “đầu từ siêu bền” là tâm hồn nhà thơ, thế là nhạc nổi lên, hình nổi lên. Từng lời trách mà sao trái tim nghe êm ái. Nơi em gợi lên - thôn Vĩ - sao mà thương yêu. Thôn Vĩ (Vĩ Dạ) nằm bên bờ sông Hương xanh tươi vơi cây trái bôn mùa, với những ngôi nhà duyên dáng, với mây trời lãng đãng, với sông nước êm đềm, với những thiếu nữ mộng mơ, và kì diệu trong những điều kì diệu ấy là người thiếu nữ đang gửi lời trách anh. Lời thư được diễn thành thơ với sáu thanh bằng, êm như một lời hoài niệm. Âm thanh, sắc màu, hình ảnh như đã sẵn trong hồn thi nhân, chỉ cần gợi lại là hiện lên sống động làm nao lòng người. Đọc thư của người tình, nhà thơ như đứng trước buổi bình minh của thôn Vĩ Dạ xứ Huế:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Nắng sớm nhuộm vàng trên những đọt cau trong khi vườn tược còn mát đẫm sương đêm là một cảnh gây ấn tượng sâu sắc đối với những ai đã đến Vĩ Dạ. Cảnh vật tươi sáng rực rỡ, tinh khiết, trinh nguyên dưới nắng mai đang vận động, đang lên, “mới lên”. Đấy là sự hấp dẫn của viễn cảnh thôn Vĩ Dạ. Còn đây là cận ảnh:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Cảnh sắc tươi đẹp vẫn là cảm giác bao trùm đối với thi nhân và còn hiện lên một tấm lòng say mê trước cảnh trước người. “Vườn ai mướt quá...”, ngôn ngữ thơ tế nhị lắm. Chữ “ai” này, trong tiếng Việt của cha ông ta nó kì lắm. Tư duy biện chứng nằm trong đó, nó vừa là nó vừa không phải nó. “Vườn ai là vườn ai, chả biết thật, nhưng cũng có thể là vườn của người mình thương, vườn cô gái!” (Lê Trí Viễn). Màu sắc cũng được gợi lên một cách ý tứ. Bao nlýêu xanh tươi mơn mởn non tơ được gợi trong một từ “mướt”, màu xanh được gợi lên bằng màu quý “xanh như ngọc”. Một lời tả cảnh vật mà cũng là một lời yêu quý đắm say đôi với người tình.

Con người hiện lên trong vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Những nhà nho nhã ở Vĩ Dạ, trước nhà thường có khóm trúc khiến cho cảnh nhà thanh tao. Thiếu nữ hiện ra sau rèm trúc xanh tươi của thiên nhiên càng e ấp, bí mật hơn. Chính vì vậy mà câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” cũng đầy bí mật. Câu thơ đã tốn không biết bao giấy mực để giải mã mà vẫn chưa xong. Ông Lê Trí Viễn cho rằng “Có con người mặt chữ điền đó nữa”. Ông già bà cả xứ Huế khen khuôn mặt chữ điền là đẹp, phúc hậu, nhìn mặt mà thấy luôn cả tinh thần. Ca dao có câu:

“Mặt em vuông tượng chữ điền
Da em thì trắng áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa, có lời thủy chung”

Từ đó, các sách dùng trong nhà trường đều cho rằng “mặt chữ điền” là mặt hiền lành phúc hậu. Thấp thoáng sau hình ảnh những lá trúc mảnh mai, thanh tú là khuôn mặt chữ điền vuông vức, đầy đặn, ẩn chứa bên trong cái bản chất hiền lành, trung thực. Nhà thơ Chế Lan Viên không lí giải được những hoài nghi, con gái mặt chữ điền thì đẹp gì mà Hàn Mặc Tử ca ngợi?

Có ý kiến lại cho rằng “mặt chữ điền” là mặt của nhà thơ.

Xem ảnh thì thấy mặt Hoàng Cúc chăng có chút gì là chữ điền cả. Có lẽ nhà thơ đã nhìn Hoàng Cúc qua khóm trúc, “lá trúc che ngang” ngẫu nhiên đã tạo ra khuôn “mặt chữ điền” lạ lùng. Khoảnh khắc đó đã in dấu trong hồn thi sĩ và khi đặt bút đề thơ đã tạo ra một hình tượng thơ bí ẩn. Trăm sự là tại ngôn ngữ thơ mà ra, nó cô đọng, nó tắt ngang, nó nhảy vọt, nó ẩn hiện, nó tráo trở.

Sang khổ thơ thứ hai, không gian được mở ra với sự chuyển động của gió mây, với sông trăng huyền ảo:

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Cảnh chuyển động theo nhịp điệu cô đơn (Gió theo lối gió/mây đường mây). Không gian mở ra chiều rộng mà tình lắng vào chiều sâu. Chứng nhân cho “lối gió”, “đường mây” là dòng nước được nhân hóa “dòng nước buồn thiu”. Dòng Hương Giang như tấm gương trong phản chiếu cả nỗi buồn của thi nhân, của tình nhân. Và một chút lay động nhẹ của “hoa bắp” khiến cho cảnh thêm xao xuyến, hay là lòng người xao xuyến? Nhưng thi nhân không chìm đắm trong nỗi buồn mà say với mộng mơ:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Cái chuyển động cô đơn (gió theo lối gió mây đường mây), cái tĩnh lặng lại càng cô đơn. Dòng sông mênh mông chỉ có một con thuyền “đậu”. May thay, con thuyền không “đậu” một bến bờ nào mà “đậu” bến của hư ảo, của huyền ảo, “bến sông trăng”. Chính tinh thần lãng mạn của thi nhân Hàn Mặc Tử đã cứu rỗi linh hồn của tình nhân Hàn Mặc Tử. Cô dơn đến tận cùng, buồn đến tận cùng mà thành mộng mơ, mà thành hoan lạc. Hai chữ “tối nay” vậy mà hay vì nó làm cho “thuyền”, cho “sông trăng”, “chở trăng” càng thêm huyền hoặc.

Rồi nhạc thơ lại trở về giai điệu ban đầu tha thiết giục giã:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”.

Câu thơ “Mơ khách đường xa, khách đường xa” rất giống với câu thơ “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên” về mặt âm nhạc. Cùng nhịp 4/3, chữ thứ hai trắc (khách, nắng) và cùng được điệp lại ở chữ thứ năm. Tình của thi nhân với giai nhân thật là tha thiết mà hình ảnh thì mộng mị “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Không màu (trong hội họa trắng không phải là màu), lạnh, tinh anh mà nhạt nhòa. Cái nhạt nhòa dễ khiến người tình không thể không hoài nghi:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Chữ trong thơ Hàn Mặc Tử thường ỡm ờ, đa nghĩa. “Ở đây” là ở đâu? ở nơi em hay ở nơi anh? Là ở trong ảnh hay ở ngoài đời? Lớp sương khói huyền hồ đã làm “mờ nhân ảnh” thì chữ nghĩa làm sao còn rành rẽ được. Những chữ “vườn ai”, “thuyền ai” phiếm chỉ thật là có duyên, và giờ đây là “ai biết tình ai...”, một chút hoài nghi trong sương khói phôi pha. Tất cả đều huyền hồ, chỉ có sự chấn động trong lòng thì không có “sương khói” nào che mờ được. Những từ “ai” điệp lại như sóng, sóng lòng, sóng tình thật là dào dạt, nồng nàn.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử gợi lên hình ảnh thơ mộng của thiên nhiên xứ Huế, của con người xứ Huế và mối tình lãng mạn, giữa thi sĩ với giai nhân. Bằng ngôn ngữ thơ tráng lệ, nhà thơ đã biểu hiện tình yêu say đắm, nồng nàn đối với cảnh và người xứ Huế, khao khát một vẻ đẹp thánh thiện, một tình yêu như mơ như mộng.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ớ đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 21

Con người hiện lên trong vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Những nhà nho nhã ở Vĩ Dạ, trước nhà thường có khóm trúc khiến cho cảnh nhà thanh tao. Thiếu nữ hiện ra sau rèm trúc xanh tươi của thiên nhiên càng e ấp, bí mật hơn. Chính vì vậy mà câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” cũng đầy bí mật. Câu thơ đã tốn không biết bao giấy mực để giải mã mà vẫn chưa xong. Ông Lê Trí Viễn cho rằng “Có con người mặt chữ điền đó nữa”. Ông già bà cả xứ Huế khen khuôn mặt chữ điền là đẹp, phúc hậu, nhìn mặt mà thấy luôn cả tinh thần. Ca dao có câu:

“Mặt em vuông tượng chữ điền
Da em thì trắng áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa, có lời thủy chung”

Từ đó, các sách dùng trong nhà trường đều cho rằng “mặt chữ điền” là mặt hiền lành phúc hậu. Thấp thoáng sau hình ảnh những lá trúc mảnh mai, thanh tú là khuôn mặt chữ điền vuông vức, đầy đặn, ẩn chứa bên trong cái bản chất hiền lành, trung thực. Nhà thơ Chế Lan Viên không lí giải được những hoài nghi, con gái mặt chữ điền thì đẹp gì mà Hàn Mặc Tử ca ngợi?

Có ý kiến lại cho rằng “mặt chữ điền” là mặt của nhà thơ.

Xem ảnh thì thấy mặt Hoàng Cúc chăng có chút gì là chữ điền cả. Có lẽ nhà thơ đã nhìn Hoàng Cúc qua khóm trúc, “lá trúc che ngang” ngẫu nhiên đã tạo ra khuôn “mặt chữ điền” lạ lùng. Khoảnh khắc đó đã in dấu trong hồn thi sĩ và khi đặt bút đề thơ đã tạo ra một hình tượng thơ bí ẩn. Trăm sự là tại ngôn ngữ thơ mà ra, nó cô đọng, nó tắt ngang, nó nhảy vọt, nó ẩn hiện, nó tráo trở.

Sang khổ thơ thứ hai, không gian được mở ra với sự chuyển động của gió mây, với sông trăng huyền ảo:

“Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Cảnh chuyển động theo nhịp điệu cô đơn (Gió theo lối gió/mây đường mây). Không gian mở ra chiều rộng mà tình lắng vào chiều sâu. Chứng nhân cho “lối gió”, “đường mây” là dòng nước được nhân hóa “dòng nước buồn thiu”. Dòng Hương Giang như tấm gương trong phản chiếu cả nỗi buồn của thi nhân, của tình nhân. Và một chút lay động nhẹ của “hoa bắp” khiến cho cảnh thêm xao xuyến, hay là lòng người xao xuyến? Nhưng thi nhân không chìm đắm trong nỗi buồn mà say với mộng mơ:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Cái chuyển động cô đơn (gió theo lối gió mây đường mây), cái tĩnh lặng lại càng cô đơn. Dòng sông mênh mông chỉ có một con thuyền “đậu”. May thay, con thuyền không “đậu” một bến bờ nào mà “đậu” bến của hư ảo, của huyền ảo, “bến sông trăng”. Chính tinh thần lãng mạn của thi nhân Hàn Mặc Tử đã cứu rỗi linh hồn của tình nhân Hàn Mặc Tử. Cô dơn đến tận cùng, buồn đến tận cùng mà thành mộng mơ, mà thành hoan lạc. Hai chữ “tối nay” vậy mà hay vì nó làm cho “thuyền”, cho “sông trăng”, “chở trăng” càng thêm huyền hoặc.

Rồi nhạc thơ lại trở về giai điệu ban đầu tha thiết giục giã:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”.

Câu thơ “Mơ khách đường xa, khách đường xa” rất giống với câu thơ “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên” về mặt âm nhạc. Cùng nhịp 4/3, chữ thứ hai trắc (khách, nắng) và cùng được điệp lại ở chữ thứ năm. Tình của thi nhân với giai nhân thật là tha thiết mà hình ảnh thì mộng mị “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Không màu (trong hội họa trắng không phải là màu), lạnh, tinh anh mà nhạt nhòa. Cái nhạt nhòa dễ khiến người tình không thể không hoài nghi:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Chữ trong thơ Hàn Mặc Tử thường ỡm ờ, đa nghĩa. “Ở đây” là ở đâu? ở nơi em hay ở nơi anh? Là ở trong ảnh hay ở ngoài đời? Lớp sương khói huyền hồ đã làm “mờ nhân ảnh” thì chữ nghĩa làm sao còn rành rẽ được. Những chữ “vườn ai”, “thuyền ai” phiếm chỉ thật là có duyên, và giờ đây là “ai biết tình ai...”, một chút hoài nghi trong sương khói phôi pha. Tất cả đều huyền hồ, chỉ có sự chấn động trong lòng thì không có “sương khói” nào che mờ được. Những từ “ai” điệp lại như sóng, sóng lòng, sóng tình thật là dào dạt, nồng nàn.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử gợi lên hình ảnh thơ mộng của thiên nhiên xứ Huế, của con người xứ Huế và mối tình lãng mạn, giữa thi sĩ với giai nhân. Bằng ngôn ngữ thơ tráng lệ, nhà thơ đã biểu hiện tình yêu say đắm, nồng nàn đối với cảnh và người xứ Huế, khao khát một vẻ đẹp thánh thiện, một tình yêu như mơ như mộng.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ớ đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà”.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 22

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ nhẹ nhàng nhất của nhà thơ được in trong tập “Thơ Điên”.Mở đầu bài thơ, ông viết:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.Phải chăng là một lời mời gọi nhưng có chút trách móc trong đó. Sao anh – ở đây là nhà thơ không về chơi thôn Vĩ Dạ.Vùng quê ấy đẹp và yên bình lắm.Có hàng cau xanh mướt ,có những khu nhà vườn rợp bóng cây .Có nắng sớm lên trong trẻo và có cả khuôn mặt chữ điền phúc hậu, đằm thắm ẩn sau lá trúc xinh. Tất cả khung cảnh hiện lên đều toát lên nét đẹp đặc trưng rất Huế.

Mọi thứ thật nhẹ nhàng, thật thanh tao và thơ mộng. Huế đẹp như vậy, “thôn Vĩ Dạ”nên thơ như thế ,tại sao anh không về  ?Một câu hỏi tưởng rằng dễ trả lời nhưng với hoàn cảnh bây giờ của Hàn Mặc Tử thì quả là rất khó để diễn tả. Ông hiểu, ông biết tất cả những điều đó nhưng rằng với sức khỏe của ông bây giờ. Với căn bệnh phong bị người đời kỳ thị thì ước mơ về nơi đó chơi thật quá xa vời.

Việc sử dụng câu hỏi tu từ ngay ở đầu đoạn thơ gợi lên rất nhiều suy nghĩ ,trăn trở cho người đọc. Nhà thơ tự đặt câu hỏi hoặc có thể là ai đã từng hỏi ông. Nhưng không cần trả lời vì ông đã biết trước kết quả. Một sự đau đớn tận cùng. Khi mà khát khao,mong ước không trở thành hiện thực. Khi mà từng ngày,từng giờ đối diện với những cơn đau hành hạ ,dần dần ăn mòn cơ thể,tâm hồn của ông.

Người thanh niên đang còn trẻ,còn bao ước mơ,dự đinh ấp ủ ,còn có cả một mối tình đơn phương nhiều day dứt. Ấy thế mà căn bệnh nan ý đó đã giết chết cuộc đời của ông. Ông đã phải trải qua một giai đoạn khủng khiếp,hoảng loạn về cả thể xác và  tinh thần. Nhưng trong những giây phút điên cuồng và đau khổ đó, lá thư của bà Hoàng Cầm – nhân vật trong bài thơ này như là dòng suối tưới mát lên cuộc đời tưởng chừng đã chết mòn của ông.

Niềm hạnh phúc tột cùng khi được đọc những dòng thư và cả bức hình về người con gái Huế đó đã khiến cho lòng ông sống dậy. Bao nhiêu cảm xúc hiện về, để rồi ông tự vẽ lên khung cảnh tươi đẹp ở thôn Vĩ Dạ trong chính tưởng tượng của mình. Nhưng hiện tại phũ phàng và khắc nghiệt vẫn không buông tha cho ông. Dù chỉ là tưởng tượng thôi, giây phút hạnh phúc nhẹ nhàng,hiếm hoi trong chuỗi ngày đau khổ đó tồn tại không được lâu.

Ông đành phải quay về thực tại:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay ?

Hình ảnh gió và mây đồng thời xuất hiện, nhưng ở đây có một  sự kỳ lạ khi “gió theo lối gió”,”mây đường mây”. Sự chuyển động đối lập này sao mà khó hiểu quá. Khi chúng ta đã quen với những cụm từ như gió cuốn,mây bay. Thì sự thay đổi này hẳn là chứa nhiều cảm xúc trăn trở,day dứt của Hàn Mặc Tử.

Đất trời giờ cũng vô định như chính cuộc đời của ông. Ngày tháng trôi qua không còn ý nghĩa nữa, rồi một mai đây chia ly đôi ngả, mây trời xa cách .Liệu rằng còn có chút gì để níu kéo cuộc đời ông lại nữa không. Dòng nước trôi buồn thiu ,sầu não, đau thương hay chính dòng sông định mệnh cuộc đời của ông vậy. Như những bông hoa bắp lay lắt,phó mặc cho đất trời.

Cuộc đời vô định trên dòng sông đó, con thuyền xuất hiện như càng làm tăng lên sự cô độc ,cô đơn của một kiếp người. Bến sông vắng ngập tràn ánh trăng nên thơ và huyền ảo, nhưng liệu con thuyền có về kịp để chở không. Hay con thuyền đó còn bơ vơ, vô định nơi chốn nào trên cõi đời này.

Lòng đầy tình cảm, đầy nhớ thương nhưng liệu còn kịp gửi tới người hay không ? Khát khao sống, đam mê còn cháy bỏng nhưng liệu còn đủ thời gian để thực hiện hay không? Câu hỏi của nhà thơ nghe sao mà thương cảm,xót xa quá. Thực sự rất đau lòng khi nhà thơ phải dùng từ “kịp”.Bởi ông không còn nhiều thời gian nữa rồi. Tất cả chúng ta như lặng đi khi đọc đến những dòng thơ này. Nỗi đau đớn dường như lên đến tột cùng, ông đã để trí óc của mình chìm đắm trong thế giới hư hư ,thực thực. Ở đó tuy không phải thiên đường nhưng có lẽ ít nhất sẽ bớt đi một chút đau thương:

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Mơ khách đường xa, giấc mơ tồn tại xen lẫn những cơn đau đớn vật vã của bệnh tật. Không biết cụ thể là ai, chỉ là khách đường xa không rõ hình rõ mặt. Có thể là một ai đó ,người đã từng đi qua cuộc đời của ông, cũng có thể là cô gái áo trắng ông từng thầm thương trộm nhớ. Nhưng tất cả đều không cụ thể.

Trong những cơn đau đớn ,hoảng loạn,chỉ là mơ thôi cũng đã khiến con người ta suy kiệt sức khỏe. Sẽ chẳng còn đủ minh mẫn,tỉnh táo để nhớ rõ mặt ai. Nhưng ông vẫn nhớ là “em “,bởi hình ảnh của em đã ăn sâu trong trái tim ,trí óc của ông ,không dễ dàng mà quên được. Tuy tình cảm vẫn còn đó,nhưng đã “nhìn không ra” nữa. Rồi khi bệnh tật ăn mòn cơ thể ,cái chết cận kề từng ngày, ông sợ sẽ quên luôn hình ảnh cuối cùng của cô gái còn sót lại.

Một nỗi lo lắng, đau khổ tận cùng. Ở đây, nơi trại phong như bị cách ly với phần còn lại với thế giới này. Ở nơi chỉ có đau thương và những cuộc vật lộn giữa sự sống và cái chết. Thì liệu họ hay chính nhà thơ còn được quyền hy vọng về tình yêu nữa không ? Còn có thể tin rằng:ở đâu đó vẫn có một người dành tình cảm cho mình,vẫn nhớ thương mình. Câu hỏi cuối bài để lại quá nhiều trăn trở.

Hàn Mặc Tử ,một hồn thơ đa sầu đa cảm  như chính cuộc đời của ông.Dù đã đi xa từ rất lâu rồi,nhưng hình ảnh của ông vẫn xuất hiện trong những câu thơ, điệu nhạc. Người ta nhớ tới ông ,người nghệ sĩ tài hoa đoản mệnh. Những câu hát về ông vẫn vang lên một cách đầy ám ảnh. Khi về bên kia thế giới, hãy yên nghĩ nhé Hàn Mặc Tử. Bởi cuộc đời này ông đã đau khổ ,bi ai lắm rồi .Hãy sống một cách nhẹ nhàng và an nhiên nhất.Và hãy tin rằng luôn có một chuyến đò vẫn luôn kịp để chở những áng thơ của ông.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 23

Phong trào Thơ mới (1932 - 1945) xuất hiện trên thi đàn văn học đã tạo ra một bất ngờ lớn nhưng sự xuất hiện của Hàn Mặc Tử còn tạo ra sự ngạc nhiên hơn nhiều. Một đời thơ không dài nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại một lượng tác phẩm đáng phục và anh được ví như "ngôi sao băng có ánh sáng khác lạ vụt qua bầu trời văn học" và làm người ta nhớ mãi không quên. Hàn Mặc Tử khiến người ta nhớ đến bởi giọng thơ độc đáo mới lạ của một hồn thơ luôn quằn quại đau đớn trong bất hạnh. Bên cạnh những vần thơ điên, thơ say, thơ siêu thực với một thế giới đầy ma quái là một giọng thơ trữ tình đằm thắm. Tất cả thể hiện một tình yêu đời tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ như thế. Mười hai câu thơ là một mạch cảm xúc chan chứa tình cảm với xứ Huế thơ mộng, với con người trần thế.

Mở đầu bài thơ là khổ thơ viết về thiên nhiên thôn Vĩ với những vẻ đẹp đầy thơ mộng qua dòng hồi tưởng của nhà thơ. Câu thơ đầu có một khả năng gợi mở rất lớn :

Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?

Câu thơ là lời mời, lời trách hay sự nuối tiếc? Có lẽ là cả ba. Đó là chủ thể trữ tình của-lời mời của cô gái nào đó đang trách hờn "anh" bài thơ hay câu thơ chính là sự phân thân của nhân vật trữ tình để bộc lộ tâm trạng nuối tiếc của mình vì không được trở lại thôn Vĩ nữa. Ba câu sau được nối với câu trước bởi nghệ thuật "vắt dòng" của câu hai. Nhìn nắng hàng cau là lời giải thích "sao anh không về để nhìn nắng" còn nắng mới lên tồn tại độc lập. Đây là lời của cô gái hay chàng trai. Lời của cô gái nhưng bắt đầu có sự xuất hiện của nhân vật trữ tình. Cảnh và một loại-người thôn Vĩ hiện lên rõ dần. Bắt đầu là hình ảnh hàng cau cây quen thuộc trong những khu nhà vườn xứ Huế.

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Ta đã từng gặp hình ảnh hàng cau trong Nhớ của Hồng Nguyên :

Có nắng chiều đột kích mấy hàng cau

Với hình ảnh độc đáo giàu sức gợi, giàu giá trị thẩm mĩ, ngôn ngữ ngữ cực tả luôn trong trong sáng, súc tích, cách sử dụng xuyên suốt những câu hỏi tu từ, cách sử dụng nhịp điệu thơ theo cảm xúc có khi là tha thiết đắm say, có khi là chậm rãi buồn tẻ, Đây thôn Vĩ Dạ thể hiện tình yêu tha thiết của tác giả đối với xứ Huế, nơi nhà thơ đã từng có nhiều kỷ niệm ngọt ngào, đồng thời thể hiện khát khao được sống, được yêu của một con người. Nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh phong cảnh thật đẹp về thiên nhiên xứ Huế, từ đó thể hiện tình yêu và khát vọng sống mãnh liệt.

Mời các bạn xem tiếp các phần hoàn thiện của bài văn trong bài viết Phân tích bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử. Các bạn có thể đọc trực tiếp trên website hoặc đăng nhập để tải về máy dùng làm tư liệu tham khảo khi cần thiết. 

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 24

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đây là tác phẩm nổi bật nằm trong tập “Thơ Điên” đại diện thay mặt cho hồn thơ mãnh liệt và luôn sáng tạo dẫu xa lạ với đời thực của Hàn Mặc Tử. Sự sáng tạo ấy thể hiện ngay ở phần mở đầu của bài thơ khi tác giả lại chọn một vướng mắc tu từ để dẫn dắt người đọc vào bức tranh thiên nhiên đầy tâm sự của Vĩ Dạ.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu thơ đầu là lời tự sự đuổi theo dòng cảm xúc của chủ thể trữ tình. Đôi chút trách móc, giận hờn cũng là nghệ thuật và thẩm mỹ để tôn lên nét duyên của người con gái. Hoặc có chăng đây đây là lời tự vấn khi từ ‘anh” được sử dụng như đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất thể hiện sự nuối tiếc muốn giải bày. Chính vì giọng thơ rất duyên Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận được đượm chút buồn để rồi kết thúc bằng một dấu chấm hỏi sống lưng chừng.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ bắt đầu hiện lên rõ nét qua từng hình ảnh thơ cụ thể của tác giả. Từ “nắng” được tái diễn hai lần trong cùng một câu thơ khiến cả thôn Vĩ Dạ như được tắm mình trong màu nắng vàng ấm áp, ấm như chính lòng người nơi đây. Nhà thơ đã đặc biệt quan trọng miêu tả về hình ảnh “nắng mới lên” như muốn gợi tới sự thanh khiết, tinh tươm của cảnh vật chốn quê nhà.

Bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ không chỉ có “nắng hàng cau” trải dài từng vệt ấm mà còn tươi mới với màu xanh của cây cối nơi đây. Màu xanh được so sánh với màu ngọc như một phép nghệ thuật và thẩm mỹ khéo léo tôn lên vẻ trân quý của bức tranh thiên nhiên xứ mộng mơ. Câu thơ thứ ba nổi bật lên nhờ vào giọng thơ đầy sắc thái ngạc nhiên pha lẫn thích thú của tác giả. Chính vì thế mà người đọc như được lao vào không gian nghệ thuật và thẩm mỹ mà nhà thơ xây lên.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Thiên nhiên dẫu đẹp đến đâu thì cũng sẽ trở nên vô hồn nếu thiếu đi bóng hình con người. Do này mà câu thơ cuối của khổ thơ thứ nhất đã làm sống dậy hồn của tất cả đoạn thơ khi vẻ đẹp con người được miêu tả hòa quyện cùng cảnh vật thiên nhiên.

Ở đây, tác giả đã vô cùng tinh tế khi đưa hình ảnh con người vào bức tranh thiên nhiên một cách thấp thoáng, vừa thực vừa ảo với gương mặt chữ điền vốn là khuôn mặt của sự việc phúc hậu và vừa gần gần vừa xa bởi sự che ngang của lá trúc. Tại sao lại là lá trúc mà không phải bất kì loại lá nào, vì trúc với dáng lá thanh mảnh tượng trưng cho cái đẹp nhẹ nhàng của thiên nhiên.

Có thể nói rằng, khổ thơ đầu Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận đây là một bức tranh thiên nhiên đẹp đúng với vẻ mộng mơ của xứ Huế, Từ đó, gợi lên nỗi niềm nhớ thương về quê nhà của nhà thơ.

Khổ thơ thứ hai là việc chuyển biến nội tâm hoàn toàn của nhân vật trữ tình thông qua tứ thơ vận động theo cảm xúc.

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Làn nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Hai câu thơ trên vốn tả cảnh nhưng lại nặng trĩu tâm tình khi tác giả mượn hình ảnh gió và mây để cụ thể hóa tâm sự nơi lòng mình. Gió và mây muôn đời vẫn quấn quýt bên nhau nhưng ở đây hai sự vật này lại chia đôi ngã “gió theo lối gió” để rồi bỏ lại “mây đường mây”. Tiếp đến là hình ảnh hoa rơi nước chảy càng khiến lòng người thêm não nề bởi cảnh vật sao mà vô tình thế khiến lòng người cũng chẳng mấy khá hơn. Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận được mối tình đơn phương của chính chủ thể, chưa gặp đã vội chia lìa.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Trăng với Hàn Mặc Tử là đôi bạn tri âm tri kỉ, trong thơ ông bao giờ cũng luôn có cả một miền trăng như mượn hình ảnh đó để mà giải tỏa niềm đau, chất chứa tâm sự. Qua hình ảnh “sông trăng” độc đáo, dòng sông Hương được nhà thơ miêu tả với tất cả vẻ đẹp đằm thắm, thơ mộng. Văn pháp tả thực mà như ảo của nhà thơ đã khiến dòng sông quê nhà không chỉ là một làn nước mà đây đây là một dòng ánh trăng lấp lánh trải dài.

Kết thúc khổ thơ, Hàn Mặc Tử lại đặt một dấu chấm hỏi sống lưng chừng nhưng khắc khoải hi vọng. Từ “kịp” được tác giả sử dụng rất đắt, thể hiện tâm trạng lo âu của chính nhà thơ. Bởi với một người bình thường, nếu không kịp vào tối nay thì sẽ còn những đêm khác, tuy vậy với nhân vật trữ tình này, đêm nào cũng luôn có cảm giác là đêm cuối và nếu không kịp thì có lẽ ông sẽ ra đi mãi trong sự nuối tiếc.

Thông qua đó thể hiện rõ nét thảm kịch của chính cuộc đời ông, đó là nỗi lòng khắc khoải tìm kiếm sự tri âm, thèm muốn được giao cảm với đời nhưng lại phải chống chọi với nỗi đau thể xác trong quỹ thời gian hạn hẹp còn sót lại của đời mình.

Văn pháp lãng mạn tượng trưng của ông không chỉ dựng lên không gian nghệ thuật và thẩm mỹ độc đáo mà qua ngôn ngữ điêu luyện ông còn gửi gắm tâm trạng của chính mình.

Từ giọng thơ man Mặc, khắc khoải của khổ thơ thứ hai, Hàn Mặc Tử đã chuyển thành giọng gấp gáp ở khổ thơ cuối cùng.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá, nhìn không ra”

Bị cuộc đời tuyệt giao nhưng nhà thơ quyết không bao giờ chịu tuyệt tình, càng bị bỏ rơi ông càng tha thiết níu giữ dù đớn đau muôn phần. Lời gọi “Khách đường xa” được tái diễn như tiếng nấc nghẹn ngào đầy hụt hẫng của tác giả. Ông chơi vơi khi nghĩ về người thương nơi quê nhà để rồi phải Mặc cảm trong sự chia li, tưởng chừng dáng người vừa hiện lên nhưng lại vội biến mất.

Hàn Mặc Tử đã cho những người đọc cùng ông trải nghiệm vẻ đẹp của nhân vật trữ tình trong quan niệm thơ mới của mình. Nếu như sắc trắng ở văn học trung đại là màu của sự việc tan thương, mất mát thì trong văn học văn minh, nhà thơ đã nhắc đến nó như màu của sự việc tươi mới, tinh khôi.

Quan niệm văn chương mới này đã tạo nên một vẻ đẹp “nhìn không ra”, rất đẹp nhưng xa vời chẳng đơn sơ dàng nắm bắt. Đây vốn là cái đẹp đáng để tôn thờ nhưng thảm kịch thay lại tưởng như sắp tuột khỏi tầm với của ông.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà.”

Đắm mãi trong giấc mơ về con người Vĩ Dạ, nhà thơ cuối cùng cũng phải quay về với thực tại đầy “sương khói”. Đây là sương khói của Huế thương hay là sương khói của dòng thời gian khiến mọi thứ trở nên “mờ nhân ảnh”. Dù hiểu Theo phong cách nào thì ta cũng đơn sơ dàng cảm nhận được rằng nhà thơ vẫn muốn thoát mình khỏi nỗi cô đơn, sự đau đớn giày xéo mãi một thân xác bệnh tật.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” kết thúc bằng vướng mắc đầy khắc khoải vô cùng thương xót. Động từ phiếm chỉ “ai” vang lên khiến lòng người và lắng đọng bởi cảm giác hụt hẫng của cô gái ấy hoặc cũng luôn có thể của chính nhà thơ. Dù bài thơ khép lại bằng nỗi buồn mênh mang nhưng lại cháy lên mãnh liệt ngọn lửa yêu đời, yêu người nhà thơ.

Đây thôn Vĩ Dạ cảm nhận bằng một hồn thơ mãnh liệt nặng tình với cuộc đời, với cái nhìn mới mẻ của mình Hàn Mặc Tử đã mang một góc Huế thân thương dệt cùng nỗi lòng đầy tâm sự của mình. Trong cơn giằng xé giữa tâm hồn và thể xác đớn đau, nhà thơ đã mang đến cho tất cả chúng ta những vần thơ đầy xúc cảm, rung lên từng hơi thở nghẹn ngào từ sự đồng điệu của nhà văn và bạn đọc.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 25

Ai mua trăng tôi bán trăng cho Trăng nằm yên trên cảnh liễu đợi chờ Ai mua trăng tôi bán trăng cho Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”. “Lời rao trăng” đã trở thành giai điệu quen thuộc của tình yêu, lời bài hát nổi tiếng ấy bắt nguồn từ nhà thơ cũng rất nổi tiếng trong những năm ba mươi của thế kỉ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử – một tên tuổi mãi mãi in đậm trong tấm lòng đọc giả. Ông là “một hồn thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một cuộc vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và xác thịt”. Ông “đã tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái và xa lạ với cuộc đời thực”. Có lẽ vì vậy mà trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh và Hoài Chân đã xếp Hàn Mặc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Tuy vậy, bên những dòng thơ điên loạn ấy, vẫn có những vần thơ trong trẻo đến lạ thường. “Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong tập “Thơ Điên” là một bài thơ như thế. Đây chính là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng kia – là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, yêu đơn phương nhưng ẩn bên dưới mỗi hàng chữ tươi sáng là cả một khối u hoài của tác giả. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi tưởng của ông. Chính vì thế đọc bài thơ này ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ. “Đây thôn Vĩ Dạ” – bài thơ tuyệt bút này đã từng gây ra biết bao tranh luận bởi cái hay của nó không chỉ thể hiện ở nội dung mà còn hay ở nghệ thuật từ âm điệu, câu chữ, hình ảnh đến cả nghệ thuật tả cảnh ngụ tình được vận dụng một cách thành thạo và khéo léo, nhưng cảnh thì ít mà tình thì nhiều cho nên cả bài thơ là một âm điệu du dương được gảy lên từ tiếng lòng của chính nhà thơ. Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cảnh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc – người yêu đơn phương mà ông đã thầm yêu trộm nhớ từ ngày xưa – một người con gái dịu dàng thướt tha của thôn Vĩ xứ Huế. Nhưng bức tranh thôn Vĩ mà Hoàng Cúc gửi cho tác giả chỉ là cái cớ trực tiếp để nảy sinh thơ, còn động lực và cội nguồn sâu xa làm nên cảm hứng thì Hàn Mặc Tử đã có sẵn lâu rồi, chỉ chờ đến cơ hội là nó sẽ bộc phát. Đó là vẻ đẹp của một dáng Huế yêu kiều – nơi đã khắc chạm một dấu ấn khó quên của một người con gái và cũng là nơi để lại một mối tình đơn phương trong lòng tác giả: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” Xứ Huế mộng mơ đã từng là nơi khơi nguồn cho bao văn nghệ sĩ, không ít người đã có những sáng tác xúc động về xứ Huế mộng mơ này: “Đã bao lần đến với Huế mộng mơ, tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt” hay là “Trở lại Huế thương bài thơ khắc trong chiếc nón, em cầm trên tay ra đứng bờ sông…”, Huế có trong câu hát, có trong lòng mọi người và nay lại có trong thơ Hàn Mặc Tử. Câu thơ mở đầu bài thơ là một câu hỏi mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa như là một lời giới thiệu và mời gọi mọi người. Câu thơ có bảy chữ nhưng chứa tới sáu thanh bằng đi liền nhau làm cho âm điệu trách móc cứ dịu nhẹ đi, trách đấy mà sao tha thiết và bâng khuâng thế! Nhưng ai trách, ai hỏi? Không phải của Hoàng Cúc mà của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ nỗi lòng da diết vối Huế của thi nhân mà vút lên câu hỏi tự vấn khắc khoải này. Thật sự ở thôn Vĩ có cái gì đặc biệt và hấp dẫn mà tác giả đã giục giã mọi người đến đấy? Ba câu thơ tiếp theo sẽ vẽ ra một hình tượng chung – một mảnh vườn thông Vĩ: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên Vườn ai mướt quá xanh như ngọc Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật giản dị mà sao đẹp quá! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt ta một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và Huế nói chung được đặt tả bằng ánh sáng của buổi bình minh và một vườn cây quen thuộc. Đây là ánh nắng mà ta có thể bắt gặp trong bài “Mùa xuân chín” của tác giả: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng” Nắng trong thơ Hàn Mặc Tử thường lạ, đầy ấn tượng với những “nắng tươi”, “nắng ửng”, còn ở đây là “nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” đã tỏa sức nóng cho bức tranh, cho sự sống, nắng ở đây trong và sáng đang trải dài trên những tán cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, gắn liền với cái “nắng mới lên” trong trẻo, tinh khôi, thật cụ thể và đầy gợi cảm trong buổi sớm mai. Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê, chiếu thẳng vào những vườn cây tươi mát, sum sê làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mượt: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” Câu thơ sử dụng đại từ phím chỉ “ai” để nói đến con người xứ Huế. Câu thơ có vẻ đẹp thật long lanh, vì có sắc “mướt” chăng? Hay vì được sánh với “ngọc” chăng? Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc lấp lánh đang tỏa vào không gian cái sác xanh của mình. Khung cảnh đơn sơ nhưng vô cùng lộng lẫy, chỉ bằng một vài từ gợi tả “mướt quá” và so sánh “xanh như ngọc” Hàn Mặc Tử đã tạo nên một bức tranh quê rực rỡ, chan hòa sự sống. Qua đó chứng tỏ, nhà thơ là một ngòi bút có tài quan sát tinh tế và trí tượng phong phú. Và cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi có sự hiện diện của con người, nhưng người ở đây không phải toàn diện từ đầu đến chân mà chỉ là khuôn mặt “chữ điền” kín đáo, dịu dàng và phúc hậu: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” Ở đây có hơi hướng Á Đông cổ điển, mặt chữ “điền” là khuôn mặt đượm nét phúc hậu đoan trang, nếu nói “lá trúc che ngang” thì chỉ có thể nói về một cô gái có vẻ đẹp rất Huế. Cô gái e lệ đứng thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ “vườn ai” và vườn cô gái đứng chỉ là một. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau đã tạo nên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ – một Vĩ Dạ vốn thơ mộng. Và đối với tâm tưởng của Hàn Mặc Tử, đó là thôn Vĩ của tình yêu và hoài niệm. Thôn Vĩ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm nên ắt hẳn nhịp sống của con người ở đây cũng sẽ bị chi phối bởi cái êm ả của sông Hương: “Dòng sông Hương vẫn êm ả lững lờ trôi” – nhẹ nhàng mà vô cùng đẹp. Từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu tác giả đã chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo trong giấc mộng. Ở khổ thơ thứ hai tâm trạng của tác giả đã chuyển sang một gam khác nên bước vào khổ thơ này chính là bước vào không gian tâm trạng riêng của Hàn Mặc Tử: “Gió theo lối gió, mây đường mây Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay”

Thực tại phiêu tàn bắt đầu bao trùm cả bài thơ. Nhịp thơ 4/3 cùng với hai hình ảnh đối lập: “gió” và “mây” đã gợi lên nỗi buồn vì mây và gió trôi nổi, lang thang chính vì thế mà nó bay thẳng vào thơ của Hàn Mặc Tử. Cái buồn sẵn có của nó kết hợp với vần thơ của tác giả thì chính nó đã tự làm cho nó buồn hơn bởi: gió đi theo đường của gió, mây theo đường của mây, gió và mây từ nay xa cách nhau, không còn là bạn đồng hành của nhau nữa nên không còn lí do gì để gặp nhau. Mượn hình ảnh mây và gió tác giả muốn nói lên tâm trạng buồn của mình, về sự xa cách của mình và người yêu và cũng có thể sự xa cách đó là vĩnh viễn vì Hàn Mặc Tử bây giờ đã là một phế nhân, đang nằm chờ cái chết. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát, đầy sức sống như ở đoạn trước nữa nhưng lại bắt gặp một tâm hồn đau buồn, u uất: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” Dòng sông Hương hiện lên mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt. Với biện pháp nhân hóa “dòng nước buồn thiu” đã làm cho hình ảnh dòng nước trở nên u buồn, xa vắng. “Dòng nước buồn” vì tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi buồn chia phôi của gió – mây đã bỏ buồn vào dòng sông? Câu thơ này dường như còn thể hiện nhịp sống thường ngày của người dân nơi đây: một lối sống êm đếm và buồn tẻ. Hình ảnh “hoa bắp lay” gợi một nỗi buồn hiu hắt – một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ đất, gió, mây đến dòng nước và hoa bắp trên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, tất cả bây giờ chỉ là hư ảo trong mộng tưởng. Trên cái xu thế đang trôi đi, chảy đi, thi sĩ chợt ước ao một thứ có thể ngược dòng “về” với mình, ấy là “trăng”: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay? ” Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng…Không gian “bến sông trăng” nghe sao mà quen thuộc đến thế: “Bến sông trăng ôi nỗi nhớ đã đi qua mong tìm đến, biết khi nào được gặp lại em yêu hỡi. Trong cái lãnh cung của sự chia lìa, vốn không có “niềm trăng và ý nhạc” nên nhà thơ ao ước có trăng về như một niềm khao khát, một tri âm, một vị cứu tinh. Không biết thuyền có chở trăng về kịp cho người trên bến đợi hay không ? – đó là một câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Tác giả hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời mình. Giờ đây đối với ông, sống là chạy đua với thời gian, ông luôn tranh thủ từng ngày, từng buổi trong cái quỹ thời gian còn quá ít ỏi của mình. Chữ “kịp” nghe thật xót xa, đau đớn, gây nên nỗi xót thương cho người đọc. Bằng câu hỏi tu từ “có chở trăng về kịp tối nay ?” cùng với hình ảnh vừa hư vừa thực ở đoạn cuối thơ vừa như khắc khoải, bồn chồn, vừa như hi vọng chờ đợi một cái gì đó đang rời xa, biết khi nào trở lại. Đây chính là nỗi ước ao tha thiết với một nỗi buồn man mác của Hàn Mặc Tử khi vọng nhớ về thôn Vĩ Dạ. Tiếp nối mạch thơ trên, khổ thơ thứ ba thể hiện một nỗi niềm canh cánh của thi nhân trong cái mênh mông, bao la của trời đất. Đó là sự hi vọng, chờ đợi, mong mỏi và một niềm khắc khoải khôn nguôi. Mặc dù lời thơ thấm đẫm cái buồn của tâm trạng nhưng tác giả vẫn không quên gợi cho ta về cảnh đẹp của Huế cũng như con người ở đây: “Mơ khách đường xa, khách đường xa Áo em trắng quá nhìn không ra Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ?” Vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ là đến hình bóng đẹp của người “khách đường xa”. Điệp từ “khách đường xa” kết hợp với nhịp thơ 4/3 thể hiện nỗi niềm trông ngóng đến da diết của tác giả. Đây còn là cách nói về nỗi cách xa nhưng không chỉ có không gian mà còn có sự xa cách về tâm hồn và tình cảm. Có thể “đường xa” là xa về không gian, về thời gian nhưng cũng có thể là “đường đến trái tim xa”, cho nên tất cả chỉ gói gọn trong một chữ “mơ” duy nhất. Hình ảnh “sương khói” cùng với cụm từ “nhìn không ra” gợi lên hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Mà tại sao lại “nhìn không ra” ? Có lẽ là do màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá hòa lẫn vào làn sương mờ ảo. Thật ra “nhìn không ra” không phải là không nhìn ra, đây chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng – trắng một cách kì lạ, bất ngờ. Và hình như giữa giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh Ai biết tình ai có đậm đà ?” “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh” phác họa một cảnh tượng mờ mờ, ảo ảo lại còn có cả sương và khói khiến cho ta thấy con người này đang ở ranh giới giữa hai thế giới sống và chết, và thế giới nào cũng lờ mờ đáng sợ. Câu thơ diễn tả rất đắt nỗi đau của một con người đang phải đối đầu với “sinh, lão, bệnh, tử”. Tác giả đã cố níu kéo, cố bám víu nhưng không được vì cảnh và đời chỉ toàn là “sương” với “khói”. Điều đặc biệt ở hai câu thơ này là ngoài nói về nỗi đau, tác giả còn miêu tả rất thực về cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói ấy, con người như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi nên tác giả rất sợ điều đó. Tác giả không dám khẳng định tình mình với cô gái Huế mà chỉ nói “ai”– điệp từ “ai” dường như xuyên suốt cả bài thơ, khổ thơ nào cũng có sự hiện diện của “ai”, từ “vườn ai”, “thuyền ai” và bây giờ thì “ai biết tình ai có đậm đà”. Câu thơ ngân xa như một tiếng than, nỗi đau của Hàn Mặc Tử như đang trải ra, vào cõi mênh mông vô cùng. Lời thơ dường như nhắc nhở nhưng không bộc lộ tuyệt vọng hay hi vọng mà là toát lên một sự thất vọng. Sự thất vọng của một thi nhân – người chủ của những mối tình “khuấy” mãi không thành khối, của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Lời thơ như một lời thanh minh khiến cho ta cảm thấy cảm thông và xót xa cho tác giả nhiều hơn. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” bắt đầu là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?” và kết thúc bài thơ cũng là một câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà ?” khiến cho nỗi niềm của tác giả được đẩy thêm tầm vóc. Những câu hỏi tu từ trong bài dường như cứ xoáy lên mỗi lúc một cao hơn ? Cảnh vật thì đẹp nhưng những hình ảnh về mảnh vườn xanh mướt, về bến sông trăng, về con thuyền và cả mối tình của tác giả dường như vô tình làm nhòe đi để tạo nét mênh mang, phù hợp với tâm trạng của nhà thơ – một con người đang ở giữa hai bờ của sự sống và cái chết. Cảnh thật lung linh, huyền ảo, đầy thơ mộng nhưng lồng vào đấy là tâm trạng của chủ thể trữ tình thì cũng trở nên buồn, buồn nhưng mà có hồn.

Có lẽ âm hưởng của bài thơ chỉ cô đúc trong một chữ “buồn” nhưng không làm cho người ta bi lụy, bởi đằng sau nỗi niềm ấy của thi nhân ta thấy được một tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, nồng cháy và một khát vọng về cuộc sống ấm tình hơn. Những chi tiết, những thủ pháp nghệ thuật, cách cấu tứ đã được Hàn Mặc Tử chuyên chở bằng chính tình cảm của mình. Đọc cả bài thơ, ta không thấy có cái gì gượng ép, ngược lại ta như đang cùng sống với nhà thơ trong cái thế giới huyền ảo của ông. Bài thơ là sự kết hợp, giao hòa giữa tình và cảnh bộc lộ những nét đẹp, những nét trong sáng gắn với quê hương Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và đầy yêu thương của một nhà thơ đa tình đa cảm. Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Dầu vậy nhưng ông vẫn sống hết mình trong sự đau đớn của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời luôn thổn thức tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã biến những nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ, mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 26

Có một thi sĩ Việt mà đến hai thành phố lấy tên ông đặt cho những con đường, đó là Hàn Mặc Tử. Ông là một hiện tượng kì lạ bậc nhất của phong trào thơ mới, được Chế Lan Viên nhận xét: “Trước không có ai, sau không có ai Hàn Mặc Tử như ngôi sao trổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Nhắc đến Hàn Mặc Tử người ta không quên hình ảnh tươi đẹp của thiên nhiên và con người xứ Huế mộng mơ qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đó là bức tranh tuyệt đẹp hài hòa giữa thiên nhiên và con người, giữa nét thực và hư mộng cuộc đời, cũng là tiếng lòng yêu tha thiết cuộc sống của thi sĩ.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1938 lúc đầu có tên “Ở đây thôn Vĩ Dạ” sau được đổi lại. Tác phẩm được in trong tập “Thơ điên” (sau đổi thành “Đau thương”). “Đây thôn Vĩ Dạ” được gợi nguồn cảm hứng từ mối tình đơn phương của nhà thơ với một người con gái xứ Huế mộng mơ là Kim Cúc. Đó là con gái của viên chức cấp cao, thiếu nữ mang trong mình nét đẹp dịu dàng, duyên dáng giữ nét chân quê. Hàn Mặc Tử yêu người con gái thầm kín, chỉ dám đứng nhìn từ xa. Mối chân tình ấy được nhà thơ ấp ủ gửi vào tập “Gái quê”. Sau đó Hoàng Cúc theo cha về thôn Vĩ Dạ ở Huế nên ông buồn tủi, đau đớn lại mang trong mình căn bệnh phong khiến nỗi đau ấy càng da diết. Bạn của Hàn Mặc Tử là Hoàng Tùng Ngâm (anh họ Hoàng Cúc) biết được nỗi tâm tình đó nên đã viết thư gửi ra Huế cho Cúc khuyên nàng viết thư thăm hỏi, động viên một tâm hồn bất hạnh. “Thay vì viết thư thăm, tôi gửi bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái danh thiếp. Trong ảnh có mây, có nước, có cô gái chèo đò với chiếc đò ngang, có mấy khóm tre, có cả ánh trắng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước. Tôi viết sau tấm ảnh mấy lời hỏi thăm Tử rồi nhờ Ngâm trao lại. Sau một thời gian, tôi nhận được bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” và một bài thơ nữa do Ngâm gửi về”. Chính tấm bưu ảnh trực tiếp sự khơi gợi cảm xúc cùng với mối tình thầm kín của Hàn Mặc Tử đã viết nên một thi phẩm giàu cảm xúc, giàu hình ảnh mộng mơ và thẫm đẫm nỗi buồn man mác trong tâm hồn thi nhân.

Thôn Vĩ Dạ là một thôn nhỏ nằm bên bờ sông Hương xứ Huế. Nơi đây là một khu nhà vườn tuyệt mĩ có cây cảnh, cây ăn quả rất nổi tiếng trở thành nguồn cảm hứng sáng tác cho các thi nhân, tiêu biểu là câu thơ của thi sĩ Bích Khê: “Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn/ Biếc tre cầu trúc không buồn mà say”. Hay câu thơ tả vẻ đẹp thần tiên Cồn Hến Vĩ Dạ: “Ti trúc mê li xuân dưới nguyệt/ Cỏ hoa vờ vật mộng trong hương…”

Mở đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là câu thơ mang hình thức câu hỏi tu từ với nhiều sắc thái, ý ngĩa khác nhau: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Liệu có phải đây là lời trách móc nhẹ nhàng cũng là lời mời tha thiết về thăm thôn Vĩ của cô gái? Hay là lời tự trách của Mặc Tử sao không về chơi thôn Vĩ, cụm từ “về chơi” thật chân tình, chân thành và rất gần gũi, thân thương. Câu thơ mở đầu của Hàn Mặc Tử rất đặc biệt ông biết cách đặt thanh bằng vào tiếng thứ ba “không” và nhất là sự táo bạo phá luật, thất lệ ở tiếng thứ tư “về” đặt một thanh bằng vì theo như thể thơ thất ngôn tứ tuyệt nó phải là một thanh trắc vì theo lệ “Nhị tứ lục phân minh”. Nếu câu thơ mở đầu là “Sao anh không ghé chơi thôn Vĩ?” hay câu “Thôn Vĩ sao anh không về chơi?” thì nó lại mang một ý thơ khác không còn là cái tôi đặc sắc riêng của Hàn Mặc Tử. Ông giống như Thôi Hiệu phá cách trong câu thơ “Tích nhân dĩ thừa Hoàng hạc khứ”. Nhờ thể bằng ở tiếng thứ nhất, thứ hai và thứ sáu tao đà cho một loạt thanh bằng tiếp theo trước khi kết thúc bởi thanh trắc vút cao ở chữ “Vĩ” thật tuyệt sắc tuyệt mĩ. Câu thơ gợi lại cho ta nhiều suy ngẫm, trăn trở về một hồn thơ “Tài hoa bạc mệnh”.

Mở ra đằng sau câu hỏi ấy là bức tranh tả cảnh sắc thôn Vĩ trong nắng sớm bình minh: “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Ấn tượng độc đáo là nắng hàng cau, trong vườn cau là loài cây cao nhất, loài cây được đón ánh nắng bình minh đầu tiên. Cụm từ “nắng mới” dùng để chỉ ánh ánh nắng tinh khôi buổi sáng, từ mới tô đậm sự trong trẻo, tinh khiết. Vẫn là ánh nắng ngày nào nhưng trong con mắt của thi sĩ nó thật đẹp thật chan hòa, ấm áp biết bao. “Vườn ai” gợi cảm giác mơ mồ, bất định với cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai” gây tò mò với vẻ đẹp bí ẩn không thể sở hữu. Tính từ “mướt” chỉ màu xanh non tơ, mỡ màng của cây lá tràn đầy sức sống với sắc tình xuân được so sánh với màu xanh của ngọc_một màu xanh dịu nhẹ có sức hút kì lạ. Dưới cái nhìn của thi nhân khu vườn sáng sớm mang vẻ đẹp lung linh, huyền ảo khi buổi đêm được tắm sương hôm, sáng đến lại được ngập tràn trong nắng mới. Đó là một vẻ đẹp của thanh tú, thuần khiết của một vùng quê yên ả khiến cho nhà thơ ngạc nhiên, trầm trồ trong hạnh phúc.

Trên nền cảnh thiên nhiên con người bỗng được hiện lên: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền ở đây là một gương mặt cụ thể của một người con gái mang vẻ đẹp duyên dáng e lệ đằng sau lá trúc hay đó là sự cách điệu hóa của nhà thơ để chỉ vẻ đẹp tâm hồn của con người xứ Huế chịu thương chịu khó, ngay thẳng, kín đáo và phúc hậu? Dù hiểu theo cách nào thì ta cũng có thể thấy được vẻ đẹp của con người hiện lên sau câu thơ. Đó là hình ảnh hư hư thực thực mang lại cảm giác về cái đẹp mộng mơ. Hơn một lần thi sĩ đã gợi nhắc hình ảnh người con gái và trúc trong thơ: “Thầm nghĩ với ai ngồi dưới trúc/ Nghe ra ý nhị và ngây thơ”. Như vậy với bút pháp ước lệ tượng trưng thi nhân đã tạo nên bức tranh tuyệt mĩ kết hợp hài hòa vẻ đẹp thiên nhiên buổi sớm và sự duyên dáng, kiều diễm của con người, cho thấy tâm hồn yêu đời, yêu thiên nhiên sâu sắc của con người bị hành hạ đau đớn đến quằn quại vì bệnh tật.

Tưởng chừng như mạch thơ bị đứt đoạn, nhà thơ đã chuyển cảnh đột ngột từ bình minh sang đêm trăng thơ mộng. Đó là một nét độc đáo trong tư duy thơ của Hàn Mặc Tử, bên ngoài có vẻ rời rạc nhưng ẩn sâu bên trong là sự logic của mạch cảm xúc. Nhà thơ đang mang trong mình tâm trạng háo hức, mong chờ được về chơi thôn Vĩ thì lại chuyển sang buồn tủi, cô đơn như tỉnh mộng trở về với thực tại khắc nghiệt bởi mối nhân duyên ấy bị ngăn cách, cản trở do căn bệnh nan ý lúc bấy giờ. Những hình ảnh thiên nhiên cũng nhuốm màu chia li, buồn tủi của nhà thơ:

    “Gió theo lối gió mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.

Đáng lẽ mây và gió là là một cặp song hành với nhau, gió thổi mây bay nhưng ở đây Hàn Mặc Tử lại nhìn thấy nó li biệt gió lối gió, mây đường mây tạo thành nghệ thuật tiểu đối cùng với cách ngắt nhịp 4/3 gợi sự ngăn cách đôi ngả. Cái nhìn và sự quan sát của nhà thơ vận động từ cao xuống thấp, từ xa đến gần. Thi nhân lia ống kính tâm hồn từ cảnh vật trên trời xuống dòng nước bên dưới đang chảy chầm chậm, lững lờ. Hình ảnh hoa bắp lay nhẹ, khẽ khàng để hô ứng với nước. Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để làm cho dòng nước cũng biết buồn thiu. Ở đây có bút pháp tả cảnh ngụ tình, Hàn Mặc tử tả cái buồn hiu quạnh của cảnh vật để gợi đến tâm trạng buồn tủi, cô đơn của bản thân, chẳng tự nhiên mà dòng nước có thể buồn mà bởi cái nhìn buồn rầu, ảm đạm của nhà thơ mà trở nên như vậy. Đúng như Nguyễn Du đã từng nói: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Như vậy hai câu thơ đặc tả hình ảnh thiên nhiên chia đôi, rời rạc để gợi tả hoàn cảnh, tâm trạng thi nhân.

Mạch cảm xúc lại bị chuyển khi từ một dòng nước buồn thiu giờ đây lại trở thành một dòng sông tràn ngập ánh trăng:

    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay”

Trăng, gió, mây là nguồn cảm hứng sáng tác của các thi nhân bao đời như bài thơ “Buồn trăng” của Xuân Diệu có viết: “Gió sáng bay về, thi sĩ nhớ/ Thương ai không biết đứng buồn trăng/ Huy hoàng trăng rộng nguy nga gió/Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng”.Trong thơ Hàn ta thấy ông luôn bầu bạn với ánh trăng, trăng là tri âm tri kỉ là nơi trú ngụ linh hồn cuối cùng của nhà thơ để trốn tránh thực tại bệnh tật. Trang thơ ông có biết bao hình ảnh ánh trăng tuyệt mĩ, bất thường, bất hủ: “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi” hay “Trăng ngậm đầy sông chảy lai láng”, ở trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đó cũng là một sông trăng có “thuyền ai” đậu trên đó, có ánh trăng tan chảy làm cho dòng nước ngập tràn trăng đêm lung linh, mờ ảo. Cái lạ của câu thơ không chỉ vì đây là một câu thơ siêu thực, lạ vì siêu thực một cách rất hiện thực dưới sự đặc tả của Mặc Tử. Câu hỏi tu từ trong hai câu thơ mang tâm trạng băn khoăn của tác giả. Từ “kịp”cho thấy cuộc chạy đua của người bệnh với thời gian cuộc đời, “tối nay” là một đêm sao ngắn ngủi thế. Ta cảm thấy trong hồn thơ Hàn luôn mang tâm trạng mặc cảm khác với quan niệm về cái chết của Xuân Diệu. Ông hoàng thơ tình luôn nhìn thấy cái chết ở phía cuối con đường nên ông càng phải tranh thủ sống có ích, có nghĩa từng ngày tối đa với hạnh phúc, còn thi sĩ Hàn_con người bất hạnh mang trong mình căn bệnh phong đáng sợ luôn nhìn thấy cái chết cận kề, đối với ông chỉ cần được sống thôi là hạnh phúc. Nếu thuyền để chở người, chở đồ thì với nhà thơ là chở trăng_hiện tượng tự nhiên cao vời vợi ở trên trời. Đó là nét mờ ảo xen lẫn hiện thực cho thấy sự khắc khoải tuyệt vọng của nhà thơ gợi thương cảm, xót xa cho số phận thi nhân tài hoa tài tử mà lại gặp phải bi kịch cuộc đời. Tử càng điên cuồng yêu đời bao nhiêu thì càng bị hành hạ đau đớn đến quằn quại bấy nhiêu bởi bệnh tật. Đúng như L.Tolstoi đã từng nói: “Khó khăn hơn cả là yêu cuộc sống với những nỗi đau khổ của mình”.

Chất thơ của Hàn Mặc Tử luôn được đan xen hài hòa giữa chất hiện thực và cõi ảo mộng. Hiện thực khắc nghiệt quá nên nhà thơ tìm về với vẻ đẹp của cõi mộng để an ủi lòng mình nhưng mộng dù có dài lâu đến mấy thì cũng phải tỉnh để rồi nhà thơ rơi vào ảo ảnh thực tại:

    “Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?”

Mơ là trạng thái vô thức khi con người ta chìm đắm trong cõi mộng, điệp từ “khách đường xa” được lặp lại hai lần mang hai trạng thái cảm xúc. Lần đầu là khát vọng mơ gặp khách đường xa, lần sau là thực tại càng muốn mơ thấy người khách thì lại thấy đường càng xa. Tác giả mơ về bóng giai nhân trong ảo ảnh. Không thể thoát ra khỏi cõi mộng tác giả đem về hiện tại với hình ảnh hư thực “Áo em trắng quá nhìn không ra” đó là áo em với một màu trắng tinh khôi, tinh khiết, nhà thơ cực tả sắc trắng một cách kì lạ, bất ngờ nên khiến cho “em” chìm vào cõi ảo. Câu thơ thứ ba xuất hiện làm cho lớp nghĩa câu hai càng rõ nét. Thời tiết ở Huế nắng nhiều, mưa nhiều và sương cũng nhiều. Sương khói làm mờ đi hình bóng của “em”, lại cộng thêm sắc trắng của áo khiến cho bóng giai nhân vừa gần vừa xa, vừa thực vừa hư. Đây là ảo giác xa rời với hiện thực. Dường như điều đó càng làm cho tâm trạng thi nhân thêm khắc khoải được thể hiện qua sự lặp lại của đại từ phiếm chỉ ai: “Ai biết… ai có…” ở câu cuối nhấn mạnh tâm trạng bâng khuâng, xót xa của một tâm hồn khao khát được sống được yêu và yêu say đắm với người con gái xứ Huế mang tên một loài hoa. Câu thơ hàm chứa hai ý nghĩa đối lập nhau: Trước hết làm sao để biết được tình cảm của người xứ Huế nơi xa có đậm đà không hay như là sương khói mù mịt rồi tan đi. Thứ hai làm sao để cô gái ấy biết được tình cảm nhớ thương da diết của nhà thơ dành cho nàng. Câu hỏi thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng, đau đớn của một tâm hồn thơ tài năng mà hoàn cảnh, số phận nhuốm màu bi thương.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” với bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình cùng với ngôn từ trong sáng được chắt lọc, hình ảnh thơ đặc sắc và lối sử dụng điệp từ đã thể hiện được tiếng lòng của nhà thơ trữ tình mới lạ. Ông xứng đáng là một thiên tài trác tuyệt nổi bật trong những nhà thơ mới với hồn thơ đau thương của con người bệnh tật nhưng vẫn ham sống mãnh liệt tạo nên một hồn thơ lạ trong nền văn học Việt Nam đúng như ý thơ của Nguyễn Viết Lãm dành cho thi sĩ Hàn: “Tử thân yêu, hồn thơ anh chỉ một/ Hành tinh chật rồi không chứa nổi hai đâu”

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 27

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài năng, một diện mạo thơ bí ẩn, phức tạp bậc nhất trong thơ ca Việt Nam. Thơ ông vừa có sự trong trẻo, tinh khiết vừa có cái ma quái, bí ẩn, chính những yếu tố đó đã làm nên sự hấp dẫn trong thơ Hàn Mặc Tử. Thơ điên (sau đổi thành Đau thương) là những nét vẽ cụ thể của phong cách thơ ấy. Có thể nói bài Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ trong trẻo, tươi sáng nhất trong tập thơ này của ông.

    Đây thôn Vĩ Dạ được sáng tác năm 1938. Tác phẩm được chia làm ba phần tương ứng với ba khổ, khổ đầu miêu tả khung cảnh thôn Vĩ tươi sáng, đẹp đẽ trong nắng sớm; khổ hai là khung cảnh sông nước trong đêm trăng huyền ảo; khổ cuối là hình bóng của người lữ khách trong chốn sương khói mờ ảo, huyền bí.

    Mở đầu bài thơ là câu hỏi thật tha thiết mà cũng đầy trìu mến:

    Sao anh không về chơi thông Vĩ?

    Câu thơ có bảy chữ thì có đến sáu chữ vần bằng, gợi nên cái êm ái, dịu dàng đậm chất của âm điệu xứ Huế. Vậy chủ thể của câu hỏi này là ai? Là Hoàng Kim Cúc, người con gái mà Hàn Mặc Tử thầm yêu, giọng điệu khi ấy có phần trách móc, hờn dỗi, đồng thời cũng là lời mời mọc hết sức duyên dáng. Nhưng đây cũng có thể chính là tác giả đã phân thân với hàm ý tự trách mình sao không về. Không về bởi sự cách trở, bởi ông nhận ra rằng hiện tại hay tương lai ông cũng không thể trở về với nơi ông gắn bó, coi như quê hương của mình được nữa. Để rồi ba câu thơ tiếp theo khung cảnh thôn Vĩ hiện lên vô cùng đẹp đẽ, lung linh trong buổi nắng sớm mai:

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Điều ấn tượng đầu tiên chính là vẻ đẹp của nắng, nắng được lặp lại hai lần trong một câu thơ, cho ta ấn tượng về thứ ánh sáng trong trẻo, tinh khôi tràn ngập khắp không gian. Mà hơn nữa lại là nắng hàng cau, thứ nắng thật thân thuộc, gần gũi đối với người dân Việt Nam. Hàng cau vươn mình đón nguồn ánh sáng của thiên nhiên, đón ánh nắng tinh khiết đầu tiên của một ngày. Dưới ánh nắng hàng cau là cả một khung cảnh tuyệt mĩ hiện ra trước mắt, màu xanh ngọc của khu vườn phủ kín cả không gian. Từng câu, từng chữ Hàn Mặc Tử đã giúp người đọc hình dung vẻ đẹp của khu vườn ấy. Chữ “mướt” gợi nên sự non tơ, mỡ màng của cây cối khi được đắm mình trong hơi sương, trong ánh nắng buổi sáng. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” đem đến cảm giác tươi mát, trong trẻo, thanh mát cho quang cảnh. Để hoàn thiện bức tranh thiên nhiên, con người xuất hiện ở câu thơ cuối cùng của khổ. Thấp thoáng sau những lá trúc mềm mại là gương mặt chữ điền. Phải chăng đó là khuôn mặt của người con gái xứ Huế, khuôn mặt ấy mang trong mình nét duyên dáng, đẹp đẽ về phẩm chất. Thiên nhiên và con ngươi hòa quyện hài hòa tạo nên khung cảnh đẹp đẽ, đồng thời làm bừng lên khát vọng trở về thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử.

    Nét bút của Hàn Mặc Tử tiếp tục đưa người đọc đến với một vẻ đẹp khác của xứ Huế, đó là vẻ đẹp trong một đêm trăng mơ màng, huyền diệu:

    Gió theo lối gió, mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

    Khung cảnh mây trời chia phôi, mỗi sự vật đều tồn tại một cách biệt lập. Gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, nhịp thơ 4/3 kết hợp với dấu phẩy về mặt hình thức đã chia rẽ, tách biệt một cách tuyệt đối các sự vật, hiện tượng. Nhìn trên bề mặt là sự phi lí, không hợp với logic tự nhiên, nhưng với logic tâm trạng nhà thơ lại hoàn toàn có lí. Hướng mắt về phía trước là khung cảnh sông nước “buồn thiu” lặng lỡ trôi, cuộc sống tẻ nhạt, hiu quạnh. Đó không chỉ là cái buồn của dòng sông,mà còn là cái buồn của lòng người, của tâm trạng. Dường như mọi sự vật đều rời bỏ thi nhân, ông tìm đến với trăng, tìm đến với chỗ bám víu cuối cùng mong có được sự chia sẻ:

    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay

    Trong thơ Hàn Mặc Tử trăng là người bạn, tri âm tri kỉ của ông. Bởi vậy, khi tất cả mọi thứ đều rời bỏ, ông tìm đến chỗ bám víu cuối cùng là ánh trăng, Trăng xuất diện thật diễm lệ, thật lớn, đó là cả một bến sông trăng, thuyền trăng. Ở đây trăng chính là hiện thân của cái đẹp trần thế, của cuộc sống ngoài kia mà Hà Mặc Tử khao khát có được. Câu hỏi tu từ : “Có chở trăng về kịp tối nay” ẩn chứa sự thảng thốt, lo âu về thời gian. Một đêm tưởng dài mà lại rất ngắn, liệu có còn đủ cho quỹ để tận hưởng cuộc sống này hay không. Nỗi niềm lo lắng ấy cho thấy tình yêu cuộc sống đến mãnh liệt, cháy bỏng của Hàn Mặc Tử.

    Khổ thơ cuối cùng, con người dường như không còn ở cõi thực, mà đã phiêu diêu đến cõi hư ảo, huyền bí: “Mơ khách đường xa khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà”. Hình bóng giai nhân hiện hữu nhưng chỉ là trong giấc mơ, không thể nắm bắt, không thể níu kéo. Sắc trắng được Hàn Mặc Tử cực tả “trắng quá”, khiến cho người con gái mất hết đường nét, chỉ còn là một khoảng trống hư ảo, một sự hẫng hụt lớn để lại nơi lòng thi nhân. Ông tìm ra bên ngoài để bớt nỗi cô đơn, nhưng nhận lại chỉ toàn hẫng hụt, đành quay bước về thế giới ở đây. Nhưng ở đây sướng khói mờ mịt, “nhân ảnh” hư hao, thiếu vắng tình người, khao khát tìm hơi ấm, tìm sự sẻ chia bằng sợi dây tình cảm nhưng tất cả đều bị cắt đứt một cách vô tình. Câu hỏi tu từ “Ai biết tình ai có đậm đà” chứa hai đại từ phiếm chỉ, đem đến các cách hiểu khác nhau: ai có thể hiểu là cô gái mà Hàn Mặc Tử yêu liệu có biết tình cảm Hàn Mặc Tử dành cho không; ai lại cũng có thể hiểu là người trong này có biết được người ngoài kia có dành tình cảm đậm đà cho mình hay không. Nỗi cô đơn, trống vắng làm dấy lên nỗi khao khát yêu đương khắc khoải, thiết tha trong lòng Hàn Mặc Tử. Đối với ông, cô gái ấy không chỉ là người con gái cụ thể mà đó còn là cuộc sống, cuộc đời ông luôn khao khát được hòa nhập. Bài thơ đã cho thấy một Hàn Mặc Tử yêu người, yêu đời đến tha thiết, cháy bỏng.

    Bài thơ sử dụng linh hoạt các hình ảnh so sánh, ngôn ngữ cực tả vẽ lên khung cảnh thôn Vĩ vừa đẹp đẽ, tinh khôi, vừa huyền diệu thần bí. Nhịp điệu thay đổi linh hoạt khắc họa tâm trạng của chủ thể trữ tình. Hình ảnh thơ độc đáo, gợi cảm, giàu ý nghĩa biểu trưng.

    Với bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh phong cảnh xứ Huế vô cùng lung linh, đẹp đẽ, với những khung cảnh khác nhau. Đằng sau bức tranh đó còn là nỗi niềm yêu cuộc sống tha thiết, khát khao giao cảm, hòa nhập mãnh liệt. Đồng thời ta cũng cảm nhận được nỗi cô đơn, sự bất hạnh của con người tài hoa này.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 28

   Nhắc tới Hàn Mặc Tử không thể không nhắc tới bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”. “Đây thôn Vĩ Dạ” đã gắn chặt với thi sĩ họ Hàn như hình với bóng, vì đây là bài thơ vừa thể hiện cái tài, lại vừa thể hiện cái tình; cái tâm của Hàn Mặc Tử, chứ đây ” chỉ thể hiện tình yêu đối với một người con gái xứ Huế” như bạn nào đó đã nhận xét,

   Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mặc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mặc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế — Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.

    Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ

    Em lấy chồng rồi, hết ước mơ

    Tôi sẽ đi tim mỏm đá trắng,

    Ngồi lên để thả cái hồn thơ.

   Hàn Mặc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến, có trăng, cùng những hàng cau cao vút, kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để an ủi nhà thơ. Bức bưu thiếp đã đánh thức cảm xúc của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.

   Đây thôn Vĩ Dạ gồm 12 câu thất ngôn, chia làm 3 khổ.

   Khổ thứ nhất mở đầu bằng một câu hỏi tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhàng có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách đến thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.

   Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Nhà thơ nói đến cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xắn với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lèn”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng ban mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng ban mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên lấp loáng như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ.

   Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. Khung cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự chăm sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng ban mai lấp lánh như nhũng viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt đến độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.

   Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mặc Tử đã phác họa được khung cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa quen thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thanh thản. Nhung cảnh vật Vĩ Dạ bỗng sinh động hẳn lên, khi bóng dáng con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu, trang trọng, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xắn, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, cách điệu hóa

   Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xắn, thơ mộng, người phúc hậu quý phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái linh hồn vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.

   Tóm lại, bằng những chi tiết rất quen thuộc và bình dị, Hàn Mặc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất ngờ, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.

   Khổ thơ thứ hai cho thấy một thế giới khác của Huế: dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.

   Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mặc Tử cũng cảm nhận được cái linh hồn, cái nhịp điệu rất Huế ấy. Khung cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử có sông nước, bờ bãi, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.

    Gió theo lối gió, đường mây

    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

   Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia li buồn vắng đến não nề. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn như vậy nên nhìn vào đây cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gẫy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió” và “mây” đã diễn ra điều đó. Và ngay đến dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”.

   Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà dường như còn muốn tả cái nhịp điệu của cảnh. Đó là cái nhịp điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất điển hình không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp khoan thai, chậm rãi cũng dã diễn tả rất thành công cái cảm xúc trên.

   Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:

    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay?”

   Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. “Ở đầy Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thật thì sự thật thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy xô sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).

   Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc đời và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc thanh bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mĩ và thánh thiện. Nhưng lời thơ lại cất lên như một câu hỏi vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ, đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo âu, phấp phỏng về sự muộn màng, dang dở. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.

   Khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người, tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra”

   Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khắc khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách đường xa” tác giả chỉ thấy “áo” nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của nhà thơ khiến cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi gần gũi thân thiết vừa xa xôi. Gần gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm thường trực; xa vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hẹn. “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trắng trong rất phù hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòa cả thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhận ra khi lẫn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hẹn.

   Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng?

    “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

   Trong đau thương tột cùng mà nhà thơ vẫn có những phút giây tâm hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đầy mộng ảo dể tạo nên một ” viên ngọc thơ tuyệt vời chói lọi nghìn năm” (Chế Lan Viên).

   Bài thơ cố nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để đến với cuộc đời bao la.

   Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là mệt bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ Hàn Mặc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc đời này.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 29

   Hàn Mặc Tử viết bài thơ này ở Quy Nhơn, nhân lức nhận được bức bưu ảnh, kèm theo mấy lời hỏi thăm sức khỏe của Hoàng Cúc gửi cho anh.

   Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ thơ là một bức tranh, nhà thơ Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt.

   Mở đầu là câu:

    “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”

   Đây có thể là Hàn Mặc Tử nhắc lại lời thăm hỏi của Hoàng Cúc ghi trong bức bưu ảnh hoặc bức bưu ảnh gợi nhớ những kỉ niệm về thôn Vĩ.

   Bốn câu thơ (khổ đầu) có tính chất tạo hình như một bức tranh có ba chiều: chiều rộng, chiều cao, lẫn chiều sầu. Đó là nỗi nhớ giúp tác giả hình dung ra trước mắt mình một cảnh tượng sống động.

   Bức tranh thôn Vĩ được phác họa bằng mấy nét xinh xắn.

   Ánh nắng ban mai chiếu xuống những hàng cau, “nắng mới lên” đem lại cảm giác trong lành, bình yên; những hàng cau đứng thẳng tắp, hình ảnh rất quen, nét đặc trưng của thôn Vĩ:

    “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

   Những vườn cây trái sum sê, tươi tốt của thôn Vĩ (mướt quá), một màu xanh mà nhà thơ so sánh: “xanh như ngọc”. Trong hồi tưởng của nhà thơ giữa cảnh và người hòa quyện với nhau đưa đến cảm xúc trìu mền, dịu ngọt.

   Thấp thoáng đàng sau những khóm trúc có bóng dáng mặt con người dịu dàng, phúc hậu khi ẩn khi hiện:

    “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

   Bốn câu tiếp theo trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ tìm đến dòng kỉ nệm về Huế gắn liền với con sông Hương thơ mộng, êm đềm. Con sông có gió, có mây, có dòng nước, có con thuyền và ánh trăng. Hầu như sóng nước sông Hương rất hiền lành, nước chầm chậm trôi giữa đôi bờ sương khói như mang một nỗi “buồn thiu”.

    “Gió theo lôi gió, mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

    Thuyền ai đậu bển sông trăng đó

    Có chờ trăng về kịp tối nay?”

   Nhịp điệu thơ nhẹ nhàng chậm rãi uyển chuyển, cảnh ở khổ thơ trên tươi sáng, đến khổ thơ này trở nên buồn: gió và mây không đi liền nhau mà gió một lối, mây một đàng gợi lên nỗi buồn xa cách. Dòng nước trôi lững lờ, vắng vẻ “buồn thiu”, hài bên bờ sông Hương đoạn chảy qua thôn Vĩ có những vườn bắp, gió đưa hoa bắp khẽ lay dộng, một khung cảnh vắng lặng và gợi buồn. Đây là hình ảnh thấm “đượm” tâm hồn xao xuyến của nhà thơ.

   Hình ảnh con “sông trăng” là một tứ thơ rất mới mẻ. Trăng trên sông Hương thật mơ mộng, “sông trăng”, thuyền “chở trăng” làm cho cảnh trở nên huyền ảo lung linh. Có thể nói chưa có nhà thơ nào tả dòng Hương Giang với nét đẹp hư ảo như Hàn Mặc Tử. Trong nỗi nhớ nhung mơ màng của nhà thơ, thuyền và trăng đã thành những vật thể có linh hồn.

   Khổ ba tiếp tục những kỉ niệm về Huế:

    “Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khối mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai đậm đà?…

   Trong những kỉ niệm về Huế, hình ảnh người thiếu nữ của Huế và cũng là thôn Vĩ — hiện lên đậm nét hơn cả, trở thành điểm sáng của bài thơ. Cô gái Huế của Hàn Mặc Tử có nét hư hư, thực thực, cô gái và nhà thơ có một khoảng cách về không gian, về thời gian, hơn nữ giữa hai người cũng chưa có những hứa hẹn, gắn bó cho nên chỉ là “khách đường xa”. Hình ảnh người thiếu nữ trỏ nên xa vời. Câu thơ trở nên đa nghĩa phủ lên kí ức một lớp sương mờ nên “Áo em trắng quá nhìn không ra”, nhưng trong tâm tưởng nhà thơ dù chỉ là kỉ niệm của một thời, “em” vẫn là hình bóng thân yêu.

   Hình ảnh người thân xa cách chìm đi trong “sương khói” của trời đất xứ Huế, kết thúc bài thơ là một câu hỏi:

    “Ai biết tình ai có đậm đà?….”

   Câu thơ thứ hai chứa đầy tâm trạng. “Ai”, “ai” là anh hay là em, đúng hơn là cả hai người, nhà thơ tự hỏi mình và cũng hỏi “em” về mối tình đơn phương chưa nói lên lời. Nay giữa hai người là màn “sương khói” của không gian và thời gian làm sao biết được mối tình này có đậm đà hay nhạt phai. Có thể hiểu đây là bài thơ hướng nội, ẩn dấu cái sâu xa nhất của tâm hồn thi nhân là tình đời; ta thấy thấp thoáng bóng hình một mối tình dang dở giữa nhà thơ và người con gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình đơn phương này qua năm tháng chưa tàn phai. Bởi thế, khi chỉ có tấm bưu thiếp và mấy lời hỏi thăm từ xứ Huế gửi đến đã làm sống dậy trong lòng nhà thơ cả một trời thương nhớ. Có người cho rằng mỗi khổ thơ đều có hai giọng nói. Hai câu trên của một người, hai câu dưới của một người. Thật ra thì khó phân định. Ví dụ câu: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Đây là lời trách móc hay là lời mời hỏi của “thi nhân” hay của “cố nhân” ? Nhưng có điều có thể xác định được đó chính là lời hỏi thăm kia (ở tấm bưu thiếp) đã được Hàn Mặc Tử tiếp nhận một cách đầy tình cảm ngọt ngào. Vì vậy, có thể nói đây là bức tranh tâm trạng. Một mối tình đã gieo vào lòng nhà thơ biết bao nỗi nhớ nhung khắc khoải.

   Về nghệ thuật, đây là bài thơ có những nét nghệ thuật độc đáo trong diễn tả, diễn cảm và biểu hiện một tâm trạng đầy xúc động.

   Có thể nói bài thơ là những bức tranh đẹp. Bức tranh vườn cây thôn Vĩ, bức tranh sông nước sông Hương hiền hòa, êm dịu, bức tranh tâm trạng có bóng dáng người con gái Huế.

   Về thời gian thì khổ một là buổi sáng, khổ hai cảnh ban đêm, khổ ba thì không thể xác định.

Về không gian thì khổ một là vườn cây thôn Vĩ, khổ hai bến sông Hương, có đôi bờ, có thuyền và trăng, nhưng đến khổ thứ ba thi hầu như không có không gian hoặc khó xác định. Nhưng ở đây có thể nhận ra là nhà thơ muốn nói sát hơn về mối tình không trọn vẹn với người thôn Vĩ. Đôi tượng có thể xác định “khách đường xa” là “em”.

   Đây không phải là một bức tranh tả cảnh nên nhà thơ không diễn tả theọ một trật tự nào. Vì nó là “bức tranh tâm trạng”, tả cảnh để nói tâm trạng cho nên trật tự của bài thơ là dòng xúc cảm của tác giả, cách sắp xếp đó làm tăng hiệu quả biểu hiện hồn thơ.

   Trong bài thơ, tác giả dùng phương pháp láy lại một số từ để biểu cảm:

    “Nắng hàng cau, nắng mới lên…

    Gió theo lối gió, mây đường mây…

    Mơ khách đường xa, khách đường xa…

    Ai biết tình ai có đậm đà?

   Đây là biện pháp điệp từ, điệp ngữ ta thường gặp trong thơ. Nhưng trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử đã sử dụng biện pháp nghệ thuật này có hiệu quả thẩm mĩ cao, vì những từ ngữ đó gây ấn tượng mạnh. Nhất là điệp từ “ai” gợi nhớ bao thân thương trong những câu hò xứ Huế.

   Cuộc đời Hàn Mặc Tử là một bi kịch khắc nghiệt nhưng nhà thơ đã sáng tạo cho đời những áng văn chương làm say đắm lòng người. Bài thơ có một cấu trúc độc đáo, lấy cảnh để ngụ tình, tình trang trải dịu buồn khôn khuây.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 30

   Khổ thơ đầu trong bài thơ hiện lên hai chi tiết hòa quyện vào nhau đó là nét đẹp của bức tranh phong cảnh và tâm trạng của tác giả. Bức tranh Vĩ Dạ tắm mình trong ánh bình minh toát lên một vẻ đẹp tinh khôi và dịu dàng rất Huế; trong khung cảnh thiên nhiên đó, nhà thơ hoài niệm, thương nhớ, nuối tiếc và có chút bâng khuâng. Tất cả hòa vào nhau khiến cho bức tranh thiên nhiên nhuốm màu hư ảo.

   Câu thơ đầu tiên có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Có thể đó là suy nghĩ của tác giả về tình yêu mà cô gái dành cho mình, suy nghĩ đó tạo ra một lời mời thiết tha đối với tác giả (anh hãy về thăm), đồng thời là một sự trách móc, giận hờn (anh còn nhớ hay không). Cũng có thể xem đó là lời tự vấn của tác giả: Sao không về thôn Vĩ?

   Dù hiểu theo cách nào thì cũng có thể thấy câu thơ chính là niềm thương nhớ, niềm yêu mến không thể kìm nén của tác giả. Sự không kìm nén đó đã bật lên thành câu hỏi. Ẩn trong câu hỏi thiết tha ấy là một bóng hình tuy ảo ảnh, mong manh mà vô cùng da diết. Ân sâu trong nuối tiếc, hoài niệm là ước muốn được về thăm Vĩ Dạ một lần. Nếu hiểu được cuộc đời của Hàn Mặc Tử thì chúng ta sẽ biết được ước muốn bình thường đó đối với Hàn Mặc Tử lớn lao biết nhường nào. Câu thơ như gợi lên một niềm thương cảm, sầu bi và oán thán cho số phận.

   Thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp vừa rất thực vừa rất mộng với hàng loạt hình ảnh về nắng, hàng cau, vườn, lá trúc, mặt chữ điền. Ấn tượng sâu sắc nhất là cảnh vườn Vĩ Dạ tắm trong ánh nắng bình minh. Bằng nghệ thuật tăng cấp. Hàn Mặc Tử muốn nhấn mạnh đến hình ảnh nắng: “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Nắng mới lên là nắng ban mai, cái nắng tinh khôi, non tơ, dịu dàng sáng bóng và trong trẻo, lại được tắm mình trong cây lá ướt đẫm sương đệm nên có sự phản chiếu long lanh. Hai từ nắng đặt cạnh nhau tạo cho nắng sự chuyển động trên cây lá. Đó là một cách cảm nhận và miêu tả thật tinh tế của Hàn Mặc Tử. Hình ảnh nắng hàng cau gợi cho chúng ta nhiều nghi vấn. Tại sao trong muôn vàn cây lá trong vườn, tác giả chỉ chọn hàng cau để tả ánh nắng? Phải chăng cau là loài cao nhất trong vườn nên có thể đón ánh nắng đầu tiên của ban mai dịu nhẹ; hay chính là một mối duyên không thành giờ chỉ còn có cau mà thiếu mất trầu? Có thể thấy ngoài vẻ đẹp của ánh bình minh, câu thơ còn chất chứa một nỗi sầu tình duyên của Hàn Mặc Tử.

   Chính vì nắng mới lên, cây lá còn ướt đẫm sương đêm nên mới có cảnh Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Câu thơ vừa là một câu hỏi (vườn ai?), vừa là một lời bình phẩm, khen ngợi (mướt quá, xanh như ngọc). Chữ mướt toát lên một vẻ đẹp mượt mà, óng ánh. Khu vườn Vĩ Dạ hiện lên với muôn vàn màu sắc lung linh dưới ánh nắng ban mai. Hình ảnh thơ tuy đơn sơ mà lộng lẫy, bình dị mà thanh tú, dân dã mà cao sang.

   Câu thơ thứ ba xuất hiện chữ ai thật đặc biệt. Chữ ai vừa không xác định vừa xác định, vừa hư lại vừa thực, vừa gần gũi lại vừa xa vời. Hàn Mặc Tử đã rất thành công khi hư ảo hóa một khung cảnh rất hiện thực và hiện thực hóa những gì vốn rất hư ảo mà vốn chỉ thấy trong tưởng tượng.

   Nổi bật nhất trong câu thơ thứ tư là hình ảnh khuôn mặt chữ điền. Để hiểu được hình ảnh này thật không dễ dàng, bởi có nhiều cách lí giải khác nhau. Tuy nhiên, hình ảnh trên mang nhiều yếu tố cách điệu. Hàn Mặc Tử sử dụng yếu tố cách điệu để diễn tả sự hài hòa trong vẻ đẹp của con người và thiên nhiên. Đó là sự hài hòa của một vẻ đẹp rất Huế với cảnh vật Huế và con người Huế.

   Khổ thơ ẩn chứa nhiều tâm trạng và nỗi lòng của Hàn Mặc Tử. Mở đầu và kết thúc bằng hai câu hỏi (Sao anh? Vườn ai?) nhưng không có câu trả lời. Đó là một dấu hỏi lớn trong lòng mà tác giả cũng chưa tìm được lời giải đáp.

Bài thơ bắt đầu bằng một ánh nắng ban mai dịu nhẹ nhưng thoắt đã hiện lên đêm trăng huyền ảo trong khổ thơ thứ hai. Màu sắc hư ảo dường như bao trùm trong khổ thơ thứ hai.

   Hai câu mỡ đầu của khổ thơ thứ hai vẽ nên loạt hình ảnh nối tiếp nhau (gió theo lối gió, mây đường mây, dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay) như tô đậm thêm nỗi buồn của nhà thơ, một nỗi buồn mênh mang, sâu thẳm của xứ Huế. Lối điệp từ gió và mây không nhằm nhấn mạnh cường độ hoặc sắc thái của gió và mây, mà chính là thể hiện sự tách biệt của gió và mây trong khung cảnh thiên nhiên.

   Giá trị của câu thứ hai đặt vào hai chữ buồn thiu đặt giữa câu thơ. Đấy không chỉ là cái buồn cửa lặng lẽ của dòng nước lan tỏa đến cả hoa bắp mà còn là cái buồn của một người mang nhiều tâm sự. Chữ lay đặt trong hoàn cảnh này toát lên một vẻ hiu quạnh và tác động đến mọi cảnh vật chung quanh, khiến tất cả như mang một nỗi buồn man mác.

   Hai câu thơ chứa đựng một nỗi buồn bâng khuẫng, man mác, một nỗi buồn thật khó tả và khó gọi tên. Chính nỗi buồn đó đã đưa thi nhân vào một thế giới cùa sự mộng ảo trong hai câu thơ tiếp theo:

    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay?

   Hình ảnh sông trăng và con thuyền chở trăng trên sông thật mơ hồ nhưng cũng thật quyến rũ. Hình ảnh hư và thực đã được Hàn Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế, tài hoa. Dòng nước tắm ánh tráng sáng rực bỗng rùng mình hóa thành dòng trăng hay là ánh tráng tan ra và tuôn chảy thành dòng nước? Ắnh tràng thật lung linh, kì ảo. Hình ảnh con thuyền chở ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng để cập bên thời gian cho kịp giờ ân ái là một hình ảnh kì ảo. Những hình ảnh như thế vẫn thường xuyên xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử. Đó là những hình ảnh thuộc về một thế giới khác, một thế giới rất riêng của Hàn Mặc Tử.

   Hai câu thơ làm thành hai câu hỏi: “Thuyền ai đó? Có chở trăng về kịp tối nay? Từ kịp gợi sự khắc khoải, mơ hồ và chờ đợi. Từ tối nay không gợi một thời gian cụ thể nào, nhưng nếu không kịp thì có lẽ không còn một tối nào khác nữa. Câu thơ gợi lên sự tuyệt vọng, đau thương và mất mát. Dường như con người hi vọng kia đang chạy đua với thời gian để giành lấy tình yêu và cuộc sống. Câu thơ làm chúng ta nhớ lại cái gấp gáp, vội vàng của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng. Nhưng Hàn Mặc Tử trong hoàn cảnh này lại khác. Hàn Mặc Tử không có cái sức sống mãnh liệt, tràn đầy nhiệt huyết như Xuân Diệu: Ông đang phải chạy đua với thời gian vì ông biết sự sống của mình không kéo dài. Biết đâu vào tối mai, vầng trăng kia vụt tắt, con thuyền kia mãi mãi không chở trăng về kịp. Một hình ảnh thơ rất ảo nhưng cũng rất thực. Cái thực chính là hoàn cảnh đau thương của tác giả.

   Toàn bộ khung cảnh trong khổ thơ thứ hai là một thế giới ảo. Hồn thi nhân chìm vào cõi mồng lung, ở đó có hẹn hò, có chờ đợi, có phấm phỏng một niềm hi vọng và có cả dự cảm chia lìa, có thất vọng ngay trong hi vọng và có cả niềm đau thương của chính cuộc đời tác giả.

   Giọng thơ khắc khoải trong khổ thơ thứ hai trở nên gấp gáp, khẩn thiết trong khổ thơ thứ ba. Tác giả dần đối diện với chính mình và với thực tại của một bóng giai nhân chỉ có trong ảo ảnh:

    Mơ khách đường xa, khách đường xa.

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?

   Cụm từ khách đường xa được lặp lại hai lần, kết hợp với chữ mơ ở đầu câu thơ thể hiện nỗi khắc khoải gần như tuyệt vọng. Bóng giai nhân vừa hiện lên đã chợt biến thành hư ảo bởi đó chỉ là hình bóng trong mơ. Hình ảnh giai nhân trong thơ Hàn Mặc Tử luôn biểu hiện cho sự tinh khiết, trinh trắng. Vì thế, màu áo trắng cứ như một ám ảnh kì lạ. Cụm từ nhìn không ra chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng, trắng một cách ki lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực mà đã thuộc về màu của tâm tưởng. Nhà thơ đã chìm vào tâm tưởng để nhìn thấy màu áo kí ức. Câu thơ một ảo ảnh bất ngờ nhưng có lí. Màu trắng tự nhiên choán hết cầm xúc khiến bài thơ tả cảnh thiên nhiên trở thành một bài thơ tình yêu, một thứ tình yêu đơn phương khó xác định. Đó là một khát vọng tình yêu đẹp nhòa trong kí ức.

   Hai câu kết đưa người đọc đi vào cõi tâm tưởng. Ở đây là ở đâu? Là Vĩ Dạ của một thời thơ mộng đẹp mà thi nhân đang nhìn thấy sau tấm bưu ảnh? Hay trong này, nơi thi nhân ôm khát vọng yêu đượng trong nỗi cô đơn? Có lẽ chữ đây trong Đây thôn Vĩ Dạ là không gian của thê giới ngoài kia, còn chữ đây trong khổ thơ kết là thế giới trong này. Giữa hai thế giới cách nhau vừa đúng một tầm tuyệt vọng.

   Cả bài thơ dồn hết tâm tư ở câu cuối: Ai biết tình ai có đậm đà? Hai chữ ai lặp lại bộc lộ tâm trạng bâng khuâng xót xa, trong đó có gì như cầu mong, có gì như tự an ủi, dẫu biết không còn hi vọng nhưng chỉ một chút ai biết cho tình ai cũng là đủ lắm rồi. Có lẽ câu cuối là lời đáp cho câu mơ đầu: Ai biết tình ai có đậm đà mà về chơi thôn Vĩ? Thật ra, có ai hỏi Hàn Mặc Tử đâu và chắc gì có người yêu thương? Tác giả đang sống trong tưởng tượng. Niềm thiết tha với cuộc đời đã biến thành những câu hỏi khắc khoải như xoáy vào tâm can người đọc. Bởi xét đến cùng, đau thương chính là biểu hiện tột cùng của khát vọng tình yêu không biến thành hiện thực. Người không yêu đời tha thiết sẽ không day dứt đến thê khi linh cảm thấy mình sắp lìa đời.

   Tứ thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có hai điểm đặc biệt:

Mở đầu bài thơ là một câu thỏi tự vấn: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? 11 câu tiếp theo, tác giả tự trả lời câu hỏi ấy bằng những hình ảnh thơ, ý thơ. Đây chính là tứ thơ bộc bạch tâm trạng của tác giả.

   Toàn bài thơ là một khối thống nhất có sự liên kết về logic nội tại của tâm trạng thi nhân, nhưng giữa ba khổ thơ lại có sự chuyển ý về tứ thơ và hình ảnh thơ: từ cảnh vườn quê trong khổ thơ thứ nhất sang cảnh sông trăng và thuyền trăng trong khổ thơ thứ hai, đến cảnh áo em trắng quá nhìn không ra trong khổ thơ thứ ba.

   Bút pháp của Hàn Mặc Tử trong bài thơ là bút pháp trữ tình thiên về gợi tả và giàu liên tưởng với những hình ảnh biểu hiện nộỉ tâm nhằm bộc lộ tâm trạng của chính mình.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 31

Cảnh sắc thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng dào dạt cho các thi nhân thả hồn mình sáng tác tuyệt bút thơ ca. Nếu bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu luôn giàu sức sống, tươi mới thì thiên nhiên nơi thôn Vĩ trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử lại mang nét giản dị, thơ mộng, thấm đẫm nỗi buồn da diết, bâng khuâng của thi sĩ với hai bức tranh thiên nhiên ở mỗi khoảnh khắc.

   Bài thơ được gợi cảm hứng trực tiếp từ tấm ảnh của Hoàng Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử trong ấy “có mây, nước, có cô gái chèo đò với chiếc đò ngang, có mấy khóm tre, có cả ánh trắng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước” cùng với mối tình duyên thầm kín mà thi nhân dành cho nàng đã viết nên những vần thơ da diết, nỗi buồn ở những ngày cuối đời cận kề với căn bệnh nan y. Thôn Vĩ Dạ – một thôn nhỏ bên bờ sông Hương thơ mộng, nơi người con gái mang tên loài hoa ấy theo cha về đó sống. Nơi đây là một khu nhà vườn tuyệt đẹp đã từng là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà thơ rung cảm để sáng tác.

   Mở ra cho bức tranh thiên nhiên bình minh tươi đẹp là dạng thức câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Câu hỏi ấy vừa giống như lời trách móc nhẹ nhàng cũng là mời về chơi của cô gái thôn Vĩ hay là lời tự trách bản thân của nhà thơ gợi cho ta nhiều băn khoăn, trăn trở. Ẩn phía sau đó là vẻ đẹp thiên nhiên có nắng sớm rọi trên hàng cau, có một khu vườn mướt xanh như ngọc:

    “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

   Vừa bước chân đến vườn dội vào mắt ta là ánh nắng mới_thứ ánh nắng sớm tinh khôi, tinh khiết không rực rỡ chói lòa mà dịu nhẹ ấm áp. Trong vườn có những hàng cau vươn mình thức dậy đón nắng mới đầu tiên, bởi cau là loài cây cao nhất ở đó có thể hứng nắng sớm nhất khi mặt trời thức giấc tỏa nắng. Đi sâu vào trong hiện ra là một màu xanh mướt như ngọc của cây cối. Tính từ “mướt” được sử dụng gợi tả không gian trải dài chỉ một màu xanh thuần khiết. Chỉ với hai câu thơ đặc tả cảnh nhiên nhiên với từ ngữ được chọn lọc đã cho thấy một bức tranh tràn đầy sức sống của nắng mới hiện lên. Nổi bật trên nền tranh ấy là hình ảnh người con gái duyên dáng, e thẹn sau lá trúc trong câu thơ “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Gương mặt ấy phải chăng là của một ai đó cụ thể hay là sự cách điệu hóa để chỉ nét đẹp tâm hồn dịu dàng, thướt tha của con gái Huế xinh đẹp.

   Khoảnh khắc bình sáng sớm tươi đẹp đã khép lại mở ra cho người đọc cảm nhận vẻ đẹp thiên nhiên trong đêm sông trăng có mây, gió, nước trôi, hoa bắp và chiếc thuyền đơn độc:

    “Gió theo lối gió, mây đường mây

    …Có chở trăng về kịp tối nay?”

   Hàn Mặc Tử mang trong mình căn bệnh hủi (bệnh phong) đáng sợ, cuộc đời tuổi trẻ của ông phải đối mặt với cơn đau bệnh tật nên trong dự cảm thi sĩ luôn có sự li biệt, xa cách với những người thân yêu. Nên hình ảnh thiên nhiên ở đây cũng nhuốm màu bi thương của tác giả. Gió, mây là cặp hiện tượng tự nhiên vốn được song hành cùng với nhau gió ở đâu mây theo đó, gió thổi thì mây bay nhưng trong mắt của thi nhân thì ngược lại gió, mây mỗi nơi một hướng, ngược chiều nhau. Trên trời thì mây gió li biệt, dưới dòng nước thì buồn thiu có hoa bắp lay nhẹ nhàng hô ứng với tốc độ chảy chậm chạp của nước. Tác giả đã sử dụng biệt pháp nhân hóa khiến cho dòng nước cũng có cảm xúc, cũng biết buồn thiu. Nỗi buồn ấy bắt nguồn từ sự cô đơn, buồn tủi của nhà thơ bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Ánh trăng vốn là nguồn cảm hứng, là người bạn tri âm, tri kỉ, là nơi trú ngụ cuối cùng linh hồn để trốn tránh thực tại của thi nhân. Trong thơ Hàn Mặc Tử ta đã có vô số lần bắt gặp ánh trăng đêm có một loạt các bài thơ viết về trăng như: Uống trăng, Đà Lạt trăng mờ, trăng sáng, trăng và trăng ngọc, một miệng trăng, ngủ với trăng, rượt trăng, say trăng, trăng tự tử…và còn biết bao bài thơ nữa nhà thơ gửi gắm tâm tư tình cảm của mình vào ánh trăng. Ở bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đó là sự tan chảy của ánh trăng đêm trên bề mặt làm cho dòng nước tắm trong ánh trăng hóa thành dòng sông trăng lung linh, mờ ảo. Trên con sông trăng ấy có con thuyền cô đơn đậu đó. Thuyền đi có chở về cho kịp tối nay không? Câu hỏi tu từ gợi nỗi niềm băn khoăn của thi sĩ, cũng như bao đêm khác nhưng từ “kịp” khiến ta có cảm giác đêm nay thật ngắn ngủi và đó như là một cuộc chạy đua với thời gian cuộc đời. Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng chỉ là những hình ảnh mà nhà thơ tưởng tượng ra để thể hiện tâm trạng tiếc nuối cho mối tình dang dở, yêu tha thiết sự sống và vẻ đẹp cuộc đời. Cảnh vật thiên nhiên như ngưng đọng lại, thấm đẫm nỗi buồn đau sâu thẳm của thi nhân. Càng yêu tha thiết thiên nhiên bao nhiêu thì Hàn Mặc Tử càng phải chịu nỗi đau tâm hồn và thể xác bấy nhiêu. Đúng như L.Tolstoi đã từng nói: “Khó khăn hơn cả là yêu cuộc sống với những nỗi đau khổ của mình”.

   Như vậy chỉ với những nét vẻ điểm xuyết đơn giản, nhẹ nhàng nhưng tinh tế và sâu sắc qua cái nhìn thi nhân thiên nhiên tươi đẹp của xứ Huế mộng mơ hiện lên thật sinh động, giàu sức sống nhưng cũng thấm đẫm nỗi buồn đau bâng khuâng, da diết. Ai đó đã nói rất đúng: “Nghệ thuật có thể làm ra những vần thơ đẹp nhưng chỉ với tâm hồn mới làm nên thi ca”. Nếu không có một tình yêu thiên nhiên xứ Huế thơ mộng làm sao Hàn Mặc Tử có thể vẽ nên được bức tranh tuyệt mĩ như vậy về thôn Vĩ.

   Hàn Mặc Tử làm thơ từ năm 16 tuổi, ông là một thiên tài mà tài năng được bộc lộ rất sớm. Hồn thơ ông vừa có những nét ma mị vừa có nét trong trẻo, tươi sáng, cho thấy một phong cách thơ đa dạng, phức tạp. Đây thôn Vĩ Dạ có thể coi là một trong những bài thơ hay nhất của ông, tác phẩm đã dựng lên khung cảnh thiên nhiên trong trẻo, hiền hòa, mà cũng đầy cô đơn của một tâm hồn khát khao yêu thương, khát khao sống mãnh liệt.

    Đây thôn Vĩ Dạ được mở đầu bằng bức tranh thật thơ, thật mộng với những đường nét lung linh, tươi sáng. Câu hỏi mở bài: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời trách móc nhẹ nhàng mà cũng đầy tình cảm dành cho Hàn Mặc Tử. Rồi để sau đó mở ra khung cảnh thôn Vĩ mơ mộng, đậm chất xứ Huế:

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền

    Không gian thật thân thuộc, gần gũi đối với bất cứ người Việt Nam nào. Những hàng cau chạy thẳng tắp, cao vút đón đợi cái nắng tinh khôi đầu tiên của ngày mới. Hai chữ nắng lặp lại trong câu thơ đem đến cho người đọc sự ấm áp, trong lành với thứ ánh sáng dịu nhẹ lan tỏa khắp không gian. Năng mới là thứ nắng vừa lên, không gay gắt, chói chang mà dịu nhẹ, tinh tế như chính tính cách của con người xứ Huế mơ mộng. Nắng ấy cũng đem đến cho ta cảm giác tươi mới, trong lành. Dịch chuyển điểm nhìn xuống dưới, cả một khung vườn, cả một viên ngọc khổng lồ hiện ra trước mặt. Sắc xanh phủ kín khắp nơi, cái nắng mới chiếu rọi xuống những hạt sương li ti, bé nhỏ tạo thành một viên ngọc khổng lồ mang màu xanh ngọc bích. Tuyện vời và đẹp đẽ biết bao. Nếu câu thơ đầu đem đến cho người đọc sự thanh khiết, tươi mới thì câu thơ này lại đem đến cho chúng ta sự non tơ, mỡ màng. Chỉ với một từ “mướt” thôi cũng đã làm bừng dậy cả sức sống của muôn vàn cỏ cây. Kết hợp với biện pháp so sánh Hàn Mặc Tử đã hoàn chỉnh bức tranh thôn dã tràn đầy sức sống. Nhưng để bức tranh đó trở nên hoàn thiện hơn, ông cũng không quên điểm vào đó chân dung mờ ảo, hư thực của nét mặt chữ điền. Thật khó để có thể xác định được mặt chữ điền ở đây là ai, có thể là người con gái, có thể là người con trai ở thôn Vĩ. Chính tính mơ hồ đó đã làm câu thơ trở nên đa nghĩa, giàu giá trị hơn. Đồng thời khuôn mặt chữ điền cũng tạo nên sự hài hòa giữa cảnh vật và thiên nhiên. Đó là sự hài hòa tự nhiên, đậm chất Huế.

    Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh tuyệt đẹp, trong sáng, tinh khiết, nhưng thoắt đã xuất hiện một bức tranh khác, bức tranh đẹp mà u buồn, cô đơn vào một đêm trăng trên sông:

    Gió theo lối gió mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

    Hai câu thơ đầu vẽ nên khung cảnh đượm buồn với sự xuất hiện của các sự vật: gió, mây, hoa bắp, sông. Khung cảnh rộng rãi, thoáng đãng nhưng lại ẩn chứa sự mơ hồ, xa xăm. Mọi sự vật đều chia lìa: Gió theo lối gió, mây theo lối mây, dường như giữa chúng không hề có một mối liên hệ nào với nhau. Nghệ thuật đối tài tình đã nhấn mạnh sự chia lìa, cũng như sự cách trở. Tưởng là gần nhau mà hóa ra lại là chia li muôn trùng. Dòng sông lặng lỡ trôi trong cái thinh lặng của buổi đêm, trong con mắt của thi nhân con sông trở nên “buồn thiu”, bâng khuâng, man mác buồn. Nhịp lay nhẹ, khẽ khàng của hoa bắp như càng làm nổi bật hơn sự hiu quạnh của cảnh vật, cũng như sự cô đơn trong chính lòng người. Ngoại cảnh chia lìa, tan tác càng xoáy sâu hơn vào tâm hồn của nhân vật trữ tình, ông tìm đến với trăng để bám víu. Trăng trong thơ Hàn Mặc tử là người bạn, người tri kỉ đối với ông:

    Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa

    Sương đẫm trăng lồng bóng thiết tha

    Hay:

    Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng

    Cho trăng xuân tràn về say chới với

    Trong bài thơ này, cả một sông trăng, thuyền trăng để cứu vớt nỗi cô đơn của ông: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay”. Không gian ngập đầy ánh trăng vừa huyền ảo vừa ma mị như gợi nhắc về một quá khứ xa xôi, quá khứ tươi đẹp trước đây của ông. Nhưng lời thơ cất lên có gì đó như nghẹn lại, khắc khoải hơn, “thuyền ai” một câu hỏi vang ra mà không có hồi đáp, câu hỏi trở nên vô vọng. Và câu thơ sau chứa đựng đầy sự băn khoăn, liệu trăng có kịp trở về tối nay – một khoảng thời gian quá ngắn ngủi. Dường như ông đang chạy đua với thời gian để dành giật, để được sống. Hai câu thơ đã thể hiện khao khát gặp gỡ, niềm yêu cuộc sống cũng như nỗi niềm lo âu, khắc khoải về sự muộn màng, dở dang. Ở khổ thơ này thiên nhiên đã mờ dần, dường như không còn định hình được rõ ràng nữa, và sang đến khổ thơ cuối cùng ranh giới giữa các sự vật hiện tượng hoàn toàn không thể phân biệt được nữa: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà”. Mọi sắc thái đều được đẩy lên cực độ: trắng quá, mờ nhân ảnh. Khung cảnh dường như đi vào cõi mơ, cõi hư ảo chứ không còn là cõi thực nữa. Thế giới ở đây và thế giới ngoài kia nhòe mờ, khắc sâu nỗi cô đơn, tuyệt vọng được đẩy lên đến cực điểm của nhân vật trữ tình.

    Bằng việc sự dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa,.. ngôn từ tinh tế, hàm súc, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên bức tranh xứ Huế vừa đẹp đẽ, lung linh vừa huyền ảo, ma mị. Đằng sau bức tranh thiên nhiên đó là tình yêu cuộc sống mãnh liệt, nhưng rơi vào tuyệt vọng, sự bi kịch.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 32

Trong phong trào Thơ mới ở đàu thế kỉ XX có một nhà thơ “như ngôi sao trổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình” đó chính là Hàn Mặc Tử. Ông là thi nhân trẻ nhất cũng là người bỏ đi đầu tiên. Thơ của Hàn Mặc Tử là tuyệt bút của sự kết tinh giữa tài năng, tình yêu và nỗi đau khổ. Một trong những bài thơ hay của ông được mọi người yêu thích là tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” với một cái tôi trữ tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc đời tha thiết nhưng mang đậm nỗi buồn của sự chia ly.

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ tài hoa nhưng số phận cuộc đời ông lại cay đắng nhiều đau thương khi mắc phải bệnh phong đáng sợ trong điều kiện lúc đó chưa có thuốc chữa. Anh ra đi ở những năm tháng của thanh xuân tuổi trẻ khi mới 28 mùa xuân nhưng để lại cho đời những áng văn thơ đặc sắc. Có lẽ đúng như nhà thơ Hồng Thanh Quang đã từng nói: “Khi mọi sự bất lực thì thơ xuất hiện”. Khi con người ta tận cùng hạnh phúc và tột cùng đau thương thì cái tinh túy nhất của tâm hồn là thơ ca. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là sự tinh túy đó, ông sáng tác khi đang buồn đau cho mối tình đơn phương của bản thân, trở về Quy Nhơn thì biết người thương đã theo gia đình về Huế sống. Một thời gian sâu thì Hoàng Cúc_người con gái Hàn Mặc Tử yêu thầm khi nhận thư của anh họ là bạn của thi sĩ đã gửi “bức ảnh phong cảnh vừa bằng cái danh thiếp. Trong ảnh có mây, có nước, có cô gái chèo đò với chiếc đò ngang, có mấy khóm tre, có cả ánh trắng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước.” gửi cho Hàn Mặc Tử không lâu sau bài thơ ra đời. Chính tấm bưu ảnh trực tiếp sự khơi gợi cảm xúc cùng với mối tình thầm kín của Hàn Mặc Tử đã viết nên một thi phẩm giàu cảm xúc, giàu hình ảnh mộng mơ và thẫm đẫm nỗi buồn man mác trong tâm hồn thi nhân.

Dưới cái nhìn trữ tình lãng mạn của đôi mắt nhà thơ mới thiên nhiên thôn Vĩ Dạ hiện lên thật tươi đẹp giàu sức sống với câu mở đầu là lời thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như vừa trách móc nhẹ nhàng, vừa là lời mời của cô gái cũng là tiếng lòng thi nhân. Thiên nhiên hiện lên là một bức tranh buổi sáng sớm với nắng mới soi rọi trên hàng cau trong một khu vườn mênh mông mướt xanh như ngọc, thấp thoáng phía xa xa là bóng dáng của ai “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Đó là một bức tranh tuyệt mĩ mà tạo hóa ban tặng cho cuộc sống con người dường như thi sĩ đang đi từ ta ngoài vào bên trong khu vườn để tận hưởng món quà trần gian với một niềm vui, sự thích thú, say mê tột cùng. Qua đó cho ta thấy tâm hồn của cái tôi Hàn Mặc Tử yêu đắm say thiên nhiên, yêu cuộc đời và sự sống biết bao.

Cái tôi của Hàn trong bài thơ còn là cái tôi đau đớn, tuyệt vọng với những dự cảm chia li, cách biệt trong cuộc đời. Vì mắc phải căn bệnh quái quỷ hủy hoại thân xác thi nhân nên ông luôn phải sống trong trại phong cách li với mọi người thân yêu xung quanh nên trong bài thơ dưới cái nhìn của ông thiên nhiên cũng đầy cách trở li biệt và cô đơn:

    “Gió theo lối gió, mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay”

Gió, mây là cặp hiện tượng tự nhiên vốn được song hành cùng với nhau gió ở đâu mây theo đó, gió thổi thì mây bay nhưng trong mắt của thi nhân thì ngược lại gió, mây mỗi nơi một hướng, ngược chiều nhau. Trên trời thì mây gió li biệt, dưới dòng nước thì buồn thiu có hoa bắp lay nhẹ nhàng hô ứng với tốc độ chảy chậm chạp của nước. Tác giả đã sử dụng biệt pháp nhân hóa khiến cho dòng nước cũng có cảm xúc, cũng biết buồn thiu. Nỗi buồn ấy bắt nguồn từ sự cô đơn, buồn tủi của nhà thơ bởi “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cô đơn quá nên nhà thơ đành phải tìm đến anh trăng để làm bạn. ta đã từng bắt gặp ánh “Trăng nằm sóng soài trên cành liễu/Đợi gió đông về để lả lơi” (Bẽn lẽn) hay “Trăng bay lả tả ngã trên cành vàng” (Rượt trăng), hay một ánh “Trăng vàng ôm bờ ao” (Ngủ với trăng) nhưng trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đó là sự tan chảy của ánh trăng đêm trên bề mặt làm cho dòng nước tắm trong ánh trăng hóa thành dòng sông trăng lung linh, mờ ảo. Trên con sông trăng ấy có con thuyền cô đơn đậu đó. Thuyền đi “Có chở trăng về cho kịp tối nay?” Từ “kịp” khiến ta có cảm giác đêm nay thật ngắn ngủi và đó như là một cuộc chạy đua với thời gian cuộc đời ẩn đằng sau đó là nỗi cô đơn khắc khoải và buồn đau, tuyệt vọng của thi sĩ. Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng chỉ là những hình ảnh mà nhà thơ tưởng tượng ra để thể hiện tâm trạng tiếc nuối cho mối tình dang dở, yêu tha thiết sự sống và vẻ đẹp cuộc đời bởi kẻ thù bệnh tật đang dần cướp đi sự sống cuộc đời anh. Nó là cán cân số mệnh đặt nghiêng trọng lượng về bên anh để cho anh càng yêu cuộc sống càng muốn níu giữ “…ghì lấy đám mây bay…”, “…Đi bắt nắng ngừng, nắng reo nắng cháy…”, càng tuyệt vọng “…Tôi dọa không gian, rủa tới cùng” rồi “..Tôi siết thời gian trong nắm tay…” và “…Tôi vo tiếc mến như vo lụa…” còn gì “Khó khăn hơn cả là yêu cuộc sống với những nỗi đau khổ của mình”.

Không chỉ vậy cái tôi trữ tình của Hàn Mặc Tử là một cái tôi hoài nghi bởi khung cảnh sự vật và con người trong thơ ông đều rất mơ hồ, khó xác định.

    “Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà ? ”

Khổ thơ là tâm trạng bâng khuâng, xót xa của một tâm hồn khao khát được sống được yêu và yêu say đắm với người con gái xứ Huế mang tên một loài hoa. Nhà thơ sử dụng hai điệp ngữ “khách đường xa” trong một câu thơ với hai nét nghĩa khác nhau. “Lần đầu là khát vọng mơ gặp khách đường xa, lần sau là thực tại càng muốn mơ thấy người khách thì lại thấy đường càng xa. Nét đặc sắc thơ Hàn không tả mà chỉ gợi bởi “Áo em trắng quá nhìn không ra” cái sắc trắng ấy là màu trắng tinh khôi, tinh khiết, nhà thơ cực tả sắc trắng một cách kì lạ, bất ngờ nên khiến cho “em” chìm vào cõi ảo, khiến cho thế giới trở nên hư hư thực thực khó xác định. Và càng khó đoán, khó biết, khó hiểu hơn và tình cảm con người. Nhà thơ băn khoăn làm sao để biết được tình cảm của người xứ Huế nơi xa có đậm đà không hay như là sương khói mù mịt rồi tan đi. Làm sao để cô gái ấy biết được tình cảm nhớ thương da diết của mình dành cho nàng. Câu hỏi cuối bài thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng, đau đớn của một tâm hồn thơ tài năng mà hoàn cảnh, số phận nhuốm màu bi thương.

Chỉ với những câu thơ rất nhẹ nhàng, thuần khiết trong sáng đã đặc tả được cái tôi trữ tình yêu tha thiết thiên nhiên và cuộc sống, nhưng mang một nỗi buồn của những dự cảm chia li, tuyệt vọng và hoài nghi trong ảo ảnh. Hơn bảy mươi năm Tử đi vào cõi vĩnh hằng nhưng thơ ca ông vẫn đang đồng hành cùng văn chương Việt vẫn được ngâm lên, được đọc lên hay âm thầm đâu đó vẫn có những tâm hồn đồng điệu của con người yêu mến thơ anh. Bài thơ “Đây thôn Vĩ dạ” với cái tôi trữ tình riêng biệt của thi nhân đã được đánh giá là bài thơ “trong sáng nhất” của nền thi ca Việt Nam với bài thơ “Mùa xuân chín”.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 33

Phong trào Thơ Mới là sự bùng nổ của những cái tôi cá nhân. Mỗi người một phong cách, một dáng vẻ làm phong phú thêm khu vườn thơ ca hiện đại. Trong khu vườn đấy ta không thể không nhắc đến Hàn Mặc Tử một cái tôi đầy cô đơn, u uất, hoài niệm, một cái tôi đau đớn khắc khoải và tha thiết yêu cuộc sống. Cái tôi ấy đã được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

    Trước hết, về cái tôi trong phong trào Thơ Mới. Thơ Mới là một cuộc cách tân lớn của thơ ca Việt Nam, từ cái tôi dấu kín, rụt rè đã xuất hiện những cái tôi bung phá mạnh mẽ, họ – những lớp nhà thơ trẻ tuổi thể hiện một cách mạnh mẽ cái tôi của chính mình, làm nên những diện mạo riêng biệt. Đúng như hoài thanh đã nhận xét: “Tôi quyết rằng chưa có thời đại nào phong phú như thời đại này trong lịch sử thi ca Việt Nam. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và tha thiết, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”. Họ dám lên tiếng, dám thể hiện cá tính của mình, họ dám nổi loạn và không sợ những sự trì triết của đám đông. Có ai như Xuân Diệu dám bày tỏ: “Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta” hay “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở/ Đời mất vui khi đã vẹn câu thề” (Hồ Zếnh). Cái tôi có cơ hội được bộc lộ khiến cho màu sắc văn học trở nên đa dạng, phong phú hơn. Hàn Mặc Tử cũng là một cái tôi đầy cá tính, khác lạ trong phong trào Thơ Mới, vừa tha thiết, vừa u uất, sầu muộn.

Đây thôn Vĩ Dạ trước hết thể hiện một cái tôi say đắm trước thiên nhiên, vẻ đẹp cuộc sống. Bài thơ mở đầu bằng câu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ, vừa mời gọi mà cũng vô cùng tha thiết, giọng điệu đâu đó còn ẩn chứa sự trách cứ nhẹ nhàng. Bằng con mắt của hiện tại, ngược về quá khứ, nhưng Hàn Mặc Tử đã khắc họa lại bức tranh thôn Vĩ hay thiên nhiên xứ Huế vô cùng đẹp đẽ:

    Nhìn nắng hang cau nắng mới lên

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

    Bức tranh thôn quê hiện lên rực rỡ, lung linh, tràn đầy nhựa sống. Mọi thứ đều ở trạng thái nguyên sơ, tinh khôi nhất. Nắng là thứ nắng mới, khi nắng vừa xuất hiện, không quá gay gắt, nắng như mật non, tưới xuống hàng cau thẳng tắp, khiến mọi vật trở nên ngọt ngào khi được tắm mình trong thứ nắng mới. Trong không gian tràn đầy ánh sáng, khu vườn như viên ngọc khổng lồ xuất hiện. Những giọt sương long lanh, nhỏ bé, khi được ánh nắng chiếu vào tựa như một viên ngọc xanh, lung linh, huyền ảo. Để làm rõ hơn vẻ đẹp của khu vườn tác giả sử dụng từ “mướt” kết hợp với từ “quá” nhấn mạnh vào cái tươi non, mỡ màng của cảnh vật. Điểm vào bức tranh đó là khuôn mặt chữ điền đậm chất Huế. Gương mặt ấy hài hòa với khung cảnh xung quanh đến kì lạ, làm cho cảnh đã đẹp lại càng trở nên thân mật, gần gũi hơn. Khung cảnh tươi đẹp đó là biểu tượng của cuộc sống trần gian rực rỡ, tràn đầy nhựa sống. Mặc dù chỉ là cái nhìn từ hiện tại ngược về quá khứ nhưng lại chân thực vô cùng, nó cho thấy niềm say mê, thích thú của Hàn Mặc Tử với không gian sống nơi đây. Ông thiết tha, say đắm, một tình yêu sâu nặng với con người, với cuộc đời.

    Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, bài thơ còn cho ta thấy một cái tôi cô đơn, đau đớn đến tuyệt vọng:

    Gió theo lối gió, mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

    Thuyền ai đậu bến song trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay.

    Mọi sự vật trong bức tranh đều chia lìa đôi ngả: gió đi theo một hưởng, mây đi theo một hướng. Hai sự vật này trong thiên nhiên vốn luôn gắn bó với nhau, vậy mà dưới con mắt của Mặc Tử mọi sự vật đều bị chia lìa, tan tác. Ông đã dùng đôi mắt tâm trạng để nhìn ngắm cuộc đời. Bởi vậy mà khung cảnh cũng tắm trong nỗi buồn “dòng nước buồn thiu”, nhịp điệu tẻ nhạt, nhàm chán “hoa bắp lay”. Nỗi cô đơn, tuyệt vọng đẩy lên thêm một mức độ mới. Những hình ảnh đó cũng chính là biểu tượng cho cuộc đời ông. Tuổi đời con trẻ, trong lòng hừng hực khát vọng sống nhưng lại mắc phải căn bệnh tai ác, khiến ông phải chia lìa mọi người, chia xa cuộc sống đầy háo hức, vui tươi. Đây chẳng phải là bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời con người đó sao. Vì cô đơn, vì bất hạnh ông tìm đến trăng như một cách để trải lòng, để vơi bớt nỗi buồn, trăng trở thành tri kỉ. Nhưng lòng ông lại đầy lo lắng liệu trăng có kịp về tối nay. Tối nay là tối nào, không ai có thể xác định, nhưng đó quả là khoảng thời gian ngắn ngủi trong một đời người, qua tối nay cơ hội với cuộc sống ngoài kia sẽ vuột tầm tay ông mãi mãi. Bởi vậy mà ông rơi vào trạng thái cô đơn, tuyệt vọng tuyệt đối.

    Cuối cùng đó là một cái tôi hoài nghi. Từ đầu đến cuối bài thơ, ở mỗi khổ ta đều thấy xuất hiện một câu hỏi tu từ:

    “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

    “Có chở trăng về kịp tối nay”

    “Ai biết tình ai có đậm đà”

    Nó không chỉ cho thấy sự cô đơn, mà còn là cả sự hoài nghi với cuộc đời. Nỗi hoài nghi ấy xuất phát từ chính thế giới mà ông đang sống, tất cả mọi thứ đều trở nên nhạt nhòa, hư ảo: “Mơ khách đường xa, khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra/ Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Lằn ranh giữa thực và hư, giữa hữu và vô dường như không thể phân biệt rõ được nữa, mọi thứ như nhòe mờ, nhập vào nhau, thật khó để xác định nắm bắt. Cũng bởi vậy mà trong lòng ông dâng lên nỗi hoài nghi về tình người, liệu trong một thế giới mà mọi vật đề hư ảo, có mà như không như vậy liệu tình người có đậm đà, liệu người còn nhớ ta, còn thương ta sau một khoảng thời gian cách biệt. Qua đó, bộc lộ rõ khao khát, tình yêu cuộc sống tha thiết, mãnh liệt của ông.

    Đây thôn Vĩ Dạ thể hiện một cái tôi đầy phức tạp và bí ẩn. Hàn Mặc Tử vừa khao khát, tin yêu cuộc sống, vừa hoài nghi băn khoăn về tình người, tình đời. Nó cho thấy sự cô đơn, u uất đến cùng cực trong lòng một kẻ khao khát yêu, khao khát sống nhưng vấp phải bi kịch cuộc đời.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 34

a. Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

   Vĩ Dạ một làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương Giang, ngoại ô cố đô Huế. Phong cảnh êm đềm thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử chắc là có nhiều kỉ niệm đẹp? Câu mở bài như một lời chào mời, như một tiếng nhẹ nhàng trách móc: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Cảnh Vĩ Dạ dược nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh rạng ngời. Là màu xanh của cây trái, của “vườn ai”, ngỡ ngàng bảng khuâng, rồi thốt lên “mướt quá xanh như ngọc”. sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời lên. Một so sánh rất đặc sắc gợi lên sức xuân, sắc xuân của “vườn ai?” Câu thứ tư có bóng người xuất hiện thấp thoáng sau hàng trúc: “gương mặt chữ điền”. Nét vẽ “lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình gợi tả vẻ kín đáo, duyên dáng của người con gái thôn Vĩ, Và “vườn ai” ấy là vườn xuân thiếu nữ, cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc và gương mặt chữ điền – năm nét vẽ, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi nhiều thương mến bâng khuâng.

b. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó..

   – Một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Có gió, mây, cỏ hoa, có dòng nước. Cảnh đẹp đầy thi vị, cổ điển. Gió mây đôi ngả phân li. Dòng nước buồn thiu, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa bắp nhè nhẹ “lay” cũng gợi buồn:

    “Gió theo lối gió, mây đường mây,

    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

   Khổ thơ thứ nhất nói đến “nắng mới lên”, nắng bình minh. Khổ thơ thứ hai nói đến “bến sông trăng”, bến đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ đợi chờ. “Thuyền ai” có lẽ là con thuyền thiếu nữ? Vần thơ trăng đẹp nhất trong thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con thuyền trăng. Thật mơ mộng tình tứ:

    “Thuyền ai đậụ bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay?

   Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai gợi nhớ đến vần ca dao thuyền nhớ bến… bến đợi thuyền. Và vì thế nó gọi lên một mối tình thường nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng.

c. Ai biết tình ai có đậm đà?

   – Một chữ “mơ” đầy tình tứ trong câu thơ có nhạc điệu chơi vơi: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”. Du khách hay thôn nữ Vĩ Dạ? Chắc lại là giai nhân mà thi nhân từng mơ ước: “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Vừa thực vừa mộng. Con người của thực tại hay con người của hoài niệm? Sương khói của bến sông trăng hay miệt vườn Vĩ Dạ đã làm mờ nhân ảnh của giai nhân? Trong cảnh có tình. Trong tình có màn sương khói, một thứ tình yêu kín đáo, e dè, thiết tha:

    “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?”

   Toàn bài thơ có bốn từ “ai” đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các câu hỏi tu từ, không chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về một miền dân ca Huế man mác, sâu lắng, bồi hồi, thiết tha:

    “Núi Truồi ai đắp mà cao,

    Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?

    Nong tằm, ao cá, nương dâu

    Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò…”

   “Đây thôn Vĩ Dạ” ngỡ là một bài thơ tả cảnh, nhưng đích thực là một bài thơ tình – tình trong mộng tưởng. Cảnh rất đẹp, rất hữu tình, âm diệu thiết tha tình tứ. Tình cũng rất đẹp nhưng chỉ là mộng ảo. Bến sông trăng còn đó, nhưng con thuyền tình có kịp chở trăng về tối nay? Xa vời, mênh mông. Áo trắng giai nhân, màu trắng trong trinh nữ ấy đã trở thành hoài niệm trong miền thương nhớ của thi sĩ đa tình mà nhiều bất hạnh. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ đẹp vầ hay để ta nhớ và ta thương.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 35

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, tại Lệ Mĩ, Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, trong một gia đình công chức theo đạo Thiên Chúa.

   Năm 1920, Hàn Mặc Tử theo gia đình vào học tiểu học ở Sa Kì, Quy Nhơn, sau đó học ở Bồng Sơn, rồi lại trở về học ở Sa Kì.

   Năm 1926, thân sinh Hàn Mặc Tử bị bệnh rồi mất ở Huế, ông theo mẹ vào Quy Nhơn, bắt đầu làm thơ Đường với bút hiệu Minh Duệ Thị.

   Năm 1928, Hàn Mặc Tử ra học ở trường Pellerin ở Huế, đổi bút hiệu là Phong Trần, ghé thăm cụ Phan Bội Châư ở Bến Ngự nên bị Pháp xóa tên trong danh sách những người được đi du học ở Pháp.

   Năm 1932 — 1933, ông làm việc ở sở Đạc Điền Quy Nhơn, có thơ đăng báo Tiếng Dân, Phụ Nữ Tân Văn: Tới năm 1934, theo Thúc Tề vào Sài Gòn làm báo, lấy bút hiệu Lệ Thanh, rồi Hàn Mặc Tử.

   Những bài thơ Đường luật đầu tiên của Hàn Mặc Tử mang cảnh buồn lạnh như cảnh Chùa hoang:

    Hương sầu khói lạnh năm ngơ ngác

    Vách chán đêm suông đứng dãi dầu.

   Qua nỗi buồn nhè nhẹ trong tập Gái quê. Và rồi người đọc ngạc nhiên khi trong tập Thơ Điên lại có Đây thôn Vĩ Dạ không điên tí náo, ngược lại còn đẹp, có chủt dịu dàng…

   Một lời mời, lời trách nhẹ nhàng, thân ái mở đầu bài thơ.

   Nghệ thuật trách và mời trong câu thơ thật khéo léo.

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

   Trách vì đã quen nhau và đã mời từ trước. Bây giờ mới về gặp mặt, nhắc lại là để trách yêu nhưng cũng để giới thiệu cái đẹp trong sáng, xinh tươi. Tiếp đến, người đọc thấy một bức tranh bình minh rạng rỡ:

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

   Đấy là một đất trời rạng rỡ với nắng sớm long lanh trên những tàu cau còn đẫm sương đêm vươn lên đón nắng ban mai, hòa vào một không gian mượt mà, tươi non trong vườn cây sum suê thấp thoáng bóng người. Nghệ thuật đảo ngữ và so sánh trong câu thơ thứ hai làm tăng thêm vẻ xanh trong cảnh vườn. Trong cảnh đẹp nõn nà ấy lại thấy xuất hiện:

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

   Người ta cứ thắc mắc khuôn “mặt chữ điền” đó là của ai? Người ta cứ nghĩ rằng khuôn mặt đó “vuông” chứ chẳng phải “khuông trăng” hay “trái xoan” nên cứ đoán rằng đó là khuôn mặt của nam giới. Sao không nghĩ rằng đó là khuôn mặt của em? Vừa giới thiệu hàng cau, giới thiệu “vườn… xanh như ngọc” của “ai” đó. “Anh” vừa nhìn được cảnh đẹp ấy, còn nhìn được khuôn mặt chữ điền của “ai” đó thấp thoáng bên bụi trúc. Có đôi mắt, sống mũi, đôi môi, gò má hồng… cân đối thì khuôn mặt chữ điền phúc hậu kia sao lại chẳng là khuôn mặt của người đẹp? Cái khéo léo của nhà thơ là ở tài giới thiệu “ai” đó một cách kín đáo, duyên dáng… và phúc hậu theo quan niệm về tướng mạo của người xưa.

   Lời hỏi, lời trách nhẹ; cảnh bình minh ở trên vừa thực vừa mơ. Thực là cảnh thực của Vĩ Dạ, mơ là cái mộng của nhà thơ. Có thể trước kia Hàn Mặc Tử đã về cùng thôn Vĩ, nhưng bây giờ thì là mơ, làm thơ mơ được về nơi ấy, thưởng thức cảnh đẹp của bình minh, rồi ngẩn ngơ cảnh chiều buồn giữa khu vườn bắp đang độ trổ cờ:

    Gió theo lối gió, mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

   Cảnh hiền lành của miền quê trong chiều, và trước dòng chuyển của thời gian vô tình, mỗi sự vật đều như cố thu về trong cõi cô đơn, quạnh quẽ của riêng mình. Ở đây, mây không còn nương gió. Điệp từ trong câu thơ không để nhấn mạnh mà là để diễn tả nỗi cô đơn. Gió, mây, dòng nước, hoa bắp như có hồn, cảm nhận được cái vô tình nghiệt ngã của thời gian lướt tới. Ai đã từng về Vĩ Dạ tất nhận ra cảnh đẹp của một thôn ngoại vi của kinh thành Huế nằm bên bờ sông Hương có cánh đồng lau và những nương bắp, nơi cư trú của các quan triều Nguyễn.

   Và ta cũng đừng quên đêm với Hàn Mặc Tử là trăng. Hàn Mặc Tử là nhà thơ của trăng. Trăng trong những bài thơ Đường luật như:

    Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa

    Sương dẫm trăng lồng bóng thiết tha…

   Trăng trong Bẽn lẽn như:

    Trăng nằm sòng soãi trên cành liễu

    Đợi gió đông về để lả lơi…

   Trăng trong Mật đẳng như:

    Anh ngâm nga để mở rộng cửa lòng

    Cho trăng xuân tràn về say chới với.

   Và còn cả một tập thơ xuôi Chơi giữa mùa trăng, nên Vĩ Dạ sông nước hữu tình kia, trong thơ của chàng làm sao thiếu trăng được! Và anh thơ đã hỏi giữa khoảng trời mênh mông:

    Thuyền ai đậu bển sông trăng đó

    Có chờ trăng về kịp tối nay?

   “Thuyền ai” đậu có thể xác định được là của ai? Chở trăng về đâu vậy hở? Chở trăng về Vĩ Dạ với chàng ư? Hay ai đó chở trăng về với người thương đang đợi? Có thể như thế lắm, thơ là mơ mộng mà!

   Khổ thơ cuối có lẽ là nhà thơ đã tỉnh mộng, đã quay về với thực tại nơi nhà thơ đang sống. Nhà thơ đã:

    Mơ khách đường xa, khách đường xa

    Áo em trắng quá nhìn không ra.

   Cần nhớ rằng nhà thơ làm bài thơ này lúc đã bị bệnh phong, cắt đứt mọi quan hệ giao tiếp với người thân ngoại trừ vài người thân thiết nhất, bởi vậy mà niềm mơ ước của nhà thơ tha thiết vô cùng. Giờ đây, không phải mơ được về thăm thôn Vĩ mà là mơ người thôn Vĩ đến thăm chàng. Mơ lắm ở nghệ thuật lấy lại “khách đường xa”. Người khách ấy còn trinh trắng quá không chỉ trong tâm hồn mà còn cả ở “áo em…”

   Nhà thơ quay về với thực tại: buồn lắm, cô đươn lắm, tuyệt vọng đang hiện về từ chứng bệnh ngặt nghèo. Chính ở trong tâm trạng đó, nhà thơ khao khát cuộc sống, khao khát tình yêu tới tột cùng:

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?

   Đất Quy Hòa cát trắng là nơi nhà thơ đang sống cùng bệnh phong, nơi tình người chỉ thoáng như “sương khói” ngày nắng tháng mưa.

   Cái tha thiết ước mong đọng lại ở câu thơ cuối cùng. Chẳng hiểu em (ai) có biết cho tình yêu của ta (ai) với em vô cùng tha thiết, nồng đượm? Cái hay của câu thơ nằm ở nhân xưng dại từ phiếm chỉ “ai” ở câu thơ nghi vấn có âm hưởng của tiếng thở dài vô vọng.

   Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm sâu sắc, Đây thôn Vĩ Dạ một bài thơ đẹp. Một bài thơ có những câu tả cảnh đầy tính nghệ thuật làm tăng thêm vẻ đẹp của một vùng quê xứ Huế. Đồng thời cũng thể hiện khao khát sống, khao khát được yêu của nhà thơ trong cảnh sống cô đơn, bệnh hoạn… một bài thơ tình yêu của một kiếp người truân chuyên nhưng đầy ắp tình yêu đời, yêu người.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 36

 Mấy ai dã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:

    “Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

    Đợi gió đông về để lả lơi…”

            (Bẽn lẽn)

    “Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ

    Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”.

            (Hãy nhập hồn em)

    “Bông nguyệt leo song sờ sẫm gối

    Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.

            (Đêm không ngủ)

   Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng… Cả một thế giới trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với 28 tuổi đời (1912 – 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ (“Đây thôn Vĩ Dạ”) như Hàn Mặc Tử.

   “Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong “Tập thơ Điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mặc Tử đã viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

   Câu đầu của khổ thơ thứ nhất “dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:

    “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

   Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mời, như vẫy gọi.

   Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trổ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông “mướt quá” một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hoà, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc “xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Nói về màu xanh ngọc bích, Xuân Diệu (1938) cũng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên”). Hai chữ “vườn ai” gọi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là nét vẽ độc đáo đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như toả bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:

    “Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

    Nghe ra ý vị và thơ ngây”.

            (Mùa xuân chín)

   Hai câu thơ ba, bốn trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc…, mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

   Vĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ Hương giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát nam ai, nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.

   Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu thơ năm, sáu là bức tranh tả gió, mây dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp laỵ, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa… như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy:

    “Gió theo lối gió, mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

   Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành “sông trăng”. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con thuyền nằm ngủ dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: “Gió trăng chứa một thuyền đầy”. Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:

    “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay?”.

   Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay ” thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong “Đây thôn Vĩ Dạ” là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, mộng mơ và thoáng buồn. Ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thìa một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.

   Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là phấn, má hường là son..”. Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương, ở đây sương khói đã làm nhoà đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?

    “Mơ khách đường xa, khách đường xa,

    Áo em trắng quá nhìn không ra

    Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?”.

   “Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” các điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.

   Cũng cần nói một đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả bốn lần chữ “ơi” xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: ”Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” – “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con ngưòi xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhoà và mờ ảo cùng sương khói?

   Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ,… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích.

   “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hổn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong “Đây thôn Vĩ Dạ” vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta:

    “Xin chào Huế một lần anh đến

    Để ngàn lần anh nhớ trong mơ

    Em rất thực mà nắng thì mờ ảo

    Xin đừng lầm em với cố đô”.

            (Tạm biệt)

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 37

Căn cứ váo bản thân văn bản thơ, ta thấy nổi lên hàng đầu là hình ảnh Huế đẹp và thơ. Bài thơ gồm 3 khổ, 12 câu thất ngôn. Mỗi khổ thơ dường như được dành để nói về một phương diện của Huế.

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

   Câu hỏi làm sống dậy kỉ niệm về thôn Vĩ, nói rộng hơn về xứ Huế, trong tâm hồn đằm thắm và thơ mộng của Hàn Mặc Tử.

   Cảnh buổi sớm nơi thôn Vĩ: Nắng mới lên, chiếu sáng, lấp loáng những hàng cau. Vĩ Dạ có những hàng cau thẳng tắp thân cao vượt lên trên các mái nhà và những tán cây. Những tàu cau còn bóng loáng sương đêm như hút lấy ánh sáng lúc ban mai.

   Vườn ai mướt quá xanh như ngọc là câu thơ không có gì đặc sắc tân kì lắm về mặt sáng tạo hình ảnh và từ ngữ, nhưng càng nghĩ càng thấy tả những vườn cây tươi tốt, xum xuê của Vĩ Dạ cũng chỉ có thể nói như thế mà thôi. Mỗi ngôi nhà ở Vĩ Dạ, nói chung ở Huế, được gọi là những nhà vườn. Vườn bọc quanh nhà, gắn với ngôi nhà xinh xinh thường là nhà trệt, thành một cấu trúc thẩm mĩ chặt chẽ. Xuân Diệu gọi mỗi cấu trúc ấy là một bài thơ tứ tuyệt. Vì thế vườn được chăm sóc chu đáo: những cây cảnh và cây ăn quả đều xanh tốt mơn mởn và sạch sẽ, dường như được cắt tỉa, lau chùi, mài giũa thành những cành vàng lá ngọc. Sự ví von ở đây được nâng lên theo hướng cách điệu hóa. Khuynh hướng cách điệu hóa được đẩy lên cao hơn nữa ở câu thứ tư: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Đã gọi là cách điệu hóa thì không nên hiểu theo nghĩa tả thực, tuy rằng cách điệu hóa cũng xuất phát từ sự thực: thấp thoáng đằng sau những hàng rào xinh xắn, những khóm trúc, có bóng ai đó kín dáo, dịu dàng, phúc hậu.

   Trong khổ thơ thứ hai, dòng kỉ niệm vẫn tiếp tục. Nhớ Huế không thề không nhớ dòng sông Hương.

   Dòng sông Hương, gió và mây. Con thuyền ai đó đậu dưới ánh trăng nơi bến vắng… Bốn câu thơ như diễn tả cái nhịp điệu nhẹ nhàng, chậm rãi của Huế.

    Gió theo lối gió mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

   Cái tinh tế ở đây tả làn gió thổi rất nhẹ,, không đủ cho mây bay, không đủ cho nước gợn, nhưng gió vẫn run lên nhè nhẹ cho hoa bắp lay. Tất nhiên đây phải là cảnh sông Hương chảy qua Vĩ Dạ lững lờ trôi về phía cửa Thuật. Đúng là nhịp điệu của Huế rồi.

   Hai câu tiếp theo đầy trăng. Cảnh trong kỉ niệm nên cảnh cũng chuyển theo logic của kỉ niệm. Cảnh sông Hựợng không gì thơ mộng hơn là dưới ánh trăng. Hàn Mặc Tử cũng không mê gì hơn là mê trăng. Trăng trở thành nhân vật có tính huyền thoại trong nhiều bài thơ của ông. Ánh trăng huyền ảo tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khi hư ảo, như là trong mộng:

    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay?

   Phải ở trong mộng thì sông mới có thể là sông trăng và thuyền mới có thể chở trăng về như một du khách trên sông Hương…Hình ảnh thuyền chở trăng không gì mới, nhưng sông trăng thì có lẽ là của Hàn Mặc Tử.

   Khổ thơ thứ ba nói về người xưa nơi thôn Vĩ. Nhớ cảnh không thể không nhớ người. Người phù hợp với cảnh Huế không gì hơn là những cô gái Huế. Ai làm thơ về Huế mà chẳng nhớ đến những cô gái này: (Huế đẹp và thơ của Nam Trân, Dửng dưng của Tố Hữu…).

   Những khổ thơ dường như mở đầu bằng một lời thốt ra trước một hình ảnh ai đó tuy mờ ảo nhưng có thực:

    Mơ khách đường xa khách đường xa

    Áo em trắng quả nhìn không ra.

   Mơ ảo vì khách đường xa và nhìn không ra nhưng có thực vì áo em trắng quá. Hình ảnh biết bao thân thiết nhưng cũng rất đỗi xa vời. Xa không chỉ là khoảng cách, và mối tình cũng xa vời vì vốn xưa đã gắn bó, đã hứa hẹn gì đâu. Vì thế mà ai biết tình ai có đậm đà. Ai là anh hay là em? Có lẽ là cả hai. Giữa hai người (Hàn Mặc Tử và cô gái mà nhà thơ đã từng thầm yêu trộm nhớ) là sương khói của không gian, của thời gian, của mối tình chưa có lời ước hẹn, làm sao biết được có đậm đà hay không? Lời thơ cứ bâng khuâng hư thực và gợi một nỗi buồn xót xa.

   Nhưng khổ thơ không chỉ minh họa cho mối tình cụ thể giữa nhà thơ và người bạn gái. Đặt trong dòng kỉ niệm về Huế, ta thấy hiện lên trong sương khói của đất kinh đô hình ảnh rất đặc trưng của các cô gái Huế. Những cô gái Huê thường e lệ quá, kín đáo quá nên xa vời, hư ảo quá. Những cô gái ấy khi yêu, liệu tình yêu có đậm đà chăng? Đây không phải là sự đánh giá hay trách móc ai. Tình yêu càng thiết tha, càng hay đặt ra những nghi vấn như vậy.

   Tình trong thơ bao giờ cũng là tình riêng. Nhưng tình riêng chỉ có ý nghĩa khi nói được tình của mọi người. Phép biện chứng của tình cảm nghệ sĩ là như vậy. Đối với sự tiếp nhận của người đọc, nổi lên trước hết trong khổ thơ này, cũng như trong toàn bộ bài thơ vẫn là hình ảnh thơ mộng và đáng yêu của cảnh và người xứ Huế.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 38

Nói đến Huế, ta lại nhớ về thôn Vĩ Dạ, địa danh đã khơi nguồn cho thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ “Thuần túy Huế, tinh khiết Huế” đã bộc lộ rất rõ cuộc sống con người, cảnh vật của một xứ Huế đẹp và thơ mộng.

    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

   Một thôn Vĩ Dạ với những cảnh sắc rất xinh đẹp, hấp dẫn, nên thơ, cái ảo và cái thực xen kẽ nhau trong từng hình tượng, ở đây hiện ra những gì bình dị quen thuộc của quê hương, ánh nắng hồng sớm mai và sắc xanh của lá tạo một sự hài hòa rất độc đáo cho bức tranh cảnh. Hình ảnh so sánh “xanh như ” mang tác dụng biểu cảm sâu sắc, gợi nên những hình ảnh khác nhau về thôn Vĩ Dạ. Những ngôi nhà ở Vĩ Dạ thường đừợc xây cất, bài trí hài hòa với vườn cây, trong một cấu trúc thẩm mĩ khéo léo giữa nhà và vườn. Có lẽ cảnh đẹp ấy đã tạo thành chất liệu cho ấn tượng về thôn Vĩ đẹp và nên thơ.

   Nhưng Vĩ Dạ hiện lên không chỉ đẹp ở cảnh, mà còn ở con người: khuôn mặt chữ điền ấy đã là sự biểu thị cho những gì chân chất, phúc hậu của con người xứ Huế. Hàn Mặc Tử chắc đã phải hiểu xứ Huế đến mức nào và nặng tình với nơi ấy đến làm sao mới thể hiện được sự gắn bó hài hòa giữa cảnh và người đến như vậy, nhưng đồng thời cũng làm hiện lên được tính cách kín đáo, e ấp của người dân nơi đây. Thật thú vị khi trong thơ Hàn, hai ranh giới giữa thế giới ảo và thực đã bị xóa nhòa đi:

    Gió theo lối gió, mây đường mây

    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay.

   Câu thơ duy nhất gợi nhớ đến nhịp điệu cuộc sống Huế. Cái buồn nhè nhẹ, mênh mang mênh mang cứ thấm dần vào tận đáy lòng ai và cái nét ” chẳng nơi nào có được” ấy chính là cái cũng rất đặc trưng cho Huế. Thế rồi ta không còn nhận ra được đâu là thực và đâu là ảo nữa. Vừa mới nắng đây, bây giờ ánh trăng đã tràn đầy:

    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay?

   Một dòng sông thực, một con đò thực, một bến đò thực đã chuyển hóa thành dòng sông thơ, con thuyền thơ và bến đò thơ.

   Những câu thơ như vậy thật không thể phân tích, bình luận một cách thực thà vì e rằng làm tan mất con thuyền chở trăng trên sông trăng về với bến trăng. Hàn Mặc Tử đã gửi gắm tình yêu, nỗi ngóng đợi trông chờ tình yêu vào con thuyền trăng trên bến sông trăng – một ý thơ độc đáo và tài hoa. Tình yêu ở đây nhẹ nhàng, kín đáo làm sao.

   Cảnh chiều xứ Huế hiện lên trong những câu thơ cuối cùng với hình ảnh con người xứ Huế đã bị sương khói đẩy ra xa hơn, như mơ như thực, như mờ như hiện Thiếu nữ với tà áo trắng trong phất phảng sương khói ấy trở thành cái gì đó xa vời, khó với tới, cái tình người có ở đây không mãnh liệt, nồng cháy bao nhiêu thì lại càng thi vị bấy nhiêu.

   Đây thôn Vĩ Dạ là một trong số ít những bài thơ của Hàn Mặc Tử viết về Huế với tình cảm trong sáng và sâu nặng đến như vậy. Bài thơ thể hiện dược những nét đẹp của người và cảnh xứ Huế vào những thời khắc khác nhau. Tình người và tình đời hòa quyện với thiên nhiên tạo nên một nét độc đáo dầy cảm xúc về con người thôn Vĩ Dạ của Huế mộng mơ và nên thơ.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 39

Phong trào thơ mới 1932-1945 đã để lại dấu ấn mới mẻ trong tâm trí bạn đọc, bởi những tác phẩm trong phong trào này đã đánh thức tâm trí và trái tim của những tâm hồn khát khao sống, khát khao yêu, khát khao tự giải phóng mình khỏi những ràng buộc của xã hội cũ, khỏi những định kiến mà luôn mở mang tiếp nhận cái mới. Trong số những nhà thơ mới nổi bật người ta không thể quên một Xuân Diệu luôn khát khao yêu, khát khao sống mãnh liệt, khát khao tìm kiếm thế giới đẹp đẽ ở chốn hồng trần, một Huy Cận não nề có sự hòa hợp tuyệt với giữa thơ cũ và thơ mới, một Huy thông ảo não… và trong số tất cả những nhà thơ mới mà chúng ta được gặp gỡ được học hỏi, Hàn Mặc Tử nổi bật lên là cây bút lạ lùng và độc đáo, bởi thơ của ông có sự tương giao màu nhiệm giữa hai thế giới trần tục và cõi mơ, ông Là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo dồi dào nhất trong Trường thơ loạn (gồm Yến Lan, Bích Khê, Chế Lan Viên) và phong trào Thơ mới. Chế Lan Viên gọi Hàn Mặc Tử là ngôi sao chổi trên bầu trời thơ Việt Nam. Thơ ông kì dị, đầy bí ẩn và phức tạ nhưng chứa đựng một tình yêu đau đớn với con người và cuộc sống. Trong số những sáng tác của Hàn Mặc Tử bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác mang đậm dấu ấn phong cách của ông, đồng thời thể hiện tình yêu đời mãnh liệt nhưng cũng đau đớn tột cùng trong tình yêu.

Mở đầu bài thơ tác giả viết:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc chen ngang mặt chữ điền

Tác giả mở đầu bằng một câu hỏi, nhưng đó là câu hỏi nhiều lưu luyến nhiều ẩn ý, Sao anh không về chơi thôn Vĩ?  Câu hỏi nhưng ẩn đằng sau đó là lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái đối với chàng trai, chàng trai đã quên hay không còn nhớ mình sẽ về thôn Vĩ chơi. Câu thơ tiếp theo hé lộ cho người đọc hình ảnh khu vườn thôn Vĩ, nắng hàng cau là ánh nắng buổi sáng sớm, ánh nắng ban mai ấy chiếu ngang những hàng cau khiến chúng đổ bóng thẳng tắp xuống mặt đất, trong ánh nắng buổi sáng tinh mơ ấy hiện lên khu vườn xanh mát mắt, khu vườn ấy được ví như viên ngọc bích quý giá- món quà của thiên nhiên, và ẩn hiện đằng sau khu vườn ấy là dáng hình của cô gái đang e ấp thẹn thùng sau lá trúc. Cô gái có khuôn mặt chữ điển phúc hậu khiến cho ai đi qua cũng nao lòng:

Mặt em vuông tựa chữ điền

Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài

Lòng em có đất có trời

Có câu nhân nghĩa, có lời thủy chung

Bài thơ thật đặc biệt khi mở đầu bằng hình ảnh hồn nhiên, trong trẻo khiến người đọc ấn tượng, ngỡ ngàng, tác giả sử dụng từ mướt chứ không phải mượt, từ mướt gợi sự mềm mại, có chút óng ánh của ánh nắng ban mai chiếu lên đó, với biện pháp tu từ so sánh tác giả đã ví khu vườn ấy như một viên ngọc bích đẹp đẽ giữa cuộc đời. Hình ảnh con người và thiên nhiên hòa quyện với nhau không ngừng vẽ nên một bức tranh đẹp tự nhiên và gần gũi với đời sốngPhải là một tâm hồn khát khao yêu đời, yêu cuộc sống trần thế thì Hàn Mặc Tử mới có những vần thơ xanh tươi, đẹp đẽ đến vậy. Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nhiều ẩn ức và đau khổ, nỗi đau cũng như niềm vui tác giả gửi cả vào những trang thơ, khổ thơ đầu tiên phản ánh tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống của chính tác giả, tác giả gửi cả tâm hồn mình hòa quyện vào đó. Phải chăng vì quá nhớ Huế và nhớ tấm lòng người con gái thơm thảo mà chính tác giá đã có những vần thơ ấn tượng, gợi thương nhớ trong lòng người đọc như vậy.

Tiếp nối khổ đầu tiên, khổ thử hai, Hàn Mặc Tử giãi bày:

Gió theo lối gió, mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?

Khung cảnh thiên nhiên được mở ra với hình ảnh gió và mây, hai sự vật song song với nhau không hề gặp nhau, tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa nhằm chỉ về sự chia ly, cách biệt, phải chăng trong chính tâm hồn của nhà thơ đang có sự đổ vỡ, trống rỗng chính vì vậy mà bản thân tác giả muốn tìm một nơi nương tựa cho tâm hồn mình. Tác giả sử dụng từ buồn thiu đặc tả sự cô đơn, đau khổ của chính mình, cảnh buồn người có vui đâu bao giờ, cảnh dù đẹp dù tươi nhưng lòng người đã vương buồn vương sầu thì không thể có cái nhìn lạc quan, tích cực, chính vì thế Hàn Mặc Tử đã mượn hình ảnh thiên nhiên để giãi bày chính tấm lòng mình. Thuyền và trăng là hai hình ảnh xuất hiện thường xuyên trong thơ họ Hàn, mặt trăng xuất  hiện là thời điểm Hàn Mặc Tử cảm thấy xé nát tâm can bởi căn bệnh ăn sâu vào máu, nhà thơ không thể chưa lành vết thương bên ngoài và vết thương trong tâm hồn mình, tình yêu tan vỡ, tâm hồn trống rỗng, họ Hàn gửi cả vào thơ vào hình ảnh thuyền và trăng, con thuyền cô đơn, cô độc ấy cứ thế bấp bênh nổi trôi giữa dòng đời xô đẩy cuộn xoáy. Cảnh thực mà như ảo: Dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm cho không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Con thuyền vốn có thực trên sông trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một nơi nào đó trong mơ. Con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong sự hồi tưởng của quá khứ lại gắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại. Nhà thơ muốn con thuyền chở trăng về kịp “tối nay” chứ không phải mộ tối nào khác. Phải chăng trong “tối nay”, nhà thơ có điều gì muốn tâm sự và chỉ có trăng mới hiểu được? Khổ thơ cho thấy tâm hồn nhà thơ có buồn và cô đơn, khắc khoải nhưng vẫn chan chứa tình yêu với con người và thiên nhiên xứ Huế.Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tác giả sáng tác trong thời gian làm nhân viên Sở Đạc điền Bình Định (khoảng những năm 1932 – 1933), Hàn Mặc Tử có thầm yêu Hoàng Thị Kim Cúc quê ở Vĩ Dạ nhưng sống ở Qui Nhơn. Ít lâu sau Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo, khi mắc bệnh phong, trở lại Qui Nhơn thì Kim Cúc đã theo gia đình về quê, hai người có thư từ qua lại. Một lần, Kim Cúc gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm thiếp vẽ phong cảnh Huế có hình người chèo đò trên sông Hương với lời thăm hỏi chúc thi sĩ mau bình phục. Sau đó, khoảng năm 1939, Kim Cúc nhận được bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ do Hàn Mặc Tử tặng kèm theo mấy dòng cảm tạ chân thành. Đây cũng chính là tiếng lòng, là tình yêu chân thành mà Hàn Mặc Tử muốn giãi bày, thế nhưng cuộc đời này lắm bấp bênh và gập gềnh những điều tác giả mong muốn thường không được đáp ứng, cuộc đời thi sĩ họ Hàn đấy những đắng cay,  chính vì thế tác giả càng yêu thơ thì càng làm thơ hay, khổ thơ cuối cùng của thi phẩm đã giải bãy hết những tâm tư của chính tác giả, đó cũng là điều mà tác giả muốn tâm sự cùng người đọc:


Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khỏi mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Trong đau khổ tột cùng của bế tắc con người sẽ hóa thành thơ, người bình thường trải qua đau khổ sẽ cảm thấy nhọc lòng, bi quan chán chường, huống gì một thi sĩ người luôn cảm nhận nỗi đau của toàn nhân loại sẽ thấy đau đớn biết chừng nào. Không thể thốt thành lời, không thể giãi bày cùng ai, Hàn Mặc Tử chỉ có thể mượn thơ để làm điểm tựa cho chính mình, tác giả nương mình theo những vần thơ, nương mình theo những lời tâm sự chân thành, phải chăng vì quá cô đơn, vì sợ hãi sự cô đơn và muốn trốn chạy sự cô đơn mà họ Hàn đã thảng thốt nhìn lại những gì mình đang có, đang sở hữu chỉ là hư ảo, ngỡ mình chỉ là một lãng tử, điệp ngữ “Khách đường xa”: nhấn mạnh thêm nỗi xót xa. Câu thơ đầu như lời tâm sự của nhà thơ với chính mình: Trước lời mời của cô gái thôn Vĩ, có lẽ nhà thơ chỉ là người khách. Có thể hiểu câu thơ theo hai nghĩa: Về nghĩa thực: Xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều cũng nhiều sương khói, sương khói làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của Huế nhưng sương khói đều màu trắng, “áo em” cũng màu trắng thì chỉ thấy bóng người thấp thoáng, mờ ảo. Về nghĩa bóng: cái sương khói làm mờ cả bóng người ấy phải chăng tượng trưng cho cái huyền hoặc của cuộc đời đang làm cho tình người trở nên khó hiểu, xa vời? Câu cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời. Nhà thơ sử dụng rất tài tình đại từ phiếm chỉ “ai” câu thơ trở nên đa nghĩa: Nhà thơ làm sao mà biết được tình người xứ Huế có đậm đà không hay cũng mờ ảo, dễ có chóng tan như sương khói kia? Người xứ Huế có biết chăng tình cảm nhà thơ với cảnh Huế, người Huế hết sức thắm thiết, đậm đà?  Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chỉ tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.

Đây thôn Vĩ Dạ thực sự đã để lại trong lòng người đọc về một khung cảnh nên thơ, trong trẻo, về tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống thiết tha bằng tài năng nghệ thuật của tác giả. Tuy đằng sau bài thơ vẫn có những nỗi buồn u uất nhưng chúng ta vẫn cảm nhận được nét đẹp tỏa chiết từ tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống của tác giả.


Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 40

Trong những năm 1932-1945, Văn chương Việt Nam bắt đầu chuyển mình mang hơi hướng thơ ca lãng mạn. Từ đây, xuất hiện những nhà thơ mới mang phong cách mới lạ và cái tôi riêng biệt thổi vào hồn thơ. Nếu Xuân Diệu gắn liền với chất đắm say rạo rực thì Hàn Mặc Tử được biết đến với cái điên trong thơ ca của mình. Trong thế giới điên cuồng, kì dị đó đọng lại với người yêu văn chương là những tập thơ khi ông viết về xứ Huế. Tiêu biểu và ấn tượng hơn cả là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

  Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, quê ở Phong Lộc, Đồng Hới nhưng ông lớn lên và sống chủ yếu tại Quy Nhơn. Nói về nhà thơ Hàn Mặc Tử chúng ta thường nhớ tới một bi kịch cuộc đời. Là một người thi sĩ yêu đời, yêu người đầy tài hoa nhưng đoản mệnh. Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông rất ngắn ngủi khi ông ra đi ở tuổi đời còn rất trẻ vì mắc phải căn bệnh nan y thời bấy giờ- bệnh phong.

  Bài thơ “ Đây thôn Vĩ Dạ” lấy cảm hứng từ một bức tranh của Hoàng Cúc – người con gái Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ gửi cho ông. Theo kể rằng, bài thơ được viết trong những ngày tháng cuối đời, khi ông đang điều trị bệnh phong ở trại phong Quy Hòa, ông nhận được một bưu thiếp của người con gái quê ở Vĩ Dạ - Hoàng Cúc. Trên bưu thiếp đó có hình ảnh một dòng sông, con thuyền và vầng trăng kèm với vài lời hỏi thăm. Cầm bưu thiếp trên tay Hàn Mặc Tử bỗng thốt lên “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đây cũng chính là cái cớ ông viết lên bài thơ. Người ta cho rằng đây là bài thơ nói về tình yêu của ông đối với Hoàng Cúc. Hay đó chỉ là một nguyên cớ để tác giả bộc lộ tình yêu tha thiết với đời?

            “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” 

  Bài thơ được bắt đầu bằng một câu hỏi tu từ với một nhịp thơ rất da diết. Câu hỏi này đặt ra không phải là để đi tìm đáp án, tìm câu trả lời rằng lí do tại sao không về chơi thôn Vĩ mà để bộc lộ cảm xúc của nhân vật trữ tình. Cụ thể ở đây là một lời chào mời dịu ngọt, nhẹ nhàng. Có nhiều người cho rằng đây là lời của Hoàng Cúc trách móc Hàn Mặc Tử hoặc là lời gọi mời của một cô gái nơi thôn Vĩ. Cũng có thể hiểu đây là câu hỏi mà Hàn Mặc Tử tự phân vân, tự đặt ra cho bản thân mình. Bởi nỗi đau hiện giờ của tác giả là nỗi đau số phận, bị cách ly với cuộc sống bên ngoài. “Về chơi” nghe có vẻ rất nhẹ nhàng nhưng đối với Hàn Mặc Tử là sự đau xót. Cái ông đối diện là sự cô đơn, là cái chết. Làm sao còn có thể trở về nữa? Đặt ra câu hỏi tự vấn bản thân thể hiện khát khao về cuộc sống, day dứt về số phận.               

                “Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên 

                Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

    Trong hai câu thơ trên, thi nhân đã khắc họa ra bức tranh khung cảnh thôn Vĩ Dạ vào thời điểm bình minh. Bởi bình minh mang lại cho con người cảm giác yên bình, mới mẻ, thanh khiết khi bao trùm ánh nắng sớm dịu dàng lên mọi cảnh vật. Thơ mới, chất liệu thờ cúng mời, ông chọn hàng cau là cây cao nhất trong vườn để làm thước đo ánh nắng tự nhiên. “Nắng mới lên” hình ảnh nắng tinh khiết, rất đẹp và rất mới lạ trong văn chương bấy giờ. Từ “mướt” diễn tả một sắc xanh mượt mà, non tươi và tràn đầy sức sống, màu xanh ấy như là màu xanh của ngọc, một màu xanh vừa có hình vừa có ánh. Hình là sự trắng, trong suốt ánh là ánh long lanh, tinh khiết. Kết hợp với phó từ chỉ mức độ “quá” thể hiện sự ngạc nhiên, sự ngưỡng mộ trước khung cảnh thôn Vĩ. Tuy nhiên, đây không còn là thôn Vĩ ngoài đời thực nữa mà là bức tranh trong ký ức, trong nỗi nhớ của thi sĩ. Trong hoàn cảnh phải cách biệt với cuộc sống bên ngoài, Hàn Mặc Tử không thể “về chơi” thôn Vĩ nữa. Nhưng bằng hình ảnh mà Hoàng Cúc gửi cho mình, ông sắp xếp lại ký ức để một lần nữa tâm hồn của mình trở về với thôn Vĩ thân yêu.
Kết thúc khổ thơ đầu với một hình ảnh thơ vô cùng độc đáo: 

               “ Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

  Hàn Mặc Tử đã có vài lần đến thăm thôn Vĩ Dạ và trong ông đọng lại những xúc cảm sâu sắc về vùng đất này. Tác giả muốn truyền tải tới chúng ta không chỉ vẻ đẹp thiên nhiên nơi đất thôn Vĩ mà còn là vẻ đẹp của con người nơi đây. Cảnh và người giao hòa nên thơ nên tình. Người ta thường tìm cách lý giải rằng “mặt chữ điền” là khuôn mặt của ai? Khuôn mặt của Hoàng Cúc- người ông có mối tình đơn phương hay khuôn mặt của cô gái thôn Vĩ nào đó hay chính là khuôn mặt của Hàn Mặc Tử?  Đây là một hình ảnh tượng trưng. Đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử rất khó để cắt nghĩa, để lý giải. Có thể hiểu đơn giản rằng, khi ta nhắc tới “mặt chữ điền” sẽ hình dung ra khuôn mặt vuông vắn, đầy đặn và phúc hậu. Như vậy, nhà thơ muốn nhấn mạnh một điều, xứ Huế không chỉ đẹp bởi cảnh mà còn đẹp bởi người. Cảnh thì tinh khôi, trong sáng người thì hiền lành, phúc hậu. Đó là vẻ đẹp của những tâm hồn bình dị, chất chứa nhiều sâu sắc.

                “ Gió theo lối gió, mây đường mây
                  Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
                 
  Nhắc đến Huế, những người đã từng ghé chân qua nơi đây chắc hẳn sẽ không quên dòng chảy của sông Hương. Sông Hương không đơn giản chỉ là một con sông mà là trái tim là tâm hồn của Huế đã đi vào không biết bao nhiêu dòng văn dòng thơ của các nghệ sĩ tài hoa. Nhưng ở đây, tất cả sự vật hiện tượng đều nhuốm màu buồn của mây gió. “ Gió theo lối gió, mây đường mây”, cách sử dụng từ ngữ rất mới, rất hay. Gió khép mình trong hai chữ “gió”, mây thu mình trong hai chữ “mây”. Nhịp thơ 4/3 như chặt đôi câu thơ, chặt đôi hai hình ảnh. Câu thơ vốn có lý trở nên vô lý, đi ngược lại với tự nhiên. Bởi gió mây là hai hình ảnh thường đi cạnh nhau “gió cuốn mây trôi”. Tác giả nhìn thấy sự tan tác, chia rẽ trong những vật không thể chia rẽ, đó là một nỗi u uất lớn, nỗi ám ảnh phải chia lìa cuộc đời. Động từ “láy” chỉ trạng thái trung lập, không vui không buồn nhưng đặt trong tâm trạng của khổ thơ lại mang một nỗi buồn man mác, hiu hắt.

                  Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
                  Có chở trăng về kịp tối nay?”

  Trong tâm trạng đau đớn đó, Hàn Mặc Tử mang cho mình những mong đợi qua hình ảnh: thuyền, sông trăng, thuyền chở trăng. Ông mong chờ điều gì? Đang phải đối mặt với nỗi đau thể xác, nỗi đau bệnh tật, ám ảnh về cái chết và một tâm hồn tổn thương sâu sắc, day dứt cuộc đời, bị giam cầm bởi nỗi cô đơn thì thái tử muốn tìm cho mình một người tri kỷ. Người bạn tri âm, tri kỉ ở đây không ai khác chính là hình ảnh “trăng”. Điều này đã trở nên quá quen thuộc với người đọc yêu văn chương. Ta tìm thấy, trăng trong thơ Xuân Diệu, trăng trong Truyện Kiều… và xuyên suốt các tập thơ của Hàn Mặc Tử. Ông hỏi gió hỏi mây, hỏi chính mình. Ông cố tìm kiếm cho mình một người thấu hiểu, một người tri kỉ trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời. “Kịp” như nỗi ám ảnh về thời gian. Không biết rằng còn có ai có thể chia sẻ với nỗi đau thân phận của Hàn Mặc Tử? Liệu có ai hiểu được nỗi lòng của thi nhân?

Khổ thơ cuối:

                  “ Mơ khách đường xa, khách đường xa
                  Áo em trắng quá nhìn không ra”

  “Mơ” thể hiện nỗi khao khát, mong đợi của nhà thơ về một giấc mơ đẹp nhưng thương thay nó lại không có thật. Điệp từ “Khách đường xa” có thể hiểu là người thi nhân, ông mơ mình đường xa được một lần về thăm thôn Vĩ. Hay là sự mong mỏi người khác từ phương xa đến hỏi thăm mình, có thể là người bạn tri kỷ cũng có thể là Hoàng Cúc – mối tình đơn phương của ông. Sắc áo trắng được tác giả đề cập đến như lột tả dáng vẻ thuần khiết, dịu dàng của một người con gái. Hình ảnh người con gái ở đây cũng trở nên rất trừu tượng, không ai hiểu chính xác người mà Hàn Mặc Tử muốn đề cập tới. Nhưng có lẽ dù là ai đi chăng nữa thì đều là trong hư ảo. “Nhìn không ra” không phải áo trắng quá mà không thể nhìn rõ, ở đây tác giả muốn thể hiện tất cả đều ở trong một nỗi tuyệt vọng, dù ông mong đợi nhưng hiện thực không thể với tới.

                  “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
                  Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong sự ảo ảnh, mơ hồ, không biết đâu là thực đâu là hư “sương khói mờ nhân ảnh” nhà thơ đặt ra một câu hỏi lắng đọng kết thúc bài thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” . Tuy đã quá đau đớn, tuyệt vọng  nhưng trong Hàn Mặc Tử vẫn luôn tồn tại một tình yêu tha thiết mãnh liệt. Ông yêu cuộc sống và yêu người. Cho đến những ngày cuối của cuộc đời, tồn tại trong ông là khát vọng được sống và được yêu. Đại từ phiếm chỉ “ai” như một hệ vi mạch xuyên suốt bài thơ, làm cho ý thơ chặt chẽ và thể hiện tâm tư của nhà thơ.
 
  Bài thơ sử dụng nhuần nhuyễn các nghệ thuật như biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp từ và đặc biệt là sự thành công của những câu hỏi tu từ diễn tả hết được nỗi lòng chênh vênh của tác giả. Đồng thời mang chất liệu thơ mới, phong cách siêu thực, tượng trưng trong thơ ca Hàn Mặc Tử. Truyền tải được tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình mang lại sự đồng điệu, cảm thông và ấn tượng sâu sắc.

  Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” trước tiên ta cảm nhận được vẻ đẹp của miền quê thôn Vĩ. Thông qua việc khắc họa thành công vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ trong hai sắc thái, hai thời điểm là bình minh và đêm trăng, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã bộc lộ tình yêu đối với một miền quê của của đất nước, đối với thôn Vĩ hài hòa dịu dàng, đối với con người xứ Huế. Đồng thời bộc lộ khát khao hòa nhập với cuộc đời, dù đau đớn, dày vò bởi nỗi đau bệnh tật, bởi sự cô đơn trong những năm tháng cuối cùng, nhà thơ vẫn hướng về cuộc đời bằng một tình yêu sâu thẳm, da diết và đậm đà. 

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 41

Khổ thơ cuối:

                  “ Mơ khách đường xa, khách đường xa
                  Áo em trắng quá nhìn không ra”

  “Mơ” thể hiện nỗi khao khát, mong đợi của nhà thơ về một giấc mơ đẹp nhưng thương thay nó lại không có thật. Điệp từ “Khách đường xa” có thể hiểu là người thi nhân, ông mơ mình đường xa được một lần về thăm thôn Vĩ. Hay là sự mong mỏi người khác từ phương xa đến hỏi thăm mình, có thể là người bạn tri kỷ cũng có thể là Hoàng Cúc – mối tình đơn phương của ông. Sắc áo trắng được tác giả đề cập đến như lột tả dáng vẻ thuần khiết, dịu dàng của một người con gái. Hình ảnh người con gái ở đây cũng trở nên rất trừu tượng, không ai hiểu chính xác người mà Hàn Mặc Tử muốn đề cập tới. Nhưng có lẽ dù là ai đi chăng nữa thì đều là trong hư ảo. “Nhìn không ra” không phải áo trắng quá mà không thể nhìn rõ, ở đây tác giả muốn thể hiện tất cả đều ở trong một nỗi tuyệt vọng, dù ông mong đợi nhưng hiện thực không thể với tới.

                  “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
                  Ai biết tình ai có đậm đà?”

Trong sự ảo ảnh, mơ hồ, không biết đâu là thực đâu là hư “sương khói mờ nhân ảnh” nhà thơ đặt ra một câu hỏi lắng đọng kết thúc bài thơ “Ai biết tình ai có đậm đà?” . Tuy đã quá đau đớn, tuyệt vọng  nhưng trong Hàn Mặc Tử vẫn luôn tồn tại một tình yêu tha thiết mãnh liệt. Ông yêu cuộc sống và yêu người. Cho đến những ngày cuối của cuộc đời, tồn tại trong ông là khát vọng được sống và được yêu. Đại từ phiếm chỉ “ai” như một hệ vi mạch xuyên suốt bài thơ, làm cho ý thơ chặt chẽ và thể hiện tâm tư của nhà thơ.
 
  Bài thơ sử dụng nhuần nhuyễn các nghệ thuật như biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp từ và đặc biệt là sự thành công của những câu hỏi tu từ diễn tả hết được nỗi lòng chênh vênh của tác giả. Đồng thời mang chất liệu thơ mới, phong cách siêu thực, tượng trưng trong thơ ca Hàn Mặc Tử. Truyền tải được tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình mang lại sự đồng điệu, cảm thông và ấn tượng sâu sắc.

  Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” trước tiên ta cảm nhận được vẻ đẹp của miền quê thôn Vĩ. Thông qua việc khắc họa thành công vẻ đẹp của thôn Vĩ Dạ trong hai sắc thái, hai thời điểm là bình minh và đêm trăng, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã bộc lộ tình yêu đối với một miền quê của của đất nước, đối với thôn Vĩ hài hòa dịu dàng, đối với con người xứ Huế. Đồng thời bộc lộ khát khao hòa nhập với cuộc đời, dù đau đớn, dày vò bởi nỗi đau bệnh tật, bởi sự cô đơn trong những năm tháng cuối cùng, nhà thơ vẫn hướng về cuộc đời bằng một tình yêu sâu thẳm, da diết và đậm đà. 

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 42

Nếu nhà thơ Xuân Diệu được nhận xét là “Nhà thơ Mới nhất trong các nhà thơ Mới”, Huy Cận được gọi là “Nhà thơ Cổ điển nhất trong các nhà thơ Mới”, thì Hàn Mặc Tử lại được mệnh danh là “Nhà thơ Lạ nhất trong các nhà thơ Mới”. Có thể nói, Hàn Mặc Tử là một hiện tượng thơ vô cùng đặc biệt trong văn đàn Việt Nam, và điều đó đã được thể hiện thông qua Đây thôn Vĩ Dạ - thi phẩm chất chứa những nỗi lòng của nhà thơ. 

Hàn Mặc Tử có một số phận đau thương và bất hạnh đến nghiệt ngã. Cha mất sớm, ông ở với mẹ tại Quy Nhơn. Năm 24 tuổi (1936), ông mắc bệnh phong, về hẳn Quy Nhơn để chữa trị. Ông mất khi tuổi đời còn rất trẻ: chỉ 28 tuổi (1940). Những nghiệt ngã của số phận đã ảnh hưởng rất lớn đến hồn thơ của ông. Hàn Mặc Tử là nhà thơ có hồn thơ mãnh liệt, gắn bó tha thiết với cuộc đời. Ông được đánh giá là một trong ba đỉnh cao của Thơ Mới. 

Khi ông đang trên đà phát triển sự nghiệp thì lại phát hiện ra mình bị mắc bệnh phong. Khi nghe tin, Hoàng Thị Kim Cúc - một người ông từng đơn phương - đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm bưu thiếp có hình thôn Vĩ Dạ. Có thể nói, tấm bưu thiếp và những lời thăm hỏi của bà đã gợi nên cảm hứng để nhà thơ viết Đây thôn Vĩ Dạ, thể hiện tình yêu cuộc sống của mình, tâm trạng của mình trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh. Tuy nhiên, khi tìm hiểu bài thơ này, ta không nên xoáy sâu vào mối tình đơn phương của nhà thơ mà chỉ xem đó là duyên cớ để nhà thơ bày tỏ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống và con người.

Khổ 1 của bài thơ hiện ra với bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ lúc ban mai. Mở đầu bài thơ là câu hỏi:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi tu từ kết hợp với cách gieo vần bằng một loạt thanh bằng, vừa như lời trách móc, hờn dỗi, vừa như lời mời gọi tha thiết của người con gái thôn Vĩ dành cho chàng trai. Nhưng đó cũng có thể là lời tự vấn bản thân vì sao lại không về thăm thôn Vĩ. Dù là cách hiểu nào đi nữa, thì đó cũng là ao ước thầm kín, là niềm khao khát được trở về thôn Vĩ, được thăm lại cảnh cũ, người xưa. Cảnh thôn Vĩ được hiện ra theo dòng tâm tưởng của nhà thơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Điệp từ “nắng” và hình ảnh “nắng mới lên” gợi lên sắc nắng ấm áp, trong trẻo, tinh khôi. Nhà thơ đã sử dụng từ “mướt” và tình thái từ “quá” để như một lời ngưỡng vọng, mê say cho khu vườn mượt mà, óng ánh. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ như lời cảm thán, khu vườn này là của ai, hẳn nhà thơ cũng không còn nhớ nữa, chỉ nhớ rằng khu vườn ấy đẹp quá, nắng treo cao rọi xuống cây cu, len lỏi lên từng ngõ ngách trong khu vườn, làm nên một bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp. Vườn thôn Vĩ lúc này như một viên ngọc rời rợi sắc xanh, tỏa ánh sáng ban mai. Một bóng hình đẹp bỗng xuất hiện:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mặt chữ điền là mặt của ai? Đó là mặt của người dân thôn Vĩ, gương mặt của cô gái trong tâm tưởng, hay là khuôn mặt của chính tác giả? Tự tác giả đã phân thân để trở về với khu vườn chăng? Dù là cách hiểu nào đi nữa, đó cũng là biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành. Gương mặt ấy còn được “lá trúc che ngang”, lá trúc mảnh mai, gợi nét đẹp kín đáo, dịu dàng của con người xứ Huế. Câu thơ giàu chất tạo hình, đó là sự hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên xứ Huế và bóng hình của con người trong vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai, với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cõi thực. Thông qua bức tranh thiên nhiên, tác giả như bộc lộ niềm khát khao gặp gỡ, hòa cảm với cái đẹp nơi trần thế.

Từ bức tranh ban mai tinh khôi trong khổ 1, tác giả đã chuyển hướng điểm nhìn sang bức tranh sông nước thôn Vĩ trong đêm trăng. Điểm nhìn đã thay đổi từ ban mai sang đêm tối, từ cảnh vườn thôn đến sông trăng, từ khung cảnh hiện thực sang không khí hư hư thực thực đầy huyền ảo. Sự chia lìa li tán được gợi lên qua cả hình ảnh và nhịp điệu:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Hình ảnh “gió theo lối gió, mây đường mây” là một sự tách rời phi lí và ngang trái. Tác giả đã nhìn nhận không phải bằng cái nhìn thị giác mà bằng mặc cảm chia lìa. Tác giả còn nhân hóa dòng nước để nhấn mạnh nỗi buồn, bên cạnh sự phiêu tán, ra đi, lưu luyến vô vọng. Chủ thể trữ tình dường như cảm thức được thân phận bị bỏ rơi bên bờ quên lãng. Ngoài ra, nhịp điệu cũng trở nên khác thường khi sử dụng nhịp 4/3. Mỗi đối tượng bị cách li trong một khuôn nhịp riêng biệt, làm nổi bật sự lìa xa. Hình ảnh và nhịp điệu quyện vào nhau khiến cho cuộc chia lìa gió mây càng sắc nét, gây nên cảm xúc đau buồn. Tác giả phải thốt lên:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Từ “kịp” như đang phân cách đôi bờ, như một sự hoảng sợ về những phút giây cuối cùng còn tồn tại trong cuộc đời. Từ “tối nay” như là hiện thực nghiệt ngã. Mặc cảm chia lìa đã thấm đẫm vào vạn vật. Nhưng dường như khao khát níu giữ của nhà thơ vẫn còn tồn tại, bởi chỉ một mình trăng là đi ngược lại xu thế chảy đi của những “mây”, “gió”..., từ “kịp” thì mang cảm giác phấp phỏng, lo âu, khát khao được gắn bó, được níu giữ. Đó là niềm thiết tha gắn bó đầy đau thương, mãnh liệt mà vô vọng.

Bức tranh tâm trạng của tác giả hiện ra thông qua khổ 3:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Tác giả dường như đang rơi vào trạng thái vô thức, chìm vào cõi mộng. Điệp từ “khách đường xa” nhằm nhấn mạnh nỗi xót xa của nhà thơ, một hình bóng đẹp nhưng xa vời đến nỗi không thể nào gặp được. Ở đây, tác giả đã cực tả sắc trắng, trắng đến một cách kì lạ và bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực nữa, mà là màu của tâm tưởng. 

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

“Ở đây” dường như là hiện thực, là trại phong, nơi tác giả bị cách li với thế giới bên ngoài. Lớp từ “sương khói”, “mờ” đã nhấn mạnh sự nhạt nhòa, hư ảo, hư thực vì đó là giấc mộng của tác giả, mong được liên kết với cuộc đời nhưng không thể. Đó là bi kịch hiện thực, dường như nhà thơ đang bị lưu đày, cách xa thế giới ngoài kia. Đại từ phiếm chỉ “ai” lặp lại hai lần như tiếng gọi tha thiết đầy khát vọng nhưng “khách đường xa” cứ chập chờn rồi khuất bóng. Câu hỏi tu từ mang một tâm trạng đau khổ vì cô đơn, hoài nghi. Đó là tâm hồn đang khao khát được yêu, khao khát sự đồng điệu, đồng cảm. 

Đây thôn Vĩ Dạ không chỉ xuất sắc về mặt nội dung, mà còn thể hiện được sự tài hoa của Hàn Mặc Tử thông qua nghệ thuật của tác phẩm. Hình ảnh thơ vô cùng độc đáo, gợi cảm. Ngôn ngữ thơ trong sáng, tinh tế, giàu liên tưởng. Âm điệu, nhịp thơ thì tinh tế, thiết tha. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật liên tưởng, biện pháp so sánh, nhân hóa, hoán dụ. Âm điệu hỏi bao trùm bài thơ, mang lại sự ám ảnh và tha thiết của một hồn thơ đầy khát khao với cuộc đời.

Để kết thúc bài viết này, xin mượn lời của nhà thơ Chế Lan Viên để nói lên sự tài hoa của Hàn Mặc Tử: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình. Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc Tử.”

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 43

Bài thơ về xứ Huế mộng mơ Đây thôn Vĩ Dạ đã để lại cho ta biết bao hoài niệm đẹp về phong cảnh hữu tình xứ Huế, con người Huế và đặc biệt hơn là sự lãng mạn của một đời thơ, một đời người - Hàn Mặc Tử.

Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt,
Khép phòng đốt nến, nến rơi châu...

Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? “Trăng nằm sóng soài trên cành liễu - Đợi gió đông về để lả lơi...” (Bẽn lẽn) - Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, bến trăng... Cả một trời trăng ảo mộng, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 - 1941). Với 28 tuổi đời (1922 - 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ (Mùa xuân chín), về Huế đẹp và thơ (Đây thôn Vĩ Dạ) như Hàn Mặc Tử.

Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ điên xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu - tình yêu thơ mộng đắm say, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu “dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao thương nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?

Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: “Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông “mướt quá” một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hoà, con người cần cù chăm bón mới có “màu xanh ngọc” ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về mùa xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá...” (Thơ duyên). Hai chữ “vườn ai” đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với vườn xuân: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn mới đẹp. Mặt chữ điền, gương mặt đầy đặn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như toả bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:

Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý nhị và thơ ngây.
(Mùa xuân chín)

Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng mới, tả vườn xuân, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc... mặt chữ điền). Cảnh và người nơi thôn Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

Vĩ Dạ - một làng quê nằm bên bờ sông Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đấy thường dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, hài hoà và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng man mác. “Hoa bắp lay” nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đò mộng nằm trên bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: “Gió trăng chứa một thuyền đầy”. Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo “Đây thôn Vĩ Dạ” là những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ làm ta rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn.

Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Những nàng thiếu nữ sông Hương - Da thơm là phấn, má hường là son”... Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sương khói làm nhoà đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi không ra hình dáng em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa, thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng ôm ấp mối tình với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này?

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

“Mơ khách đường xa, khách đường xa... ai biết... ai có”, các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình tình nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn bệnh tật.

Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ “ai” xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” - “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” - “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhoà và mờ đi cùng sương khói?

Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ... bao hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và màu trắng của áo em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 44

Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ do thi sĩ Hàn Mặc Tử (1912-1940) sáng tác vào khoảng năm 1938, in lần đầu trong tập Thơ Điên (về sau đổi tên thành Đau thương).Hiện nay, bài thơ này được nhiều người cho là một kiệt tác của Hàn Mặc Tử và cũng là một trong những thi phẩm xuất sắc của thơ Việt Nam hiện đại.

Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở thôn Vĩ Dạ .

GS. Nguyễn Đăng Mạnh cho biết: Hồi làm nhân viên ở sở đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có thầm yêu trộm nhớ đơn phương một cô gái người Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì cô gái đã theo gia đình về Vĩ Dạ (Huế). Một buổi kia, cô Cúc do sự gợi ý của một người em thúc bá, bạn của Hàn Mặc Tử, gửi vào cho nhà thơ một tấm bưu ảnh chụp một phong cảnh sông nước có thuyền và bến, kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đã mắc hiểm nghèo (bệnh phong).

Lời thăm hỏi không ký tên, nhưng bức ảnh và những dòng chữ kia đã kích thích trí tưởng tượng, cảm hứng, và đã gợi dậy những gì thầm kín xa xưa của Hàn Mặc Tử…

Theo Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ Hàn Mặc Tử, thì: Năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc…

Lưu ý :Những thông tin trên chỉ mang tính tham khảo, là chìa khóa để chúng ta hiểu bài thơ. Khi phân tích các em không nên áp đặt. Từ ngữ, hình ảnh thơ, biện pháp tu từ trong bài thơ,… mới là căn cứ chính xác để hiểu bài thơ này .

Bài thơ có ba khổ. Khổ thứ nhất tả vẻ đẹp của vườn cây thôn Vĩ và thi sĩ gửi gắm ước mong một ngày nào đó được trở về thăm cảnh cũ người xưa.

Khổ thứ hai tả cảnh sông nước đêm trăng huyền ảo: gió, mây, dòng nước, hoa bắp tay… trong không gian quạnh vắng, đìu hiu. Nét thực nét ảo cứ chập chờn chuyển hóa. Khung cảnh thấm đẫm nỗi buồn thương, giống như tâm trạng đang chới với, lo âu, nghẹn ngào của thi sĩ trước linh cảm tan vỡ, chia lìa của tình yêu. Khổ thứ ba nói về hình ảnh khách đường xa và chốn sương khói mông lung, cảnh chìm trong mộng ảo. Dẫu có hình ảnh của khách đường xa, áo trắng… nhưng tất cả đều nhạt nhòa, vô định như một mối tình vừa mới định hình đã vội hóa thành hư vô, đọng lại trong lòng người một nỗi hoài nghi, hi vọng.

Âm điệu chủ đạo của bài thơ dựa trên ba câu tự vấn đầy băn khoăn, khắc khoải. Câu hỏi thứ nhất: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? mang nhiều sắc thái như: vừa hỏi han, vừa hờn trách, vừa nhắc nhở, vừa mời mọc. Tác giả đang phân vân tự hỏi về một việc đáng ra phải làm từ lâu mà giờ đây không biết có còn cơ hội để thực hiện nữa không. Đó là về lại thôn Vĩ, nơi mình từng lui tới hồi còn là học sinh trường Pellerin ở Huế. Sự phân vân và những sắc thái tâm trạng khác nhau đan xen trong cùng một câu hỏi cho ta thấy nỗi ước ao trở về thôn Vĩ vừa mãnh liệt vừa u uẩn, không dễ gì bày tỏ. Nghĩa là ao ước đấy, song cũng đầy mặc cảm về khả năng thực hiện ao ước của mình.

Câu hỏi thứ hai: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, Có chở trăng về kịp tối nay ? thể hiện sự băn khoăn, khắc khoải và hi vọng mong manh trong tâm trạng thi sĩ.

Câu hỏi thứ ba: Ai biết tình ai có đậm đà? chất chứa một mối hoài nghi.

Tâm trạng của thi sĩ diễn biến theo chiều hướng: ao ước đắm say – hoài vọng phấp phỏng – mơ tưởng hoài nghi. Càng về sau càng có phần u uẩn và sầu muộn. Đó là những cung bậc khác nhau của một mối tình vô vọng. Tuy nhiên, đằng sau mối tình ấy vẫn là một niềm thiết tha gắn bó với đời. Những câu hỏi này là hình thức để nhà thơ tỏ bày tâm trạng. Âm điệu bài thơ càng về sau càng da diết, sâu lắng và nhờ đó mà ba khổ thơ tưởng như tách biệt lại liên kết với nhau một cách tự nhiên, tạo thành một bài thơ hoàn chỉnh có vẻ đẹp khác thường.

Câu thơ mở đầu: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? chứa đựng nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau. Nó có thể là lời mời mọc dưới dạng hờn trách nhẹ nhàng, rất đáng yêu của một cô gái Huế. Nếu vậy thì phải nghe câu thơ ấy cất lên bằng chính cái giọng Huế ấm áp, ngân nga, ta mới cảm nhận được hết vị dịu ngọt đến nao lòng của nó. Hiểu cách khác, nó là một câu hỏi tu từ. Nhà thơ lòng tự hỏi lòng: Liệu có còn dịp nào mình được về thăm thôn Vĩ mảnh đất gắn bó với bao kỉ niệm dấu yêu của mối tình đầu? Tự hỏi cũng là để nhắc nhỏ mình và kín đáo lồng vào trong đó nỗi khát khao, nhung nhớ.
Ba câu sau tả vẻ đẹp vườn cây thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Bức tranh chỉ đơn sơ vài nét chấm phá nhưng sinh động và đặc sắc vô cùng! Đây là cảnh hiện ra trong cõi nhớ nên vẻ đẹp của nó trở nên lung linh gấp bội. Mỗi câu thơ tả một cảnh vườn. Ánh nắng ban mai trong trẻo, tinh khiết phơn phớt hồng trên những tán cau xanh cao vút, in dáng trên nền trời buổi bình minh. Thi sĩ miêu tả hàng cau trước nhất bởi đó là hình ảnh nổi bật, là điểm nhấn của bức tranh phong cảnh rất ấn tượng. Tưởng như hàng cau kia đang thay ai ngóng đợi người về. Hình ảnh hàng cau gợi trong ta một nỗi niềm làng mạc, quê hương sâu sắc.

Câu thơ tiếp theo thề hiện cảm xúc ngỡ ngàng và thán phục của nhà thơ trước vẻ đẹp tràn đầy sức sống của khu vườn: vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Đây cũng là lời nhận xét chân tình thốt lên tự đáy lòng thi sĩ. Thi sĩ không tả cụ thể cảnh vườn mà chỉ nhắc tới sắc xanh của lá. Mướt là màu xanh mỡ màng, non tươi, phơi phới xuân thì, nhìn mát mắt và mát tận tâm hồn. Từ quá chỉ mức độ làm tăng thêm khả năng gợi tả của câu thơ. Cái sắc nắng mới lên rọi xuống những vòm lá còn ướt sương đêm khiến cho màu xanh của lá ánh lên như ngọc. Vườn cây thôn Vĩ như một viên ngọc bích khổng lồ rời rợi sắc xanh, tỏa vào không gian và lòng người cái sắc màu quyến rũ lạ lùng! Tất cả đều rạo rực, tràn đầy sức sống. Tưởng chừng như nghe thấy được cả tiếng của nhựa sống đang chuyển lên cành tơ, lá nõn. Trước cảnh thiên nhiên tuyệt vời ấy, tâm hồn con người cũng rạo rực, vui tươi.

Câu thơ thứ tư là nét vẽ thân tình tô đậm vẻ e ấp, dịu dàng rất đáng yêu của người con gái Huế: Lá trúc che ngang mặt chữ điền. Thấp thoáng sau lá trúc là khuôn mặt chữ điền phúc hậu. ở đây, ta thấy sự tinh tế của ngòi bút Hàn Mặc Tử khi tả cảnh, tả người: Lá trúc che ngang làm tăng thêm vẻ duyên dáng của gương mặt chữ điền. Với câu thơ này, Hàn Mặc Tử đã thể hiện được thần thái của thôn Vĩ: cảnh tươi đẹp và con người duyên dáng. Thiên nhiên và con người hài hòa với nhau tạo thành vẻ đẹp đặc trưng của Huế.

Bức tranh thôn Vĩ tuyệt đẹp đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng thi sĩ. Trên cái nền phong cảnh đầy hương sắc ấy có một cuộc hội ngộ tuy không nói ra mà niềm vui như thấm vào vạn vật. Thoảng đâu đây tiếng thì thầm mơ hồ xao xuyến của tình yêu.

Khổ thơ thứ hai vẫn tiếp tục tả cảnh nhưng hầu như không ăn nhập gì với khung cảnh tươi vui ở khổ thơ đầu. Cảm xúc thơ chợt lắng xuống, đượm buồn. Linh cảm chia lìa hiện ra trong từng câu, từng chữ và từng hình ảnh:

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Thông thường thì gió thổi, mây bay theo cùng một hướng. Còn ở đây, gió, mây đôi ngả. Gió ở cây lá, còn mây lãng đãng tận trên cao. Ngẫu nhiên chăng hay dụng ý? Câu thơ ngắt làm đôi. Gió đóng khung trong gió (Gió theo lối gió), mây cuộn trong mây (mây đường mây). Mạch thơ chợt như đứt đoạn. Có cái gì đó xót xa, nghẹn ngào, hụt hẫng trong cảm xúc của nhà thơ.

Ở Vĩ Dạ, bước ra sau vườn đã là bến nước với dăm ba bậc dẫn xuống sông. Dòng nước sông Hương lặng lẽ, im lìm, buồn thiu như không muốn trôi. Hoa bắp (ngô) vật vờ, lắt lay trong gió nhẹ. Đâu đâu cũng đượm một nỗi buồn.

Khung cảnh thật vậy chăng? Đúng vậy! Trên kia thật mà ở đây cũng thật, bởi tươi tắn hay ủ ê cũng đều là Huế cả. vườn tươi sớm mai, sông ủ buổi chiều. Nỗi buồn phơn phớt, nhè nhẹ mà thấm tận đáy lòng. Nét trầm tư không nơi nào có được ấy là đặc trưng của Huế. Bức tranh phong cảnh thứ hai này có đủ gió thổi, mây bay, dòng nước trôi, hoa bắp lay… mà sao vắng lặng đến lạnh lùng. Đường như tất cả đang phai nhạt dần sự sống, đang bị vây bọc trong một mối sầu thương. Sự ngang trái, trớ trêu ẩn chứa trong cảnh vật hay vui buồn là do con mắt nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ? Nỗi buồn của thiên nhiên có liên quan gì đến nỗi buồn của con người hay không?

Trở lại mối tình của thi sĩ với cô gái thôn Vĩ Dạ. Mối tình ấy tuy đẹp đẽ nhưng vô vọng. Duyên kiếp của đôi trai gái này là duyên kiếp lỡ làng, không thể chung đôi, chung đời được. Vì vậy nỗi buồn trong lòng người như lan cả vào cỏ cây, mây nước; khiến cho dòng nước buồn thiu và hoa bắp cũng vật vờ, lay lắt, lảo đảo bên dòng nước im lìm. Dòng nước buồn thiu tự mang trong lòng một tâm trạng buồn hay nỗi sầu li tán, chia phôi của gió với mây đã lây buồn tới dòng sông?!

Lạ nhất là động từ lay vốn là một từ tả thực không mang ý nghĩa vui hay buồn, vậy mà sao đặt vào trong câu thơ này, nó lại gợi cảm xúc buồn đến vậy? Nó phụ họa với nỗi buồn chia cắt của gió, mây, của dòng nước buồn thiu như chẳng còn sức sống.

Trong cái xu thế đang chảy trôi, chia lìa mỗi lúc mỗi xa ấy, thi sĩ chợt ước ao có được một thứ ngược dòng về với mình, đó là trăng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Nhà thơ nhìn thấy hay hình dung trong kí ức cảnh những con thuyền khoan thai, bồng bềnh trên mặt nước sông Hương lấp lánh ánh trăng ?! Sự phân vân đoán định trong từ nghi vấn thuyền ai càng làm tăng thêm vẻ mơ hồ, huyển ảo cho cảnh vật và đặc tả một hồn thơ đang rung động mãnh liệt trước vẻ đẹp hữu tình của Huế.

Nhà thơ ao ước thuyền chở trăng về như mong một tri âm tri ki đến với mình. Dòng nước hóa thành dòng trăng hay ánh trăng đang tan ra thành nước?! Thuyền chở trăng về cập bến thời gian huyền ảo. Song, đó chi là bề nổi của ý thơ. Có một chữ tâu nay bị bỏ quên bởi lẽ nó khiêm nhường, không cầu kì hoa mĩ nhưng lại mang nhiều sắc thái tu từ, ấy là chữ lập. Chữ kịp chứa đựng bi kịch của tâm hồn thi sĩ. Nó phản ánh tâm trạng khắc khoải đợi trông cùng chút hi vọng mong manh của nhà thơ đang chơi vơi trên bờ vực của đau thương, tuyệt vọng. Chữ kịp cho ta thấy cảm nhận của thi sĩ về hiện tại ngắn ngủi và hé mở một khao khát sống cháy bỏng, muốn giao hòa, chia sẻ tâm sự với mọi người. Thi sĩ muốn níu kéo sự sống và chạy đua với thời gian.

Thuyền em đang đậu ở bến sông trăng như đời em sáng láng đầy xuân tươi, có chở trăng về kịp tối nay cho lòng anh vui lên một chút! Nỗi ước mong thầm lặng mà tha thiết. Tha thiết mà mong manh. Càng mong manh lại càng tha thiết.

Thuyền đậu, thuyền đi trên sông Hương trong đêm trăng là chuyện bình thường, nhưng bến sông trăng thì chi có trong thơ Hàn Mặc Tử. Thuyền chở trăng về kịp tối nay thì cuộc hẹn hò sẽ trọn vẹn. Có rượu, có trăng, có những người yêu nhau thì đời đẹp biết bao! Bù lại cảnh tượng ngăn cách, buồn bã ở hai câu trên, đây là hi vọng của cuộc gặp gỡ hòa hợp mát lành, cho dù hi vọng ấy cũng chẳng khác chi sương khói.

Có chở trăng về kịp tối nay là câu thơ của cõi mộng. Đến đây, nhà thơ không nhìn ra cảnh vật nữa mà nhìn vào chính lòng mình. Quỹ thời gian đang vơi đi từng ngày, từng khắc, cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Thi sĩ rơi vào cõi đau thương, tuyệt vọng.

Bốn câu thơ khổ này là bức tranh tâm cảnh. Gió, mây chia đường, bạn tình rẽ đôi. Buồn đến cả dòng sông, ngọn bắp. Thuyền ai đó hay thuyền em mà sáng đầy trăng? Hãy chở trăng vê kịp tối nay để ta gặp nhau lần cuối. Nhưng đó chỉ là ước mong, dẫu chân thành tha thiết mà mờ ảo, mông lung.

Nếu ở khổ thứ hai, tâm trạng của nhà thơ là khắc khoải, đợi mong và bồn chồn hi vọng thì đến đoạn này, khi thả hồn mơ khách đường xa, nhà thơ mới thấy nỗi niềm chia lìa da diết hơn, thấm thìa hơn. Nhà thơ lặng đi trong cõi mộng. Hình ảnh cô gái Huế hết sức gần gũi nhưng cũng hết sức xa vời. Xa vời về thời gian, không gian và nhà thơ linh cảm thấy mối tình giữa mình và cô gái ấy cũng đã thành hư ảo. Gâu thơ trên đương còn là mơ, câu dưới đã bay vào ảo giác, một bước nhảy vọt rất Hàn Mặc Tử, khó tìm thấy ở những bài thơ tình khác…

Lời thơ ở hai câu này nghe như có gì thổn thức, nghẹn ngào, hụt hẫng, chới với, bẽ bàng và tội nghiệp biết bao cho lòng chàng trai!

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra.

Trên là vườn đẹp, trăng đẹp và bây giờ đến hình bóng đẹp của khách đường xa. Hình ảnh này gợi cho ta nhớ tới gương mặt chữ điền có lá trúc che ngang không thể nào quên.

Đây là hình ảnh người con gái Huế có vẻ đẹp trinh khiết đầy xuân tình mà thi sĩ hằng yêu mến. Gắn với hình dáng ấy là sắc áo trắng tinh khôi. Màu áo ở đây cũng là màu áo trong tâm tưởng. Tác giả hình dung trong tâm tưởng để thấy lại cái màu trắng của kí ức, cho nên nó hư hư thực thực. Câu thơ đầy ảo giác nhưng rất hay, rất có lí và bất ngờ: Áo em trắng quá nhìn không ra. Màu trắng giờ đang choán hết tâm tư, tình cảm của thi nhân. Bài thơ tả cảnh đã thành bài thơ thổ lộ tình yêu. Một thứ tình yêu đơn phương, thiết tha và có phần tội nghiệp.

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?

Hai câu thờ cuối dẫn ta vào cõi hoài niệm của nhà thơ. Sương khói làm mờ nhân ảnh không phải là sương khói ngoài đời mà là sương khói trong mối tình đương nhen nơi lòng thi sĩ, là cái khoảnh khắc nhà thơ đắm đuối trong cơn mộng tưởng.

Đâu còn nắng hàng cau, vườn mướt quả Đâu còn xanh như ngọc, mặt chữ điền Cũng chẳng còn gió mây, dòng nước buồn, hoa bắp lay, sông trăng và con thuyền chở trăng về… Chỉ còn sương khói che khuất bóng người.

Không chỉ hình bóng em mờ mà thân xác anh cũng mờ tan trong sương khói lạnh lẽo. Còn lại may có chữ tình, nhưng nhà thơ vẫn băn khoăn, khắc khoải: Ai biết tình ai có đậm đà ?

Hai khổ thơ đầu nói đến cái đẹp của xứ Huế, khổ cuối nói vẻ đẹp của cô gái Huế. Tả cảnh đẹp xứ Huế, Hàn Mặc Tử đắm say đến mức hòa nhập vào cảnh. Nói đến vẻ đẹp của cô gái Huế, nhà thơ lại lùi ra xa, giữa nhà thơ với cô gái là một khoảng cách mịt mờ sương khói. Vì thế mới có câu thơ cuối mang chút hoài nghi mà lại chan chứa niềm thiết tha với cuộc đời : Ai biết tình ai có đậm đà ? Nhà thơ đã sử dụng rất tài tình đại từ phiếm chi Ai để mở ra hai ý nghĩa của câu thơ: Làm sao biết được tình người con gái thôn Vĩ có đậm đà không? Hay cũng mờ ảo, chóng tan như làn sương khói kia? Người xứ Huế có biết chăng tình cảm của nhà thơ đối với cảnh vật Huế, con người Huế hết sức thắm thiết, đậm đà ? Dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng chi làm tăng thêm nỗi cô đơn, trống vắng trong một tâm hồn tha thiết yêu thương con người và cuộc đời.

Khổ thơ thứ ba tiếp nối và đi sâu vào bên trong mối tình, từ nỗi cách ngăn gió mảy chia đường đến sự đứt gãy. Từ cảnh thiên nhiên như reo vui, tràn đầy sức sống ở khổ thơ thứ nhất đi dần tới sự xóa nhòa tất cả vào mơ, vào sương khói ở khổ thứ ba. Một mối tình hết sức thiết tha, nồng ấm nhưng đành để nó mất hút vào cõi mông lung, mờ mịt; chỉ còn lại dư vị đậm đà trong lòng người và cả lòng mình.

Bài thơ bắt đầu bằng điệu vui tươi nhưng kết thúc lại buồn như vừa lỡ một cuộc hẹn hò. Có phải nội dung bài thơ chỉ giới hạn ở một nỗi đau cụ thể là mối tình lỡ làng của tác giả với một người con gái Huế ? Nếu vậy, nó không tồn tại đến tận ngày nay. Cũng không phải nó nói giùm niềm đau của ngàn vạn chàng trai không may trong trường tình. Gốc rễ sâu xa của nỗi bẽ bàng trong bài thơ vượt ra khỏi khuôn khổ tình yêu của một đôi trai gái, mà nói lên tâm trạng chưa kịp vui đã thấy buồn, mới vừa ban mai mà đã vội chiều tà, bao ước mơ tốt đẹp tất thảy đều tuột khỏi tầm tay. Đó là tâm trạng của tầng lớp trí thức trẻ 1930 – 1945 rất hào hứng tự khẳng định mình nhưng luôn bị những áp lực của xã hội phủ định, trong khi ánh sáng của cách mạng chưa soi rọi tới.

Tác giả lặng đi trong mơ tưởng. Người khách đường xa này hình như không liên quan gì đến nhân vật anh ờ câu đầu mà lại gợi  tả người khách má hồng thoáng gặp mà nhớ mãi. Màu áo trắng là màu tâm tưởng, màu kí ức hư hư ảo ảo. Thôn Vĩ đến đây chỉ còn là địa điểm có liên quan đến màu trắng ấy. Bàithơ cảnh quê đã thành bài thơ tình yêu. Một tình yêu đơn phương khó xác định.

Câu thơ cuối dẫn ta đến cõi nào của tâm tưởng. Ở đây là ở mối tình mới nhen, là khoảng khắc đắm đuối nhìn không ra. Ý thơ chơi vơi, gợi mở, cảm được mà khó cắt nghĩa…

Tâm trạng của thi sĩ diễn biến theo chiều hướng: ao ước đắm say – hoài vọng phấp phỏng – mơ tưởng hoài nghi. Càng về sau càng có phần u uẩn và sầu muộn. Đó là những cung bậc khác nhau của một mối tình vô vọng. Tuy nhiên, đằng sau mối tình ấy vẫn là một niềm thiết tha gắn bó với đời. Những câu hỏi này là hình thức để nhà thơ tỏ bày tâm trạng. Âm điệu bài thơ càng về sau càng da diết, sâu lắng và nhờ đó mà ba khổ thơ tưởng như tách biệt lại liên kết với nhau một cách tự nhiên, tạo thành một bài thơ hoàn chỉnh có vẻ đẹp khác thường.

Nhận xét bao quát: ở bài thơ này, mỗi câu thơ đều ôm chứa một chất thơ hoàn chỉnh, có thể trích độc lập mà vẫn có vị. Mỗi khổ là một bài tứ tuyệt. Nhưng gộp cả lại thì tất cả lại ràng buộc với nhau, không thể tháo bỏ, không cần thêm ý, không thể đảo lộn vị trí từng câu, không thể thay thế các từ. Bài thơ thật trong sáng. Hình như ai cũng cảm nhận được vẻ đẹp của nó nhưng phân tích mãi, vẻ đẹp ấy vẫn còn bí ẩn. Nỗi buồn của bài thơ trong sáng và thấm thía.

Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ về tình yêu. Thấp thoáng trong màn sương khói hư ảo của tình yêu đôi lứa là tình yêu thiết tha, đằm thắm đối với quê hương đất nước. Vì khơi gợi và làm rung động tình cảm chung của nhiều người như thế nên bài thơ vốn diễn tả tâm trạng riêng của tác giả lại tạo được sự cộng hưởng rộng rãi và lâu bền trong tâm hồn của nhiều thế hệ yêu thơ Hàn Mặc Tử.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 45

Câu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ gợi mở ấn tượng chung của cả bài thơ: là nỗi nhớ, là dòng hồi tưởng về cảnh và người thôn Vĩ Dạ.Câu hỏi tu từ mở đầu khổ thơ mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách, vừa mời mọc.
Đây có thể là lời của người con gái thôn Vĩ trách người bạn xa lâu ngày không về chơi.Hoặc cũng có thể là lời của chính tác giả tự nói với lòng mình.
Tác giả Vĩ Dạ đã sử dụng từ chơi thay cho từ thăm vì chơi thân mật hơn, gần gũi hơn, về thăm  nghe chừng khách sáo quá. Bức tranh bình minh thôn Vĩ trong dòng hồi tưởng của tác giả.Nắng là một mô típ ám ảnh trong thơ HMT: nắng tươi, nắng ửng, nắng chang chang, nắng loan, nắng mới…Nắng mới lên đi liền với hàng cau bởi cau là cây cao nhất trong vườn, nó xuất hiện ở nhiều mảnh vườn trên đất nước Việt Nam. Sau một đêm dài, lá cau được tắm gội trở nên thanh khiết và ánh nắng trên lá cau cũng long lanh hơn. Với HMT tinh hoa của sự sống chính là sự trinh khiết, thanh tân. Đặc biệt thân cau được chia làm nhiều đốt như một cây thước. Khi nắng mai rót vào, vườn cứ đầy dần lên theo từng đốt, khi nó tràn trề, nó biến khu thành một viên ngọc lớn.

Tác giả dùng chữ mướt chứ không phải mượt để mô tả sắc xanh của lá. Mướt gợi lên  vẻ mượt mà đầy sắc xuân. Ngọc là tinh thể trong suốt vừa có màu, vừa có ánh, lại gợi lên vẻ quý phái. HMT vừa đặc tả vẻ đẹp vườn thôn Vĩ như viên ngọc rời rợi sắc xanh, đang tỏa vào ban mai những sắc xanh mướt, vừa tột cùng hóa, tuyệt đối hóa vẻ đẹp đẽ, quí phái của đối tượng.Từ quá – một từ chỉ mức độ, chính nó khiến cho câu thơ mang âm hưởng của một tiếng kêu ngỡ ngàng, trầm trồ như bất ngờ nhận ra vẻ đẹp của khu vườn.Khổ thơ khép lại bằng hình ảnh mặt chữ điền. Đây là một hình ảnh gây nhiều tranh cãi. Đó là gương mặt phụ nữ hay đàn ông? Lối tạo hình cách điệu hay tả thực.
Đó có thể là khuôn mặt của cô gái thôn Vĩ.Đó là khuôn mặt của chàng trai thôn Vĩ.Khuôn mặt của thi sĩ – Chủ thể trữ tình.Khuôn cửa sổ hình vuông.

 Sự chuyển ý từ khổ 1 sang khổ 2 khá đột ngột: đang từ cảnh bình minh thôn Vĩ, tác giả không hề báo trước hay có sự chuẩn bị gì chuyển ngay sang cảnh dòng sông; đang từ tâm trạng bồi hồi, mong đợi, ao ước chuyển sang tâm trạng buồn hiu hắt.Từng câu chữ, hình ảnh, nhạc điệu trong khổ thơ thấm đẫm mặc cảm chia lìa.
Hai câu đầu thiên nhiên như đang chia lìa đôi ngả tạo nên một thực tại phiêu tán. Tất cả như đang rời bỏ: Gió đi một đường, mây đi một nẻo, dòng nước buồn bã trôi…Như vậy, ở đây xuất hiện một hiện tượng phi logic, trái với lẽ thường. Chúng ta thường biết rằng gió mây không thể tách rời, gió thổi mây bay, gió và mây không thể chia tách vì không có gió mây không thể tự di chuyển. Hình ảnh trong hai câu đầu không đơn giản là hình ảnh của thị giác mà chính là hình ảnh của tâm trạng, của mặc cảm. Mặc cảm chia lìa đã tách rời những thứ tưởng như không thể chia lìa nổi.
Nỗi buồn từ cảnh li tán, chia phôi của mây gió đã phả sang dòng Hương Giang hay dòng nước buồn thiu vì đã mang sẵn trong mình một tâm trạng được phả vào từ chính nỗi niềm mặc cảm của thi nhân.
Động từ lay tự nó không tạo được không gian vui, buồn, sao người đọc vẫn thấy thấm đẫm một nỗi buồn hiu hắt. Nó là nỗi buồn phụ họa với gió mây sông nước hay nỗi buồn sông nước đã xâm chiếm vào hồn hoa bắp? Có lẽ là cả hai. Dường như hình ảnh hoa bắp lay côi cút bên dòng sông như ẩn chứa thân phận của người thi nhân – thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng. Cảnh và người như có sự hòa làm một.Đối mặt với sự chia lìa, hai câu thơ sau hình ảnh thơ như bị đẩy đi rất xa, nhuốm màu ảo mộng.
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
- Trăng là một hình ảnh quen thuộc, trở lại trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng với thi sĩ thơ Điên không đơn giản chỉ là vẻ đẹp tinh túy và huyền ảo của thiên nhiên mà trăng còn là một sinh thể, một linh hồn. Trăng quằn quại, trăng lênh láng, có khi kì quái: “vỡ tan thành vũng đọng vàng khô”, có khi khêu gợi, lả lơi như một thiếu nữ đa tình Trăng nằm sõng soải trên cành liễu – Đợi gió đông về để lả lơi; có khi tình tứ Mới lớn lên trăng đã hẹn hò- thơm như tình ái của ni cô.
 Trong bài thơ này xuất hiện hai chữ về. Chữ Về thứ nhất là về với Vĩ Dạ, về với thiên đường trần gian Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Chữ Về thứ hai xuất hiện trong hai câu thơ này là về với Hàn Mặc Từ, về trong này.Ở giữa nơi không có niềm trăng và ý nhạc nên HMT đã đặt tất cả hi vọng vào thế giới mộng ảo: Có chở trăng về kịp tối nay? Trăng trở thành nơi bám víu duy nhất, một tri âm, một cứu tinh của thi nhân.
Nhưng ngay cả nơi bám víu cuối cùng ấy cũng chứa đựng mầm vô vọng. Đại từ phiếm chỉ thuyền ai khiến cho con thuyền trên sông trăng trở nên mỏng manh như một ảo ảnh.
Chữ kịp trong câu thơ chứa đựng lời khẩn cầu thiết tha của thi sĩ. Nếu trăng không về kịp thì tâm hồn đau thương kia sẽ rơi vào tuyệt vọng hoàn toàn.
Vượt lên trên buồn đau tuyệt vọng, người vẫn hướng tới cái đẹp của tình người, tình đời với một khát khao mãn" Vượt lên trên buồn đau tuyệt vọng, người vẫn hướng tới cái đẹp của tình người, tình đời với một khát khao mãnh liệt, biết trân trọng từng phút giây của cuộc đời ngắn ngủi.3. Khổ thơ 3
Ở khổ thơ thứ ba giọng điệu khắc khoải đã hiển hiện thành nhịp điệu. Nhịp thơ đến đây trở nên gấp gáp, khẩn khoản hơn.
Khách đường xa thuộc về thế giới ngoài kia, thuộc về thiên đường trần gian. Khách đường xa là hình bóng giai nhân xứ Huế. Điệp từ khách đường xa khiến cho nhịp thơ gấp gáp hơn, hình ảnh càng trở nên mờ ảo.
 Vẻ đẹp trinh khiết chính là chuẩn mực cảm quan thẩm mĩ của HMT. Hình ảnh những thiếu nữ trong thơ HMT bao giờ cũng gắn liền với sự sống động của vẻ trinh khiết, xuân tình. Chính vì vậy, hình ảnh khách đường xa  đã trở thành trung tâm của bức tranh và cũng là trung tâm của bài thơ. Ta biết đặc điểm của thơ Điên là hình ảnh tân kì, kì dị. HMT thường sử dụng những sắc trắng kì dị để miêu tả vẻ đẹp trinh khiết của giai nhân: Chị ấy đêm nay còn gánh thóc/Dọc bờ sông trắng nắng chang chang; Chết rồi xiêm áo trắng như tinh.Câu thơ Áo em trắng quá nhìn không ra không phải màu áo đã lẫn vào màu sương khói nhìn không ra mà chính là cực tả sắc trắng ở độ tột cùng, tuyệt đối của HMT.
Mơ tưởng da diết, khắc khoải hơn hết vẫn là dành cho người tình xa hay đau thương nhất vẫn là phải xa lìa người mình yêu.Hai câu cuối với hình ảnh sương khói chỉ mang tính biểu tượng. Giữa người ngắm cảnh và người trong cảnh đã có một khoảng cách chia lìa về thời gian và không gian khiến cho con người chỉ còn là bóng ảnh nhạt nhòa. Cái nhìn này xuất phát từ tâm trạng của người ngắm cảnh.Câu hỏi cuối chất chứa đầy những khắc khoải, băn khoăn. Đại từ ai hướng tới cả hai đối tượng; người thôn Vĩ và cái tôi trữ tình. Chủ thể trữ tình không biết được tình cảm của giai nhân xứ Huế có đậm đà hay không?Và chính giai nhân cũng không biết tình cảm của anh ntn?
Chính vì vậy thi nhân rơi vào tuyệt vọng, hoài nghi.Tình ai ở đây còn là tình đời, tình người. Ai biết cuộc đời, tình đời, còn dành cho thi sĩ được bao nhiêu, được bao lâu. Thi nhân đang tồn tại thật mong manh. Và cái tình kia chính là sợi giây kết nối thi nhân với bên ngoài. Thế mà cái tình ấy cũng mong manh xa vời quá!

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 46

Hàn Mặc Tử là một trong ba đỉnh cao thơ mới, là chủ soái trường thơ loạn, là hiện tượng kì dị và ám ảnh nhất trong thơ ca hiện đại. “Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài  thơ là tình yêu của nhà thơ dành cho Huế, đồng thời thể hiện khát vọng hạnh phúc của thi sĩ Hàn Mặc Tử.

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ chất chứa biết bao băn khoăn day dứt. Phải chăng bức bưu thiếp xã giao của người con gái mang tên một loài hoa đã trở thành chất xúc tác mở ra cánh cửa tâm hồn của thi sĩ. Để rồi người thi sĩ ấy ngước nhìn ra thế giới ngoài kia:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ”

Câu thơ đầu là một câu hỏi mang nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở trách móc, vừa giới thiệu chào mời. Câu hỏi đó là của ai? Đó không phải của Hoàng Cúc, không phải của cô gái nào ở thôn Vĩ. Vậy phải chăng đó chính là tác giả đang phân thân để chất vấn chính mình. Câu hỏi như xác nhận một sự thật đã lâu rồi tác giả không được về thôn Vĩ hay không biết đến bao giờ có thể trở lại thôn Vĩ một lần nữa. Nhà thơ sử dụng câu hỏi tu từ ngay ở câu thơ đầu, khác nào đặt một niềm thắc mắc, dằn vặt xuyên suốt cả thi phẩm. Để rồi ở tứ thơ nào, hình ảnh nào, dù đẹp đến đâu thì người đọc cũng chợt bâng khuâng nhận ra một nỗi nhớ, nỗi sầu ứ nghẹn bên trong.

Bằng ngòi bút tài hoa, Hàn Mặc Tử đã họa lên bức tranh ngôn từ về vẻ đẹp thôn Vĩ Dạ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Phải chăng, ngày Hàn Mặc Tử từng đến thăm “quê” trong tiềm thức là một buổi sớm đẹp đến nao lòng. Bởi lẽ trong cùng một câu thơ, chữ “nắng” được lặp lại đến hai lần. Ánh nắng ấy rực rỡ đến độ đong đầy không gian, vương trên vạn vật, chảy tràn sánh vàng tựa mật. Ánh nắng ấy cũng ấm áp đến độ sưởi ấm, thắp lên chút ánh sáng nơi cõi lòng lạnh lẽo của nhà thơ.

Giữa không gian đầy nắng ấy, thẳng tắp vươn lên những thân cau như nét bút muốn khuấy động cả khoảng trời trong trẻo. Trong khu vườn thôn dã, cau là loài cây cao nhất, đón nắng đầu tiên. Bởi vậy, nắng hàng cau là ánh nắng trong trẻo nhất, thanh tân nhất, thuần khiết nhất. Cây cau chia đốt thẳng, giống như thước đo tự nhiên cân đong mực nắng trong vườn. Mặt trời càng lên cao, mực nắng ấy càng dâng lên cho đến lúc phủ qua tán cau, cũng là bao trùm cả khu vườn bằng thứ sắc màu lấp lánh của nó.

Nếu như các nhà thơ khác trong phong trào Thơ Mới thường miêu tả cảnh vật với vẻ đẹp đượm buồn:

 “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

    Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”

(Đây mùa thu tới – Xuân Diệu)

Thì với Hàn Mặc Tử, ông lại vẽ ra bức tranh xứ Huế đầy sức sống. Đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ như mang âm hưởng của điệu Nam Ai, Nam Bình, của điệu hò trên sông Hương. “Vườn ai” không chỉ riêng một khu vườn cụ thể nào mà tựa như theo từng nhịp bước chân thi sĩ, hai bên đường đều là những mảnh vườn như thế. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra mà nhắm mắt lại ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gột rửa trở thành cành lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới cực tả được vẻ đẹp của khu vườn thôn Vĩ. Một màu xanh cao quí, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bừng lên. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này:

                                             “Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Người con gái xứ Huế thường gắn với tà áo dài tím mộng mơ, chiếc nón bài thơ “mang hình bóng quê hương”. Nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử, thiếu nữ ấy lại e ấp “che ngang” gương mặt sau “lá trúc”. Một nét vẽ rất đẹp họa ra vẻ dịu dàng, duyên dáng và tình tứ của thiếu nữ sông Hương. Người xưa có thanh nữ vịn cành mẫu đơn, giai nhân tựa nhành lan, nay lại có “mặt chữ điền” ẩn hiện sau cành trúc, lá trúc.

Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng:

“Gió theo lối gió mấy đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Câu thơ đầu tiên với cách ngắt nhịp 4/3 với hai vế tiểu đối gợi tả một không gian gió mây chia lìa đôi đường đôi ngả như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Lẽ thường thì gió thổi mây bay. Phải chăng mặc cảm chia lìa đã chia xa cả những thứ vốn không thể chia cách.

Nỗi buồn  từ cảnh li tán, chia phôi của mây gió đã phả sang dòng Hương giang. Hay dòng nước buồn thiu mang trong mình một tâm trạng được phản vào từ nỗi niềm tâm trạng của thi nhân. Hai chữ “buồn thiu” gợi tả vẻ dùng dằng, lặng lờ của dòng nước sông Hương. Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế. Hương giang không thể tự buồn mà phải chăng thi nhân đã bỏ buồn vào trong đó. Dòng sông lững lờ hay chính là dòng đời mệt mỏi cay đắng đang chảy vào lòng nhà thơ khiến thi sĩ miên man trong những nỗi niềm xa xăm.

Đối mặt với sự chia lìa, hai câu thơ sau hình ảnh thơ được đẩy đi rất xa nhuốm màu ảo mộng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.”

Trăng là hình ảnh quen thuộc trở đi trở lại trong thơ Hàn Mặc Tử. Trăng với thi sĩ điên không đơn giản là vẻ đẹp huyền ảo của thiên nhiên mà trăng còn là một sinh thể, một linh hồn. Đây được coi là hai câu thơ tuyệt bút của thi nhân kết tinh rực rỡ bút pháp lãng mạn tài hoa. Nếu “thuyền ai” gợi lên bao ngỡ ngàng, bâng khuâng thì “sông trăng” lại  như một nét vẽ thơ mộng chất chứa linh hồn cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế. Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả như lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi:

“Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa

   Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.”

Hay:

“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi.”

Tại sao Hàn Mặc Tử lại mong ngóng ao ước, khao khát có trăng như vậy? Phải chăng bị chôn vùi trong lãnh cung chia lìa, mù tối, nơi “không có niềm trăng và ý nhạc” nên giờ đây, trăng đã trở thành nơi bám víu duy nhất- một tri âm, tri kỉ của nhà thơ. Giọng điệu, chữ nghĩa trong câu thơ bật lên niềm khát khao đến cháy bỏng. Nhưng thật xót xa, bi kịch thay cho thi sĩ, ngay trong lời khẩn cầu da diết đến cháy bỏng ấy, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu hoài, tuyệt vọng. Nỗi niềm ấy ghim chặt vào ba chữ “kịp tối nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong trăng thật ngắn ngủi mong manh biết chừng nào.

 Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là một dấu chấm hết. Lưỡi hái tử thần đang kể tận cổ, chuông nguyện hồn ai đã gióng lên. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn ngủi là thế mà bến sông trăng cứ ở mãi ngoài kia xa vời vợi. Không dùng hình thức cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng. Có lẽ khi cất lên lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã có lời giải đáp cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền trở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn, tuyệt vọng. Vọng về đâu đây dự cảm xót xa:

“Một mai kia ở bên khe nước ngọc

Với sao sương anh nằm chết như trăng

Chẳng tìm thấy nàng tiên mô đến khóc

Đến thương anh và rửa vết thương tâm.”         

=> Bình luận, tiểu kết.

“Thơ là cây đàn muôn điệu của tâm hồn, là nhịp đập của con tim”. Một trái tim Hàn Mặc Tử, một nỗi lòng dồn nén như được ông thổ lộ qua khổ thơ cuối. Cảnh Vĩ Dạ thôn vào buổi sáng sớm hay dòng sông Hương với con thuyền chở trăng đã không còn nữa, giờ đây chỉ còn lại niềm bâng khuâng, tiếc nuối:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra”

Khách đường xa thuộc về thế giới ngoài kia, thuộc về thiên đường trần gian. Khách đường xa còn là hình bóng của giai nhân xứ Huế. Điệp từ “khách đường xa” khiến nhịp thơ trở nên gấp gáp hơn, khiến lời thơ chất chứa biết bao mặc cảm chia li, xa cách.  Chữ "mơ" ở đầu câu gợi về niềm mong ước được trở về thăm Huế và cũng mơ người con gái xứ Huế sẽ chịu vượt đường sá xa xôi để gặp mình. Cũng trong niềm khao khát ấy thi nhân nhìn thấy dường như người con gái ấy trong tà áo trắng. Câu thơ “Áo em trắng quá nhìn không ra “ không phải màu áo đã lẫn vào màu sương khói mà chỉ là một cách cực tả sắc trắng tuyệt đối, trắng đến lạ lùng của thi sĩ mà thôi. Cực tả vốn là một thiên hướng của Hàn Mặc Tử. Hơn nữa, những nàng thơ trong cõi thơ của Hàn luôn hiện ra với vẻ đẹp lí tưởng trinh bạch, thanh khiết và vẻ đẹp ấy bao giờ cũng được biểu lộ bằng sắc áo trắng tinh khôi. Ví như vẻ đẹp thanh khiết của cô gái đồng trinh đã được cực tả bằng hình ảnh: “Chết rồi xiêm áo trắng như tinh”. Vậy, cực tả sắc trắng lạ lùng của người con gái Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm tâm sự gì? Câu thơ không chỉ đơn giản là lời thú nhận bất lực về thị giác mà còn là bất lực về tâm hồn của một trái tim phải cách xa cuộc đời ngoài kia cả một nghìn thế giới, cả một tầm tuyệt vọng.

Khổ thơ cuối khép lại bài thơ như một lời trách:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà.”

“Ở đây” là không gian nào? Là Vĩ Dạ mộng mơ hay trại phong lạnh lẽo mà ngày đêm thi sĩ đang phải chống chọi với căn bệnh ác quái? Hình ảnh “sương khói” gợi sự chia cách giữa người ngắm cảnh và người trong cảnh. Đó phải chăng là sương khói của thời gian, của không gian hay cũng là của mối tình đơn phương vô vọng với mặc cảm chia lìa. Màn sương ấy ngăn cách thi nhân với thế giới bên ngoài, để rồi nhiều luics nhà thơ đã tự hỏi lòng mình:

“Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa

Trời ở trong đây chẳng có mùa

Không có niềm trăng và ý nhạc

Có nàng cung nữ nhớ thương vua”

Và lời hỏi lòng ấy đã bật lên thành câu hỏi khép lại bài thơ. Câu hỏi như chất chứa biết bao khắc khoải, băn khoăn. Đại từ “ai”hướng đến cả hai đối tượng: liệu giai nhân xứ Huế có biết được tình cảm đậm đà mà Hàn Mặc Tử dành cho nàng hay không, liệu tình cảm của giai nhân xứ Huế có đậm đà như vậy hay không? Vì vậy, thi nhân rơi vào tuyệt vọng và hoài nghi. Tình ai trong câu thơ cuối còn nghĩa là tình đời, tình người. ai biết cuộc đời, tình đời còn dành cho thi sĩ được bao nhiêu, được bao lâu? Và cái tình kia chính là sợi dây kết nối thi nhân với bên ngoài. Thế mà cái tình ấy cũng mong manh, xa vời quá.

Theo dấu những vần thơ của Hàn Mặc Tử, người đọc như lạc trong cuộc hành trình từ thực tại đến mờ ảo, “vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến càng đi xa càng ớn lạnh…” (Hoài Thanh). Dù thời gian đã trôi qua rất lâu song bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” vẫn để lại ấn tượng trong lòng nhiều thế hệ bạn đọc. Bài thơ là một trong số những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ thi sĩ họ Hàn, một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình yêu, cuộc sống.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 47

Bài thơ về xứ Huế mộng mơ Đây thôn Vĩ Dạ đã để lại cho ta biết bao hoài niệm đẹp về phong cảnh hữu tình xứ Huế, con người Huế và đặc biệt hơn là sự lãng mạn của một đời thơ, một đời người – Hàn Mặc Tử.

"Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt,

Khép phòng đốt nến, nến rơi châu…"

Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? "Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu – Đợi gió đông về để lả lơi…" ("Bẽn lẽn") – Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, bến trăng… Cả một trời trăng ảo mộng, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện tâm hồn "say trăng" với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với 28 tuổi đời (1922 – 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết thơ hay về mùa xuân và thiếu nữ ("Mùa xuân chín"), về Huế đẹp và thơ ("Đây thôn Vĩ Dạ") như Hàn Mặc Tử.

"Đây thôn Vĩ Dạ" rút trong tập "Thơ điên" xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu – tình yêu thơ mộng đắm say, lung linh trong ánh sáng huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khao khát về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

Câu đầu "dịu ngọt" như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách móc người thương biết bao thương nhớ đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?". Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền?"

Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp. Nhìn từ xa, say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, "nắng mới lên" rực rỡ. Hàng cau như đón chào người thân thương sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược thôn Vĩ Dạ: "Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc". Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông "mướt quá" một màu xanh như ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa, con người cần cù chăm bón mới có "màu xanh ngọc" ấy. Thiên nhiên rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về mùa xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: "Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…" ("Thơ duyên"). Hai chữ "vườn ai" đã gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác. Câu thứ tư tả thiếu nữ với vườn xuân: "Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn mới đẹp. Mặt chữ điền, gương mặt đầy đặn, phúc hậu. "Lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình đã tô đậm nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát che chở cho mối tình đẹp đang nảy nở:

"Thầm thĩ với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý nhị và thơ ngây".

(Mùa xuân chín)

Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng mới, tả vườn xuân, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ. (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người nơi thôn Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

Vĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ sông Hương Giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đấy thường dìu dặt câu Nam ai, Nam bình qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh trời mây, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, hài hòa và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm trôi lờ lững, trong tâm tưởng thi nhân trở nên "buồn thiu", nhiều bâng khuâng man mác. "Hoa bắp lay" nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được diễn tả rất tinh tế. Các điệp ngữ luyến láy gợi nên nhiều vương vấn mộng mơ:

"Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".

Hai câu tiếp theo nhà thơ hỏi "ai" hay hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ tới con đò mộng nằm trên bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành sông trăng. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ mà sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: "Gió trăng chứa một thuyền đầy". Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?"

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay "thuyền ai" vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo "Đây thôn Vĩ Dạ" là những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ làm ta rung động trước vẻ đẹp hữu tình của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn.

Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: "Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là phấn, má hường là son"… Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ mờ sương khói. "Sương khói" trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương. Ở đây sương khói làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi không ra hình dáng em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa, thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng ôm ấp mối tình với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ muốn nói về mối tình này?

"Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?"

"Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có", các điệp ngữ luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với bao mối tình tình nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn bệnh tật.

Cũng cần nói đôi lời về chữ "ai" trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ "ai" xuất hiện đều mơ hồ ám ảnh: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?" – "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?" – "Ai biết tình ai có đậm đà?". Con người mà nhà thơ nói đến là con người xa vắng, trong hoài niệm bâng khuâng. Nhà thơ luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ đi cùng sương khói?

Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. "Đây thôn Vĩ Dạ" là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai trên sông trăng, và màu trắng của áo em như đang dẫn hồn ta đi về miền sương khói của Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng:

"Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?".

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 48

Xứ Huế thương nổi tiếng với con sông Hương lặng lờ mềm mại và sự yên bình cổ kính. Huế hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử cũng rất đẹp với “nắng hàng cau”, “vườn xanh như ngọc”… Đặc biệt là sự xuất hiện của một khuôn mặt “chữ điền” lấp ló sau hàng trúc xanh. Tất cả vẽ nên bức tranh thiên nhiên thanh thoát, sáng ngời và thuần hậu.

Khổ thơ thứ 2 lại mở ra không gian sông nước cô quạnh, như chính nỗi lòng của nhà thơ. Khi phân tích bài “Đây thôn Vĩ Dạ”, cần chú ý thời điểm ra đời của tác phẩm này. Hàn Mặc Tử sáng tác bài thơ khi đang mang trong mình căn bệnh phong nan y. Từng hình tượng “gió”, “mây”, “dòng nước”… đều chia tách, xa rời. Đến cả “thuyền” và “trăng”, hai hình tượng quen thuộc trong thơ ông, cũng gấp gáp trong nỗi sợ chia xa.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”.

Tất cả nói lên nỗi lòng lo âu, thê lương của tác giả trước nỗi lo về bệnh tật và cái chết.

Khổ thơ cuối, tác giả như lạc trong miền suy tưởng “Áo em trắng quá nhìn không ra”. Là áo trắng hay chính tác giả đang ở trong một không gian chỉ toàn màu trắng tang thương? Nhưng trong trái tim người thi nhân chưa bao giờ nguôi tắt niềm đam mê sống và khát vọng yêu thương.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”.

Qua bài phân tích tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ”, bài thơ toát lên niềm yêu thương quê hương tươi đẹp. Ngoài ra còn là niềm ham sống, khao khát yêu thương của tác giả dù đang gần kề cái chết. Có gì đẹp hơn lòng ham sống và khát yêu của một con người!

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 48

Trước tiên bài đây thôn Vĩ Dạ đã đem đến cho bạn đọc một bức tranh phong cảnh làng quê tuyệt vời. Những hình ảnh hết sức thân thuộc, thân thương về làng quê Việt Nam thời xa xưa ấy thậm chí khiến nhiều bạn đọc tưởng tượng, mơ ước được sống trong không gian thiên nhiên tuyệt tác đó. Từ những hình ảnh thân thuộc như nắng, hàng cau, vườn xanh, lá trúc,… đều khiến bạn đọc có những cảm nhận khác nhau.

“Nắng mới lên” báo hiệu một ngày mới bắt đầu, thiên nhiên chào đón chúng ta bằng màu “xanh như ngọc” của khu vườn, bằng những lá trúc rung rinh trong gió. Đều là những hình ảnh giản dị nhưng đáng quý biết bao. Ánh nắng cũng tượng trưng cho sự tươi sáng, mở ra một thời gian rực rỡ cho những con người sống ở làng quê đó.

Một ngày mới bắt đầu tràn đầy sức sống với những sắc màu trong trẻo của thiên nhiên như vậy thế nhưng không làm tác giả vui lâu mà lại trở nên sầu muộn khi nhìn ra sông Hương. Với những từ ngữ hết sức trau chuốt trong thơ như:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay ?

Hàn Mặc Tử đã cho bạn đọc thấy được những phiền muộn trong lòng mình vì sự chia ly, về cuộc tình dang dở của mình với người yêu. Sự chia cách hiện lên tự nhiên biết bao, hòa vào thiên nhiên, từ những cơn gió, dòng nước, chiếc thuyền đã khiến người đọc thấy được nỗi hiu quạnh khi phải ngóng chờ người yêu.

Đây thôn Vĩ Dạ soạn bài có một chi tiết rất hay các em học sinh cần đưa vào đó là sự thay đổi tâm trạng của tác giả theo cảnh vật. Cuộc sống êm đềm bên bờ sông Hương ở thôn Vĩ Dạ tưởng chừng đầy ắp niềm vui, cuộc sống thuận lợi thế nhưng con người ấy lại phải nỗi chia ly với người mình yêu thương.

Tình yêu giúp con người ta bồi dưỡng cảm xúc, trở nên yêu đời, yêu người hơn. Thế nhưng sự chia ly đã khiến tác giả có những niềm khát khao, nỗi nhớ cồn cào đến mức dùng hình ảnh “thuyền chở trăng” để minh họa. Ánh trăng ngoài sự lãng mạn còn tượng trưng cho sự ảm đạm của Hàn Mặc Tử.

Những câu thơ tiếp theo của ông đã cho người đọc thấy được những niềm thương nhớ, những khao khát được đến với người yêu, gợi lai những kỉ niệm đẹp đẽ của đôi lứa. Những câu thơ này cũng tượng trưng cho sự thất vọng, sự thổn thức của ông và cả sự thổn thức mà bạn đọc chắc chắn có thể cảm nhận được chỉ qua những câu thơ ngắn gọn. Đây chính là cái tài tình của thơ Hàn Mặc Tử.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 49

Khổ thơ đầu trong bài thơ hiện lên hai chi tiết hòa quyện vào nhau đó là nét đẹp của bức tranh phong cảnh và tâm trạng của tác giả. Bức tranh Vĩ Dạ tắm mình trong ánh bình minh toát lên một vẻ đẹp tinh khôi và dịu dàng rất Huế; trong khung cảnh thiên nhiên đó, nhà thơ hoài niệm, thương nhớ, nuối tiếc và có chút bâng khuâng. Tất cả hòa vào nhau khiến cho bức tranh thiên nhiên nhuốm màu hư ảo.

Câu thơ đầu tiên có thể được hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Có thể đó là suy nghĩ của tác giả về tình yêu mà cô gái dành cho mình, suy nghĩ đó tạo ra một lời mời thiết tha đối với tác giả (anh hãy về thăm), đồng thời là một sự trách móc, giận hờn (anh còn nhớ hay không). Cũng có thể xem đó là lời tự vấn của tác giả: Sao không về thôn Vĩ?
Dù hiểu theo cách nào thì cũng có thể thấy câu thơ chính là niềm thương nhớ, niềm yêu mến không thể kìm nén của tác giả. Sự không kìm nén đó đã bật lên thành câu hỏi. Ẩn trong câu hỏi thiết tha ấy là một bóng hình tuy ảo ảnh, mong manh mà vô cùng da diết. Ân sâu trong nuối tiếc, hoài niệm là ước muốn được về thăm Vĩ Dạ một lần. Nếu hiểu được cuộc đời của Hàn Mặc Tử thì chúng ta sẽ biết được ước muốn bình thường đó đối với Hàn Mặc Tử lớn lao biết nhường nào. Câu thơ như gợi lên một niềm thương cảm, sầu bi và oán thán cho số phận.
Thôn Vĩ Dạ hiện lên với vẻ đẹp vừa rất thực vừa rất mộng với hàng loạt hình ảnh về nắng, hàng cau, vườn, lá trúc, mặt chữ điền. Ấn tượng sâu sắc nhất là cảnh vườn Vĩ Dạ tắm trong ánh nắng bình minh. Bằng nghệ thuật tăng cấp. Hàn Mặc Tử muốn nhấn mạnh đến hình ảnh nắng: “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Nắng mới lên là nắng ban mai, cái nắng tinh khôi, non tơ, dịu dàng sáng bóng và trong trẻo, lại được tắm mình trong cây lá ướt đẫm sương đệm nên có sự phản chiếu long lanh. Hai từ nắng đặt cạnh nhau tạo cho nắng sự chuyển động trên cây lá. Đó là một cách cảm nhận và miêu tả thật tinh tế của Hàn Mặc Tử. Hình ảnh nắng hàng cau gợi cho chúng ta nhiều nghi vấn. Tại sao trong muôn vàn cây lá trong vườn, tác giả chỉ chọn hàng cau để tả ánh nắng? Phải chăng cau là loài cao nhất trong vườn nên có thể đón ánh nắng đầu tiên của ban mai dịu nhẹ; hay chính là một mối duyên không thành giờ chỉ còn có cau mà thiếu mất trầu? Có thể thấy ngoài vẻ đẹp của ánh bình minh, câu thơ còn chất chứa một nỗi sầu tình duyên của Hàn Mặc Tử.
Chính vì nắng mới lên, cây lá còn ướt đẫm sương đêm nên mới có cảnh Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Câu thơ vừa là một câu hỏi (vườn ai?), vừa là một lời bình phẩm, khen ngợi (mướt quá, xanh như ngọc). Chữ mướt toát lên một vẻ đẹp mượt mà, óng ánh. Khu vườn Vĩ Dạ hiện lên với muôn vàn màu sắc lung linh dưới ánh nắng ban mai. Hình ảnh thơ tuy đơn sơ mà lộng lẫy, bình dị mà thanh tú, dân dã mà cao sang.
Câu thơ thứ ba xuất hiện chữ ai thật đặc biệt. Chữ ai vừa không xác định vừa xác định, vừa hư lại vừa thực, vừa gần gũi lại vừa xa vời. Hàn Mặc Tử đã rất thành công khi hư ảo hóa một khung cảnh rất hiện thực và hiện thực hóa những gì vốn rất hư ảo mà vốn chỉ thấy trong tưởng tượng.
Nổi bật nhất trong câu thơ thứ tư là hình ảnh khuôn mặt chữ điền. Để hiểu được hình ảnh này thật không dễ dàng, bởi có nhiều cách lí giải khác nhau. Tuy nhiên, hình ảnh trên mang nhiều yếu tố cách điệu. Hàn Mặc Tử sử dụng yếu tố cách điệu để diễn tả sự hài hòa trong vẻ đẹp của con người và thiên nhiên. Đó là sự hài hòa của một vẻ đẹp rất Huế với cảnh vật Huế và con người Huế.
Khổ thơ ẩn chứa nhiều tâm trạng và nỗi lòng của Hàn Mặc Tử. Mở đầu và kết thúc bằng hai câu hỏi (Sao anh? Vườn ai?) nhưng không có câu trả lời. Đó là một dấu hỏi lớn trong lòng mà tác giả cũng chưa tìm được lời giải đáp.
Sự mơ hồ, huyền ảo trong cảnh sắc thiên nhiên và lòng người
Bài thơ bắt đầu bằng một ánh nắng ban mai dịu nhẹ nhưng thoắt đã hiện lên đêm trăng huyền ảo trong khổ thơ thứ hai. Màu sắc hư ảo dường như bao trùm trong khổ thơ thứ hai.
Hai câu mỡ đầu của khổ thơ thứ hai vẽ nên loạt hình ảnh nối tiếp nhau (gió theo lối gió, mây đường mây, dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay) như tô đậm thêm nỗi buồn của nhà thơ, một nỗi buồn mênh mang, sâu thẳm của xứ Huế. Lối điệp từ gió và mây không nhằm nhấn mạnh cường độ hoặc sắc thái của gió và mây, mà chính là thể hiện sự tách biệt của gió và mây trong khung cảnh thiên nhiên.
Giá trị của câu thứ hai đặt vào hai chữ buồn thiu đặt giữa câu thơ. Đấy không chỉ là cái buồn cửa lặng lẽ của dòng nước lan tỏa đến cả hoa bắp mà còn là cái buồn của một người mang nhiều tâm sự. Chữ lay đặt trong hoàn cảnh này toát lên một vẻ hiu quạnh và tác động đến mọi cảnh vật chung quanh, khiến tất cả như mang một nỗi buồn man mác.
Hai câu thơ chứa đựng một nỗi buồn bâng khuẫng, man mác, một nỗi buồn thật khó tả và khó gọi tên. Chính nỗi buồn đó đã đưa thi nhân vào một thế giới cùa sự mộng ảo trong hai câu thơ tiếp theo:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Hình ảnh sông trăng và con thuyền chở trăng trên sông thật mơ hồ nhưng cũng thật quyến rũ. Hình ảnh hư và thực đã được Hàn Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế, tài hoa. Dòng nước tắm ánh tráng sáng rực bỗng rùng mình hóa thành dòng trăng hay là ánh tráng tan ra và tuôn chảy thành dòng nước? Ắnh tràng thật lung linh, kì ảo. Hình ảnh con thuyền chở ánh trăng lướt nhẹ trên dòng sông trăng để cập bên thời gian cho kịp giờ ân ái là một hình ảnh kì ảo. Những hình ảnh như thế vẫn thường xuyên xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử. Đó là những hình ảnh thuộc về một thế giới khác, một thế giới rất riêng của Hàn Mặc Tử.
Hai câu thơ làm thành hai câu hỏi: “Thuyền ai đó? Có chở trăng về kịp tối nay? Từ kịp gợi sự khắc khoải, mơ hồ và chờ đợi. Từ tối nay không gợi một thời gian cụ thể nào, nhưng nếu không kịp thì có lẽ không còn một tối nào khác nữa. Câu thơ gợi lên sự tuyệt vọng, đau thương và mất mát. Dường như con người hi vọng kia đang chạy đua với thời gian để giành lấy tình yêu và cuộc sống. Câu thơ làm chúng ta nhớ lại cái gấp gáp, vội vàng của Xuân Diệu trong bài thơ Vội vàng. Nhưng Hàn Mặc Tử trong hoàn cảnh này lại khác. Hàn Mặc Tử không có cái sức sống mãnh liệt, tràn đầy nhiệt huyết như Xuân Diệu: Ông đang phải chạy đua với thời gian vì ông biết sự sống của mình không kéo dài. Biết đâu vào tối mai, vầng trăng kia vụt tắt, con thuyền kia mãi mãi không chở trăng về kịp. Một hình ảnh thơ rất ảo nhưng cũng rất thực. Cái thực chính là hoàn cảnh đau thương của tác giả.
Toàn bộ khung cảnh trong khổ thơ thứ hai là một thế giới ảo. Hồn thi nhân chìm vào cõi mồng lung, ở đó có hẹn hò, có chờ đợi, có phấm phỏng một niềm hi vọng và có cả dự cảm chia lìa, có thất vọng ngay trong hi vọng và có cả niềm đau thương của chính cuộc đời tác giả.
Tâm trạng của tác giả trong khổ thơ thứ ba
Giọng thơ khắc khoải trong khổ thơ thứ hai trở nên gấp gáp, khẩn thiết trong khổ thơ thứ ba. Tác giả dần đối diện với chính mình và với thực tại của một bóng giai nhân chỉ có trong ảo ảnh:
Mơ khách đường xa, khách đường xa.
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Cụm từ khách đường xa được lặp lại hai lần, kết hợp với chữ mơ ở đầu câu thơ thể hiện nỗi khắc khoải gần như tuyệt vọng. Bóng giai nhân vừa hiện lên đã chợt biến thành hư ảo bởi đó chỉ là hình bóng trong mơ. Hình ảnh giai nhân trong thơ Hàn Mặc Tử luôn biểu hiện cho sự tinh khiết, trinh trắng. Vì thế, màu áo trắng cứ như một ám ảnh kì lạ. Cụm từ nhìn không ra chỉ là một cách nói để cực tả sắc trắng, trắng một cách ki lạ, bất ngờ. Đây không còn là màu sắc thực mà đã thuộc về màu của tâm tưởng. Nhà thơ đã chìm vào tâm tưởng để nhìn thấy màu áo kí ức. Câu thơ một ảo ảnh bất ngờ nhưng có lí. Màu trắng tự nhiên choán hết cầm xúc khiến bài thơ tả cảnh thiên nhiên trở thành một bài thơ tình yêu, một thứ tình yêu đơn phương khó xác định. Đó là một khát vọng tình yêu đẹp nhòa trong kí ức.
Hai câu kết đưa người đọc đi vào cõi tâm tưởng. Ở đây là ở đâu? Là Vĩ Dạ của một thời thơ mộng đẹp mà thi nhân đang nhìn thấy sau tấm bưu ảnh? Hay trong này, nơi thi nhân ôm khát vọng yêu đượng trong nỗi cô đơn? Có lẽ chữ đây trong Đây thôn Vĩ Dạ là không gian của thê giới ngoài kia, còn chữ đây trong khổ thơ kết là thế giới trong này. Giữa hai thế giới cách nhau vừa đúng một tầm tuyệt vọng.
Cả bài thơ dồn hết tâm tư ở câu cuối: Ai biết tình ai có đậm đà? Hai chữ ai lặp lại bộc lộ tâm trạng bâng khuâng xót xa, trong đó có gì như cầu mong, có gì như tự an ủi, dẫu biết không còn hi vọng nhưng chỉ một chút ai biết cho tình ai cũng là đủ lắm rồi. Có lẽ câu cuối là lời đáp cho câu mơ đầu: Ai biết tình ai có đậm đà mà về chơi thôn Vĩ? Thật ra, có ai hỏi Hàn Mặc Tử đâu và chắc gì có người yêu thương? Tác giả đang sống trong tưởng tượng. Niềm thiết tha với cuộc đời đã biến thành những câu hỏi khắc khoải như xoáy vào tâm can người đọc. Bởi xét đến cùng, đau thương chính là biểu hiện tột cùng của khát vọng tình yêu không biến thành hiện thực. Người không yêu đời tha thiết sẽ không day dứt đến thê khi linh cảm thấy mình sắp lìa đời.
Tứ thơ và bút pháp của nhà thơ
Tứ thơ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ có hai điểm đặc biệt:
Mở đầu bài thơ là một câu thỏi tự vấn: Sao anh không về chơi thôn Vĩ? 11 câu tiếp theo, tác giả tự trả lời câu hỏi ấy bằng những hình ảnh thơ, ý thơ. Đây chính là tứ thơ bộc bạch tâm trạng của tác giả.

Toàn bài thơ là một khối thống nhất có sự liên kết về logic nội tại của tâm trạng thi nhân, nhưng giữa ba khổ thơ lại có sự chuyển ý về tứ thơ và hình ảnh thơ: từ cảnh vườn quê trong khổ thơ thứ nhất sang cảnh sông trăng và thuyền trăng trong khổ thơ thứ hai, đến cảnh áo em trắng quá nhìn không ra trong khổ thơ thứ ba.
Bút pháp của Hàn Mặc Tử trong bài thơ là bút pháp trữ tình thiên về gợi tả và giàu liên tưởng với những hình ảnh biểu hiện nộỉ tâm nhằm bộc lộ tâm trạng của chính mình.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 50

Mấy ai dã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một thế giới trăng trong thơ ông:
“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…”
(Bẽn lẽn)
“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”.
(Hãy nhập hồn em)
“Bông nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.
(Đêm không ngủ)
Thi sĩ còn nói đến thuyền trăng, sông trăng, sóng trăng… Cả một thế giới trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mặc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc đời, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những nhà thơ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932 – 1941). Với 28 tuổi đời (1912 – 1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai viết hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ (“Đây thôn Vĩ Dạ”) như Hàn Mặc Tử.

“Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong “Tập thơ Điên” xuất bản năm 1940, sau khi nhà thơ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là các cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mặc Tử đã viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng đến huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.
Câu đầu của khổ thơ thứ nhất “dịu ngọt” như một lời chào mời, vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhàng trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.
Cảnh được nói đến là một sáng bình minh đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mời, như vẫy gọi.
Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. Nhà thơ trầm trổ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng, trông “mướt quá” một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu thuận hoà, con người cần cù chăm bón mới có màu sắc “xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên như rạo rực, trẻ trung và đầy sức sống. Nói về màu xanh ngọc bích, Xuân Diệu (1938) cũng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên”). Hai chữ “vườn ai” gọi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của giai nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là nét vẽ độc đáo đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mặc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như toả bóng xanh mát che chở cho một mối tình đẹp đang nảy nở:
“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”.
(Mùa xuân chín)
Hai câu thơ ba, bốn trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc…, mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

Vĩ Dạ – một làng quê nằm bên bờ Hương giang, thuộc ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát nam ai, nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mặc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. Xa cách Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. Thế mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được nhà thơ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm cảnh đã được thể hiện một cách tài hoa qua bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.
Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu thơ năm, sáu là bức tranh tả gió, mây dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhàng, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bốn phiên cảnh hài hoà, cân xứng và sống động. Gió mây đôi ngả như mối tình nhà thơ, tưởng gần đấy mà xa vời, cách trở. Dòng Hương giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp laỵ, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoảng. Nhịp điệu khoan thai, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! Các điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa… như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.
Hai câu tiếp theo, nhà thơ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành “sông trăng”. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con thuyền nằm ngủ dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: “Gió trăng chứa một thuyền đầy”. Hàn Mặc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”.
Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay ” thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong “Đây thôn Vĩ Dạ” là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, mộng mơ và thoáng buồn. Ở đây bức tranh tâm cảnh tràn ngập ánh trăng, thấm thìa một nỗi buồn cô đơn li biệt của khách đa tình.
Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Những nàng thiếu nữ sông Hương – Da thơm là phấn, má hường là son..”. Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố hương, ở đây sương khói đã làm nhoà đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhận ra dáng hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trắng trong, kín đáo và duyên dáng. Gần mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mặc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng nhà thơ nói về mối tình này?
“Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” các điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong cô đơn và bệnh tật.
Cũng cần nói một đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả bốn lần chữ “ơi” xuất hiện đều mơ hồ, ám ảnh: ”Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” – “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Con người mà nhà thơ nói đến là con ngưòi xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. Nhà thơ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhoà và mờ ảo cùng sương khói?
Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ,… bao hình ảnh và cảm xúc đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích.
“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hổn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng giai nhân, thương nhớ nhà thơ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong “Đây thôn Vĩ Dạ” vương vấn mãi lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta:
“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô”.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 51

Đây thôn Vĩ Dạ rút trong tập Thơ điên của Hàn Mặc Tử – tập thơ được xuất bản sau khi ông qua đời (1940). Con người đầy tài hoa và nhiệt huyết này, năm 25 tuổi (1937), bị mắc bệnh phong cùi và qua đời ba năm sau đó. Với tuổi đời ngắn ngủi và chỉ với hơn 10 năm sáng tác, thi sĩ đã để lại cho đời nhiều thi phẩm có giá trị, trong đó, Đây thôn Vĩ Dạ được xem là một kiệt tác.

Xuất xứ bài thơ có liên quan đến câu chuyện tình giữa thi sĩ nghèo với cô con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn. Tuy chỉ là mối tình đơn phương nhưng nó đã để lại trong lòng thi sĩ họ Hàn một ấn tượng sâu sắc. Và trong bài thơ này, ý nghĩa của ấn tượng ấy không chỉ dừng lại ở chỗ đối với một con người cụ thể, một làng quê cụ thể, mà còn có giá trị phổ quát, giá trị nhân văn hết sức sâu đậm.

Bài thơ chỉ gồm 3 khổ, tổng cộng 12 câu thất ngôn.

Mở đầu bài thơ có lẽ là lời trách thầm, và cũng là lời nhắn nhủ nhẹ nhàng. Đó là lời tác giả nói với Kim Cúc, hay lời Kim Cúc được tưởng tượng ra để trách móc nhà thơ? Cũng có thể hiểu đó là lời một nhân vật trữ tình phiếm chỉ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Hình ảnh “nắng mới, hàng cau” cùng với lá vườn mướt “xanh như ngọc” tạo ra một bức tranh chói lòa ánh sáng và rực rỡ sắc màu. Người ta không hết bàng hoàng là vì sao, qua hàng tràm năm, bức tranh làng cảnh Việt Nam vẫn thiếu vắng một hình ảnh rất dân dã, quen thuộc mà lại tươi đẹp đến rực rỡ như hình ảnh “nắng mới – hàng cau” trong bài thơ này?

Câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” đã gây nhiều cách hiểu: có người cho đó là gương mặt của người đàn ông vuông vức “chữ điền”, tượng trưng cho người quan chức thời phong kiến; có người lại cho đó là gương mặt đẹp của người xứ Huế nói chung…, nhưng muốn hiểu thế nào thì câu thơ bí ẩn này vẫn mang phong vị và vẻ dẹp cổ kính, có lá trúc, có gương mặt chữ điển, có thể tượng trưng cho quê hương và con người xứ Huế.

Hình ảnh lá trúc còn khiến ta nhớ đến câu thơ của Bích Khê:

Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn,
Biếc che cần trúc không buồn mà say.
         (Huế đa tình)

Hóa ra cần trúc, lá trúc là một nét riêng của Vĩ Dạ thôn. Nó là cảnh thực, nhưng cũng là cảnh ẩn dụ, tượng trưng.

Trong khổ thứ hai, nhà thơ dặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế, và cũng bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng:

Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;
Thuyền ai đậu bến sông trảng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Có thể hiểu cảnh tượng này như trên bờ sông Hương. Nhưng có cảnh nơi nào mà lại “có nền, có nếp” như ở đây:

Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay;

Trước hết cần hiểu hai câu thơ này theo lối tả thực: Đây là cảnh tượng trời mây bên bến sông. Cái cảnh ấy vừa có nét đẹp hoang sơ, dân dã, vừa có nét “cung đình”. Gió, mây và dòng nước đều được nhân hóa để trở nên có hồn, sinh động.

Nhưng cái hay của hai câu thơ vẫn còn là bí ẩn. Gió, mây, sông nước còn như ẩn chứa điều gì kín đáo, khó nói thành lời. Có thể thấy ở đây những ý nghĩa ẩn dụ không toàn phần – tức là “ẩn dụ một nửa”, “bán ẩn dụ”. Tác giả không lấy cảnh để nói tình một cách đơn thuần như những ẩn dụ thường thấy trong ca dao:

Thuyền về có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

Ở đây, tác giả vừa tả thật, vừa ẩn dụ. Sở dĩ phải viết như vậy vì tình cảm của Hàn với Kim Cúc chưa có gì để mà tả thật, cũng chưa có gì để mà ẩn dụ. Cho nên phải thật sự kín đáo, thật sự tế nhị và tự trọng.

Hai câu tiếp theo cũng kín đáo và mơ hồ như thế:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Hai câu hỏi tu từ liên tục, vội vã.

Có người cho rằng, hai câu thơ này hấp dẫn vì các hình ảnh thơ mộng. Đúng vậy, những hình ảnh “thuyền đậu bến sông trăng”, “thuyền chở đầy trăng”… đều là những hình ảnh đẹp đẽ, thơ mộng và rất Huế nữa! Nhưng thực ra, những hình ảnh đó đều đã được ta bắt gặp nhiều trong thơ cổ. Cái thần diệu của hai câu thơ này là ở những câu hỏi tu từ, như có gì vội vã, thúc dục người ta nhưng vẫn rất mơ hồ.

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

“Thuyền ai” là câu hỏi dành cho ai thế? Và tại sao lại phải “về kịp”? Lại “về kịp tối nay” nữa chứ? Tất cả những từ, những chữ ấy đều chứa đựng những điều huyền bí, khiến cho bài thơ như có ma lực, hấp dẫn người ta không dứt.

Có người cho rằng, cả bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nổi bật lên bởi cái vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo và kín đáo. Cái vẻ đẹp ấy sở dĩ có được là nhờ cảnh tượng nên thơ của xứ Huế, nhưng cũng còn là do câu chuyện tình riêng kín đáo và còn chưa được thể hiện rõ ràng giữa nhà thơ với người con gái xứ Huế.

Và đúng như vậy, thì khổ thơ thứ hai thể hiện một cách tập trung nhất vẻ đẹp ấy.

Hồn thơ say dần, từ chỗ có nhiều hình ảnh thực (khổ 1), đến chỗ mơ hồ (khổ 2), bài thơ kết thúc ở khổ thứ ba với những hình ảnh, cảm xúc thật sự huyền bí:

Mơ khách dường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đày sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

“Khách đường xa” là ai? Sao câu thơ lại lặp lại hình ảnh ấy hai lần? Và hơn nữa, hình ảnh đầy ấn tượng nhưng vô cùng mơ hồ ấy lại đứng cạnh một từ càng mơ hồ, bí ẩn hơn chính nó:

Mơ khách dường xa, khách đường xa

Không ai giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng hình ảnh mơ hồ ấy rất ám ảnh người đọc, và nó cũng như có ma lực khiến ta cảm thấy câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế.

Những câu thơ sau cũng có vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo nhưng dù sao cũng “hợp lí” hơn:

Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Điều bí ẩn nữa lại nằm ở câu thơ cuối: "Ai biết tình ai có đậm đà?"

Đó lại là một câu hỏi tu từ, và dầu không thể trả lời, ta vẫn thấy câu hói ấy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ: mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi tu từ. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Đó chính là tình yêu, là tâm hồn Hàn Mặc Tử. Cũng chính là lời yêu nhắn gửi lại cuộc đời này với tất cả những nỗi niềm day dứt khó quên.

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ trước hết là một bài thơ tình, cũng là một bài thơ về đất nước, con người, nhưng quan trọng hơn là một bức di thư, gửi gắm niềm yêu thống thiết, bắt đầu từ một mối tình dang dở, nhưng kết thúc ở tình đời bao la. Tình yêu của Hàn Mặc Tử đối với một người con gái xứ Huế, đối với một làng quê xứ Huế, và rộng lớn hơn là đối với tất cả cuộc đời này thật sự đã đạt tới một tình yêu bất tử.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 52

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông mang đậm dấu ấn của một con người đau khổ giữa cuộc đời. Bên cạnh những vần thơ điên loạn, thi sĩ nhiều khi sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt mĩ, hồn nhiên trong trẻo đến lạ thường như các tác phẩm: "Mùa xuân chín, đây thôn Vĩ Dạ".

Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được sáng tạo từ hai nguồn cảm hứng: "cảnh đẹp của Vĩ Dạ với đất đai trù phú" đã tạo nên nhà thơ một tình yêu con người,yêu cuộc sống. Và nguồn cảm hứng thứ hai là "tình yêu của một mối tình xa xăm" mà thi sĩ mong muốn được bày tỏ. "Đây thôn Vĩ Dạ" viết về cảnh sắc thiên nhiên và con người xứ Huế đáng iu đồng thời nói lên niềm khao khát được hoà hợp, được gắn bó với con người của một tâm hồn đa sầu, đa cảm.

Bài thơ kết đọng nhiều tâm trạng của thi sĩ. Câu thơ mở đầu: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" là một câu hỏi nhiều sắc thái: vừa hỏi, vừa nhắc nhở, vừa trách móc, vừa mời mọc, nhà thơ phân thân để hỏi chính mình niềm khao khát được về thăm "thôn Vĩ" đã cất lên thành lời tự vấn lương tâm.

Cảnh thôn Vĩ với vườn tược tốt tươi dần dần hiện lên qua ngòi bút của thi sĩ:

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền"


Nhà thơ đã chọn một điểm nhìn hội hoạ để bức tranh quê tự phơi bày vẻ đẹp hoàn mĩ của nó. Chọn cái trẻ thời gian phải là người nghệ sĩ có tâm hồn rất trẻ, cũng là cảnh làng quê ấy có người chọn buổi trưa, có người lấy hoàng hôn làm bối cảnh, không dùng một không gian mênh mông làm nền, cái nhìn của Hàn Mặc Tử ở đây là cái nhìn cận cảnh, cái nhìn qua ánh nắng đầu tiên. Vì vậy câu thơ tả cảnh đã có 1 nhịp đập khác thường, nó hồi hộp như phản xạ tự nhiên của con người trước cái đẹp không ngờ cứ hiện ra trước mắt:

"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"

Mỗi câu thơ, một chi tiết tất cả hợp lại ánh lên một vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết. Hai chữ "nắng" ở một câu thơ tạo nên một tiết tấu. Chính cái nắng bình minh dịu nhẹ ấy đã mở ra khu vườn một màu xanh mát:

"Vườn ai mướt quá xanh như ngọc"

Hai chữ "mướt quá" tác động trực tiếp đến xúc cảm của người đọc, nó như một tiếng reo vui ngỡ ngàng đầy hạnh phúc của thi sĩ. Chỉ là trong hồi hồi tưởng nhưng vườn tược Vĩ Dạ vẫn hiện lên với vẻ đẹp rạng ngời, thanh tú. Hơn nữa chữ "mướt" còn nói lên cái tốt tươi của sự sống trong khu vườn là trạng thái mượt mà,mềm diệu đang độ phát triển tơ non. Cách so sánh cũng rất tinh tế: "xanh như ngọc" tự nó lại gieo một ấn tượng mới làm cho cảnh vật trở nên có hồn. Tất cả đều tưng bừng, rạo rực đầy sức sống.

Sau cảnh đẹp là bóng hình thôn nữ:
"Lá trúc che ngang mặt chữ điền"

Cảnh vật Vĩ Dạ trở nên hữu tình hơn nhờ mối quan hệ hoà hợp giữa người và cảnh: "Lá trúc che ngang" là một nét vẻ tài hoa gợi lên thấp thoáng gương mặt thiếu nữ, một nét vẻ rất đẹp miêu tả nét đẹp dịu dàng, duyên dáng, tính tứ của thiếu nữ sông Hương. Lá trúc thanh mảnh, biếc xanh đã làm tôn thêm vẻ đẹp phúc hậu, thanh tao của con người xứ Huế.
Bước sang khổ thơ thứ hai là cảnh sông Hương vừa thực vừa ảo:

"Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"

Mặt cảm chia lìa đã hiện ra trong câu chữ, hình ảnh và giọng điệu. Thì ra thứ hạnh phúc mà nhà thơ đã hé lộ ra ở khổ thơ đầu chỉ là một tín hiệu giả, nó rạng rỡ, mơ màng, nó đã là ảo ảnh. Càng gắn bó với cuộc đời, cuộc dời lại càng ngoảnh mặt, quay lưng. Câu thơ có gió, có mây nhưng rời rạc, chia lìa: nước có dòng mà không chảy, hoa bắp thì tẻ nhạt, vô duyên. So với khổ thơ đầu cảnh ở đây đã như người bước hụt nhà thơ không khỏi ngơ ngác, xót xa. Nắng hình như đã tắt, trời đã sang chiều vì vậy mới có sông trăng:

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"

Trên xu thế tất cả đang chia lìa, đứt đoạn ấy nhà thơ ao ước một thứ có thể ngược dòng trở về với mình: "trăng". "Trăng" như một vương quốc bá quyền của Hàn Mặc Tử. Trong thế giới tâm hồn của Hàn Mặc Tử, trăng như một tri âm, tri kỉ, một niềm tin cậy, một nỗi khát khao, một vị cứu tinh. "Sông trăng, thuyền trăng" là những hình ảnh đầy chất thơ, ảo huyền cõi mộng. Từ cõi thực, cảm xúc thơ dần chuyển sang mộng ảo, câu thơ cuối là một câu hỏi đầy tâm sự: "Có chở trăng về kịp tối nay?". Tại sao phải kịp về tối nay, có phải nếu không kịp thì tất cả sẽ trở nên muộn màng. Dường như thi sĩ đã dự cảm về một cái kết thúc đau thương của mình?. Câu thơ là câu hỏi của một niềm ước mong, khắc khỏi muốn được đón nhận vẻ đẹp của trăng, của cuộc đời.
Kết thúc bài thơ là con sóng chập chờn giữa cõi mơ và cõi thực:

"Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ơ đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?"

Nhà thơ đang mơ trong cõi đau thương của riêng mình. Giấc mơ ấy là niềm mong ước đến tận cùng một hình bóng đẹp của "em", của "khách đường xa". Em là người của cõi đời giờ đã thành xa xôi quá, ba chữ "khách đường xa" lặp lại hai lần để nhấn mạnh sự xa xôi ấy. Cái đẹp đối với nhà thơ như một cuộc rượt đuổi không bao giờ tới đích."Áo em trắng quá nhìn không ra", màu trắng và màu trăng đã hoà trộn trở thành ảo giác xa xăm. Hình ảnh người con gái càng đẹp, càng tinh khiết lại càng xa vời và nhóm màu sương khói. "Ở đây" đâu phải chỉ riêng về thôn Vĩ mà còn là một thế giới riêng của linh hồn bất hạnh. Nhà thơ đã rời thôn Vĩ để trở về thế giới bất hạnh của mình. Câu hỏi cuối bài thơ với hai chữ "ai" thật xa vời đã khép bài thơ lại trong một nỗi ngậm ngùi, tuyệt vọng.

"Đây thôn Vĩ Dạ" là một bức tranh đẹp và thơ mộng về xứ Huế đáng iu. Qua bài thơ, nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đời: hãy cảm thông và chia sẻ nỗi đau với những linh hồn bất hạnh…

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 53

Đây thôn Vĩ Dạ là một cuộc trở về bằng tâm tưởng của Hàn Mặc Tử. Qua bức tranh tâm cảnh, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và con người xứ Huế với những yếu tô vừa thực vừa mộng. Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương và con người của tác giả.

Từ nỗi nhớ đậm sâu, Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh quê hương trong sáng, đậm màu sắc dân tộc ngay ỏ những câu thơ đầu.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Bài thơ được mở đầu bằng một lời mời gọi tha thiết của cô gái xứ Huế nơi làng quê Vĩ Đạ, nhưng ẩn đằng sau lời gọi mời ấy là sự trách móc nhẹ nhàng, kín đáo pha chút tình tứ của một lời trách yêu. “Sao anh không về” có lẽ lâu lắm rồi người ra đi không quay trở lại thì người ở quê nhà mới buông một lời trách cứ như vậy. Có lẽ người ở lại cũng đã đợi chờ người phương xa nhiều lắm, có đợi chờ thì mới biết là lâu, có lâu thì mới trách, và có thương thì mới giận hờn. Chắc là cỏ gái ấy và người xa quê tất phải có một môi thâm tình khắng khít nào đấy thì mới có thể nói như vậy được. Dù đó là lời mời gọi thiết tha, hay lời trách móc nhẹ nhàng thì cùng vẫn là lời của em, mà đã là lời của em thì tất nhiên là phải đậm tình của em rồi và chìm khuất đằng sau ấy có cả tình của anh nữa. Đấy là lời bộc bạch chân tình đằm thắm đượm một tình cảm mộc mạc mà chân thành, mà sâu sắc.

Làng quê Vĩ Dạ nằm ngay trên bờ sông Hương, nổi tiếng bởi những vườn cây trái xanh tươi bốn mùa. Làng quê đẹp đẽ và thơ mộng ấy chính là cái cớ để cô gái mời chàng trai về thăm, thăm quê hay chính là thăm người? Chắc rằng là cả hai vì cảnh xứ Huế thì hữu tình mà con người lại hồn hậu, duyên dáng. Lời mời của cô gái cũng thật là kín đáo, vì cô chỉ bảo rằng “anh” về đê ngắm cảnh thiên nhiên thôi – cảnh đây trong trẻo, thơ mộng mà thắm đẫm tình người.


Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Thiên nhiên hiện lên qua mấy câu thơ mà ta ngỡ đó như một bức tranh toàn cảnh về vẻ đẹp của cảnh Huê và cả con người Huế nữa. Hình ảnh “hàng cau” có lẽ cũng mang nhiều dụng ý của tác giả. Thường những khu vườn ở quê hương miền Trung hầu như lúc nào cũng không thể thiếu bóng dáng của những hàng cau thẳng tắp, nhưng sao trong vườn ấy có biết bao nhiêu hoa lá mà tác giả lại chỉ chọn hàng cau để nói đầu. Vậy hàng cau ở đây liệu có dính dáng gì đến cái duyên của lứa đôi chăng? Tất cả đều có thể lắm chứ! “Nắng mới lên” là cái nắng của một buổi bình minh đẹp trời, cái nắng trinh nguyên ban đầu, cái nắng làm tan đi những giọt sương đọng trên cành lá để đón chào một ngày mới bắt đầu. Mọi thứ ở buổi đầu đều mới, đều trinh nguyên, đều đẹp. Nắng buổi sớm không quá nóng để làm cho lòng con người gay gắt, không quá lạnh dể con người ta rét buốt, cái nắng buổi sớm luôn dịu dàng và quyến rũ. Nắng ngập không gian tràn lên những chiếc lá còn đẫm giọt sương đêm. Vườn xứ Huế được bao trùm bởi nắng mới trong sáng, tốt tươi, đầy nhựa sống. Tất cả đều tinh khiết, rực rỡ và đang vận động.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

Lời thơ hồn nhiên như một tiếng reo ca “vườn ai mướt quá", cảnh đẹp đến nỗi làm tác giả cũng sững sờ. Cảnh sắc tươi đẹp vẫn là cảm giác bao trùm đối với thi nhân. Cho dù đây là một bức tranh tâm cảnh (tác giả chỉ hình dung qua tầm trí của mình chứ lúc này ông không ở quê) nhưng dường như Hàn Mặc Tử cảm nhận được mọi thứ đang biểu hiện ra trước mặt mình rõ mồn một. “Vườn ai” vườn của ai đây? Có thể là vườn nhà anh, cũng có thể là vườn nhà em, mà cũng có thể là một khu vườn nào đây mà anh và em đã từng đi qua, khu vườn ấy bao giờ cũng dát ngọc, đang ở thời kì sung mãn lắm. Bao nhiêu sự xanh tươi, mơn mởn, non tơ được gợi lên trong một từ “mướt”. Lá thì ví “xanh như ngọc”, ắt hẳn là phải có bàn tay khéo léo chăm sóc của con người thì khu vườn mới giàu sự sống đến vậy. Những chiếc lá mướt đến nỗi như có ai đã lau chùi từng cánh. Như thế là vườn mướt đâu chỉ dựa vào sức sông tự nhiên của miền quê Vĩ Dạ mà có cả công sức con người. Câu thơ cuối của khổ thơ không thấp thoáng một bóng dáng khuynh thi mà hiện lên hình ảnh của cô gái có khuôn mặt đôn hậu, dịu dàng ẩn sau lá trúc.

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Thường thì ở thôn quê trong mỗi vườn tược bao giờ cũng có hàng trúc. Lá trúc cũng là biểu hiện cái hồn của những làng quê Việt Nam. Khóm trúc gợi cho khu vườn sự dân dã, thanh tao. Người thiếu nữ hiện ra sau bức rèm trúc xanh tươi của thiên nhiên càng e ấp thẹn thừng và có vẻ bí ẩn. Cái vẻ đẹp bí ẩn bao giờ cũng gợi sự tò mò muôn khám phá, nó khác xa với cái đẹp hơ hớ của những cô gái thị thành, “mặt chữ điền” là mặt của đàn ông con trai, nhưng ở đây nó lại miêu tả vẻ đẹp của người thiếu nữ, vậy có gì không phù hợp chăng? Rõ ràng là không, bởi ngày xưa người ta quan niệm rằng khuôn mặt chữ điền là chỉ một cô gái đẹp, đẹp cả vẻ bề ngoài lẫn phẩm hạnh bên trong. Đó là một cô gái có tấm lòng nhân ái, phúc hậu, bao dung. Ca dao xưa cũng từng ca ngợi.

Mặt em vuông tựa chữ điền

Da em thì trắng áo đen mặc ngoài

Lòng em có đất có trời

Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung.

Vậy nên “mặt chữ điền” là một khuôn mặt hiền lành, vuông vức, đầy đặn và phúc hậu. Câu thơ được cách điệu hóa mang ý nghĩa tượng trưng. Con người chợt hiện lên trên cái nền thiên nhiên tươi mát làm cho cảnh vật sinh động hẳn lên. Con người và thiên nhiên như hài hòa vào nhau tạo nên một vẻ đẹp dịu dàng êm ái và thơ mộng.

Cảnh vật đang trong sáng tươi tắn bỗng trở nên chia lìa tan tác.

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.

Thiên nhiên gợi cảm giác buồn, chia phôi như cuộc tình Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc về sau. Câu thơ đầu của khổ tách ra làm hai nửa “Gió theo lối gió >< mây đường mây”. Gió mây thường sánh bước bên nhau, vậy mà giờ đây gió đã đi đường gió, mây đi đường mây, anh đường anh, em đường em thử hỏi không buồn sao được. Cảnh chuyển động theo nhịp điệu cô đơn, không gian mở ra chiều rộng mà tĩnh lặng vào chiều sâu. Dòng nước cũng biết buồn “buồn thiu” – một nỗi buồn ủ rũ thật khó diễn tả, nó lặng là dến, lặng là buồn. Dòng nước dường như cũng hiểu được' tâm trạng hiu hắt trong lòng thi sĩ. Cái rung động nhẹ của hoa bắp cũng đủ để gợi một nỗi buồn lớn trong suy tư của nhà thơ. Mặc dầu vậy, tác giả không đắm chìm, âu sầu, buồn bã ngược lại rất lãng mạn, thơ mộng. “Thuyền ai”, một câu hỏi dường như mơ hồ mà đã được xác định ngầm. Câu thơ mang đậm tính chất ảo, nó không thực, không cụ thể như ở khổ thơ đầu nữa. “Đậu bến” chứ không là cập bến. “Đậu” mang ý nghĩa tạm bợ, đậu rồi lại bay, lại đi đấy thôi. Con thuyền không đậu ở một bến nào mà lại đậu ở “bến sông trăng” một cái bến của tưởng tượng, của hư vô, huyền ảo. Tác giả bắt đầu lạc sâu vào cõi mộng. Nỗi buồn và cô đơn khiến cho Hàn Mặc Tử đã lạc lôi, đi vào mộng ảo. Hình ảnh con thuyền dậu trên bến trăng, đẹp mà huyễn hoặc đến lạ kì. “Có chở trăng về kịp tối nay”, con thuyền chở trăng thì chỉ có trong ảo ảnh, làm gì có thực ở đời, nhưng câu thơ vẫn gợi cảm giác tò mò, khám phá. Tác giả hỏi mà như sợ rằng sẽ không chở kịp về được thì bao nhiêu trăng ấy tan ra – giấc mộng của thi nhân cũng sẽ biến mất. Dù thực dù mộng đoạn thơ vẫn chứa đựng đầy ắp nỗi buồn của tác giả. Và cảnh vật càng về cuối càng trở nên sương khói, xa xăm huyền ảo.

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà.

Sự nồng nàn tha thiết được thể hiện ở điệu thơ giục giã “mơ khách đường xa khách đường xa”. Với nghệ thuật điệp từ đã bộc lộ niềm khao khát được gần gùi con người xứ Huế của nhà thơ. Tinh của thi nhân với thiếu nữ thật đằm thắm mà hình ảnh thì mộng mị bởi vì chỉ là “mơ” thôi. Ước mơ ấy có bao giờ trở thành hiện thực? Hình ảnh của cô gái xuất hiện mờ mờ, ảo ảo. Tất cả đều nhạt nhòa, nhìn mãi mà không ra, càng nhìn càng xa càng mờ. “Ớ đây” là ở đâu vậy? Nơi anh ở hay nơi em ở? Là trong ảnh hay giữa đời thường? Dù là ở đâu thì hình ảnh của em sương khói cũng đã làm mờ nhòa đi rồi. Sương khói có thể là sương khói thật, cũng có thể là sương khói của thời gian đã xóa đi mọi thứ, nó không còn rõ ràng, chân thực như trước nữa. Thời gian trôi đi cuốn theo bao điều đổi thay, chính vậy mà câu thơ cuối là một câu hỏi đầy thắc thỏm nghi hoặc.

Ai biết tình ai có đậm đà.

Câu thơ gợi một nỗi nhớ, một kí ức bâng khuâng, xa xôi và mờ ảo. Hai từ “ai” cùng xuất hiện trong một dòng thơ nhưng “ai” đầu dùng để hỏi còn “ai” sau là để chỉ người – ai mà biết được tình của ai đó liệu còn đậm đà nữa không? Xa xôi thế, cách trở thế thì cũng có quyền để nghi ngờ chứ.

Câu thơ mở đầu là một lời trách, câu thơ khép bài cũng lại là một lời trách nhưng không phải trách yêu nữa mà đã có phần hoài nghi, nó không còn chần thực, cụ thể, rõ ràng nữa mà đã rơi hẳn vào cõi mộng. Tuy vậy, chính câu thơ cuối đã nói lên biết bao tình cảm dẹt dào, nồng nàn của người hỏi, chính câu hỏi tự nó thể hiện khát khao cho người tình của mình vẫn thủy chung, vẫn đậm đà. Và đó cũng là ước vọng muôn đời về tình yêu của Hàn Mặc Tử.

Với ngôn ngữ điêu luyện, bút pháp tượng trưng lãng mạn Hàn Mặc Tử đã viết nên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giàu sức sống lay động. Nhà thơ đã làm một cuộc trở về trong tâm tưởng bằng tất cả tâ'm lòng yêu mến quê hương, thiên nhiên và con người xứ Huế. Bài thơ như một bức tranh vừa thực vừa mộng chứa đựng bao nhiêu nỗi niềm của người cầm bút, của một cort người bất hạnh mà đầy tài năng. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ tình nhưng lại mang máu thịt của quê hương xứ sở và đậm hồn dân tộc.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 54

Raxun Gamzatop đã từng nói "Đối với nhà thơ thì cách viết, bút pháp của anh ta là một nửa việc làm. Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình-nghĩa là trở thành nhà thơ". Chính vì thế thơ của Hàn Mặc Tử tạo nên dấu ấn sâu sắc trong phong trào Thơ mới bởi phong cách riêng độc đáo. Thơ ông mang đến tiếng nói của một tâm hồn yêu thiết tha cuộc sống. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng thể hiện nổi bật tình yêu của tác giả đối với cuộc đời, nhưng lại ẩn chứa đầy tâm trạng. Hai khổ thơ đầu tác giả đã gợi lên được vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, đến khổ cuối tác giả lại nêu lên những hoài niệm về con người thôn Vĩ :

"Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà"

    Không tìm thấy sự hòa hợp với cõi thực, thi nhân tìm niềm an ủi trong cõi mộng, nhưng mộng đẹp cúng chỉ là hư ảo, dù vậy thi nhân vẫn không thôi khao khát, kiếm tìm. Mở đầu là hai câu thơ nói về hình ảnh con người trong cõi mộng: " Mơ khách đường xa khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra". Điệp từ "Khách đường xa" lặp lại hai lần khiến câu thơ trở nên gấp gáp, giục giã như một lời gọi với theo. Hình ảnh con người xác định hơn bao giờ hết, là "em" nhưng rất xa xôi. Em trong trang phục áo trắng gợi lên vẻ đẹp tinh khôi, trinh nguyên- vẻ đẹp mà Hàn Mặc Tử vẫn luôn tôn thờ, nhưng sắc trắng ấy thật lạnh lẽo, cái lạnh đến từ thế giới hư ảo, mông lung. Sắc áo trắng của em lẫn vào sương khói xứ Huế nên càng mờ mịt, hư ảo, "nhìn không ra". Thi nhân đang sống trong ảo giác, không phải nhìn bằng mắt thường mà bằng đôi mắt tâm tư, đôi mắt tâm hồn của thi sĩ. Hình ảnh trong câu thơ của tác giả vẫn gợi ra vẻ đẹp rất riêng của xứ Huế mộng mơ, một mảnh đất nhiều sương khói mơ màng, những tà áo trắng của nữ sinh Đồng Khánh duyên dáng một thời. Cảnh tượng như hư ảo dần đi, như mơ hồ mãi. Dường như với Hàn Mặc Tử, bóng người con gái ấy cứ hút mãi, xa mãi và cuối cùng chỉ là bóng dáng khát khao, mơ ước của thi nhân. Và bóng dáng ấy chỉ còn là ấn tượng về một tà áo trắng, thanh khiết. Những câu thơ cuối lộ rõ cái tôi trữ tình đau thương và khao khát tình đời, tình người. Trước sau vẫn là biếu hiện của một tâm hồn yêu đời đến đau thương và tuyệt vọng.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 55

Nhắc đến đề tài thơ ca về tình yêu không thể thiếu ánh trăng, cũng như nhắc đến dòng văn học lãng mạn không thể không nhắc đến nhà thơ Hàn Mặc Tử. Thơ ông mang nhiều màu sắc đan xen nhau tạo nên một nét riêng độc đáo. Có những vần thơ nhẹ nhàng, tinh khiết, đẹp tuyệt vời nhưng có những bài thơ mơ hồ, mờ ảo, “điên điên”. Người ta bảo như thế mới là Hàn Mạc Tử. Rút từ tập “Thơ Điên”, bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” là một trong những tuyệt tác thi ca về tình yêu, vừa là những vần thơ trong trẻo, mát lành về thiên nhiên, lại vừa ẩn khuất nỗi lòng khát khao, buồn man mác.  

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được viết trong những năm tháng cuối đời của người thi sĩ tài ba Hàn Mặc Tử, đó là những tháng ngày ông phải một mình chống chọi lại căn bệnh phong hiểm nghèo. Đó là khi ông nhận được tấm bưu ảnh cùng vài lời hỏi han, an ủi từ người con gái xứ Huế ông thầm thương trộm nhớ. Trong những giây phút đau khổ và tuyệt vọng nhất của cuộc đời, ong đã thả mình vào trong thơ, thăng hoa nỗi đau của bản thân thành những dòng thơ ảo mộng, ẩn chứa trong đó một niềm day dứt, nhớ nhung, khắc khoải về tình yêu, về thiên nhiên nơi xứ Huế đẹp như thơ.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi mở đầu bài thơ ngọt ngào nửa như mời chào tha thiết, nửa nhau nhẹ nhàng trách móc người yêu biết bao thương nhớ đợi chờ đã làm thức dậy trong hồn thơ Hàn Mặc Tử về thôn Vĩ, về xứ Huế mơ mộng. Đại từ “anh” trong câu thơ đã tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau. Ta có thể hiểu “anh” ở đây chính là dùng để chỉ tác giả. Và có phải chăng, người con gái e ấp giận hờn trong câu thơ chính là bà Hoàng Thị Kim Cúc với bao tâm tư thầm kín? Chất Huế như ngấm vào cả nhịp thơ, cả chất thơ, khiến câu thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển, lại dịu dàng, đằm thắm như thể những lời tâm tình của đôi lứa yêu nhau.

Cũng có thể hiểu câu thơ giống như một lời mời gọi ý nhị, ngọt ngào mà khó chối từ. Lời mời hấp dẫn rằng Vĩ Dạ thôn em đẹp lắm, nên thơ lắm, sao anh không về thăm, xin mời anh về thăm. Vậy Vĩ Dạ đẹp thế nào, nên thơ ra sao? Điều này được khắc họa sinh động, cụ thể qua những câu thơ sau:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”…

Nhắc đến Vĩ Dạ thôn, hình ảnh đầu tiên hiện lên trong tâm trí nhà thơ chính là cái đẹp thanh khiết, trong trẻo và bình yên của bình minh xứ Huế với hàng cau đượm màu nắng. Bức tranh của thôn Vỹ dần dần hiện lên qua ngòi bút tinh tế của tác giả. Ánh nắng buổi sáng mai tinh khiết, nhẹ nhàng làm cho không gian ở vùng quê trở nên lung linh, dịu nhẹ biết bao. Không gian như cao và xanh hơn nhờ anh nắng ban mai nơi đất Huế. Điệp từ “nắng” càng làm cho không gian trở nên đầy sức sống, làm tăng tính tượng hình, màu nắng như chiếu rọi lên những hạt sương còn đọng lại, khiến từng chiếc lá trở nên lấp lánh, không chói lóa mà vẫn rất rực rỡ.

Ở câu thơ thứ ba: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” nghe hệt như một tiếng reo vừa ngạc nhiên, vừa thích thú, ngưỡng mộ trước cảnh đẹp thiên nhiên. “Vườn ai” dường như ám chỉ một khu vườn nhà "ai" đó mà chỉ “ai” mới biết. Thật tinh tế, kín đáo mà sâu sắc. Ngôn từ được Hàn Mạc Tử sử dụng rất đẹp, rất mềm. Màu xanh của khu vườn không phải xanh thắm, xanh nõn mà là “xanh như ngọc”. Trong trẻo, mát lành và tràn đầy sức sống. Tác giả đặc biệt thành công trong việc sử dụng tính từ “mướt”. “Mướt” ngoài ý nghĩa chỉ sự nhẵn bóng, mềm mại, mượt mà còn có ý nghĩa gợi tả sự non xanh, óng ả, mỡ màng và trong trẻo. Khu vườn chắc hẳn được chăm sóc kỹ lưỡng, chu đáo nên mới có thể tươi tốt, non xanh, nhẵn bóng, ánh lên như ngọc như vậy. Bàn tay ấy phải chăng là bàn tay săn sóc của “ai” trong đại từ “vườn ai” kia? Hay là bàn tay của người núp sau tán trúc trong câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” ?

Trúc là biểu trưng cho người quân tử, lại che ngang khuôn mặt chữ điền của ai đó, có thể là người khách đến thăm thôn Vĩ chăng? Có khi nào là hình ảnh của người nông dân nơi thôn quê thật thà, chất phác đang chăm nom khu vườn mướt xanh như  ngọc? Hay là bóng hồng e ấp núp sau lá trúc che ngang của người con gái nơi thôn Vĩ? Phải chăng là người con gái đang đợi chờ?. “Mặt chữ điền” ở đây tuy không được chỉ rõ là hình ảnh của người nông dân, của vị khách đường xa hay là người con gái thôn quê xứ Huế, nhưng giữa cảnh sắc thiên nhiên như mộng, như thơ ấy lại được lồng ghép bóng dáng của con người thật càng trở nên sinh động. Thật là hai hình ảnh thật đẹp, hài hòa, làm cho khung cảnh thêm vài phần thi vị nhưng cũng lại thật gần gũi, mộc mạc đúng chất quê.

Cảnh vật và con người thật hài hòa, giọng thơ cũng tươi vui, trong trẻo, nhưng bỗng nhiên đến khổ thơ thứ hai, giọng thơ lạc đi, chùng xuống:

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Cảnh vật lúc này không còn là ở trong vườn nữa. Khác hẳn với khổ thơ đầu tiên mướt xanh sự sống, khổ này tràn ngập tâm trạng u buồn, cô đơn đến lặng người của sự chia ly, xa cách và khắc khoải. Giọng thơ có gió, có mây, có nước, có hoa mà sao chua xót và đầy ám ảnh.

Vốn dĩ mây và gió luôn chung đường với nhau nhưng trong thơ Hàn Mạc Tử lại là “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não nề và đau lòng. Tâm trạng buồn chán, đau đớn của thi sĩ như thể đỏ òa lên cả cảnh vật xung quanh, giống như câu thơ bất hủ của Đại thi hào Nguyễn Du:

“Cảnh nào cảnh chẳng mang tình

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Gió thổi mây bay, vốn không thể tách rời, nhưng gờ đây chia lìa đôi ngả, đường ai nấy đi. Đồng thời, hình ảnh “hoa bắp lay” nhẹ nhàng và rơi rụng xuống dòng sông khiến cho người đọc có cảm giác có cái gì đó đang vỡ tan ra. Nỗi buồn ở đây thật khác, mang dư vị riêng, là “buồn thiu”, buồn đến não nề, tê buốt. Tác giả đã mượn hình ảnh thiên nhiên để nói đến tình cảnh của mình hiện tại. Phải chăng đó là do mang  nặng mặc cảm của một người thiết tha gắn bó với đời mà lại sắp phải ra đi, cùng với mối tình đơn phương dang dở chưa kịp có những giây phút gặp gỡ ngọt ngào đã vội rơi vào cảnh ngộ chia xa?

Thơ Hàn Mặc Tử không thiếu ánh trăng. Một dòng sông tràn ngập ánh trăng, một con thuyền chở đầy trăng, một bến đò trăng và một tấm lòng sáng như trăng luôn chờ đợi, khắc khoải. Thuyền và trăng luôn là những hình ảnh gần gũi đối với thơ ca, Hàn Mạc Tử đã mượn hình ảnh thuyền và trăng để nói lên tình cảm, nỗi lòng của mình. Ở hai câu cuối khổ thơ, người đọc dường như cảm nhận ra một điều gì đó mơ hồ, kì ảo. Đó chính là đặc trưng của thơ Hàn Mạc Tử. Kỳ ảo chính ở cái đầy đủ, viên mãn của chính ánh trăng đang lấp đầy thuyền, lấp đầy sông nhưng lại không lấp nổi lòng người.

Cách sử dụng câu hỏi tu từ ở câu thơ cuối “có chở trăng về kịp tối nay” như bỏ ngỏ, không có ai trả lời. Một từ “kịp” cũng đủ khiến nhịp thơ đột nhiên hối hả, vội vã. Nó giống như một câu hỏi người mà như thể hỏi chính mình, câu hỏi chua xót đến lặng người. Phải chăng tác giả đang mặc cảm về thời gian ngắn ngủi của cuộc đời? giờ đây với ông, sống chính là chạy đua với thời gian, đánh cược với tử thần. Chữ “kịp” kia là kịp để làm gì đây? Kịp về? Kịp yêu thương? Kịp nhớ hay để kịp chờ?  

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

Từ cõi tỉnh ta bước vào cõi mơ. Không gian cũng trở nên mờ ảo, chẳng biết vì bị bao phủ bởi ánh trăng hay bao phủ bởi nỗi buồn, day dứt lẫn bâng khuâng? Điệp từ “khách đường xa” thể hiện rõ nét tâm trạng khắc khoải nhớ mong về khoảng cách xa vời của một mối tình đơn phương, vô vọng. Đến đây, hình ảnh người con gái Huế dù cho đã xuất hiện rõ nét hơn nhưng vẫn còn rất mơ hồ, mơ hồ đế mức chỉ như một giấc mộng, dẫu thấy áo nhưng lại “nhìn không ra”.Tưởng chừng chính là “em” nhưng lại không phải “em”. “Em” gần thế nhưng mà lại hóa ra xa. Gần gũi vì những hoài niệm trong lòng, nhưng lại bị chia lìa bởi khoảng cách vô hình của thời gian và khoảng cách không gian.

Đại từ phiếm chỉ “ai” một lần nữa xuất hiện cùng câu hỏi như càng làm tăng thêm sự dằn vặt, day dứt, khúc mắc trong tâm hồn. “Ai biết” “tình ai” . Vậy “ai” ở đây là ai? Phải chăng là tác giả? Phải chăng là người con gái Huế thương trong tà áo dài trắng? Câu hỏi lửng lơ chẳng có nổi câu trả lời cứ giống như ánh trăng trên dòng sông, “tình ai” cũng vậy, như ánh trắng trên mặt nước, chỉ có thể nhìn ngắm, nếu chạm vào liệu có phải sẽ vỡ tan? Bài thơ kết thúc vứi một câu hỏi băn khoăn, khắc khoải mà dằn vặt, cứ khiến người đọc vấn vương, day dứt mãi không thôi.

Có người nói rằng “Đây thôn Vĩ Dạ” là nốt nhạc hồn nhiên, trong trẻo đến lạ thường, là bài thơ khác biệt nhất trong tập thơ Điên. Có lẽ đó là do sự trong trẻo, thơ mộng của cảnh sắc thiên nhiên, cũng có thể là do sự hồn nhiên, trong trẻo xuất phát từ chính trái tim khát khao được sống, được yêu, được tha thiết với đời, với người của thi sĩ Hàn Mặc Tử.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 56

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa với lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hòa vào nhau. Mở đầu bài thơ là một lời trách móc nhẹ nhàng của nhân vật trữ tình:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chan chứa bao yêu thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua không được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô xinh xắn thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế. Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét đặc sắc của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu tiên đến đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm bắt đầu của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những tia nắng sớm kia, và tất cả tràn ngập ánhnắng vàng buổi bình minh. Cái “nắng hàng cau nắng mới lên” sao lại gợi một nỗi niềm làng mạc quê hương đến thế. Câu thơ này bất chợt khiến ta nghĩ tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài Xuân lòng:

Nắng xuân tưới trên thân dừa xanh dịu
Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh
Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu
Và chảy tan qua kẻ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý nghĩa là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rỡ nồng nàn. Đó là những tia nắng đầu tiên chiếu rọi xuống làng quê mà trước hết nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, lấp lánh như những viên ngọc được đính vào chiếc áo choàng nhung xanh mịn:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc.

“Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đến thẩn thờ”. Đến câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược hiện ra, nhắm mắt vào ta cũng hình dung ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sự sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm gội rửa trở thành cành vàng lá ngọc. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có “xanh như ngọc” mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quý, không một chút gợn, một màu xanh tỏa ánh tạo nên vẻ đẹp óng ánh, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng không khí đang còn run rẩy sự trinh bạch nguyên sơ chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai đã từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt là ở xứ Huế thì mới thấm thía những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia nhánh lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất ngờ mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang khuôn mặt chữ điền. “Mặt chữ điền” – khuôn mặt ấy chỉ hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cạnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ đầu đã hé mở tình yêu, tác giảchuyển sang tả cảnh sông, với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong, sầu muộn hư ảo như trong giấc mộng:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Gió và mây đã gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn: gió đi theo đường của gió, mây đi theo đường của mây, gió và mây xa nhau; không thể là bạn đồng hành, không thể gặp gỡ và sự xa cách của nhà thơ với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm quan của nhà thơ trong xa cách nhớ thương, và đây cũng là mặc cảm của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, giã biệt đọng lại trong lòngngười phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta không còn thấy giọng thơ tươi mát đầy sức sống như ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tử thì dòng sông trôi lửng lờ của xứ Huế chỉ là “dòng nước buồn thiu” gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa bắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những con người sống trong vòng đời tối tăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bến bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp con người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạn khác sống cùng thời với Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh trăng, một ánh vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! “Dòng nước buồn thiu” đã hóa thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã hóathành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Ý thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài hoa, thật là thơ đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình quê chưa bị phôipha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các bài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gợi, lả lơi: "Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa -Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô"hay:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.

“Trăng trở thành một khí quyển bao la mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông”. Nó là ông, là trời đất, là người ta. Trăng biến hóa vô lường trong thơ ông, khi hữu thế khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng. Trở lại với dòng sông trăng trong Đây thôn Vĩ Dạ. Ởđây sông là sông trăng nhưng thi nhân lại xót xa hỏi:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp chở trăng về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi. Vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi được vầng trăng hạnh phúc đó nữa, mộtnăm sau ông vĩnh biệt cuộc đời. Nhưng hiện tại, con người còn đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Trái tim khao khát yêu thương, nhưng nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả thấy choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu. Hình như giữ những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?

Câu thơ tả thực cảnh Huế, Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó có như nhòa đi và có thể tình người cũng nhòa đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong những câu thơ ấy. những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu, họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ hỏi:

Ai biết tình ai có đậm đà?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hi vọng, đó chỉ là sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thẩn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ “ai”, mở đầu: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”; tiếp đến “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” và kết thúc: “Ai biết tình ai có đậm đà?” càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của miền quê đất nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghệ thuật gợi liên tưởng, hòa quyện thiên nhiên với lòng người. Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc. “Tình yêu trong ước mơ của con người đau thương ấy có sức bay bổng lạ kì” nhưng nó cũng giản dị, trong sáng, tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ. Xin thành kính thắp một nén nhang trước một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim suốt cuộc đời thổn thức vì tình yêu, một tâm hồn thi sĩ đã thăng hoa nỗi đau thương, bất hạnh của đời mình thành những đóa hoa thơ mà trong đó thơm ngát nhất, thanh khiết nhất là Đây thôn Vĩ Dạ.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 57

"Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay"

Dòng sông Hương hiện ra mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, ảm đạm như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa hắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối lăm, bế tắc. Mặt nước sông Hương êm quá gợi đến những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các nhà thơ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được nối tiếp trong hai câu sau nhưng với cách diễn đạt, thật tuyệt diệu, thực đấy mà mộng đấy:

"Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

 Cỏ chở trăng về kịp tối nay?"     

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật thiên nhiên tràn ngập ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng loáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong ngôn ngữ thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhàng, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu bao la, nồng cháy đến vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các hài thơ khác không giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gởi, lả lơi:

"Gió tít tầng cao trăng ngã ngửa   

Vờ tan thành vũng đọng vàng kho."

          Hay:

"Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi."       

Trăng trở thành một khí quyển bao quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thân xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng biến thành vô lường trong thơ ông, khi hữu thể khi vô hình, khi mê hoặc khi kinh hoàng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?       

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông mặc cảm về thời gian cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện tại, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra;           

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh         

Ai biết tình ai có đậm đà ?                 

Trái tim khao khái yêu thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu ấy, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

Hình như giữa những giai nhân áo trắng ấy với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân không khỏi không nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

 Ai biết tình ai có đậm đà?        

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Nhà thơ không tả cảnh mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ ấy. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu họ có đậm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc; tiếp đến Thuyền ai đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Ai biết tình ai có đậm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền đất nước qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy yêu thương của nhà thơ với nghe thuật gợi liên tưởng, hoà quyện thiên nhiên với lòng người.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.


Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 58

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ? ” Với giọng thơ ân cần triều mến khi mở đầu bài thơ. Tác giả tự sự khẳng định việc thăm hỏi ân cần ấy không phải là trong mơ. Với những ánh nắng, hàng cau, vườn xanh như ngọc, lá trúc… Tất cả được sử dụng như một thứ “tiên dược” có tác dụng nhiệm màu đối với người bệnh

“Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”, rồi không gian  “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Chỉ có những người giàu trí tưởng tượng, ngôn từ phong phú mới có thể cho người đọc cảm giác như thật.

Ở đâu đó trong ký ức trở về một bức chân dung “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”… Có thể nói qua lời thơ, cho chúng ta thấy tác giả là một người có tình yêu quê hương sâu sắc.  Trong khổ thơ thứ 2, tác giả sử dụng hình ảnh trăng Vàng như một người bạn. Để làm vơi đi nỗi sầu thương ” Có chở trăng về kịp tối nay ” 

Đoạn kết thúc tác giả như muốn nương nhờ cái đẹp của tình người làm liệu pháp cứu rỗi ” Ai biết tình ai có đậm đà”.

Tác giả dùng bút pháp gợi tả với ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng để nói về Thôn Vĩ Dạ. Có nắng lên, có trăng đợi, có sương khói.. Đây là tiếng lòng của một người yêu quê hương tha thiết. 

Bài thơ với giọng điệu nhẹ nhàng như cái vẻ đẹp vốn có của Thôn Vĩ Dạ. Thế nhưng nó bị xé lẻ ra một gió, một mây, một trăng..như cuộc đời ngắn ngủi của ông. Để rồi tự vấn rằng  “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Đến đây ai cũng nghẹn ngào, tiếc thương cho một thi sĩ tài hoa nhưng lại bạc mệnh.  ” Trăng là của Hàn Mặc Tử ” từ đây mà ra. Như một món quà mà người đọc muốn dành cho ông. 

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 59

Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân xếp Hàn Mạc Tử vào nhóm thơ “kì dị” cùng với Chế Lan Viên. Học thơ Hàn Mặc Tử, nhiều bài quá là kì dị. Ông đã tạo ra cho mình “một thế giới nghệ thuật điên loạn, ma quái, xa lạ với đời thực”.

Tuy vậy, bên cạnh những vần thơ điên loạn, thi sĩ nhiều khi lại sáng tạo nên những hình ảnh tuyệt kĩ và hồn nhiên, trong trẻo lạ thựờng. Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ như thế. Học bài thơ, ta thấy được một phương diện rất đẹp của tâm hồn nhà thơ.
 
Có tài liệu cho rằng bài thơ được gợi hứng từ bức ảnh phong cánh Huế cùng mấy lời thăm hỏi của Hoàng Cúc, người con gái thôn Vĩ Hạ xứ Huế, cũng là người mà Hàn Mặc Tử đã thầm yêu trộm nhớ người xưa. Vì thế bài thơ vừa làm sống dậy những kỉ niệm về Huế mộng và thơ, vừa thể hiện được tâm trạng buồn và vô vọng, chập chờn, làng dàng như sương, như khói.
 
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
 
Câu thơ mở đầu này vừa như một câu hỏi, vừa như một lời mời gọi, trong đó hàm chứa cả sự ngạc nhiên lẫn niềm nuối tiếc. Cảnh Vĩ Dạ đẹp thế, hấp dẫn là vậy sao anh không về?.
 
Cảnh thiên nhiên tươi đẹp thôn Vĩ Dạ hiện lên qua một vài nét vẽ thoáng nhẹ, nhưng lại đầy ấn tượng. Cái ấn tượng vốn đã ăn sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ về xứ Huế. Cảnh vật ở đây dường như được sàng lọc qua tâm trí nhà thơ, chỉ giữ lại những đường nét tiêu biểu nhất. Một buổi sáng ở thôn Vĩ, ánh nắng chiếu sáng lấp loáng những hàng cau còn ướt đẫm sương đêm. Hàng cau hiện lên trong một khoảnh khắc đặc biệt, gắn liền với cái ánh nắng mới lên trong trẻo, tinh khôi, cụ thể và gợi cảm.
 
Tả canh vườn cây tươi mát, sum suê, Hàn Mạc Tử chi tập trung làm nổi bật cái mướt xanh của lá: Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Cảnh vật ấy như sinh động hẳn lên khi thấp thoáng xuất hiện bóng người, một khuôn mặt kín đáo, phúc hậu, dịu dàng:
 
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
 
Thiên nhiên và con người rất hài hòa, gợi lên cái thần thái, cái hồn của Vĩ Dạ, một Vĩ Dạ vốn thơ mộng, vì có nắng ở đó, trong những vườn tược, nên lại càng thơ mộng hơn đâu hết.
 
Ở khổ thơ thứ hai, tâm trạng nhà thơ như chuyển hẳn sang một gam khác, Nếu như ở khổ thơ đầu, một Vĩ Dạ với cảnh vật tươi sáng trong trẻo lạ thường thì đến khổ thơ này, một nỗi buồn đã bao phủ lên tất cả. Sự chuyển biến đột ngột từ vui sang buồn như thế khá phổ biến trong Thơ mới và văn chương lãng mạn nói chung:
 
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
 
Phải chăng Huế ở khổ thơ đầu là Huế trong kí ức đẹp ngày xưa, còn Huế ở khổ thơ thứ hai là Huế trong tâm trạng của nhà thơ khi trở về hiện tại. Thôn Vĩ Dạ hiện lên vẫn thơ mộng với gió, trăng, mây nước, thuyền bên và hoa bắp lay. Nhưng tất cả đều nhuốm một nỗi buồn. Tâm trạng của người buồn nhìn đâu cũng thấy chia lìa và buồn bã:
 
Gió theo lối gió, mây đường mây
 
Gió mây đã chia lìa đôi ngã, dường như chẳng có quan hệ gì; dòng nước vốn chẳng biết vui buồn cũng trở nên buồn thiu. Hình ảnh hoa bắp lay gợi một nỗi buồn hiu hắt. Một nỗi buồn bao phủ từ bầu trời đến mặt đất, từ gió, mây dến dòng nước và hoa bắp bên sông. Đằng sau những cảnh vật ấy là một tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng. Giờ đây tất cả chỉ còn trong cõi mộng cả cảnh vật cũng như tình người. Một không gian tràn ngập ánh trăng, một dòng sông trăng, một bến đò trăng, một con thuyền đầy trăng... Cảnh thật thơ mộng nhưng buồn mênh mang:
 
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
 
Nhà thơ như không còn sống với cảnh vật bên ngoài nữa, mà chìm đắm trong cõi lòng riêng của mình. Sống với cảnh mộng và với người trong mộng, Hàn Mặc Tử, ở khổ thơ cuối, như đối thoại trong mơ với một đối tượng hư ảo:
 
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
 
Hình ảnh của cô gái thôn Vĩ ngày xưa chập chờn trong cõi mộng tạo cho nhà thơ một cảm giác bâng khuâng, ngơ ngẩn. Màu áo trắng của cô gái Huế trắng quá như lẫn vào sương khói. Sương khói của đất trời xứ Huế hay là sựơng khói của thời gian và không gian xa cách phủ lên một mối tình cũng thật xa vời.
 
Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi và kết thúc bằng một lời đáp lại. Nhưng lời đáp
cũng là mội câu hỏi. Phải ai biết tình ai có đậm đà để có thể trở về thăm thôn Vĩ?
 
Hàn Mặc Tử đã mất nhưng bài thơ thôn Vĩ vẫn còn đó. Bài thơ ấy đã vượt qua lớp sương khói của thời gian để bất tử hoá một mối tình tuyệt vọng nhưng rất đỗi thiết tha, trong sáng.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 60

Trong vườn Thơ mới với trăm hương sắc ngọt ngào, người ta đã phong cho Hàn Mặc Tử là thống soái của một trường thơ: Thơ điên. Chỉ với 28 tuổi đời (1912 — 1940) mà ông đã để lại cho nền văn học dân tộc hàng trăm vần thơ đẹp. Đến với thơ Hàn Mặc tử, ta bắt gặp một tâm hổn say trăng đến kì lạ:

Mở cửa nhìn trăng, trăng tái mặt

Khép phòng đốt nến, nến châu rơi

Thơ của ông rợn ngợp trong “hồn” và “trăng” vừa thực vừa mơ. Hồn thơ của ông mãnh liệt nhưng luôn quằn quại đau đớn, dường như có một vật lộn và giằng xé dữ dội giữa linh hồn và thể xác. Những tưởng bước vào đó chỉ có “hồn” và “trăng”, cuồng điên và bệnh hoạn nhưng những vần thơ trong trẻo như Đây thôn Vĩ Dạ buộc mỗi độc giả chúng ta phải có cái nhìn khác đi về nhà thơ đa tài nhưng bạc mệnh này. Đây thôn Vĩ Dạ khiến lòng người phải nghiêng nghiêng về một tình yêu vô bờ bến của tác giả đối với Vĩ Dạ, với những con người Huế

Sao anh không về chơi thôn Vĩ? 
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên, 
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc 
Lá trúc che ngang mặt chữ điền. 
Gió theo lối gió, mây đường mây 
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay… 
Thuyền ai đậu bến Sông Trăng đó, 
Có chở trăng về kịp tối nay? 
Mơ khách đường xa, khách đường xa, 
Áo em trắng quá nhìn không ra… 
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh, 
Ai biết tình ai có đậm đà ?

Nhắc đến Đây thôn Vĩ Dạ, ta không thể quên được mối tình tuyệt vọng của thi nhân và giai nhân xứ Huế là Hoàng Thị Kim Cúc. Bệnh tật đã dứt lìa nhà thơ  ra khỏi nhiều ước mơ của tuổi trẻ trong đó có khát khao về tình yêu đôi lứa. Những năm cuối đời, Hàn Mặc Tử đã nhận được một bức bưu ảnh “có mây, có nước, có chiếc đò ngang với cô gái chèo đò, có mấy khóm tre, có cá ánh trăng hay ánh mặt trời chiếu xuống nước” cùng mây lời thăm hỏi của cố nhân, xúc động với tấm lòng của bạn cũ, tác giả đã sáng tác bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ với 3 khố thơ 12 câu tả cảnh ngụ tình để đáp lại tình cảm của người xưa. Nhớ đến người xưa, cảnh xưa ta sẽ nhớ đến Vĩ Dạ thôn.
Mở đầu cho một bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc ấy, không phải là một câu miêu tả mà là một câu hỏi tu từ, một câu trách yêu hờn dỗi, là lời mời tha thiết, nhẹ nhàng với giọng thơ êm dịu, tình tứ như giọng nói dịu dàng của người con gái Huế:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Câu hỏi như hàm chứa lời trách yêu rằng: lâu quá rồi “Sao anh không vể chơi thôn Vĩ, về thăm em?”. Cảnh cũ, người xưa vẫn cứ thấp thoáng gợi lên bao hoài niệm thân quen. Câu hỏi sử dụng từ “chơi” thay cho từ “thăm” càng tạo nên sự gần gũi, thân thương đối với cảnh vật và con người nơi thôn Vĩ. Chúng ta ngẫm kĩ thêm chút nữa sẽ thấy ẩn chứa bên trong câu hỏi là một lời tự vấn của chính bản thân tác giả. Ông mượn những lời thôn nữ Vĩ Dạ hỏi “anh” nhưng cũng chính là câu hỏi tự đặt ra để hỏi chính bản thân của mình rằng sao lâu quá rồi không về thăm nơi thôn Vĩ? Đây cùng chính là nỗi giãi bày nỗi niềm thương nhớ của tác giả làm cho bao kỉ niệm xa xưa nay lại sống dậy trong lòng, trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người nơi xứ Huế mộng mơ, với những khu vườn tươi tốt, hoa trái ngọt, phong cảnh hữu tình. Như lời ca ngợi của nhà thơ Bích Khê về Vĩ Dạ:

Vĩ Dạ thôn! Vĩ Dạ thôn!

Biếc che cành trúc không buồn mà say.

Bản quyền bài viết này thuộc về. Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn

Đối với riêng Hàn Mặc Từ, Vĩ Dạ đã từng in đậm dấu ấn của người thương để lại trong lòng bao nỗi khắc khoải:

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ

Em lấy chồng rồi hết ước mơ.

Về với Vĩ Dạ là về  với bao cảm xúc mới và đón chào những điều đặc biệt:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Cảnh vật được mở ra với muôn cây tươi tốt, một bức tranh thiên nhiên toàn đầy sức sống. Cau từng hàng mọc vươn lên trong nắng mới như đón chào những vị khách phương xa. Cảnh sắc bình minh rực rõ với ánh “nắng mới lên” là những ánh nắng sớm, là những nắng đầu tiên trong ngày, nắng còn lẫn sương vói khơi một cảm giác hư vô trong trẻo tinh khôi đến lạ thường. Cấu trúc câu thơ rất đẹp (nắng – cau – nắng), gợi sự quân quýt giữa cau thôn Vĩ và ánh nắng ban mai. Cảnh thật hữu tình! Dường như hàng cau được phát sáng nhờ những tia nắng mới và ngược lại, nắng đẹp hơn lung linh hơn khi chiếu rọi xuống những hàng cau thôn Vĩ. Cả hai tô điếm cho nhau làm nên một ý thơ đầy thi vị.
Sang đến dòng thơ sau, không gian nghệ thuật hạ xuống thấp hơn. E ấp dưới hàng cau xanh vững chãi là “vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ hoa lá, màu xanh mơn mởn non tơ ngòi lên, bóng lên dưới ánh bình minh trông “mướt quá”. Mưót” là vì mượt mà, óng ả, mướt của một màu xanh rất đặc trung được liên tưởng độc đáo “xanh như ngọc”. Xanh như ngọc chứ không phải là xanh ngọc. Cách so sánh tinh tế khiên cả khu vườn thôn Vĩ đẹp tuyệt vời như một viên ngọc bích. Câu thơ gợi vẻ quyến rũ, long lanh tươi trẻ đầy sức sông dưới bàn tay chăm sóc của ngườ Vĩ Dạ cần cù và đất đai màu mỡ, khí hậu ôn hòa nên cảnh vật quanh năm tươi tốt, xum xuê. Nhưng khu vườn ấy là của ai? Có cụ thể không? Với cách sử dụng đại từ phiếm chỉ “ai”, thi nhân đã nhìn cảnh vật bằng đôi mắt trữ tình, bởi lẽ từ ai không xác định cụ thể, rõ ràng, nó gợi lên những tình cảm sâu kín, những yêu thương e ấp.

Nhớ ai dãi nắng dầm sương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.

Từ “ai” được nhắc đến và cụ thể  hơn ở: Lá trúc che ngang mặt chữ điền “Ai” ở đây là giai nhân, người xuất hiện sau lá trúc e lệ, kín đáo và tình tứ của người con gái xứ Huế mộng mơ. Dùng một vài nét ước lệ, nhà thơ mượn thơ trong nhân gian để gợi tâm hồn, gợi lên tâm lòng của người thiếu nữ:

Mặt em vuông tựa chữ điền

Da em thì trắng áo em đen mặc ngoài

Lòng em có đất có trời

Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung.

(Ca dao)
Gương mặt chữ điền phúc hậu lại ẩn hiện qua đường nét thanh mảnh của lá  trúc gợi ra sự duyên dáng, dằm thắm của các cô gái xứ Huê. Nhưng đằng sau cái cảnh vật nên thơ ấy đang chứa đựng những tình cảm kín đáo nơi niềm nhớ thương mong đợi của thi nhân. Dù xa xôi nhưng tác giả  vẫn hướng mình về Vĩ Dạ. Và Vĩ Dạ mãi mong anh trở về thăm. Lời thơ tha thiết một chân tình chưa thế nói hết. Người ấy, tình ấy, khiến cảnh thôn Vĩ càng thơ mộng hơn.
Sang đến khố thơ thứ hai vẫn nổì tiếp mạch thơ, vẫn là những vần thơ trong trẻo, dịu dàng, Nhưng một không gian thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm lại được mở ra cảnh vật giờ đây chỉ còn là sự tan tác chia li                                                   ;

Gió theo lới gió, mây đường mây   

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay    

Làn gió ở đây thổi rất nhẹ không đủ sức đế cuốn trôi mây, không đù sức để  làm  cho nước gợn, bởi thế nên dòng nước đã phớt lờ nhưng không buồn cuộn chảy. Gió chỉ  đủ sức làm cho hoa bắp lay động càng gợi lên nổi buồn hiu hắt Trong tiếng Việt từ “lay” vốn không nảy sinh cảm xúc nhưng đặt trong hoàn cảnh này thì nó lại chất chứa một nỗi niềm tâm sự. Đã  hơn một lần ta bắt gặp động từ này trong ca dao Huế.

Ai về Giồng Dứa qua truông

Ció lay bông sậy bỏ buồn cho em.

Với giọng thơ nhẹ  nhàng thoáng buồn, cảnh vật trở nên êm đềm, không gian vắng lộng, mơ buồn. Nghệ thuật đối lập “Gió theo lối gió” đối với “mây đường mây” khiến câu thơ như gãy đôi ra gợi sự chia lìa đôi ngả. Nhưng cái đáng nói ở đây lại là sự chia lìa giữa những hình ảnh thiên nhiên vốn đi liền với nhau (Gió thổi mây theo về), đằng này thì gió đường gió // mây đường mây. Phải chăng trong hình ảnh thiên nhiên ấy chứa đựng nỗi sầu chia li của lòng người? Một dự cảm buổn và lòng khao khát giao hòa với đời, với người cúa thi nhân đã lan tỏa ra cảnh vật, khiến dòng nước cũng trở nên buồn thiu trĩu nặng một tâm sự, một niềm trắc ấn khôn nguôi.
Nỗi niềm ấy bật lên thành hai câu hỏi da diết, khắc khoải:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Câu thơ gợi tả cảnh Vĩ Dạ đò giang tuyệt đẹp nhưng đượm buồn. Hỏi nhưng thật ra tác giả đang hỏi chính lòng mình khi nhớ đến đò xưa bến cũ. Sông Hương bây giò là sông trăng/ hình ảnh trăng là hình ảnh quen trong thơ Hàn Mặc Tử. Thơ anh ngập tràn ánh trăng, thừa mứa ánh trăng đến mức đem đi rao bán. Trăng đối vớii thi nhân là bạn tri âm tri ki. Nói vậy, ta có thể hiếu trăng theo nghĩa đó. Trăng chính là hình ảnh tượng trưng cho tình người tình đời mà Tử đang khao khát. . Khao  khát lại càng tội nghiệp hơn khi ta chợt nhớ đến bi kịch của thiên tài đang phải đối mặt. Đó chính là căn bệnh quái ác đang hành hạ lính hồn và thể xác anh.
Chính bi kịch ấy khiến cho một người yêu trăng, say trăng, giờ đây lại đang đói trăng, đang khát thèm trăng. Hai dòng thơ bật lên, vẽ ra hai không gian đối lập: Ngoài ấy (cuộc đời) và trong này (thi nhân). Nếu ngoài ấy trăng dư giả, đầy tràn cả không gian (sông trăng, bến trăng, thuyền trăng), cả thời gian (cả một đêm trăng). Thì ngược lại, trong này, thi nhân đang khao khát trăng đến cháy bỏng đến khắc khoải thành một nỗi niềm băn khoăn, trăn trở:
“Có chở trăng về kịp tối nay?”. Câu thơ là một nỗi đau, nỗi đau giày vò về  thể xác, cơn đau tính thần giằng xé, bệnh tật, cô độc, tuyệt vọng:
Mây chết đuối ở dòng sông vắng lặng
Trôi thây về xa tận cổ vô biên
Giữa lớp lớp những dòng thơ điên loạn, ma quái khổ đau đó, chính tác giả đang mang trong mình một tâm trạng lo lắng. Từ “kịp” làm tăng thêm sự băn khoăn, lo âu, đau buồn của tác giả. “Chở trăng” như chờ những tình yêu thương nhưng lại phải kịp tối nay. Câu thơ nghe sao mà xót xa lòng. Phải chăng chỉ tối  nay? Chỉ tối nay thôi sao? Đúng vậy. Nếu không kịp tối nay thì rất có thể đây sẽ là lần chia tay vĩnh viễn. Câu thơ khắc khoải một nồi niềm, một dự cảm xót xa, đồng thời cũng thể hiện một niềm khát khao muốn được giao cảm với đời của thi nhân. Thật không nỗi khổ đau nào hơn là phải sống trong xa lánh, cô độc với người đời. Đối với thi nhân thì đây là một án tử mà anh phải đeo mang, gánh chịu.
Ông sợ cuộc sống của ông không thể kéo dài được nữa, ông sợ mình sẽ không còn co hội để  về thăm Vĩ Dạ, về thăm những con người nơi xứ Huế. Giũa muôn trùng câu nhớ và vẻ đẹp hữu tình nơi xứ Huế dã nói lên một tình yêu thầm kín cùa tác giả, một tình yêu kín đáo dịu dàng.
Để cho kỉ niệm đưa tâm hồn mình về với thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử như chìm đắm trong cảnh vật nhưng cũng không thôi trăn trở với tâm trạng của một người luôn mang mặc cảm của tình yêu đơn phương, mặc cảm bệnh tật, mặc cảm bị xa lánh. Và, trước hình ảnh người thiếu nữ Huế thoáng  hiện, trắng trong, kín đáo, gần mà như xa, thực mà mơ khiến tác giả phải thốt lên:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

“Khách đường xa” gợi sự xa vắng. “Khách đường xa” ở đây có thể là con người thôn Vĩ, những người du khách hay chính những người giai nhân mà chính tác giá đã từng mơ ước. Với nghệ thuật điệp từ “Mơ khách đường xa, khách đường xa” gọi ta liên tưởng đến trong giấc mơ khắc khoải mà dường như mĩ nhân đó đang đi xa nhà thơ, nên câu thơ giống như một tiêng lòng thảng thốt. Hình ảnh “áo trắng” kết hợp với ” khách đường xa” trong không      gian mơ hồ tựa như trinh nữ. sắc trắng thường đem đến cảm giác thanh thoát tinh khôi. Nhung ở đây, ta lại có cảm giác bất thường. Bởi sắc trắng đó nhu làm mờ nhòe thị lực của nhà thơ, khiến “nhìn không ra”. Câu thơ chập chờn bâng khuâng, mờ ảo của “sương khói” Vĩ Dạ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà

Tất cả ý thơ của hai câu đầu tạo nền đề cho hai câu sau, bao dồn nén cho trăn trở, nhức nhối của “sương khói”, của đại từ phím chỉ “ai”. Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà phủ qnờ sương khói. “Sương khói” trong thơ Đường gắn liền với tình cố hương. Ở đây “sương khói” đã làm nhòe đi, đã che khuất  bóng người. Còn tác giả thì đã biết mình mắc căn bệnh hiếm nghèo, một bên là cõi sống non tơ và tình thơ hé mở, một bên là nỗi cô đơn, bệnh tật với cỏi hư vô đang ám ảnh giày vò. Cuộc đời của Hàn Mặc Tử càng trớ nên cay đăng, đau khổ ở trong lòng thể hiện rõ nhất ở câu thơ cuối

Ai biết tình ai có đậm đà?

Một câu hỏi tu từ không lời đáp và đó còn là tiếng kêu tuyệt vọng đớn đau, hai đại từ  phiếm chỉ “ai” cùng tô đậm thêm tính đa nghĩa cho câu thơ và nhất là đã khơi gợi lên một nỗi niềm u ẩn, mênh mang sâu lắng trong lòng thi nhân. Và đây cũng  như là câu trả lời cho câu hỏi  đầu bài “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?  Kết cấu đầu cuối hô ứng lạo nên một bài thơ đặc sắc. với cấu tứ rất đẹp va tình của thi nhân đối với Huế cũng rất sâu sắc. Không chỉ thế bài thơ giúp người đọc thêm cảm thương cho nhà thơ tài hoa, đa tình mà bạc mệnh, từng say đắm với mối tình tha thiết nhưng suốt đời  phải sống trong bệnh tật. Ngoài ra, ta cũng cần  nhìn nhận đôi chút về đại lừ “ai”, “ai” trong bài thơ có tất cả 4 lần xuất hiện, cả 4 lần đều mơ hồ, ảo ảnh. Đều nói về cái xa vời, khó với, nhà thơ cảm thấy mình hụt hẫng, chới với  giữa hư và thực; mộng và ảo. Một chút hi vọng mong manh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ đi trong sương khói.

Hàn Mặc Tử đã để lại cho to một tứ thơ đẹp : cảnh và người, mộng và thực ,say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ, bao hình ảnh đẹp hội tụ trong 3 khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ tình tuyệt vời. Tuy có ngậm ngùi xót xa nhưng vẫn thiết tha yêu đời, , yêu thiên nhiên. Bài thơ đã tô  đậm thêm tình thương, tình yêu, tình người, tình đời  và cả tình yêu quê hương đất nưóc, làm nên một kiệt tác xinh xắn của thi ca Việt Nam.  Chế Lan Viên đã nhìn nhận “Mai sau những cái tầm thường mực thước sẽ biến tan đi, và còn lại của cái thời kì này chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử”

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 61

Không ở đâu tôi thấm thía nỗi đau đời như trong thơ Hàn Mặc Tử. Thơ Hàn khi mờ ảo khi điên cuồng, khi ai oán… Những vần thơ như tiếng khóc, những vần thơ rỉ máu khiến mỗi lần đọc tôi như thắt lại. Thế nhưng song song với niềm đâu vẫn có những vần thơ thật đẹp, thật tươi của thiên nhiên đất trời. Hai mạch cảm xúc ấy xuyên suốt trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.  

Ta biết đến Hàn Mặc Tử như một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh. Hàn Mặc Tử quá nửa đời người sống cùng bệnh tật, bị hắt hủi phải sống những năm tháng cuối đời ở trại phong Tuy Hòa. Bệnh tật hành hạ nhưng vượt lên trên nỗi đau ấy là những sáng tác rất giá trị của ông để lại cho đời. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được Hàn Mặc Tử sáng tác khi ông đã mắc bệnh nặng, vì thế hình ảnh và cảm xúc trong thơ đan xen nỗi nhớ quê hương và nỗi đau thực tại.

Bài thơ bắt đầu bằng bức tranh thiên nhiên xứ Huế:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Lời thơ gợi ra không gian xứ Huế mộng mơ có thôn Vĩ Dạ đẹp tuyệt vời, đầy mời gọi. Ở nơi này, tác giả hướng về Huế như một cuộc hành trình về thăm trong tâm tưởng. Huế có gì? Là những hàng cau cao vun vút như chạm tới mặt trời đang ló dạng. Là khu vườn non tơ. Là lá trúc rì rào trong gió. Hình ảnh “nắng hàng cau” rất giàu sức gợi. Suốt một đêm sương dày làm ướt những tàu lá cau. Khi nắng bình minh lên, ánh mặt trời phản chiếu những hạt sương sớm khiến ngọn cau long lanh. Nhìn từ xa, cả hàng cau chạy dài như những cây biết phát sáng tỏa ánh hào quang. Từ “mướt quá” và lối so sánh “xanh như ngọc” đã diễn tả sự non tơ, trân quý tối đa của cây lá trong vườn. Hình ảnh khuôn mặt “chữ điền” có nhiều ý nghĩa. Đó có thể là người con gái chân thật, mặn mà đang e ấp, duyên dáng sau ngọn tre. Đó cũng có thể là chính tác giả đang vượt không gian về Vĩ Dạ bằng con tàu tâm tưởng để nhìn ngắm say sưa bức tranh Vĩ Dạ tinh khôi, sáng ngời trong nắng mới. Câu hỏi tu từ câu thơ đầu tiên cho thấy nỗi băn khoăn: Sao anh không về thôn Vĩ Dạ đi? Vĩ Dạ đẹp nhường này sao anh không về? Về làm sao khi bệnh tật dày vò… Nhớ Vĩ Dạ lắm nhưng “lực bất tòng tâm”. Câu hỏi như lời trách cứ nhẹ nhàng, ý nhị của Huế với nhà thơ.

Nghĩ về Huế, tác giả nhìn lại hoàn cảnh thực tại:

“Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chờ trăng về kịp tối nay?”

Thực tại như nhuốm màu tâm trạng của tác giả. Nguyễn Du có nói “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Sự cô độc, lạc lõng trong lòng nhà thơ khiến cho bức tranh sông nước cũng rơi vào trạng thái tương tự.

Hai thực thể gió và mây vốn luôn gắn liền với nhau. Gió chiều nào mây trôi chiều ấy. Nhưng trong con mắt thi sĩ, gió và mây như ngược đường, gió một lối riêng, mây trôi đường riêng. Nhịp thơ 4/3 trong câu thơ tạo ra bức tường ngăn cách, khu biệt hai thực thể gió và mây thành hai phương trời riêng biệt.

Cái “buồn thiu” của nước mới thật khiến người ta thấy não nề. Buồn gì mà lại “buồn thiu”? Nó khác cái buồn mênh mang trời bề, trùng trùng điệp điệp trong thơ Huy Cận:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”.

(“Tràng giang”)

Huy Cận là nhà thơ “buồn” nhất trong các nhà thơ Mới, nhưng cái “buồn” của Hàn cũng đâu kém. Cộng hưởng nỗi buồn ấy là cái “lay” của hoa bắp tạo ra không gian có sự sống nhưng như đã chết, hoạt động đấy nhưng cứ như không hoạt động. Đây là tác dụng từ nghệ thuật lấy động tả tĩnh.

Thời gian dần chuyển tối và tác giả tiếp tục miêu tả cảnh bến sông trăng. Thuyền và bến cũng là hai hình ảnh quen thuộc trong ca dao tượng trưng cho người con gái chờ người yêu, người chồng trở về:

“Thuyền về có nhớ bến chăng

Bến thì một da khăng khăng đợi thuyền”

Nhưng trong lúc lẻ loi, cô độc thiếu ánh sáng này, Hàn đâu có xác định được “thuyền” kia là thuyền nào đâu? “Thuyền ai” đang đậu trên sông trăng xa xa, tuyệt đẹp nhưng khó xác định tựa con thuyền hạnh phúc chở đầy trăng nhưng sao mãi không tới đây? Nhà thơ đợi lâu quá rồi, nếu không mau mau tới đây sẽ không “kịp” mất? Cách hỏi “thuyền ai”, “có…kịp…?” thể hiện mối băn khoăn, day dứt của nhà thơ muốn có hạnh phúc nhưng hạnh phúc ở quá tầm tay với.

Hình ảnh thơ mơ hồ dần, cuối cùng như tan vào sương khói:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Tác giả trong trạng thái tỉnh nhưng lại như “mơ”. Người không mơ được trở về thôn Vĩ nữa mà mơ có một người khách nào đó đến thăm. Chỉ là một lữ khách qua đường thôi nhưng không có, không hề có ai cả. Bởi vì người ấy “trắng quá” – tinh thiết và cao xa quá nên tác giả không nắm lấy được. Điều này đúng bởi thơ Hàn vốn dĩ luôn chất chứa mặc cảm bệnh tật. Do đó, nhà thơ luôn đẩy mình vào nơi “lòng giếng lạnh” chỉ dám từ xa ngắm nghía cảnh sắc đẹp tươi phía ngoài kia. Trong bài thơ, tác giả thả mình trong nơi “sương khói” lạnh giá, ma mị, thiếu sức sống. Câu hỏi tu từ cuối bài một lần nữa cho thấy nỗi băn khoăn, day dứt khôn nguôi.

Tóm lại, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bức tranh đẹp về cảnh thôn Vĩ bên bờ sông Hương thơ mộng cũng là sự nuối tiếc đối với sự sống ngắn ngủi, với cuộc đời còn dang dở. Khâm phục biết mấy con người đã vượt qua tất thảy nỗi đau để làm nên những trang văn tài hoa.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 62

Trong số các nhà thơ của phong trào thơ mới ta ít thấy ai có số phận ai oán nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử, dường như số phận cay đắng của ông đã được tiên đoán trước qua các bút danh Phong Trần (Gió Bụi), Lệ Thanh (tiếng của nước mắt), Hàn Mặc Tử (người đi trong màn lạnh). Nhắc đến Hàn Mặc Tử, có lẽ ta sẽ nghĩ ngay đến bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ, trong bài thơ vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế và tâm trạng con người được tác giả thể hiện một cách sâu sắc và xuyên suốt bài thơ.

Hàn Mặc Tử là một trong ba đỉnh cao của phong trào thơ mới, ông là một hiện tượng thơ lạ nhất. Hồn thơ mãnh liệt luôn chất chứa sự mâu thuẫn giữa thể xác và tâm hồn, vì những đớn đau do bệnh tật ông luôn khát vọng sống, khát vọng giao hòa, giao cảm với cuộc đời, với con người. Bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ được sáng tác năm 1938, lấy cảm hứng từ một mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với một cô gái Huế, bài thơ được in trong tập “thơ điên” sau đổi thành đau thương, xuất bản năm 1940.

Như chúng ta đã biết thơ là một cuộc đời nhưng nó không phải là sự sao chép máy móc mà lại được cảm nhận qua tâm hồn nghệ sĩ để trở thành thơ. Thơ là hình ảnh của cuộc đời tươi nguyên được tái hiện qua lăng kính tình cảm của người nghệ sĩ, vì thế nếu thơ không có tư tưởng tình cảm thì đó chỉ là những lời sáo rỗng, nhạt nhẽo vô vị tầm thường, chỉ là trò làm xiếc, ngôn từ vụng về chẳng thể đánh lừa được người đọc. Với sứ mệnh của một nhà thơ, Hàn Mặc Tử không ngừng tìm tòi sáng tạo để tìm ra cho mình một lối đi riêng, khác với các nhà thơ cùng thời đấy. Đây Thôn Vĩ Dạ đã cho ta thấy rõ điều đó.

Khổ thơ thứ nhất là những tiếc nuối vô vọng, những hoài niệm xa xăm về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh phong thủy đẹp tuyệt vời, còn người thì tha thiết nhớ mong

“ sao anh không về chơi thôn Vĩ

nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

vườn ai mướt quá xanh như ngọc

lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Câu hỏi đó chính là sự phân thân của nhà thơ, nhà thơ hóa thân và cô gái Huế để hờn dỗi, một cách nhẹ nhàng nhưng đằng sau sự hưởng thụ ấy là một lời mời mọc rất chân thành nhà thơ sử dụng từ “chơi” thể hiện sự gần gũi thân mật thắm thiết. Mặt khác câu hỏi tu từ này là nhà thơ đang tự hỏi mình, tự trách mình sao cảnh Huế đẹp như vậy mà anh không về chơi. Đó là một câu hỏi đau đớn khắc khoải,  bởi giờ đây trở về xứ Huế đã trở thành một niềm khao khát của nhà thơ. Có lẽ khi làm bài thơ này Hàn Mặc Tử đang ở giai đoạn cuối của bệnh Phong. Nên ông chỉ có thể trở về thôn Vĩ trong tâm tưởng, nhưng dù trở về trong tâm tưởng thì cảnh thiên nhiên nơi đây vẫn đẹp lung linh.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

vườn ai mướt quá xanh như ngọc

lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Bức tranh thôn Vĩ xinh xắn thơ mộng đã hiện lên với vẻ đẹp lộng lẫy. cảnh sắc ấy được chiêm ngưỡng từ xa đến gần, từ xa nhà thơ trông thấy “nắng hàng cau nắng mới lên”, câu thơ với điệp từ “nắng” gợi cho ta một không gian tràn đầy ánh sáng, cau là một loại cây mang vẻ đẹp đặc trưng của thôn Vĩ, với thân hình thẳng tắp, tán lá xanh tươi. Cau còn là loại cây rất quen thuộc với nhân dân Việt Nam, nơi có phong tục ăn trầu từ ngàn đời. Ở đây hình ảnh cau của Hàn Mặc Tử còn có chi tiết khó quên đó là hàng cau trong nắng mới, nắng mới lên là hình ảnh đẹp của bình minh thôn Vĩ, là nắng rất cao rất trong gợi cảm giác ấm áp.

Vườn cây thôn Vĩ tươi tốt đến mức khách ở xa phải trầm trồ “vườn ai mướt quá xanh như ngọc” vườn ai không xác định nhưng người đọc vẫn có thể ngầm hiểu đó là vườn của cô gái Huế., “mướt quá” là sự cực tả sắc xanh của cây lá. Tại sao tác giả không dùng xanh da trời, xanh thẫm hay xanh biếc mà sử dụng màu xanh ngọc bích, có lẽ đó là màu xanh tinh khiết, quyến rũ. Quả là màu xanh ngọc của cây lá đã làm nên hồn thơ muôn thuở của thơ ca Việt Nam, và bức tranh thôn Vĩ càng đẹp hơn khi có sự xuất hiện của con người “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh cây trúc trong tâm tưởng của thi nhân, bất chợt hiện “mặt chữ điền” lấp ló sau hàng trúc, lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp hài hòa giữa con người và cảnh vật.

Nếu khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng sự lạc quan yêu đời, thì sang khổ thơ thứ hai đã có sự thay đổi, đó chính là sự mặc cảm về cảnh chia lìa, tan tác “

gió theo lối gió mây đường mây

dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đâu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Hai câu thơ đầu nói về vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, đó là dòng sông Hương chảy lững lờ mà Hoàng Phủ Ngọc Tường gọi đó là điệu slow tình cảm dành cho Xứ Huế. Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lay động, thật ngang trái và trớ trêu ở trên cao gió đã đi theo lối gió, mây đi theo đường mây. Gió và mây là hai sự vật luôn đi liền với nhau, bởi có gió thổi thì mây mới có thể bay, vậy mà giờ đây hai chữ chia lìa vẫn đến.

Trước mắt người đọc là một không gian tràn ngập ánh trăng, con thuyền trở thành thuyền Trăng, dòng sông trở thành sông trăng, và bến trở thành bến Trăng

“Thuyền ai đâu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay”

Từ xưa đến nay chúng ta thường bắt gặp hình ảnh thuyền trăng, bến trăng. Và bây giờ ta lại bắt gặp một hình ảnh mới đó là “sông trăng”. Đọc câu thơ người đọc cảm tưởng như đang trôi vào cõi mộng, dường như nhà thơ đang sống trong khắc khoải, hoài mong. “Thuyền Ai”là thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ nhắc tới trong mơ ước, chờ mong. Còn “tối nay” phải chăng là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ, đó chính là ranh giới giữa sự sống và cái chết. “Có chở trăng về” là sự mong ngóng hi vọng, “kịp tối nay” là sự hoài nghi, lo âu, là sự khẩn thiết yêu cầu nhưng dường như nhà thơ đã cảm nhận được sự thất vọng.

Nỗi hoài nghi của nhân vật trữ tình, âm điệu khắc khoải hoài nghi được tô đậm hơn ở khổ thơ thứ ba

“mơ khách đường xa khách đường xa

áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà”

từ “mơ” nằm ở đầu câu, Ở đây mơ chứ không phải mong, dường như mong không được nên nhà thơ phải mơ cho bớt cô đơn, khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng khiến cho nhà thơ choáng ngợp bởi nhìn không ra, trắng quá là sự cực tả màu trắng trong thơ Hàn Mặc Tử tượng trưng cho những vẻ đẹp tuyệt bích, vì quá hồi hộp, quá đam mê, quá ước vọng nên nhân vật trữ tình quá xót xa đau đớn trước một vẻ đẹp nằm ngoài tầm với.

Đến câu thơ thứ ba nhà thơ đã lý giải cho việc nhìn không ra

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”

ở đây là nơi mà nhà thơ xem là lãnh cung giam lỏng mình, đó là thế giới của hiện thực, một nỗi đau mà nhà thơ đang gánh chịu: “Sương khói mờ nhân ảnh” là thế giới ảo ảnh của hư vô, của những ám ảnh về sự mất mát bởi chính nhà thơ luôn mang trong mình nỗi khắc khoải của một con người đang cầm chiếc vé đợi tàu đi vào cõi chết, và trong suốt thời khắc tuyệt vọng ấy, nhà thơ càng khao khát hơi ấm tình người.

“Ai biết tình ai có đậm đà” đến đây đối tượng được hướng đến càng cụ thể hơn, nhưng sự phát triển lại ngày càng mơ hồ. Câu hỏi như một tiếng kêu đau đớn, mang theo một nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử, một tâm hồn đau thương chơi vơi bất lực trong mặc cảm, chia lìa nhưng cũng thiết tha với cuộc đời. Bài thơ thành công nhờ sử dụng các biện pháp tu từ, điệp từ nhân hóa so sánh, câu hỏi tu từ, bằng thủ pháp liên tưởng cùng với những câu hỏi ….xuyên suốt bài thơ. Nhà thơ đã khắc họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ đầy sức sống và ẩn trong đó là nỗi lòng của chính nhà thơ, bài thơ khép lại nhưng mang trong mình vẻ đẹp mỹ lệ huyền ảo của thiên nhiên xứ Huế và tâm trạng khắc khoải, thiết tha cuộc đời của Hàn Mặc Tử sẽ còn đọng lại mãi trong tâm hồn người đọc./.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 63

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút tài năng xuất sắc. Những tác phẩm của ông thường ít tả và kể mà thường hướng tâm, hướng nội. “ Đây thôn Vĩ Dạ” – một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong trái tim của độc giả. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ, tình yêu đối với người con gái xứ Huế ông thầm thương, với mảnh đất đẹp nơi thôn Vĩ mà ẩn sâu trong đó còn có cả sự cô đơn, nuối tiếc và nỗi buồn chất chứa trong trái tim tác giả.

Mở đầu bải thơ là một câu hỏi tu từ ẩn chứa nhiều ý nghĩa, đã tốn không ít giấy mực của các nhà các phê bình văn học:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Có ý kiến cho rằng, nhà thơ Hàn Mặc Tử khi đang nằm điều trị căn bệnh nan y, người con gái tên Hoàng Thị Kim Cúc mà ông thầm thương trộm nhớ đã gửi cho nhà thơ một tấm bưu ảnh với vài lời thăm hỏi trong đó có hỏi nhà thơ sao bấy lâu không về thăm thôn Vĩ. Nếu hiểu theo hoàn cảnh này, có lẽ nhà thơ đã mượn lời hỏi thăm ấy để mở đầu cho bài thơ của mình. Câu hỏi tu từ đầu tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ nhàng của người con gái. Cũng có thể do nhà thơ tự phân thân hoặc tự vấn bản thân mình đã bấy lâu rồi không về thăm mảnh đất ấy với một niềm mong ước một lần được quay trở lại nơi đây.

Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người đọc đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Những hình ảnh thân thuộc bình dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai” đã được nhà thơ khéo léo tái hiện trong ba câu thơ. Trước mắt người đọc hiện lên là hình ảnh của những hàng cau tăm tắp vươn lên trước “nắng mới”, với khu vườn đã “mướt” lại “ xanh như ngọc”. Với cách sử dụng ngôn ngữ tài tình trong hai từ “ nắng mới”, “mướt”, câu thơ thể hiện một khung cảnh thật tươi đẹp và đầy sức sống. Biện pháp tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh như ngọc” cho thấy thôn Vĩ không chỉ hữu tình, nên thơ mà còn rất trù phú. Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ thì tuyệt vời đến thế, còn con người thì rất thật thà và đôn hậu qua hình ảnh “lá trúc” với “mặt chữ điền”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi cũng đủ để người đọc cảm nhận được điểu đó bởi người xưa thường ví cây trúc với người quân tử, còn gương mặt chữ điền thường là những người có tấm lòng nhân hậu. Không chỉ khắc họa hình ảnh tươi đẹp, con người đáng yêu của thôn Vĩ, bài thơ còn cho người đọc nhận thấy được sự ngợi ca, lòng yêu mếm của tác giả đối với con người và cảnh vật vùng đất yên bình đó.

Nếu như khổ thơ đầu mang đến một hình ảnh tươi vui, đẹp đẽ thì ở khổ thơ thứ hai lại mang ta đến với những hình ảnh chia lìa, một nỗi buồn trống trải chất chứa của nhà thơ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Người ta thường nói “gió thổi, mây bay” bởi gió và mây thường đi liền với nhau, gắn bó, hòa quện với nhau. Tuy nhiên trong câu thơ trên thì gió đi một lối, mây đi một đường. Kết hợp với nhịp thơ rứt khoát 4-3, câu thơ thể hiện một sư chia lìa, xa cách. Nhà thơ tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa tài tình trong câu thơ tiếp theo với hình ảnh “dòng nước buồn thiu” kết hợp với hình ảnh “hoa bắp lay”. Điều đó dường như hé lộ một nỗi buồn mang mác của người thi sĩ lúc này bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Càng đọc những câu thơ tiếp, người đọc càng dần thấy được một Hàn Mặc Tử cô đơn, u sầu và hướng nội:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Trong thơ ca xưa nay, người ta thường thấy hình ảnh của trăng được rất nhiều thi nhân đưa vào trang viết của mình. Nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm trăng sang – Cúi đầu nhớ cố hương”, Bác Hồ có “trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông trăng” và con thuyền “chở trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông trăng” và thuyền “chở trăng” là hai hình ảnh cực kỳ đắt giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong khổ thơ này. “Trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn tri kỷ mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để giãi bày tâm sự. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác và kết hợp với nội dung khổ thơ đầu, người đọc cũng có thể hiểu rằng trăng chính là nhà thơ. Bởi lẽ ở khổ thơ đầu hình ảnh thôn Vĩ và con người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “chở trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một mong ước của thi nhân được trở về mảnh đất ấy. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối khổ thơ dù thể hiện nỗi niềm đau đáu nhớ về thôn Vỹ, mong muốn về thăm nhưng dường như lại chất chứa cả một nỗi khác khoải, cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có thể trờ về.

Sau những hình ảnh buồn man mác và sự cô đơn trong nỗi lòng người thi sĩ thì bài thơ lại tiếp tục đưa ta đến với một cõi mộng ảo, hư hư thực thực với một sự chới với, vô vọng trong trái tim tác giả:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Aó em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa muốn trờ về thăm xứ Huế. Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽ, một số tài liệu lại cho rằng đó là bức hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa trốn cũ của nhà thơ với con thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếm. Nhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời giải đáp ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Gấp lại trang thơ, hình ảnh miền quê tươi đẹp, trù phú và con người xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với mảnh đất yên bình thôn Vĩ vẫn khắc sâu trong tâm trí độc giả. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ tài tình và các biện pháp tu từ một cách khéo léo, bài thơ cũng mang cho người đọc một sự thấu hiểu về sự cô đơn khắc khoải và mong ước trở về với mảnh đất đẹp đẽ cũng như mong ước trở về với cuộc sống đời thường của nhà thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” sẽ mãi ghi dấu ấn trong trái tim bạn đọc, đóng góp một tác phẩm xuất sắc cho nền thi ca nước nhà.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 64

Chẳng phải tự nhiên mà văn học lại đã có một thời được mệnh danh là bách khoa toàn thư. Nó được mệnh danh như thế bởi mỗi một tác phẩm văn chương ra đời đều chứa đựng những tâm tư tình cảm của cá nhân tác giả nói riêng và những tình cảm của tất cả mọi người trong cuộc sống nói chung. Có một nhà khoa học đã nói rằng: “Bi kịch của con người chúng ta là thừa tri thức mà lại thiếu tâm hồn” vậy nên văn học ra đời giống như một vị cứu tinh cứu vớt con người ra khỏi bi kịch ấy. Trong nền văn học nước nhà, Hoàng Cầm gửi niềm yêu quê hương đất nước với tâm trạng đau xót khi quê hương bị giặc xéo giày trong bài thơ Bên kia sống Đuống còn Hàn Mạc Tử cũng gủi gắm tâm trạng của mình trong bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ.

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ quả thật đã truyền tải hết tâm trạng của Hàn Mạc Tử. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ một phần đã nói lên tâm trạng của nhà thơ ấy. Khi ấy Hàn Mạc Tử đã mắc phải căn bệnh phong không có thuốc chữa, ông đang sống ở trại phong Tuy Hòa. Đó là một nơi chỉ có những người bệnh, chỉ có bốn bức tường vôi trắng ngăn cản cách li ông với thế giới bên ngoài. Đối với một con người nhiệt huyết yêu cuộc sống mà giờ đây lại bị giam lỏng trong bốn bức tường kia, điều đó chẳng khác nào cướp đi sự sống của ông. Khoảng thời gian này Hàn Mạc Tử phải sống cô đơn, sống cầm cự, sống chờ ngày trở về với cát bụi, với ông bà tổ tiên, sống với bệnh tật. Thế rồi Hoàng Thị Kim Cúc một người con gái mà Hàn Mạc Tử đã từng yêu gửi cho ông một bức thư với nhan đề “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Câu hỏi ấy khiến cho Hàn Mạc Tử thấy xót xa trong lòng, hoàn cảnh hiện giờ và những nỗi niềm xưa cũ đã khiến cho nhà thơ bật lên những tiếng thơ đầy tâm trạng. Đó là tâm trạng nhớ thương về người và cảnh xứ Huế, nhớ tình cảm của hai người. Ở đó ta còn thấy được sự hối hận của nhà thơ khi cứ nhút nhát không bày tỏ tình cảm của mình với người con gái mang tên Kim Cúc ấy. Và như thế bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã ra đời.

Nhan đề bài thơ cũng phần nào gửi gắm những nỗi nhớ của nhà thơ về con người và cảnh vật xứ Huế. Địa danh Vĩ Dạ là nơi mà Hàn Mạc Tử đã từng công tác ở đó và cũng chính địa danh ấy là dệt lên mối tơ duyên trong lòng nhà thơ với người con gái Hoàng thị Kim Cúc. Hai người sớm có tình cảm với nhau thế nhưng bản thân của nhà thơ lại là một chàng trai nhút nhát cho nên không một lần nào bày tỏ tình cảm của mình với người con gái xứ Huế ấy. Từ “đây” cứ như là mời gọi như là giới thiệu cho tất cả bạn đọc về nơi mà tình cảm của ông được lưu giữ. Tóm lại qua nhan đề tác phẩm tác giả như muốn giới thiệu về mảnh đất và con người xứ Huế. Những hình ảnh về mảnh đất cũng như con người nơi đây sẽ mãi luôn in sâu vào tâm trí của nhà thơ Hàn Mạc Tử.

Khổ thơ đầu Hàn Mạc Tử như vẽ lên một bức tranh thiên nhiên cùng hình ảnh của con người xứ Huế và từ những hình ảnh thân quen ấy, tác giả thể hiện tâm trạng của mình:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Câu thơ đầu hay cũng chính là câu hỏi mà Hoàng Cúc đã gửi cho Hàn Mạc Tử. Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ lại lấy câu hỏi ấy làm câu thơ mở đầu cho bài thơ cuả mình mà bởi vi câu hỏi ấy đã ám ảnh nhà thơ rất nhiều. Câu thơ ấy là một câu hỏi nhưng cũng chính là câu trách hờn tại sao người anh ấy lại không về thăm người con gái Hoàng Cúc. Dù là hỏi hay trách cớ thì Hàn Mạc Tử vẫn cảm thấy nhớ cảnh nhớ người Vĩ Dạ cho nên ông đặt câu hỏi thành câu thơ mở đầu. Ông như tự vấn chính bản thân mình tại sao không về chơi thôn Vĩ. Một sự độc thoại diễn ra trong tâm trí ông.

Thế rồi những câu thơ sau đã vẽ lên bức tranh về cảnh vât và con người xứ Huế. Cảnh vật Thôn Vĩ hiện lên với hình ảnh nắng hàng cau. Những dãy cau xứ Huế cao thẳng vươn dài ra đón ánh nắng mặt trời. Cái nắng ở đây không phải cái nắng trưa hè gay gắt mà cái nắng ấy là nắng mới, nắng bình minh nắng tinh khôi. Qua câu thơ chúng ta như cảm nhận được sự tinh khôi trong trẻo nhẹ nhàng của cảnh vật nơi đây, từng ánh nắng như chiếu xuyên qua từng đọt cau kẽ lá. Vườn ai xanh mướt như ngọc cũng là một hình ảnh thiên nhiên trong trẻo nhẹ nhàng. Vườn ai là vườn của Hoàng Cúc hay chỉ là đại từ chỉ bâng quơ, dù hiểu thế nào thì đó cũng là mảnh vườn xứ Huế. Thật hay cho sự miêu tả màu xanh của cây cối nơi đây, Hàn Mạc Tử không miêu tả cây xanh như màu xanh vốn có của nó mà là “mướt như ngọc”. Cái tính từ “mướt” kia như lột tả được hết tất cả sự sống sinh sôi nảy nở của cây cối nơi đây. Màu xanh cây cối mà lại trong sáng như ngọc vậy. Tóm lại thì cảnh vật hiện lên mang vẻ đẹp nhẹ nhàng tinh khôi thanh khiết giống như một chốn tiên cảnh vậy. Còn con người thì sao? Hàn Mạc Tử không đi miêu tả hình dáng người con gái Huế với chiếc áo dài và chiếc nón mà chỉ nhấn vào khuôn mặt họ. Con người xứ Huế hiện lên với nét đẹp phúc hậu qua hình ảnh “lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

Nói đến cảnh vật cũng như hình ảnh của con người trong khổ thơ đầu nhà thơ cũng thể hiện được tâm trạng của mình trong bức tranh thôn Vĩ ấy. câu hỏi của Hoàng Cúc khiến cho nhà thơ cảm thấy xót xa bất lực trước hoàn cảnh của mình. Thêm nữa nói về cảnh vật con người xứ Huế Hàn Mạc tử như thể hiện nõi nhớ niềm thương với cảnh xưa và tình cảm với người con gái ấy. Chỉ vì nhút nhát mà nhà thơ đã đẩy người mình yêu thương đi lấy chồng. giờ đây chỉ biết ngậm nùi xót xa.

Nếu như khổ thơ đầu nhà thơ nói về cảnh và người xứ Huế thanh khiết, trong trẻo và gửi gắm tâm trạng thương nhớ xót xa của mình thì sang khổ thơ thứ hai Hàn Mạc Tử tiếp tục nói về cảnh những lại mà một tâm trạng bi kịch đau thương:

“Gió theo lối gió, mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…

Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Thường thì người ta hay nói gió thối mây bay thế mà ở đây nhà thơ lại nói gió theo lối gió mây đường mây. Điều đó thể hiện sự chia ly cách trở. Phải chăng nhà thơ muốn nói đến hoàn cảnh của mình và người con gái Hoàng cúc. Huế ban sáng thì trong sáng tinh khôi như thế còn về đêm thì lại mang đầy tâm trạng, cảnh vật vẫn nhẹ nhàng như thế nhưng lại gợi lên nét buồn thâm chí là bi kịch. Dòng nước lặng lẽ như buồn thiu, hoa bắp bên sông chỉ khẽ lay động, con thuyền đậu bến sông trăng đó.

Tất cả những hình ảnh ấy nói lên được tâm trạng của nhà thơ đó là một tâm trạng sầu buồn bi thảm đến bi kịch. Cảnh vật nhẹ nhàng chuyển động khiến người ta như cảm nhận được cái hồn thơ buồn phảng phất của Hàn Mạc Tử. Đặc biệt câu hỏi tu từ như thể hiện được sự bi kịch của nhà thơ, hỏi thuyền có trở trăng về kịp tối nay như thể hiện sự gấp gáp nhanh vội nếu như trăng không về kịp thì sẽ ra sao?

Và kết thúc bài thơ với khổ thơ cuối Hàn Mạc Tử dành những lời thơ thương yêu của mình cho người con gái mà mình thương yêu. Tâm trạng mà nhà thơ gửi gắm đó là sự tiếc nuối muộn màng cho những yêu thương bấy lâu nay không dám nói ra:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra…

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Hàn Mạc Tử mơ về người con gái mà mình thương yêu, điều đó thể hiện tình cảm mà nhà thơ dành cho Hoàng Cúc rất lớn, bởi chỉ có thể yêu thương lắm thì mới mơ cũng nhớ đến. Thế nhưng tác giả không nói là người yêu hay người thương mà nói là “khách đường xa”. Hai từ khách đường xa được điệp lại giống như tiếng gọi tha thiết của nhà thơ dành cho người con gái ấy. Dẫu biết yêu thương nhau nhưng giờ đây khi Hoàng Cúc gửi tấm bưu thiếp cho ông thì cũng chính là một người khách, người bạn mà thôi. Trong cõi mộng mị mọi thứ đều trở nên mông lung nhạt nhòa hay là do sự nhạt nhòa của hiện thực. Hàn Mạc Tử thể hiện bi kịch của mình trong hai câu thơ đó. Hoàn cảnh sống đã khiến cho ông trở nên khó khăn và cuộc sống là những chuỗi ngày nhạt nhòa. Câu hỏi biết tình ai có đậm đà phải chăng nhà thơ muốn hỏi Hoàng Cúc có tình cảm với mình không hay chính là nhà thơ đang tự thể hiện tình cảm của mình đậm đà như thế nào.

Tóm lại qua bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ nhà thơ không đơn thuần đi tả cảnh của những vườn xanh, hàng cau, sông trăng hay khuôn mặt của người Vĩ Dạ mà chất chứa sau những hình ảnh ấy là tâm trạng của nhà thơ. Tâm trạng thương nhớ, xót xa, đau buồn bi kịch và tiếc nuối. Có lẽ sau khi đọc được bài thơ này Hoàng Cúc sẽ phần nào hiểu được tình cảm của Hàn Mạc Tử dành cho mình nhưng cũng quá muộn và chỉ biết trân trọng nhớ thương người đã cũ mà thôi.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 65

Làm thơ từ tuổi mười bốn, mười lăm và chỉ có mười mấy năm “kết duyên” với Thơ mới, Hàn Mặc Tử đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người yêu thơ Việt Nam. Hồn thơ Hàn Mặc Tử đa dạng phong phú vừa mang nỗi quặn đau với những hình ảnh thường “vẩn đục”, vừa mang đến những hình ảnh trong trẻo hiền hoà đến lạ thường.
Ta gặp ở “Đây thôn Vĩ Dạ” một tình cảm yêu thương đằm thắm, bâng khuâng và nỗi khao khát hướng đến hơi ấm tình người, hướng đến “ngôi vườn” cuộc đời qua bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình yên, thơ mộng.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?

Câu hỏi vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của người con gái thôn Vĩ (mà tác giả tưởng tượng ra) vừa là lời tự vấn sao không về Vĩ Dạ của nhà thơ. Câu thơ mang giọng điệu của một lời mời gọi tha thiết về thôn Vĩ, vừa nhẹ nhàng vừa dễ thương như một duyên cớ gợi nhớ những hình ảnh của thôn Vĩ ngày nào trong kí ức nhà thơ – một thời từng là cậu học trò trường Pe-lơ-ranh xứ Huế với trái tim đa cảm.
Hãy về thôn Vĩ, bởi thôn Vĩ là bức tranh thiên nhiên tràn ngập sức sống :

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Cảnh thôn Vĩ đẹp nhất là vào những buổi bình minh với những ánh nắng hồng đầu tiên trong ngày. “Nắng mới lên” là nắng đầu tiên của một ngày mới mẻ, ấm áp. Không phải là “nắng ban mai”, hay “nắng mai”,… như cách nói thông thường. Chữ “mới” tô đậm cái trong trẻo, tinh khiết của những tia nắng đầu tiên trong ngày. Thi nhân như đã theo “nắng mới lên” mà về với Vĩ Dạ.
Đặc trưng của thôn Vĩ Dạ là những hàng cau thẳng tắp. Cau là cây cao nhất trong vườn nên sớm đón được những tia nắng đầu tiên của một ngày. Vì thế, “nắng hàng cau” là nắng thanh tân, tinh khôi, là nắng thiếu nữ.
Câu thơ “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” cất lên như một tiếng reo vui, một lời suýt xoa của thi nhân trước vẻ đẹp vô ngần của thôn Vĩ. Từ “mướt” như ánh lên vẻ mượt mà, óng ả, đầy xuân sắc, một màu xanh mỡ màng, tràn trề nhựa sống của Vĩ Dạ. “Xanh như ngọc” là màu xanh lung linh, ngời sáng, long lanh.
Ở hai câu thơ này, cả vườn Vĩ được tắm gội bởi sương đêm, đang chìm trong giấc ngủ thì được đánh thức và bừng lên trong ánh nắng hồng ban mai. Nắng mai rót vào vườn cứ đầy dần lên, đến khi ngập tràn thì nó biến cả khu vườn thành một đảo ngọc giữa chốn “nước non thanh tú” của quê hương xứ sở.
Đến câu thơ cuối, cảnh thôn Vĩ càng đẹp hơn khi có sự xuất hiện của con người :

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Lâu nay, “mặt chữ điền” vẫn được hiểu là khuôn mặt đàn ông. Tuy nhiên, trong ca dao miền Trung, “mặt chữ điền” cũng để chỉ khuôn mặt đẹp phúc hậu, khả ái của người phụ nữ: “Mặt má bầu ngó lâu muốn chửi – Mặt chữ điền tiền rưỡi cũng mua”. Gương mặt chữ điền vuông vắn ấy xuất hiện đằng sau vẻ mảnh mai, thanh tú của “lá trúc”. Hình ảnh “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” vì thế càng làm tăng thêm vẻ sinh động của bức tranh thôn Vĩ, bởi ở đây thiên nhiên và con người hài hoà với nhau trong một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng và thơ mộng.
Trong thơ, ngoại cảnh cũng là nội tâm. Đặt bức tranh thôn Vĩ đẹp trong nỗi niềm của thi nhân hướng về người con gái Vĩ Dạ mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ, ta hình dung được tâm trạng của nhà thơ. Đó là niềm vui khi nhận được tín hiệu tình cảm của người trong mộng (tất nhiên đây chỉ là cảm nhận của Hàn Mặc Tử), là niềm hi vọng loé sáng về tình yêu, hạnh phúc.
Tóm lại, đọc khổ thơ đầu ta cảm nhận được bức tranh thôn Vĩ đẹp, tươi sáng, trong trẻo, gợi cảm và đầy sức sống. Đồng thời, đó cũng là niềm hi vọng hạnh phúc của thi nhân.

Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ đặc tả cảnh sông nước mây trời xứ Huế, đồng thời bộc lộ một niềm hoài vọng bâng khuâng. Và ở hai câu thơ đầu, bức tranh hiện ra là khung cảnh thiên nhiên ban ngày xứ Huế:

Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay.

Cảnh ở đây vừa có nét đẹp hoang sơ, dân dã, vừa có nét “cung đình”. Gió, mây và dòng nước đều được nhân hoá để trở nên có hồn, sinh động. “Gió theo lối gió, mây đường mây” ngắt nhịp 4/3 với hai vế tiểu đối gợi tả một không gian gió, mây chia lìa, đôi đường, đôi ngả như một nghịch cảnh đầy ám ảnh. Lẽ thường thì “gió thổi mây bay”, phải chăng mặc cảm chia lìa đã chia xa cả những thứ vốn không thể chia tách ?
Nhà thơ còn nhân hoá con sông thành một sinh thể có tâm trạng để giãi bày tâm tư của chính mình. Hương Giang không thể tự buồn mà bởi thi nhân đã “bỏ buồn vào lòng sông”. Động thái “lay” tự nó không vui không buồn, nhưng trong hoàn cảnh này, nó lại gợi lên sự hiu hắt, thưa vắng. Nhịp điệu câu thơ chậm rãi như điệu “tình cảm dành riêng cho huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường) càng làm cho nỗi niềm thêm da diết. Hoá ra không phải “dòng nước buồn thiu” mà chính “thi nhân buồn thiu”.
Ở hai câu thơ sau, dòng Hương Giang về đêm hiện lên ngập tràn ánh trăng :

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Đây là hai câu thơ tuyệt bút của Tử, kết tinh rực rỡ bút pháp tài hoa, lãng mạn. Cả dòng sông như được dát bạc, ánh lên, lộng lẫy và cũng huyền ảo lung linh. Nếu “Thuyền ai” gợi lên bao ngỡ ngàng, bâng khuâng, vừa quen vừa lạ, man mác như điệu hò xứ Huế thì hình tượng “sông trăng” lại như một nét vẽ thơ mộng, chất chứa cái thần thái, “linh hồn” của cảnh sắc thiên nhiên xứ sở. Sự kết hợp giữa “thuyền ai” và “sông trăng” đã tạo nên một hình tượng đẹp thi vị, gợi tả vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng, thân thương của Huế.
“Thuyền”, “bến”, “trăng” là những biểu tượng về người con trai, con gái và hạnh phúc lứa đôi. Trăng là nhân chứng cho đôi lứa nguyện thề. Khi xưa, trong vườn Thuý ngập đầy ánh trăng, Kim – Kiều đã giao ước, thề nguyền. Trong ca dao, tình duyên của nam nữ cũng được giãi bày, ướm hỏi dưới trăng: “Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng – Tre non đủ lá đan sàng nên chăng ?”… Thuyền chở trăng là chở tình yêu. Bến trăng là bến bờ hạnh phúc. Liệu con thuyền tình yêu có vượt thời gian để kịp cập bến bờ hạnh phúc hay không ? Câu hỏi chất chứa bao niềm khắc khoải, sự chờ đợi mỏi mòn tình yêu, hạnh phúc của thi nhân. Ẩn trong đó có sự mông lung, hồ nghi, thất vọng.
Như vậy, khổ thơ thứ hai vẽ nên bức tranh xứ Huế ảm đạm, nhuốm màu chia lìa, sự sống mệt mỏi, yếu ớt nhưng cũng huyền ảo, thơ mộng, đồng thời toát lên những dự cảm hạnh phúc chia xa của nhà thơ.
Hồn thơ say dần, từ chỗ có nhiều hình ảnh thực (khổ 1), đến chỗ mơ hồ (khổ 2), bài thơ kết thúc ở khổ thứ ba với những hình ảnh, cảm xúc thật sự huyền bí.

Trước hết là ở câu thơ đầu :

Mơ khách đường xa, khách đường xa

“Khách đường xa” là ai ? Sao câu thơ lại lặp lại hình ảnh ấy hai lần ? Và hơn nữa, hình ảnh đầy ấn tượng nhưng vô cùng mơ hồ ấy lại đứng cạnh một từ càng mơ hồ, bí ẩn hơn chính nó – từ “Mơ”: “Mơ khách đường xa, khách đường xa”.
Có thể “khách đường xa” là người đang sống ở Vĩ Dạ cũng có thể là chính nhà thơ ? Không ai có thể giải thích nổi, và cuối cùng cũng không cần giải thích. Chỉ biết rằng, “khách đường xa” được điệp lại gợi lên khoảng cách xa xôi, sự cách trở. Hình ảnh thơ rất ám ảnh người đọc, và nó cũng như ma lực khiến ta cảm thấy câu thơ ấy là hay nhất, không thể thay thế.
Những câu thơ sau cũng có vẻ đẹp mơ hồ, huyền ảo nhưng dù sao cũng “hợp lí” hơn :

Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

“Áo em” có phải là áo của người con gái xứ Huế, có lẽ là của người ở thôn Vĩ ? “Trắng quá nhìn không ra” như đưa thi nhân vào sống trong ảo giác, không phải nhìn bằng mắt thường. Đến cụm từ “Sương khói mờ nhân ảnh”, câu thơ càng cho thấy rõ hơn rằng cảnh vật và con người chìm dần vào mờ ảo.
Điều bí ẩn nữa lại nằm ở câu thơ cuối :

Ai biết tình ai có đậm đà ?

Đó lại là một câu hỏi tu từ, và dẫu không thể trả lời, ta vẫn thấy câu hỏi ấy thống nhất với mạch cảm xúc chung của cả bài thơ: mở đầu và kết thúc đều là câu hỏi. Cả bài thơ là một câu hỏi lớn không cần ai giải đáp. Có điều, ở câu hỏi cuối này nó biểu hiện chút hoài nghi với tình yêu của ai kia (người xứ Huế), hoài nghi nên mới hỏi. Câu thơ còn cho thấy nỗi niềm thiết tha với tình yêu, với cuộc đời của nhà thơ.
Tóm lại, ở khổ thơ cuối hiện thực được cảm nhận, miêu tả trong cái hư ảo, mờ nhoè, càng lúc càng chìm dần vào cõi mộng. Thi nhân cảm nhận càng rõ nét khoảng cách xa xôi, cái hư ảo của tình yêu, hạnh phúc.
Với những hình ảnh biểu hiện nội tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 66

Thôn Vĩ đẹp mộng mơ với vẻ buồn rất riêng đã là mảnh đất mà biết bao nhiêu thi sĩ bị say đắm và mê mải. Đến lượt Hàn Mặc Tử, với một nỗi niềm riêng thầm kín ông đã gửi vào trong tiếng thơ của mình những giai điệu và cảnh sắc rất riêng về vẻ đẹp của thiên nhiên và con người thôn Vĩ, đặc biệt là lòng yêu đời, yêu người rất tha thiết và mãnh liệt của tác giả.

    Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ thanh tân, trẻ trung tràn đầy nhựa sống:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền”.

    Câu thơ mở đầu vừa là một câu hỏi tu từ, vừa là một lời mời mọc, vừa là một lời trách cứ rất đáng yêu. Sao anh không về để ngắm nhìn thôn Vĩ thơ mộng và tươi đẹp thế kia. Nắng hàng cau buổi sớm còn nguyên vẻ thanh tân, trẻ trung và tươi mới căng tràn sức sống của nó. Cái nắng ấy đã tạo nên một gam màu tươi sáng cho bức tranh thiên nhiên. Vườn mướt xanh như ngọc với những chiếc lá xanh nõn nà, căng tràn nhựa sống và vì thế khu vườn như một viên bích ngọc lớn, lung linh. Nhưng sự ngỡ ngàng thích thú của nhà thơ được gửi gắm qua một chữ “quá” thật đáng yêu. Hẳn phải là một người yêu thiết tha thiên nhiên, với cuộc sống, có ân tình sâu sắc, đậm đà lắm mới họa ra một thôn Vĩ đẹp đến vậy. Trong bức tranh ấy, con người hiện lên hài hòa với thiên nhiên “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. không chỉ bằng lòng với việc tưởng tượng ra thôn Vĩ trong tâm tưởng, Hàn còn hòa mình vào khung cảnh ấy để cảm nhận sự sống, để như trở về cùng thôn Vĩ tươi đẹp. Đau đớn thay đó chỉ là sự trở về trong tâm tưởng:

“Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?”

    Hình ảnh gió mây quen thuộc trong thi ca nhưng trong thơ Hàn với mặc cảm thầm kín lại hiện lên thật khác biệt. gió mây vốn cùng chung ngả, ấy vậy mà ở đây gió lại chia đôi ngả, tách biệt hẳn với mây. Đó là mặc cảm chia lìa vốn sâu trong tâm tưởng đã chia cắt cả những thứ không thể chia lìa. Đồng thời, đó cũng chính là vẻ đẹp buồn rất mơ mộng của xứ Huế thân thương. Cả hoa bắp lay vốn tự nó không buồn nhưng ở trong ngữ cảnh này hoa bắp lay dường như cũng nhuốm màu buồn thương. Đó là nỗi buồn của hồn người đã thấm thía vào cảnh vật để người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Hai câu thơ cuối thể hiện rất mãnh liệt khao khát của nhà thơ. Chữ “kịp” thể hiện khát khao níu giữ sự sống của con người trước lưỡi hái của thần chết đang cố níu giữ những giây phút cuối cùng để sống trọn vẹn những ngày tháng ngắn ngủi ấy. Đó chỉ có thể là một tấm lòng khát khao yêu đời mãnh liệt của một hồn thơ đau đớn đến thiết tha sống.

    Đến khổ thơ cuối:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà.”

    Hình ảnh khách đường xa một lần nữa thấy mặc cảm chia lìa của Hàn đã luôn vẽ mình trong thơ là khách đường xa, kẻ đứng ngoài cuộc. Đồng thời thấy được hình ảnh quá xa vời để có thể nắm bắt.

    Nếu ở trên kia, là hình ảnh cuộc sống bên ngoài tươi đẹp, trong trẻo đầy sức sống thì đến đây lại là không gian buồn bã, đau thương và xót xa. Hình ảnh con người xuất hiện mờ mờ nhân ảnh càng thể hiện sự khó nắm bắt của tác giả. Đến câu hỏi cuối, dường như là lời đáp lại của nhà thơ cho câu hỏi ở đầu bài thơ, ai biết tình ai có đậm đà, mặn mà mà trở về thôn Vĩ.

    Bằng một hồn thơ đau thương đến quằn quại, Hàn đã sáng tạo nên những hình ảnh thật độc đáo, qua đó thấy được bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ tươi đẹp, đồng thời thấy được khát khao tình đời, tình người của nhà thơ mới tha thiết mãnh liệt làm sao.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 67

Hàn Mặc Tử là một trong số những cây bút có sức sáng tạo mạnh mẽ và có nhiều đóng góp to lớn cho phong trào thơ Mới. Tuy cuộc đời ngắn ngủi và đau thương song ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam một sự nghiệp sáng tác khá đồ sộ với nhiều tác phẩm có giá trị. Những vần thơ của Hàn Mặc Tử mang một diện mạo khá phức tạp nhưng chúng ta luôn nhận thấy ở đấy tình yêu đến đau đớn song vẫn luôn hướng về cuộc đời. Và có thể nói, Đây thôn Vĩ Dạ là một trong số những bài thơ tiêu biểu cho đặc điểm thơ Hàn Mặc Tử.

Trong khổ thơ đầu, tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về thôn Vĩ Dạ lúc bình minh:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

     Câu hỏi tu từ cùng với cách sử dụng câu thơ với hàng loạt thanh bằng “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” đặt ở đầu bài thơ vừa như lời trách nhẹ nhàng của cô gái vừa như lời tự trách của Hàn Mặc Tử. Nhưng dù câu hỏi ấy là của ai đi chăng nữa thì nó cũng là nguồn mạch khơi dậy trong lòng thi sĩ biết bao kỉ niệm, bao hình ảnh về thôn Vĩ và để rồi những câu thơ tiếp sau, tác giả đã vẽ từng nét vẽ tuyệt đẹp về bức tranh bình minh nơi chốn thôn quê này. Trước hết đó là hình ảnh “nắng hàng cau – nắng mới lên”. Chắc hẳn, khi đọc đên đây nhiều người không nguôi tự hỏi tại sao tác giả lại sử dụng nắng mới lên mà không phải là ánh nắng nào khác. Nhưng tác giả đã thực sự tinh tế khi sử dụng hình ảnh nắng mới lên, bởi lẽ đó là cái nắng đầu ngày, còn tươi mới, tinh nguyên và từ đó làm toát lên vẻ đẹp trong trẻo, tinh khiết, ấm áp nơi thôn Vĩ. Không dừng lại ở đó, bức tranh thôn Vĩ càng trở nên hoàn thiện hơn với sự xuất hiện của “mảnh vườn”. Với việc sử dụng tính từ “mướt quá” cùng biện pháp so sánh “Xanh như ngọc” tác giả đã vẽ nên một khu vườn non tơ, sáng ngời và đầy sức sống  dưới ánh nắng ban mai. Để rồi, trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật tự nhiên “lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Ba tiếng “mặt chữ điền” thôi nhưng cũng đủ để gợi nên cái vẻ đẹp kín đáo, phúc hậu đặc trưng vốn có của con người Vĩ Dạ. Như vậy, với những nét vẽ đơn sơ song tác giả Hàn Mặc Tử đã vẽ nên một bức tranh thôn Vĩ tươi đẹp, tràn đầy sức sống, trong trẻo, tinh khiết và phải chăng ẩn sau nó là tiếng nói rạo rực của một tâm hồn yêu đời, khát khao sống.

     Nếu như trong khổ thơ thứ nhất, tác giả vẽ nên thôn Vĩ trong buổi bình minh thì đến khổ thơ thứ hai là khung cảnh trời, mây, sông nước thôn Vĩ trong đêm trăng. Dường như, trong khổ thơ thứ hai, mọi cảnh vật không còn đẹp, trong trẻo như trước nữa mà đã có sự chia lìa:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

     Như lẽ thường ta vẫn thấy, gió và mây luôn đi liền với nhau, gió thổi mây bay, song ở đây, tác giả Hàn Mặc Tử lại nhìn thấy sự chia lìa đôi ngả của mây và  gió – gió và mây hờ hững mỗi thứ bay đi một nẻo đường riêng. Sự chia lìa đó tưởng chừng là vô lí, ngang trái song với ta có thể dễ dàng nhận thấy ẩn sau nó là tâm trạng mang đầy mặc cảm chia li của tác giả. Thêm vào đó, để diễn tả sâu sắc hơn tâm trạng của mình, tác giả còn sử dụng nghệ thuật nhân hóa nhằm nhấn mạnh nỗi buồn trĩu nặng tâm tư “dòng nước buồn thiu” cùng với việc miêu tả sự chuyển động chậm rãi, khẽ khàng qua hình ảnh “hoa bắp lay”. Tất cả những hình ảnh thơ ấy giúp chúng ta cảm nhận một cách sâu sắc, thấm thía hơn về nỗi buồn, cô đơn, mặc cảm chia lìa và nỗi lo âu, sợ hãi đang tồn tại trong tâm trí ông.

     Nhà thơ cảm thấy mình như đang bị bỏ rơi, bị lãng quên. Và rồi, trong khoảnh khắc ấy, ông dường như chỉ còn biết bám víu vào trăng:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

     Thuyền trăng , bến trăng là những sáng tạo nghệ thuật đầy độc đáo của thi sĩ. Đó là biểu tượng của cõi mộng, của hạnh phúc lứa đôi. Và với Hàn Mặc Tử, ông đợi chờ trăng cũng chính là đợi chờ niềm hạnh phúc của mình, để rồi, càng chờ, càng đợi lại càng âu lo, sợ hãi mà ông phải thốt lên “Có chở trăng về kịp tối nay?” Chữ “kịp” ở đây được tác giả sử dụng thật đắc địa, nó rất bình dị song nó đã hé mở ra cho người đọc về sự cảm nhận và tâm thế sống của tác giả – sống là phải chạy đua với thời gian. Và như vậy, hai câu thơ khép lại khổ thơ thứ hai vừa như một sự hoài nghi vừa như một sự mong mỏi, hi vọng của tác giả – khát vọng hòa mình với cuộc đời, với thiên nhiên, với con người.

     Và có lẽ, mọi nỗi niềm tâm sự của Hàn Mặc Tử dành cho xứ Huế ân tình, Vĩ Dạ yêu thương đã được nhà thơ gửi gắm trọn vẹn trong khổ thơ cuối của bài thơ.

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

     Điệp từ “khách đường xa” được lặp lại hai lần như nhấn mạnh sự xa xôi, cách trở. Thêm vào đó, là việc sử dụng tính từ đặc tả độ trắng và biện pháp nghệ thuật hoán dụ “áo em trắng quá nhìn không ra” đã diễn tả được khoảng không gian xa cách, đầy nhạt nhòa. Và có lẽ, hơn ai hết, nhà thơ ý thức được sự xa xôi, cách trở và nhạt nhòa ấy:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

     Lời thơ đa nghĩa “ở đây sương khói mờ nhân ảnh” cùng với việc sử dụng câu hỏi tu từ  chứa điệp từ “ai” lặp lại nhiều lần đã nhấn mạnh một cách sâu sắc mặc cảm chia li, tâm trạng chưa nhiều uẩn khúc – một nỗi niềm hoài nghi, khắc khoải xót xa trong vô vọng. Và xét đến cùng đó là biểu hiện của khát khao sống, khát khao được giao cảm, được sẻ chia trong thi sĩ.

Tóm lại, thông qua việc sử dụng từ ngữ, hình tượng đặc sắc, bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh miêu tả cảnh đẹp của thôn Vĩ, đồng thời, đó là tiếng lòng của một nhà thơ yêu đời, tha thiết gắn bó với cuộc sống.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 68

a. Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

   Vĩ Dạ một làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương Giang, ngoại ô cố đô Huế. Phong cảnh êm đềm thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử chắc là có nhiều kỉ niệm đẹp? Câu mở bài như một lời chào mời, như một tiếng nhẹ nhàng trách móc: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" Cảnh Vĩ Dạ dược nói đến là hàng cau với nắng mới lên, một bình minh rạng ngời. Là màu xanh của cây trái, của "vườn ai", ngỡ ngàng bảng khuâng, rồi thốt lên "mướt quá xanh như ngọc". sắc xanh mượt mà, láng bóng ngời lên. Một so sánh rất đặc sắc gợi lên sức xuân, sắc xuân của "vườn ai?" Câu thứ tư có bóng người xuất hiện thấp thoáng sau hàng trúc: "gương mặt chữ điền". Nét vẽ "lá trúc che ngang" là một nét vẽ thần tình gợi tả vẻ kín đáo, duyên dáng của người con gái thôn Vĩ, Và "vườn ai" ấy là vườn xuân thiếu nữ, cau, nắng, màu xanh như ngọc của vườn ai, lá trúc và gương mặt chữ điền - năm nét vẽ, nét nào cũng tinh tế, tao nhã, gợi nhiều thương mến bâng khuâng.

b. Thuyền ai đậu bến sông trăng đó..

   - Một miền quê thoáng đãng, thơ mộng. Có gió, mây, cỏ hoa, có dòng nước. Cảnh đẹp đầy thi vị, cổ điển. Gió mây đôi ngả phân li. Dòng nước buồn thiu, buồn xa vắng mơ hồ. Hoa bắp nhè nhẹ "lay" cũng gợi buồn:

    "Gió theo lối gió, mây đường mây,

    Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay".

   Khổ thơ thứ nhất nói đến "nắng mới lên", nắng bình minh. Khổ thơ thứ hai nói đến "bến sông trăng", bến đò trong hoài niệm. Vầng trăng của thương nhớ đợi chờ. "Thuyền ai" có lẽ là con thuyền thiếu nữ? Vần thơ trăng đẹp nhất trong thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con thuyền trăng. Thật mơ mộng tình tứ:

    "Thuyền ai đậụ bến sông trăng đó

    Có chở trăng về kịp tối nay?

   Câu thơ của Hàn Mặc Tử về bến sông trăng và thuyền ai gợi nhớ đến vần ca dao thuyền nhớ bến... bến đợi thuyền. Và vì thế nó gọi lên một mối tình thường nhớ, đợi chờ man mác, mơ hồ, bâng khuâng.

c. Ai biết tình ai có đậm đà?

   - Một chữ "mơ" đầy tình tứ trong câu thơ có nhạc điệu chơi vơi: "Mơ khách đường xa, khách đường xa". Du khách hay thôn nữ Vĩ Dạ? Chắc lại là giai nhân mà thi nhân từng mơ ước: "Áo em trắng quá nhìn không ra". Vừa thực vừa mộng. Con người của thực tại hay con người của hoài niệm? Sương khói của bến sông trăng hay miệt vườn Vĩ Dạ đã làm mờ nhân ảnh của giai nhân? Trong cảnh có tình. Trong tình có màn sương khói, một thứ tình yêu kín đáo, e dè, thiết tha:

    "Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

    Ai biết tình ai có đậm đà?"

   Toàn bài thơ có bốn từ "ai" đại từ phiếm chỉ cùng xuất hiện trong các câu hỏi tu từ, không chỉ góp phần tạo nên âm điệu lâng lâng, ngỡ ngàng mà còn dẫn hồn người đọc nhớ về một miền dân ca Huế man mác, sâu lắng, bồi hồi, thiết tha:

    "Núi Truồi ai đắp mà cao,

    Sông Hương ai bới, ai đào mà sâu?

    Nong tằm, ao cá, nương dâu

    Đò xưa bến cũ nhớ câu hẹn hò..."

   "Đây thôn Vĩ Dạ" ngỡ là một bài thơ tả cảnh, nhưng đích thực là một bài thơ tình - tình trong mộng tưởng. Cảnh rất đẹp, rất hữu tình, âm diệu thiết tha tình tứ. Tình cũng rất đẹp nhưng chỉ là mộng ảo. Bến sông trăng còn đó, nhưng con thuyền tình có kịp chở trăng về tối nay? Xa vời, mênh mông. Áo trắng giai nhân, màu trắng trong trinh nữ ấy đã trở thành hoài niệm trong miền thương nhớ của thi sĩ đa tình mà nhiều bất hạnh. "Đây thôn Vĩ Dạ" là bài thơ đẹp vầ hay để ta nhớ và ta thương.

Phân tích tác phẩm Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử 69

Hàn Mặc Tử là nhà thơ tài hoa của dòng văn học lãng mạn. Thơ ông mang nhiều màu sắc đan xen nhau tạo nên một nét riêng độc đáo.

Có những vần thơ nhẹ nhàng, tinh khiết, đẹp tuyệt vời nhưng có những bài thơ mơ hồ, mờ ảo, “điên điên”. Người ta bảo như thế mới là Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vỹ Dạ” là bài thơ hay về tình yêu, về những trong trẻo, mát lành nhất của thiên nhiên.

Bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” như là bức thư là tác giả gửi một cô gái mang tên Kim Cúc, là tiếng lòng, là lời mời của anh chàng thi sĩ. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang bệnh nặng, nên nỗi buồn dường như còn phảng phất trong từng câu chữ.

Mở đầu bài thơ dường như là lời trách móc nhẹ nhàng, tình tứ:

Sao anh không về chơi thôn Vỹ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

“Sao anh không về chơi” khiến người đọc liên tưởng đến thần sắc của cô gái khi trách yêu chàng trai lâu lắm rồi không ghé về thôn Vỹ mộng mơ, nên thơ chơi.

Thôn Vỹ nằm cạnh bờ sông Hương là địa danh đẹp của Huế với khung cảnh trời nước mênh mông. Một lời trách nhưng thoảng chút vui tươi và chờ đợi.

Bức tranh của thôn Vỹ dần dần hiện lên qua ngòi bút tinh tế của tác giả. Ánh nắng buổi sáng mai tinh khiết, nhẹ nhàng làm cho không gian ở vùng quê trở nên lung linh, dịu nhẹ biết bao. Không gian như cao và xanh hơn nhờ anh nắng ban mai nơ đất Huế.

“Vườn ai” dường như ám chỉ một khu vườn nhà ‘ai” đó mà chỉ “ai” mới biết. Thật tinh tế, kín đáo mà sâu sắc.

Ngôn từ được Hàn Mặc Tử sử dụng rất đẹp, rất mềm. Màu xanh của khu vườn không phải xanh thắm, xanh nõn mà là “xanh như ngọc”. Trong trẻo, mát lành và tràn đầy sức sống.

Giữa khung cảnh thiên nhiên nên thơ, trữ tình, tinh khôi đó có thấp thoáng bóng dáng con người. Nhưng vẫn có một sự bí ẩn nào sau gương mặt đó.

Cây trúc thường biểu tượng cho người quân tử, và gương mặt chữ điền là mặt phúc hậu, tròn đầy. Có lẽ có một vị khách bí ẩn nào đó đã ghé thăm thôn Vỹ mà “ai” không hay biết.

Nhưng bỗng nhiên đến khổ thơ thứ hao, giọng thơ lạc đi, chùng xuống:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.

Vốn dĩ mây và gió luôn chung đường với nhau nhưng trong thơ Hàn Mặc Tử lại là “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não nề và đau lòng.

Hình ảnh “hoa bắp lay” nhẹ nhàng và rơi rụng xuống dòng sông khiến cho người đọc có cảm giác có cái gì đó đang vỡ tan ra. Nỗi buồn ở đây thật khác, mang dư vị riêng, là “buồn thiu”, buồn đến não nề, tê buốt. Tác giả đã mượn hình ảnh thiên nhiên để nói đến tình cảnh của mình hiện tại.

Thuyền và trăng luôn là những hình ảnh gần gũi đối với thơ ca. Hàn Mặc Tử đã mượn hình ảnh thuyền và trăng để nói lên tình cảm, nỗi lòng của mình.

Đọc đến đây, người đọc dường như cảm nhận ra một điều gì đó mơ hồ, kì aaos. Đó chính là đặc trưng của thơ Hàn Mặc Tử. Không phải là con sông bình thường mà là “sông trăng” thật nên thơ, kì ảo, huyền diệu.

Có lẽ đây là một đêm trăng đẹp, đêm trăng tròn đầy và viên mãn nhất. Câu hỏi tu từ cuối khổ thơ nhưng không ai trả lời. Một từ “kịp” khiến cho câu thơ trở nên hối hả và gấp gáp hơn. “Kịp” trở về để làm gì? Kịp yêu kịp thương kịp chờ sao.

Khổ thơ cuối thì màu sắc kì ảo đã bao trùm, nhưng sự kì ảo trong sự cho phép của thơ ca:

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà

Có lẽ vì nỗi nhớ quá lớn, quá đầy nên hình ảnh “khách đường xa” đã lạc bước vào giấc mơ. Vừa gần nhưng cũng vừa thật xa, không thể chạm đến được.

Đó cũng chính là sự mong ngóng, đợi chờ mòn mỏi của tác giả cho một mối tình. Khổ thơ cuối với gam màu trắng chủ đạo đã càng tăng thêm tính mơ hồ, kì ảo của bài thơ.

Tác giả băn khoăn không biết mối tình của mình và cô gái xứ Huế sẽ đi đến đâu, liệu rằng Tình người ta có còn đậm đà, chân thành như lời hứa nữa không. Có cảm giác như câu thơ tan ra, lênh láng cả một vùng sông trăng huyền ảo

Bài thơ “Đây thôn Vỹ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một bài thơ hay, có sức chưa lớn. Một bức tranh thiên nhiên xứ Huế mộng mơ và một tấm chân tình sâu nặng.