Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù hay nhất (16 mẫu)

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 1

 Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân - thiện - mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam - là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút, giải tỏa những băn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.

Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã giãi bày tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng, yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.

Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao - người có tài viết chữ nhanh , đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại - những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình (Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.

Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.

Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân- thiện-mĩ.

Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngời viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.

“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dong chữ cuối cung của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.

Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật (văn học cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật).

Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đao bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 2

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng.

Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông, mĩ (cái đẹp) là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng khi ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn Tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện; ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn Chữ người tử tù (1939) trong tập Vang bóng một thời là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.

Ông Huấn Cao trong truyện Chữ người tử tù là một nho sĩ tài hoa của một đã qua nay chỉ còn vang bóng. Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà nho giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dùng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông cùng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lí tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xả hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.

Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nửa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để xin chữ treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.

Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên đại nghịch cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Còn người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hội họ ở hai vị tri đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy tính cách hai nhân vật được bộc lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.

Huấn Cao nói: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thể mà ép mình viết câu đối bao giờ. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ.

Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trọng những tấm lòng biết quý cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được thiên lương. Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi bởi ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi.

Huân Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bà Quát. Đêm hôm ấy, lúc trại giam tính Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quý của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.

Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng. Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thơ lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một cảnh tượng xưa nay chưa tùng có?

Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.

Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thơ lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.

Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái đẹp, cái dũng, cái thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thơ lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyền Tuân là cái đẹp gắn liền với cái thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái dũng. Hiện thân của cái đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.

Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộug, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chì run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.

Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn Chữ người tử tù. Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.

Chữ người tử tù không còn là chữ nữa, không chỉ là mĩ mà thôi, mà những nét chữ tươi tắn nó nói lên những bão tung hoành của một đời người. Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa mĩ và dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí duy mĩ của Nguyễn Tuân.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 3

Nguyễn Tuân là một trong năm tác gia lớn của nền văn học Việt Nam. Ông có đóng góp không nhỏ đối với nền văn học hiện đại. Suốt cả cuộc đời Nguyễn Tuân luôn khát khao đi tìm cái đẹp, cái tinh hoa của đất trời để sáng tạc nên những kiệt tác văn học độc đáo. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”của ông cũng chứa đựng những nét đẹp đó.

Từ xưa đến nay, chơi chữ được coi là một thú chơi tao nhã của những kẻ có học thức. Thú chơi chữ thể hiện được toàn bộ cái đẹp, cái tài năng và cả trí tuệ của người viết cũng như người thưởng thức. Cảnh cho chũ thường được diễn ra tại những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc. Rồi từ đó những nét chũ uyển chuyển mang trong nó cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng cũng những nét chữ uyển chuyển có hồn ấy, Nguyễn Tuân lại cho nó sinh ra trong một hoàn cảnh khác lạ, “ một cảnh xưa nay hiếm”. Đó là cảnh cho chữ trong tác phẩm: ”Chữ ngươi tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời”.

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có đóng góp rất lớn cho nền văn học nước nhà đặc biệt là ở thể tùy bút. Nguyễn Tuân có nhiểu tác phẩm hay như: Một chuyến đi, Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, sông Đà, Vang bóng môt thời,... Vang bóng một thời là một trong những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Tuân, cũng là một trong những truyện ngắn hay nhất trong kho tàng văn học Việt Nam.

Truyện ngắn “chữ người tử tù” ban đầu có tên là “dòng chữ cuối cùng”. Đây là tác phẩm kết tinh tài hoa của Nguyễn Tuân trước Cách Mạng và được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đánh giá là “một văn phẩm đạt gần tới sự hoàn thiện, toàn mĩ”. Nhân vất chính trong truyện ngắn này là Huấn Cao- một con người văn võ song toàn. Huấn Cao có tiếng là người có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp. Ông không chỉ cái cái tài về nghệ thuật thư pháp mà còn có cái trí tuệ uyên bác. Từng nét chữ của ông ẩn chứa cả văn hóa, quan niệm về nhân thế. Người ta treo chữ ông trong nhà không chỉ để chiêm ngưỡng cái đẹp của bức thi họa, mà còn để ngẫm nghĩ những tư tưởng sâu sắc. Nhưng “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là một vật báu trên đời”. Không chủ có tài về nghệ thuật, ông Huấn còn là người có thiên lương. Tính ông chính trực, khẳng khái, không vì tiền bạc, quyền thế mà ép mình cho chữ bao giờ. Gặp hình tượng nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm, khiến người đọc dễ dáng liên tưởng tới người thủ lĩnh tài ba văn vó phong toàn, người anh hùng dân tộc Cao Bá Quát. Được nhân dân ca tụng:

“Văn như Siêu Quát vô tiền Hán

Thi đảo Tùng Tuy thất thịnh Đường”.

Thật vậy, ngay lúc bước vào tù lao, vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim, ông Huấn không những không mảy may run sợ trước lời quát nạt của tên lính áp giải mà vẫn lạnh lùng “thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Lúc bị giam trong nhà lao, trước sự biệt nhỡn của viên quản nguc, ngày ngày đưa rượu thịt vào cho ông và các đồng chí, ông vẫn thản nhiên đón nhận và coi đó là “hứng sinh bình”, thậm chí ông còn coi khinh viên quản ngục, không muốn hắn bược vào buồng giam của ông thêm lần nào nữa.

Một con người có tài năng về nghệ thuật, có thiên lương cao đẹp, lại có khí phách ngang tàn và tính khoảnh như Huấn Cao tưởng chừng như sẽ không bao giờ chịu chấp nhận tặng chữ của mình cho viên quản ngục. Thế nhưng, khi hiểu ra nỗi lòng và sở thích cao quý của viên quản ngục, biết ông đã bất chấp cả tính mạng của mình vì thú vui cao quý, Huấn Cao đã thay đổi định kiến về một kẻ tiểu lại giữ tù như ông , ân hận vì thiếu chút nữa “đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” và quyết định tặng chữ cho ông. Chính lúc này, thiên lương của ông đã tự tỏa sáng, bên cạnh thứ ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tỏa sáng cả căn buồng giam chật hẹp ẩm thấp đầy phân rán phân chuột hôi hám. Trong chính cái đêm hôm ấy, cái đẹp đã lên ngôi. Từ một viên quản ngục hàng ngày khét tiếng tàn bạo giờ đây lại khúm núm. Một kẻ tử tù, “ cổ đeo gông, chân vướng xiềng” lại đĩnh đạc, làm chủ nơi ngục tù. Kẻ tử tù ấy dù bị giam hãm về thể xác nhưng nhân cách y lại tự do khác hẳn với kẻ tưởng chừng tự do nhưng lại bị trói buộc cả tâm hồn tại nơi ngục tù tăm tối, nơi cái ác ngự trị này. Nơi ngục tù tăm tối ấy, đêm nay lại diễn ra “cảnh xưa nay chưa từng có”. Cảnh cho chữ - cho một vật báu trên đời lại được diễn ra tại nơi tối tăm chật hẹp. Cái ánh sáng của ngọn đuốc cháy đỏ rực xóa tan bóng đêm tăm tối. Mùi thơm từ chậu mức bốc lên xoa dịu đi mùi hôi tanh của căn phòng. Trên tấm lụa bạch còn nguyên lần hồ, từng nét chữ vừa đẹp, vừa vuông của ông Huấn dần hiện ra. Vậy là cái đẹp có thể nảy sinh trên nền cái xấu, cái ác, cái tội lỗi nhưng không bao giờ sống chung với cái xấu, cái ác. Vì thế, sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã huyên viên quản ngục đổi nghề, đổi chỗ ở để giữ thiên lương cho lành vững, phải có thiên lương lành vững mới thưởng thức được cái đẹp. Cái thiên lương cao đẹp của ông Huấn cũng là sáng bừng cả thiên lương ẩn giấu của quản ngục. Hành động xin “bái lính” của y chính là sự chiến thắng của cái đẹp, sự thất bại thảm hại của cái xấu, cái ác. Cảnh cho chữ không diễn ra ở nơi có trăng hoa tuyết nguyệt mà lại ở trong căn buồng tăm tối chật hẹp. Nơi ngự trị của cái ác lại là nơi cái đẹp được “khai sinh”, thăng hoa. Toàn bộ bóng đêm tăm tối của ngục tù đã sụp đổ, chỉ còn lại vẻ đẹp thuần thiết của khí phách của thiên lương. Người tử tù dù ngày mai có phải chịu án tử hình nhưng kẻ ấy không chết mà sẽ đi vào cõi bất tử cùng với cái đẹp. Huấn Cao là hiện thân cho vẻ đẹp hoàn mĩ, con người ấy chỉ có thể chết về tinh thần , nhưng tử tưởng đẹp của ông Huấn và từng lờ dạy của ông sẽ còn lại với đời, sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.

Câu chuyện thành công không chỉ vì nó phê phán đúng thực trạng xã hội đương thời mà còn vì cái độc đáo khác lạ của tình huống truyện. Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ giữa hai con người hoàn toàn khác nhau. Một người là viên quan quản ngục- một công cụ trấn át kẻ tù tội phục vụ cho triều đình, còn người kia là kẻ tử tù chống lại triều đình. Thế nhưng chính cái đẹp đã dẩy hai con người hoàn toàn khác biệt ấy trở thành tri kỉ. Họ là người nghệ sĩ, biết yêu và coi trọng cái đẹp. Cái độc đáo của truyện cũng nằm trong chính từng nhân vật. Huấn Cao - tên tử tù – lại là một nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp. Viên quản ngục - công cụ trấn át tội phạm của triều đình- lại là con người có mong muốn thưởng thức cái đẹp. Cả câu chuyện mang vẻ cổ kính từ nhân vật, cảnh cho chữ cho đến ngôn ngữ câu văn. Chính nghệ thuật đối lập tương phản, kết hợp vời bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn đã đem đến thánh công cho tác phẩm. Không gian ẩm thấp nơi buồng giam, thời gian đêm tối bóng dáng con người trong đêm và ánh sáng bó đuốc như ánh sáng của thiên lương, của tài năng, khí phách. Màn đêm tăm tối của ngục từ - hiện thân cho cái ác - lại bị ánh sáng của tài năng, thiên lương làm sụp đổ. Không gian được miêu tả hẹp dần: từ căn phòng đến ánh sáng ngọn đuốc, tấm lục trắng tinh rồi đến từng con chữ vuông vắn.

Dường như, cảnh cho chữ và hình tượng nhân vật Huấn Cao đã giúp Nguyễn Tuân thể hiện thành công phong cách nghệ thuật của mình. Ông luôn hướng tới cái đẹp, cái phi thường lí tưởng, đã đẹp phải tuyệt mĩ, đã tài phải siêu phàm, nhưng cũng có cá tính độc đáo.

Câu truyện kết thúc nhưng dư âm về cái đẹp, cái khí phách hiên ngang và thiên lương cao quí của ông Huấn vẫn còn vương vấn. Người đọc có thể hình dung ra một viên quản ngục từ biệt nơi quan trường đầy thị phi mà trở về quê nhà. Ngày ngày, ông thư thả ngắm bức thi họa của ông Huấn ban cho được treo ngay ngắn trong gian giữa ngôi nhà mà trong lòng vẫn khắc sâu lời khuyên răn của ông Huấn.

Nguyễn Tuân được sinh ra trong 1 gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, thơ văn của ông luôn viết về cái đẹp, ông dành cả cuộc đời của mình để đi săn tìm cái đẹp. Ông có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ người tử tù" được in trong tập “Vang bóng một thời" đánh dấu tài năng của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám và được coi như là 1 văn phẩm đạt gần đến độ hoàn mĩ. Ở cuối truyện, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đâm vẻ đẹp lãng mạn của người anh hùng Huấn Cao, qua đó khẳng định được sự chiến thắng của thiên lương, của ánh sáng trước bóng tối và cái xấu. Có thể nói, cảnh cho chữ là cảnh tượng đắt giá nhất, cảnh mà xưa này chưa từng có.

Truyện ngắn được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa 2 nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, cả 2 đều là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn, vượt lên hoàn cảnh, không chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, với nghệ thuật viết thư pháp, nét chữ ông trở thành niềm khao khát của biết bao nhiêu con người có thú chơi chữ. Và quản ngục là 1 trong số đó, sở nguyện lớn nhất của quản ngục là có được đôi câu chữ của Huấn Cao treo trong nhà, Ở đây, người nghệ sĩ gặp kẻ tri âm trong 1 hoàn cảnh bất thường: Người có nét chữ huyền thoại kia lại là người tử tù, còn người có thú chơi chữ tao nhã kia lại là 1 viên quản ngục. Chuyện xin chữ tưởng như khó có thể xảy ra bởi cả cuộc đời ông mới chỉ cho chữ có 3 người. Liệu Huấn Cao có thể cho chữ cho kẻ tiểu lại như quan nhục chăng? Nhưng điều bất ngờ đã xảy ra, điều không thể đã trở thành có thể, chính nhờ sở thích cao quý, tấm lòng quý trọng người tài của quản ngục đã khiến Huấn Cao phải xúc động. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình tại nhà giam tỉnh Sơn để cho chữ quản ngục, ông cho chữ không phải là dể phô trương tài năng mà là để tạ 1 tấm lòng.

Cảnh ông Huấn cho chữ trong nhà giam được khắc họa bằng chi tiết gây ấn tượng, cảm hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc xảo, bút pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ điêu luyện. Cảnh cho chữ được diễn ra vào buổi đêm, đêm cuối cùng của ông Huân tại nhà ngục. Địa điểm cho chữ là ngay trong buồng giam chật hẹp với mạng nhện đầy tường, trên đất bừa bãi phân chuột phân gián Trong không khí trang nghiêm 3 nhân vật hiện lên trong 3 tư thế khác nhau: Huấn Cao thì cổ đeo gong, còn chân vướng xiềng nhưng vẫn ung dung vẽ dậm to từng nét chữ, viên quản ngục thì đang khúm núm cất những đồng tiền kẽm để đánh dấu từng ô chữ, còn thầy thơ lại thì đang run run bê lấy chậu mực. Tuy là khác nhau về tư thế, về địa vị về con người nhưng họ đều có điểm chung là biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp Những nét chứ của con người chuẩn bị đi vào cõi chết mà không hề ngả nghiêng siêu vẹo mà “vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của 1 đời con người". Những nét chữ như phượng múa rồng bay thể hiện được tài năng của ông Huấn. Không chỉ vậy, với thái độ ung dung, tràn trề cảm hứng sáng tạo, ông còn tinh tế cảm nhận được mùi mực thơm ngát thể hiện được khí phách hiên ngang, không sợ cái chết của ông Huấn. Nếu không có tinh thần tự do, không có sức mạnh thì chắc chắn sẽ không có được phong độ ấy. Khi viết chữ xong, ông buồn bã đỡ quản ngục đứng thẳng dậy, ông buồn không phải vì ngày mai mình sẽ bị giải ra pháp trường mà ông buồn vì người như quản ngục lại phải…. Ông còn khuyên quản ngục thật chân thành hãy tìm về nhà quê mà ở, xong rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ, ở đây khó lòng giữ được thiên lương cho lành vững. Lời khuyên đặt ra yêu cầu đối với người thưởng thức: Phải có tâm hồn đẹp mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp, phải có 1 môi trường tốt để cái đẹp được bảo vệ và giữ gìn. Như vậy, Huấn cao chuẩn bị đi vào cõi chết mà vẫn nghĩ tới sự sống của cái đẹp, cái đẹp không thể ở chung với cái xấu. Ông cho chữ quản ngục là để tạ 1 tấm lòng, để chia sẻ với 1 tri kỉ và để nâng đỡ 1 thiên lương.

Có thể nói, cảnh cho chữ diễn ra nơi tù ngục nhưng cũng rất xúc động và thiêng liêng. Quản ngục nghe xong lời khuyên của ông Huấn, ông chắp tay nói 1 câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “ Kẻ mê muội này xin bái lĩnh “. Qua thái độ kính cẩn của quản ngục, người đọc có thể thấy được thái độ trân trọng đặc biệt đối với người tài và cái đẹp, cái đẹp có khả năng cảm hóa con người, đưa những con người đang lầm đường lạc lối trở về con đường trong sáng. Trong đoạn văn tác giả sử dụng thành công thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa mùi thơm với mùi ô uế, bẩn thỉu, Ánh sáng ở đây không chỉ là ánh sáng của bó đuốc mà còn là ánh sáng của cái đẹp, mùi thơm ở đây không chỉ là mùi thơm của chậu mực mà còn là mùi thơm tỏa ra từ nhân cách con người. Bóng tối không thể che lấp được màu trắng của tấm vải, không thể che được ngọn đuốc đang cháy rừng rực và mùi mực tàu thơm ngát.

Có thể khẳng định cảnh ông Huấn cho chữ là cảnh “xưa nay chưa từng có" vì hú chơi chữ là 1 thú chơi tao nhã thanh cao, người có tài viết chữ đẹp mà đạt tới trình độ viết thư pháo không có nhiều, người thưởng thức cũng phải là người có vốn văn hóa nhất định. Bình thường cảnh cho chữ thường được diễn ra nơi sảnh đường thoáng mát, thanh cao để người nghệ sĩ có thể thoải mái mà sáng tạo nhưng Huấn Cao lại cho chữ trong nhà ngục, nơi bóng tối ngự trị, nơi cái ác lên ngôi. Nhưng có lẽ, vì ánh sáng kia qua đẹp nên đã che lấp bóng tối, bóng tối ở đây càng làm tô đậm hơn nét đẹp của ánh sáng. Bình thường quản ngục là đại diện cho pháp luật ở chốn lao tù, là người của triều đình ở thế bề trên vậy mà trong cảnh này Huấn Cao lại ung dung trong tư thế làm chủ, kẻ có chức năng đi giáo dục người khác lại bị giáo dục lại. Như vậy, Nguyễn Tuân đã làm 1 cuộc đảo lộn trật tự xã hội để cho thấy, ở cảnh này, không con người tử tù, cũng không còn quản ngục, gong xiềng bị vô hiệu hóa, chỉ còn người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp và người thưởng thức, sủng kính cái đẹp

Qua truyện ngắn “Chữ người tử tù" người đọc có thể dễ dàng thấy được quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm. Cảnh cho chữ cũng khơi gợi cho con người phải biết trân trọng các giá trị của văn hóa truyền thống, phải biết giữ gìn các truyền thống đang bị mai một dần kia.

Trong một không khí khói toả như cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lân hồ. Khói bốc tỏa cay mắt. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng phẳng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực…”.

Đoạn văn miêu tả đặc sắc đầy chất tạo hình và điện ảnh trên hẳn đã góp phần làm sáng tỏ thêm nhân định : Nguyễn Tuân là một trong những bậc thầy về ngôn ngữ dân tộc; đồng thời cũng khẳng định thêm sự phong phú, chính xác về kiến thức lịch sử, văn hoá, xã hội…., năng lực quan sát lọc lõi và trí tưởng tượng mạnh mẽ và bay bổng của tác giả Vang bóng một thời.

Đoạn văn miêu tả cảnh tượng người tử tù tặng thư pháp nơi ngục thất vừa thảm đạm vừa hào hùng khiến cho cả ba nhân vật Huấn Cao, quản ngục và thơ lại bỗng thăng hoa thành những hình tượng kì vĩ phi thường – Xây dựng được cốt cách phi phàm, những “con người khổng lồ” nhưng có khi phải lặn ngụp “dưới đáy” xã hội, đó cũng là một đặc trưng nổi bật của bút pháp lãng mạn chủ nghĩa nói chung. Đoạn văn chứa đầy mơ ước thiết tha của Nguyễn sở dĩ gọi thức tâm linh người đọc, cũng bởi cả ba nhân vật, tuy ở các vị trí xã hội xa cách nhau nhưng lại có khả năng bổ sung phẩm tính cho nhau ấy, đều là những mảnh hồn của tác giả say đắm hóa thân : tam vị nhân vật, nhất thế ? Nguyễn Tuân. Bút pháp đoản thiên tiểu thuyết phong cách điêu khắc của Nguyễn dựng nên nhóm tượng đài Thiên lương – Tam vị nhất thể sáng láng này dường như muốn tạo tác một biểu hiện làm đối chứng với cái hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến tồi tệ hiên hữu trước mắt tác giả. Sự thực, cái xã hội nhãn tiền ấy đã được Nguyễn Tuân lịch sử hoá , “Sơn Hưng Tuyên” hóa qua bối cảnh câu chuyện ông Huấn cho chữ ; đó là một xã hội “hỗn loạn xô bồ” với những thế nhân “cặn bã”, những “lũ quay quắt” sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc : đối với kẻ sa cơ thất thế thì sẵn sàng hung hăng “phết cho mấy hèo bây giờ” – “Ở đây, khó giữ thiên lương”…Khi viết những dòng Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã và đang được nếm trải thấm thía cái mùi vị xã hội ấy – thạm chí, một sự nghiệm sinh khá kĩ lưỡng, tất nhiên chưa đến độ “cổ đeo gông, chân vướng xiềng lê bước dần tới nơi đoạn mệnh như ông Huấn, nhưng bất hạnh đến mức tù đày khổ nhục đắng cay (khoảng 1929 – 1930) thì cuang đã từng: “những trái tim đó (của các tù nhân – V.T) thỉnh thoảng có lên tiếng nhưng một cách dữ dội và tàn ác. Những cuộc xô xát giữa tù và tù giữa bữa cơm mắm nhà nước phát, thường bắt đầu từ việc tranh giành một quả ớt. Quả ớt đỏ đã nhuộm đỏ những nắm cơm đỏ bị những vần tay vấy máu mân mê. Những bữa cơm cá thối trong một bầu không khí kinh khủng như vậy…” (Một chuyến đi). Có thể nói nguyên mẫu nhân vật Huấn Cao là ông giáo thụ Cao Bá Quát dạy học đát Sơn Tây bán sơn địa sỏi đá từ trăm năm trước ; nhưng nguyên mẫu của xã hội xứ Đoài thời ông Huấn (triều đại Thuận Trị, Tự Đức) thì lại chính là hoàn cảnh xã hội Việt Nam trước mắt người đang sáng tác Vang bóng một thời. Viết truyện ngắn Chữ người tử tù để “dĩ cổ vi kim” (lấy xưa nói nay) là một dụng ý khá rõ ràng của tác giả. Bấc đắc chí, bất mãn, phản kháng chế độ xã hội thực dân địa đang tiếp tục nuôi dưỡng quy luật đau thương : thân phận không phải là hệ quả của bản chất – tinh thần dân tộc sâu xa của nhà văn Nguyễn Tuân yêu nước thâm trầm chủ yếu là ở chỗ đó. Một biểu hiện nữa của tinh thần dân tộc trong Chữ người tử tù là thái độ luyến tiếc của một nhã thú văn hoá cổ truyền đang lụi tàn dần trong xã hội thời Tây : thưởng ngoạn thư pháp. Do chữ Nho là thứ văn tự tượng hình, rất nhiều chữ giống như tranh hiện đại chủ nghĩa (siêu thực, trừu tượng), nét bút lông lại rất mềm mại dễ dàng bộc lộ cá tính và nhân cách…; do đó viết chữ Nho không đơn thuần là thao tác kí hiệu hóa ngôn ngữ, mà nhiều khi trở nên một hành động nghệ thuật đích thực : sáng tạo thư pháp (thư pháp có khi đứng riêng một mình, có khi phối hợp cùng nghệ thuật tạo hình : xuất hiện trên tranh thuỷ mặc…).

Người Việt Nam xưa sử dụng chữ Nho, hoà đồng cùng truyền thống văn hóa phương Đông đã say mê thư pháp, và cũng sản sinh được không ít những nét chữ vừa “Như Phượng múa rồng bay”, vừa phát tiết nhân phẩm. Một trong các danh sĩ Bắc Hàvề thư pháp chính là Cao Chu Thuần (1808 – 1855) với văn chương “vô tiên Hán” và nhân cách thì “Một đời chỉ cúi trước hoa mai” (Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”)… Xây dựng một nguc quan biết nung nấu sở nguyện : “Có được chữ ông Huấn mà treo, là có một vật báu trên đời”, lại biết giữ gìn đến cùng thái độ tôn kính rất mực trước thiên lương và thư pháp kiệt xuất của người tử tù : “Người tù viết xong một chữ, viên quan ngục lại vội khúm núm cắt những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng”…; Nguyễn Tuân như đã cất lên khúc vãn ca đối với một mảng văn hóa truyền thống mà đến thời của Nguyễn lại “vang bóng” (nhiều sinh hoạt văn hoá cổ truyền đáng quý khác cũng chung số phận). Giai điệu vãn ca ấy ngậm nghĩa oán hờn thế cục “Tây Tầu nhố nhăng” đã phạm tội đối với văn hoá Việt. Về nguyên nhân tinh thần gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân đối với văn hóa dân tộc ngàn xưa, có thể tìm thấy ở nguồn gốc gia đình, cũng như ở ngay đời thường của Nguyễn – một con ngưòi tài hoa và am tường và đã sống chan hoà cùng folklore Việt (nghệ thuật sân khấu dân gian : chèo, tuồng ; nghệ thuật tạo hình dân gian ; dân ca : đào nương ca, trong đó có hát ca trù…).

Cuối cùng, tính dân tộc trong truyện ngắn Chữ người tử tù còn thể hiện ở sự trân trọng, Nguyễn Tuân đã học thuộc tiếng mẹ đẻ, trong đó có lớp từ cổ đã tạo hiệu quả lợi hại cho việc tái hiện một cách rất cụ thể – lịch sử, rất hội hoạ điêu khắc và điện ảnh… những cảnh và người gần trăm năm trước.

Tất nhiên, sức mạnh của ngôn ngữ nghệ thuật không phải chỉ ở số lượng từ phong phú mà còn ở khả năng nhạy cảm về ngữ nghĩa của từ, ngữ điệu của câu…- Nhà văn Nguyễn Tuân có đầy đủ những điều kiện đó. Một ví dụ nhỏ: tác giả Chữ người tử tù đã dùng từ “ngấc”, nhưng sách phụ lục văn 12 đã in sai là : “Viên quan coi ngục ngóc đầu” ; “ngấc” và “ngóc” có phần gần gũi về ngữ âm nhưng ngữ nghĩa khá xa nhau, và về phương diện gây ngữ cảm thì càng rất khác nhau : ngóc đầu là dựng thẳng dậy, gây ngữ cảm đáng sợ (rắn ngóc đầu, bọn tội phạm ngóc đầu…), còn ngấc đầu là nhấc đầu nghiêng nghiêng, gây ngữ cảm tội nghiệp (đối với người mệt mỏi, ốm đau…). Các điều kiện thiết yếu đối với một con người cầm bút snág tác văn chương ấy, một phần do thiên bẩm mà Nguyễn có ; phần khác do công phu học hỏi nghiêm túc xuất phát từ cõi lòng gắn bó với cộng đồng. Theo nhà văn Vũ Bằng : “… không cứ thư gửi cho vợ, bất cứ cái gì viết ra giấy,in ra chữ, Tuân đều thận trọng, ít ra cũng là thận trọng hơn so vói những nhà văn, nhà thơ khác (…) Thực tôi chưa thấy bản thảo nào sạch sẽ và viết chữ kiểu cách, nắn nót như bản thảo của Nguyễn Tuân. Trong khi đa số anh em khác viết trên những tờ giấy nham nhở, cắt xén xô bô, tờ to tờ nhỏ khác nhau, bao giờ Tuân cũng viết lên những tờ giấy trắng thượng hạng, cắt xén rất đều, kềm kệp cẩn thận và không bao giờ quên đóng ở trên đầu một cái dấu xanh in một cánh buồm “Gió đã lên”, và thường đến cuối bài lại kí một chữ bay bướm và đóng một cái dấu son đỏ trên màu cánh sen. Sau này cũng có nhiều người cũng bắt chước lối chơi lập dị đó để bây giờ cái chuyện đó cũng hoá ra thường, nhưng nếu trí nhớ của tôi không lầm thì Tuân là nhà văn trẻ đầu tiên bắt chước các cụ in nhãn hiệu và đóng dấu vào bản thảo và sách vở. Đến cái chữ viết của anh cũng cầu kì. Anh viết như nhà nho viết câu đối chữ thả, uốn éo, lên xuống tỏ rõ thái độ tôn kính của Nguyễn Tuân đối với tiếng dân tộc ; đồng thời… than ôi! cũng chứng tỏ Nguyễn Tuân muốn noi gót, hoặc cũng muốn… xin chữ ông Huấn Cao!

Không phải ngẫu nhiên, mà chính cái tố chất tài, tình và đức của “nhà văn đặc biệt Việt Nam” Nguyễn Tuân đã hiệp đồng cùng nhau tạo Chữ người tủ tù – một trong những truyện ngắn “cổ điển” trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 4

Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc của dân tộc Việt Nam, ông là nhà văn được mệnh danh là người đi tìm cái đẹp trong cái bị tàn lụi, với một tâm hồn lãng mạn và đầy chất nhân văn, ông đã sáng tác nên tác phẩm Chữ người tử tù, với biện pháp nghệ thuật hấp dẫn thu hút sự chú ý của người xem đó là bút pháp lãng mạn.

Với tài năng nghệ thuật sâu sắc, ông đã sáng tác lên tác phẩm thu hút sự chú ý của mọi người vào tài năng trong cách sử dụng ngôn ngữ, cũng như một biện pháp có sức thu hút mạnh mẽ tài năng cũng như phẩm giá của nhà văn. Với tài năng và trách nhiệm với tác phẩm mà mình viết ra ông đã sáng tác nên những tác phẩm đậm chất nhân văn và giàu giá trị sâu sắc, ông không chỉ để cho người đọc thấy được tài năng của mình, mà qua đó người đọc thấy được nghệ thuật về xây dựng cái đẹp, cái đẹp đang bị mất đi, con người đang phải sống trong những khoảng không gian chặt hẹp nhưng con người vẫn đang phát huy được cái đẹp trong tâm can của mình.

Với những tình huống đặc sắc, tác phẩm đã phát huy được sức mạnh của nghệ thuật tạo hình, với những đường nét phong phú, và những chi tiết đặc sắc, câu chuyện là sự giao thoa và hòa hợp trong cuộc gặp gỡ giữa viêm quản ngục và Huấn Cao. Với một không gian chặt hẹp của ngục tù, con người đang phải sống và trải qua những giây phút mà cái đẹp đang bị tàn lụi, những chính những giây phút đó mà con người đang dần phát huy mạnh mẽ tài năng trong việc trưng dụng cái đẹp và người hiền tài.

Với một tình huống truyện độc đáo, và nó tạo nên những cái riêng trong cảm giác của tác giả về việc xây dựng cấu trúc và giá trị cho một tác phẩm, giá trị của tác phẩm không chỉ trong việc tạo dựng nên hình tượng và giá trị trong tác phẩm, mà nó còn để lại cho người đọc một cảm quan nghệ thuật mới về cái đẹp, về con người trong khoảng không gian, tối tăm của tù mà cái đẹp vẫn có điều kiện nảy nở và phát huy mạnh mẽ sức mạnh của mình, điều đó không chỉ để cho chúng ta thấy được tài năng và nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm, tác phẩm nó còn thấm đẫm những giá trị lãng mạn, lãng mạn từ việc sắp xếp lên cốt truyện, nó để cho người đọc có một cái nhìn mới mẻ, về không gian nghệ thuật cũng như giá trị về một tác phẩm thành công.

Nhà văn đã dùng bút pháp lãng mạn trong nhân vật trong tác phẩm của mình, bút pháp lãng mạn xoáy sâu vào giá trị phẩm giá của tâm hồn một con người tài hoa và mang nhiều đức tính tốt đẹp, giá trị đó được chúng ta nhìn nhận lại một cách mới mẻ và có nhiều ấn tượng mạnh mẽ nhất đối với cuộc sống của con người. Nhân vật trong nghệ thuật sáng tạo của tác giả, hiện lên cũng vô cùng sâu sắc, nó mang một cảm xúc khác lạ đối với các nhân vật khác, nhân vật ở đây được dùng để biểu hiện một nghệ thuật tạo hình, trong cách sáng tạo với những đường nét tinh tế và giàu giá trị, cảm xúc đó đã mang đến cho đọc giả những phát hiện mởi mẻ, trong cách xây dựng nhân vật. Dùng lối nói có vẻ lãng mạn và mức độc cường điệu hóa đã gia tăng thêm giá trị cho tác phẩm của nhân vật. Nhân vật Huấn Cao được miêu tả với những nét điển hình về ngoại hình, tính cách của nhân vật qua cách biểu hiện, và giá trị của nó mang đến cho người đọc đó là sự uy nghiêm, tài hoa, và một đức tính của người hiền tài.

Với sự tài hoa, và phẩm chất tốt đẹp ông không sợ những lời dọa nạt của nhân vật của mình, mà luôn thể hiện một thái độ dứt khoát về chính tính cách cũng như sự diễn đạt của mình một cách độc đáo và giàu có về giá trị nhất, ngoại hình cũng là một yếu tố để tôn lên vẻ đẹp của nhân vật trong chính tác phẩm. Nhân vật Huấn Cao biểu lộ lên những tính cách của những nhân vật chính diện, nó thể hiện một thái độ của tác giả trước nhân vật của mình, với bút pháp lãng mạn, nhân vật này hiện lên với một con người vừa có tâm và có tài năng.

Như đối với viêm quan ngục nhân vật này hiện lên với một tình cảm đó là yêu cái đẹp, về địa vị có vẻ như đối lập với Huấn Cao, nhưng ông cũng có một tấm lòng biết yêu quý và chân trọng cái đẹp, cái đẹp đó đang trường tồn và nó thể hiện một thái độ tốt đối với chính nhân vật của mình, qua thái độ khúm núm, và tính cách của ông đối với Huấn Cao. Nhân vật trong tác phẩm đã thể hiện được một thái độ dứt khoát trong phong cách nghệ thuật, cũng như những sáng tạo mang lại những giá trị to lớn, và nó để lại ý nghĩa đặc biệt sâu sắc cho chính tác phẩm mà nhân vật này thể hiện trong câu chuyện.

Nhân vật biểu tượng cho sự trân trọng và giữ gìn cái đẹp, với bút pháp lãng mạn nhân vật biểu hiện lên trong những khoảnh khắc tài hoa và năng động mạnh mẽ nhất, nhân vật Huấn Cao cũng là tài năng biểu hiện cho một cái đẹp trường tồn và vĩnh viễn không bao giờ có thể xóa bỏ được, còn quản ngục là người yêu cái đẹp và luôn giữ gìn cái đẹp. Với tài năng và sự miêu tả đầy chất lãng mạn tác giả đã tạo nên những giá trị riêng để miêu tả nghệ thuật tài hoa của chính nhân vật Huấn Cao.

Với tài năng và bút pháp nghệ thuật lãng mạn tác giả đã thể hiện được tài năng cũng như giá trị chính của tác phẩm mà tác giả muốn thể hiện, những tác phẩm đó đã để lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc hơn, về nghệ thuật xây dựng hình tượng, và cách tạo dựng nên tính cách của nhân vật, giá trị của nó tô điểm thêm cho chúng ta thấy được phong cách nghệ thuật của ông. Ông tài hoa trong việc tạo dựng nên tình huống cũng như nhân vật trong tác phẩm, với bút pháp sắc sảo của mình, ông làm gia tăng lên giá trị biểu đạt trong chính tác phẩm của mình.

Tập truyện ngắn này của Nguyễn Tuân cũng là một thành tựu rực rỡ của văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 – 1945, hội tụ trong đó những yếu tố thẩm mỹ và nguyên tắc sáng tác của phương pháp sáng tác này. Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một trong số đó.

Trong “Chữ người tử tù” nói riêng và tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” nói chung, Nguyễn Tuân đã dựng lại những mảnh của cuộc sống một thời đã qua, một thời vang bóng. Cả một dấu xưa vàng son, quá vãng nay trở về sáng lại trên mỗi trang văn với vẻ đẹp mê hồn, có khi rùng rợn mang đầy nuối tiếc, bâng khuâng. Truyện tuy ngắn nhưng cũng đủ để nhà văn vẽ ra một sự tương phản giữa cái lý tưởng và hoàn cảnh thực tại, giữa cái Thiện và cái Ác, giữa ánh sáng và bóng tối. Nhân vật Huấn Cao, quản ngục, thầy thư lại là một bộ ba nhân vật mà trong đó chỉ Huấn Cao là có tên (một cái tên cũng khá mơ hồ gồm tên gọi tắt của chức vụ (Huấn) đi kèm với họ (Cao)) nhưng vẫn sáng lên như những nốt nhấn giữa một mặt bằng tăm tối. Có thể nói hoàn cảnh nhà lao nói riêng và hoàn cảnh xã hội nói chung đã giam hãm những con người trong sạch đó vào cái lồng thiên địa chật hẹp và bó buộc, là một không gian thù địch và luôn ẩn chứa sức phá hoại đối với cái Tài, cái Đẹp, cái Thiên lương. Nhân vật quản ngục và thư lại là những con người trung gian mà Huấn Cao là nhân vật lý tưởng, mẫu hình lý tưởng đối lập với cuộc sống đang níu giữ, kéo ghì quản ngục và thư lại xuống. Quản ngục và thư lại sống lẫn trong cuộc sống đó, Huấn Cao vượt lên khỏi cuộc sống đó nhưng xét đến cùng họ đều là nhân vật của văn học lãng mạn. Huấn Cao sống một cuộc sống mà bình sinh chọc trời khuấy nước mặc dầu với những hình tích và hành trạng bí ẩn đầy màu sắc truyền thuyết. Con người ấy đối lập mình với thế giới, với chế độ mà mình đang sống bởi tự ý thức được mình, ý thức được phẩm giá của mình, kiêu hãnh đứng riêng ra và cao hơn với xung quanh và cảm thấy cô độc trong niềm kiêu hãnh đó. Tuy quản ngục và thầy thư lại không được như Huấn Cao nhưng họ vẫn là những người xa lạ với hoàn cảnh của mình đang sống. “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người (…) của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ”. Họ sống lạc lõng với xung quanh, là những người chọn nhầm nghề bởi nơi họ sống là một nơi “lẫn lộn (…) khó giữ thiên lương”, là nơi mà những cái thuần khiết bị đày ải giữa một đống cặn bã. Giữa cảnh sống đó, nhân cách và tài năng của Huấn Cao càng rực sáng hơn, Huấn Cao đã vượt lên khỏi những ràng buộc của hoàn cảnh để sống với chính bản thân mình dù rằng ông đang ở trong cảnh tù đày, cá nằm trên thớt. Nguyễn Tuân đã dùng những lời thật đẹp để tả lại khung cảnh “một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân trời không định (…); bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao dần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ…”. Những câu văn bay bổng, tài hoa đó đã nói lên phần nào lòng yêu mến của nhà văn với các nhân vật lý tưởng của mình.

Truyện ngắn “Chữ người tử tù” là một bức tranh gồm nhiều mảng màu khác nhau, phân rõ tối sáng, đậm nhạt mà trong đó cái Thiện và cái Ác, ánh sáng và bóng tối luôn tương phản với nhau. Có thể nói, ngay ước muốn xin chữ Huấn Cao của viên quản ngục đã là một ý định đầy chất lãng mạn. Ước mơ đó đã là cái nền nâng đỡ cho hàng loạt chi tiết sau này để những mảng màu tương phản được bày ra. Cảnh tượng Huấn Cao cho chữ là tột đỉnh của quan điểm lãng mạn mà tại điểm hội tụ đó cái Thiện chiến thắng cái Ác, ánh sáng đã lấn át bóng tối và quan trọng hơn là sự phát triển của tính cách nhân vật không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh. Tính cách, cảm xúc của nhân vật đã vượt lên trên hoàn cảnh. Nguyễn Tuân đã nói đó là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” và chúng ta có thể nói nếu theo logic thông thường của cuộc sống thì đó là một cảnh tượng “không thể có”. Ở đây các nhân vật đã quên đi tất cả, quên đi địa vị, danh phận, địa điểm mình đang đứng mà chỉ sống với cái đẹp, hướng tới ánh sáng, thưởng thức chung một nét chữ, cảm nhận cùng một mùi thơm của mực. Trong bức tranh sơn dầu đó, Huấn Cao có cái đẹp lan toả của một người nghệ sĩ còn viên quản ngục và thầy thư lại có cái đẹp của lòng biệt nhỡn liên tài, vẻ đẹp của thiên lương còn giữ được giữa bao quay cuồng đen trắng. Từ hành động rỗ gông của Huấn Cao ở đầu truyện tới việc Huấn Cao viết chữ ở cuối truyện là sự thống nhất nhân cách của một nhân vật lãng mạn. Quản ngục, thư lại là hai nhân vật nâng đỡ nhưng cũng đẹp và đầy chất thơ – chất thơ của cái đẹp, của tài hoa đối lập và vượt lên khỏi thực tại tầm thường, tăm tối. Câu nói “Xin lĩnh ý” của viên quản ngục khi bị Huấn Cao quát đuổi ra ngoài chỉ đơn thuần là một sự nhũn nhặn nhưng câu nói “Xin bái lĩnh” của chính nhân vật này ở cuối truyện, nói sau khi được Huấn Cao cho chữ và khuyên bảo lại là một nét đẹp của một tâm hồn hướng thiện, yêu mến tài hoa.

Trong sáng tác của các nhà văn lãng mạn, người ta có thể nhận ra được hình bóng nhà văn trong nhân vật lý tưởng của mình. Huấn Cao trong “Chữ người tử tù” là một nhân vật như thế. Hành trạng một đời tung hoành không biết trên đầu có ai cùng sự tài hoa, ngông nghênh của ông Huấn cũng là một phần tâm hồn Nguyễn Tuân gửi vào trong đó. Con người Nguyễn Tuân ở ngoài đời cũng như con người ông trong văn chương và các nhân vật của ông có những nét chồng khít đến kỳ lạ mà trong đó sự tài hoa, ngang tàng, phóng túng là mẫu số chung của những phân số đó. Con người nghệ sĩ ấy không chấp nhận cái tầm thường xung quanh, muốn nổi loạn với tất cả mà ở đây hình mẫu lịch sử của nhân vật Huấn Cao (một số nhà nghiên cứu nói là Cao Bá Quát) chỉ còn tiếng vọng. Cũng chính con người nghệ sĩ trong Nguyễn Tuân đã giúp ông bỏ đi phần kết của truyện này khi in trên báo, không đưa vào trong tập sách “Vang bóng một thời”. Khi truyện ngắn “Vang bóng một thời” in lần đầu trên báo, sau khi nói “Xin bái lĩnh”, viên quản ngục đã nghĩ rằng mình đã có “lời”, có “lãi” khi biệt đãi Huấn Cao và nhận được bức châm do chính tay Huấn Cao viết. Cái kết này đã bị lược bỏ khi truyện được in thành sách và chính sự lược bỏ đó đã làm cho truyện thành công hơn, cuốn hút hơn. Truyện cuốn hút vì nó là một khối lãng mạn thực sự mà không bị những ý nghĩ vụ lợi xen vào dù chỉ trong từng chi tiết nhỏ. Đó chính là quan niệm cái Đẹp không gắn liền với cái hữu ích, cái Đẹp đối lập với cái vụ lợi, như Nguyễn Tuân từng nói: “Nghệ thuật là cái mà bọn con buôn coi là vô giá trị…”.

“Vang bóng một thời” là một tiếng vọng đầy cuốn hút trong trào lưu văn học lãng mạn 1930 – 1945 và “Chữ người tử tù” là một tiếng nói góp phần làm nên sự thành công của tập truyện này. Có thể nói rằng, những đặc trưng của phương pháp sáng tác lãng mạn chủ nghĩa không phải đã tập trung đầy đủ ở đây nhưng nhà văn đã thực sự đem chúng ta đến một thế giới mà trong đó nhân vật lãng mạn vượt lên khỏi hoàn cảnh để sống khác biệt với những tầm thường, tăm tối quanh mình. Cái Đẹp, cái Thiện và sự tài hoa đã cùng nhau châu tuần về đó.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 5

Huấn Cao là một kẻ sĩ xả thân vì đại nghĩa, lên án và tố cáo sự trắng trợn của triều đình, ông bất chấp tất cả để chống lại triều đình mục nát, thối rữa. Huấn Cao trong mắt của bọn lính là một kẻ “ngạo ngược và nguy hiểm nhất”, nên đề phòng. ĐỐi với thầy thơ thì ông “văn võ đều có tài cả, chà chà” còn đối với người quàn ngục thì Huấn Cao là người “chọc trời quấy nước”, coi thường tiền bạc và bạo lực. Với những cách nhìn ấy, Huấn Cao là một người tài ba trong mắt của mọi người, là một kẻ tù nhưng lại có tấm lòng kiên trung, toát lên sự thanh cao giữa chốn xiềng xích nhơ bẩn.

 Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã vẽ lên hình ảnh Huấn Cao bộc trực, đầy hào khí, từng đường nét đều rất thoát phàm, rất độc đáo. Là một kẻ tù nhưng Huấn Cao dường như chẳng sợ trời, chẳng sợ đất, ông có thể thét lên với bất cứ ai. KHông cần hành động nhưng khí phách của ông lại khiến cho mọi người nể phục.

Huấn Cao giữa chốn lao tù này còn được biết đến là kẻ sĩ tài hoa, người đời mến mộ bằng cái tên “cái người mà vùng tỉnh Sơn đã khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp..” Những kẻ sĩ có chữ đẹp luôn được sung bái và ngưỡng mộ như vậy. CHữ của ông như “một báu vật trên đời”, ai có diễm phúc sở hữu chữ của ông chính là sở hữu một vật báu trong thiên hạ. Huấn Cao không biết ông quản ngục luôn có một ước mong được sở hữu chữa Huấn Cao, được treo chữ của ông viết ở trong nhà, chữ ông Huấn Caop đẹp và vuông lắm. Một con người tài đức vẹn toàn, một con người không chỉ tài hoa mà còn có cái tâm rất trong sáng và ngay thằng. Kỳ thực ông viết chữ đẹp nhưng chưa bao giờ “ép mình viết bao giờ” Đấy là cốt cách thực sự đáng quý. Ông chỉ viết cho những người thực sự xứng đáng, những người có thể khiến ông ngưỡng mộ và khâm phục nhất.

Nguyễn Tuân thực sự rất tài, tài đến nối đọc từng câu từng chữ của ông người ta cứ ngỡ như ông đang vẽ nên một bức họa thật sinh động giữa chốn nhân gian về một kẻ sĩ đáng trọng như Huấn Cao.

Huấn Cao còn là một người trân trọng tìn bạn, mến mộ những con người có “chí nhớn” trong thiên hạ. Qua lời kể của viên thơ lại, ông đã biết được tấm lòng của viên quản ngục và ngưỡng mợ trước tấm chân tình cũng như sự yêu mến và khát khao có được chữ của ông. Ông xúc động nhận ra được con người có thú vui thanh tao giữa chốn gong cùm nhơ bẩn này “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Nào ta biết đâu một người như thầy quản mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Chỉ một cụm từ “phụ một tấm lòng trong thiên hạ”, Huấn Cao đã khiến cho người đọc không thể nén được cảm xúc. Một con người biết trân trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp, đó là một lối sống hướng đến vẻ đẹp “Chân-Thiện-Mỹ”.

Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên ở cuối tác phẩm dường như là cảnh tượng khó quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tưởng khiến cho người đọc nhớ mãi. Cảnh cho chữ diễn ra không phải ở một nơi thanh cao mà lại diễn ra giữa chốn ngục tù, là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Hình ảnh ba con người hiện lên trong cảnh tượng ấy thật đẹp, thật lung linh, họ không còn là người tù, viên quản ngục nữa mà là những người yêu cái đẹp, tâm đắc với cái đẹp. Cảnh cho chữ ấy thật thiêng liêng và xúc động, sự gặp gỡ quá muộn màng giữa những con người yêu cái đẹp, yêu cái vẻ đẹp hoàn thiện nhất. Hình ảnh Huấn Cao vương xiềng xích, tung bút viết những chữ vuông vắn nhất thực sự là hình ảnh đẹp nhất, đáng ngưỡng mộ và khâm phục nhất. Hình ảnh viên quản ngục “vái lạy” Huấn Cao và Huấn Cao đỡ viên quản ngục dây thực sự là hình ảnh ám ánh khi gấp trang sách lại. Thời khắc mong manh giữa sự sống và cái chết khiến cho người kẻ sĩ ấy thêm kì vĩ, lấp lánh hơn. Kẻ tử tù không thể có cốt cách như vậy, chỉ có anh hùng mới xứng đáng với cốt cách ấy. Và Huấn Cao là môt đấng anh hùng như vậy.

Huấn Cao hiện lên rõ nét, oai phong, đĩnh đạc qua từng nét bút của Nguyễn Tuân thực sự khiến cho người đọc không thể rời mắt khỏi trang viết. Huấn Cao là biểu tượng của cái đẹp vĩnh cửu, của những gì hoàn hảo và kiên trung nhất. Một con người “khó kiếm” trong thiên hạ.

Thực vậy, gấp trang sách lại nhưng hình ảnh Huấn Cao vẫn hiện hiển trong trí óc của người đọc. Ông là hình ảnh tiêu biểu cho những anh hùng hiên ngang bất khuất giữa chốn nhơ bẩn, bất công của thời đại.

Phân tích cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” 6

 Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà Nho hiếu học, Nguyễn Tuân đã dành cả cuộc đời mình để săn tìm cái đẹp hướng đến chân – thiện – mỹ. Không thể phủ định được những đóng góp lớn lao của ông cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm “Chữ người tử tù” trích trong tập “Vang bóng một thời” là truyện ngắn đặc sắc đánh dấu tài năng nghệ thuật của Huấn Cao trước cách mạng tháng Tám và được coi là một tác phẩm gần như đạt đến độ hoàn mĩ. Ở cuối tác phẩm, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đậm vẻ đẹp của người anh hùng Huấn Cao, qua chi tiết đó tác giả muốn khẳng định sự chiến thắng của thiên lương. Có thể nói đây cảnh tượng đắt giá nhất xưa nay chưa từng có.

Chúng ta có thể thấy, từ xưa tới nay chơi chữ là thú vui tao nhã, thanh cao của những người có học thức, các sĩ tử,... Các câu đối, châm ngôn cuộc sống, bài thơ nổi tiếng được những người nghệ sĩ thư pháp uyển chuyển viết lên giấy giúp cho tâm hồn của con người được thư thái. Chơi chữ chính là nói lên cái đẹp, tài năng và trí tuệ của con người. Chúng ta sẽ thường bắt gặp cảnh cho chữ được diễn ra ở những nơi trang trọng, có đủ trăng hoa tuyết nguyệt để khơi nguồn cảm xúc, rồi từ đó có những nét chữ uyển chuyển trong đó có cả cái hồn riêng được ra đời. Nhưng với sự sáng tạo của Nguyễn Tuân thì cảnh cho chữ là một cảnh tượng hết sức lạ lùng, vượt ra khỏi những chuẩn mực xã hội xưa cũ và cho đến bây giờ chúng ta vẫn gọi đó là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nhưng chính chi tiết lạ lùng ấy đã làm cho giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm được nâng lên, từ đó tạo nên sức lôi cuốn và hấp dẫn cho bạn đọc.

Không gian và thời gian trong cảnh cho chữ được tác giả miêu tả rất sinh động và chân thực. Vào một đêm khuya vắng lặng, khi bóng tối đã bao trùm và thống trị nơi đây. Cùng với tiếng gõ mõ vọng cạnh, nhà tù đã hiện lên một cách chật hẹp, tù túng, ẩm thấp, mệt mỏi và những tiếng thở dài bất lực trước xã hội đương thời. Một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác giờ đây lại bị giam trong nhà tù tăm tối, thế nhưng tại chính nơi hạ đẳng, tăm tối đó lại xảy ra một cảnh tượng làm rung động trái tim của những con người tài hoa chân chính.

Một không gian tăm tối không thể thấy ánh mặt trời dù là ngày hay đêm, trong khung cảnh như vậy có ba người “đang chăm chú trên một tấm bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ngay lúc này buồng gian ngập tràn “khói tỏa như đám cháy nhà”, “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu”, họ đang chăm chú với niềm hạnh phúc dâng trào để tạo nên một tác phẩm hoàn mỹ. Sự đối lập về vị thế giữa Huấn Cao – người cho chữ và người nhận chữ - viên quản ngục, tác giả đã khắc họa sắc nét, sinh động từng hành động, cử chỉ và thái độ của 2 nhân vật này. Chỉ qua một chi tiết nhỏ này thôi tác giả đã bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của con người nơi tăm tối.  

Có lẽ vì đứng trước cái đẹp nên những cảnh tượng xung quanh đang diễn ra bỗng nhiên như chậm lại, khiến cho trái tim con người rung động, như có một thứ gì đó bóp nghẹt, không ai nói với nhau câu nào nhưng vẫn đủ để cảm nhận được niềm hạnh phúc, vui sướng đang tuôn trào trong lồng ngực của mỗi con người yêu cái đẹp nơi tù túng này. Ta có thể thấy lạ, là một viên quản ngục “quyền cao chức trọng” nhưng lại cúi đầu trước một người tù, thực chất viên quản ngục đang cúi đầu trước cái vẻ đẹp tài hoa và người tử tù có tấm lòng thiên lương trong sáng. Khi nét chữ cuối cùng đã viết xong Huấn Cao thở dài buồn bã, ông khuyên viên quản ngục nên đổi nghề và đổi chỗ ở để có thể giữ cho thiên lương trong sáng, thức tỉnh và cứu rỗi tâm hồn viên quản ngục đang bị tha hóa, rối ren, rơi vào nơi vấy bẩn của xã hội. Trước những lời khuyên đó, viên quản ngục đã xúc động, cảm kích và kính trọng Huấn Cao, những giọt nước mắt lăn dài trên má ông chính là những giọt nước mắt thể hiện sự tiếc thương cho số phận người anh hùng đầy khí phách Huấn Cao.

Qua cảnh cho chữ đầy xúc động, tác giả Nguyễn Tuân đã ngầm khẳng định vị thế của cái đẹp thiên lương, ở bất cứ đâu, cho dù là nơi tối tăm nhất thì cái đẹp vẫn tồn tại, thậm chí là tồn tại không đơn độc. Nó như một sức mạnh vô hình chỉ đường dẫn lối cho những người tốt có tấm lòng nhân hậu đang bị lạc nơi bóng tối bao trùm và tội ác hoành hành trở về đúng con đường chân chính, tươi đẹp. Người đọc có thể cảm nhận được rằng tác giả là người giàu kiến thức, có sức tưởng tượng cô cùng phong phú và độc đáo. Chính vì vậy mà tác giả có thể vẽ nên một bức tranh với hai mảng màu sáng tối đối lập nhau gay gắt, một bên là màu của khung cảnh tăm tối nơi ngục tù, một bên là ánh sáng chói lóa của nét đẹp hoàn mỹ.

Kết tinh bởi tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo Nguyễn Tuân đã biến cảnh cho chữ thành cảnh tượng chưa nay chưa từng có. Tác phẩm đã thể hiện sự tiếc nuối của chính tác giả và người đọc trước số phận của những con người yêu cái đẹp, luôn hướng đến cái chân – thiện – mỹ. Xen vào đó, tác giả đã khéo léo bày tỏ tấm lòng của mình một cách kín đáo, tiếc thương trước số phận người anh hùng nhân hậu, khí phách và có nhân cách cao thượng.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 7

 Khi nhắc đến lối văn chương hướng đến cái đẹp chân chính, người ta nghĩ ngay đến người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân, dành cả cuộc đời để tìm kiếm cái đẹp. Trong các sáng tác của Nguyễn Tuân nói chung và tác phẩm “Chữ người tử tù” nói riêng, tác giả đã miêu tả nhân vật của mình như một người nghệ sĩ đầy tài năng.Bên cạnh đó, nhà văn còn khéo léo sáng tạo lên một cảnh tượng vô cùng độc đáo, cảnh tượng xưa nay chưa từng có đó là “cảnh cho chữ” – đây là chi tiết được đánh giá là xuất sắc nhất của thiên truyện.

Tác phẩm lúc đầu có tên là “Dòng chữ cuối cùng” sau đó được đổi thành “Chữ người tử tù”. Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã đánh giá “đây là một văn phẩm đạt gần tới sự hoàn mỹ”. Nhân vật chính trong truyện ngắn này chính là Huấn Cao – một con người văn võ song toàn, một người anh hùng có tấm lòng nhân hậu và thiên lương trong sáng. Huấn Cao có tiếng là người có tài viết chữ nhanh và đẹp, những người biết chơi chữ thời bấy giờ ai cũng mong muốn có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà. Nghệ thuật thư pháp và tài hoa uyên bác chính là 2 phẩm chất cao thượng tồn tại trong con người Huấn Cao. Văn hóa, quan niệm về nhân thế được ẩn chứa trong từng nét chữ của ông, người ta treo chữ của ông trong nhà không chỉ là để ngắm và thưởng thức cái đẹp mà còn để suy ngẫm về những tư tưởng sâu sắc. Nhưng không phải ai cũng có thể có được chữ Huấn Cao, ông chỉ cho những người thân tri kỉ, chính vì vậy có được chữ của Huấn Cao treo trong nhà người ta coi đó là báu vật. Huấn Cao không chỉ nổi tiếng là người viết chữ đẹp, có tài về nghệ thuật mà ông còn là người có thiên lương. Ông không phải là người vì tiền bạc, vì quyền uy mà ép mình làm những điều trái với lương tâm, trái với luân thường đạo lý.

Ngay cả khi bước vào tù lao, phải vác trên vai cái gông lớn bằng gỗ lim, ông không những không run sợ mà trước lời quát nạt của tên lính áp giải mà vẫn lạnh lùng “thúc mạnh đầu thang gỗ gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Khi bị giam trong nhà lao, ngày ngày viên quản ngục sai người đưa rượu thịt vào, ông thản nhiên đón nhận và coi đó là “hứng sinh bình”, thậm chí ông còn coi khinh viên quản ngục, ông không muốn viên quản ngục bước chân vào phòng giam của mình thêm một lần nào nữa.  

Một người ngang tàn, có tài năng nghệ thuật, vị anh hùng khí phách rất ít khi cho ai chữ của mình. Thế nhưng khi hiểu ra được tấm lòng của viên quản ngục, biết ông bất chấp cả tính mạng của mình vì cái đẹp, vì thú vui cao quý, Huấn Cao đã có sự thay đổi định kiến của mình về viên quản ngục, ân hận về việc thiếu chút nữa đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ và quyết định tặng chữ cho viên quản ngục. Chính lúc này, trong không gian của nhà tù chật chội, tăm tối, bên cạnh thứ ánh sáng đỏ rực của bó đuốc, tỏa sáng cả buồng giam chật hẹp ẩm thấp hôi hám đầy mùi phân gián, phân chuột hôi hám thì thiên lương của ông được tỏa sáng, cũng ngay chính lúc này cái đẹp chính thức lên ngôi. Hằng ngày viên quản ngục khét tiếng tàn bạo giờ lại khúm núm, cúi đầu. Còn kẻ tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” bị giam hãm về thể xác nhưng nhân cách ông lại tự do khác hẳn với kẻ tự do về thể xác nhưng lại bị trói buộc về tâm hồn tại nơi ngục tù tăm tối, nơi cái ác thống trị.  

Từng nét chữ vừa đẹp vừa uyển chuyển của Huấn Cao dần xuất hiện trên tấm lụa trắng. Chính nơi đầy tăm tối và tội ác bao trùm này đã cái đẹp đã nảy sinh và lên ngôi. Ngay sau khi cho chữ xong Huấn Cao còn cho viên quản ngục lời khuyên nên đổi nghề, đổi chỗ ở để có thể giữ cho thiên lương trong sáng bền vững. Chính cái thiên lương cao đẹp của Huấn Cao đã làm sáng bừng cả thiên lương ẩn dấu sâu bên trong con người viên quản ngục. Hành động của viên quản ngục “vái” Huấn Cao nó thể hiện sự kính trọng, biết ơn và những giọt nước mắt của viên quản ngục xót thương cho số phận người anh hùng Huấn Cao. Cảnh cho chữ không diễn ra ở nơi trăng hoa tuyết nguyệt mà nó lại diễn ra ngay trong ngục tù tăm tối nơi cái ác và bóng tối bao trùm, nơi mà cái ác ngự trị cũng chính là nơi cái đẹp lại “khai sinh”. Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật Huấn Cao đại diện cho vẻ đẹp hoàn mỹ, và những tư tưởng đẹp đẽ của ông sẽ mãi ở lại với đời và sẽ theo viên quản ngục trong suốt cuộc đời còn lại.

Qua tác phẩm, tác giả không chỉ muốn phê phán đúng thực trạng xã hội đương thời mà còn thể hiện sự khác lạ của tình huống truyện. Hai con người hoàn toàn đối lập nhau nhưng số phận lại đưa hai con người này đến với nhau và trở thành tri kỉ. Một người là viên quản ngục – công cụ trấn áp kẻ tù tội phục vụ triều đình, còn Huấn Cao lại là người chống đối lại triều đình. Để có thể đưa tác phẩm đi đến thành công tác giả đã kết hợp nghệ thuật đối lập tương phản, kết hợp hài hòa giữa bút pháp tả thực và bút pháp lãng mạn. Không gian ẩm thấp nơi buồng giam, ánh sáng ngọn đuốc như ánh sáng của thiên lương, của tài năng, khí phách, bóng tối của màn đêm bao trùm của ngục tù chính là hiện thân của cái ác đối lập với ánh sáng của ngọn đuốc đại diện cho ánh sáng tài năng đã được tác giả miêu tả một cách sinh động và chân thực.

Có thể nói thành công trong nghệ thuật là nhờ tác giả đã dồn hết tài năng và tâm huyết, ông luôn hướng tới cái đẹp, cái chân - thiện – mỹ, cái phi thường, lý tưởng, cái đẹp phải tuyệt mỹ, đã tài là phải siêu phàm. Chính những điều này đã làm nên giá trị đặc sắc cho tác phẩm “Chữ người tử tù” để rồi đến tận bây giờ người ta vẫn gọi cảnh cho chữ trong tác phẩm là “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 8

Nguyễn Tuân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn tiêu biểu trong thời kỳ văn học lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945. Ông được mệnh danh là người suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn đưa cái đẹp vào trong từng trang viết của mình. Tên tuổi của nhà văn Nguyễn Tuân đã thực sự sáng chói trên diễn đàn văn học Việt Nam khi tập truyện “Vang bóng một thời” ra mắt người đọc. Nổi bật trong mười một tập truyện là truyện ngắn Chữ người tử tù và dấu ấn để lại của tác phẩm chính là cảnh cho chữ ở cuối truyện – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có – được nhà văn xây dựng lôi cuốn.

Khung cảnh của buổi cho chữ không diễn ra tại nhà của một thầy đồ với nghiên mực, sách bút mà lại được diễn ra ngay trong chính buồng giam chật hẹp, u tối và bẩn thỉu,…Trong khi đó, cho chữ được xem là một việc làm thanh cao. Phải chăng tác giả đang cố tình đặt cảnh cho chữ vào một không gian đặc biệt, một nơi chứa đầy máu và tội ác, để làm nổi bật lên nhân cách thanh cao, trong sạch của nhân vật Huấn Cao.

Cảnh tượng cho chữ thiêng liêng diễn ra trong một không gian vô cùng yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng văng vẳng tiếng mõ kêu trên chòi canh. Không gian này không chỉ chứa đựng sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối mà còn vạch rõ ranh giới giữa ánh sáng của lương chi với bóng tối của tội ác. Ánh sáng ở đây chính là tấm lòng lương thiện của một vĩ nhân có cốt cách thanh cao đã và đang bị đẩy lùi vào bóng tối, và cũng chính là hiện thân của sự tàn bạo và độc ác đang ngự trị trong mỗi buồng giam ở ngục tù này. Dường như, ánh sáng đã khai sáng, soi rọi cho những kẻ lầm đường lạc bước trở về với đúng cuộc sống của con người lương thiện.

Cảnh tượng cho chữ xoay quanh hai nhân vật là Huấn Cao – một tử tù có tài năng viết chữ rất đẹp nhưng bị khép vào tội chết, đang chờ ngày ra pháp trường, và viên quản ngục – kẻ có quyền nhưng lại rất mê vẻ đẹp toát lên từ những nét chữ của ông Huấn Cao, ngày đêm ao ước có thể sở hữu được những nét chữ đẹp ấy.

Nếu chỉ xét về phương diện tại ngục tù tối tăm thì Huấn Cao và viên quản ngục là hai người ở hai đầu chiến tuyến, người đại diện cho sự lương thiện và người là hiện thân của tội ác. Nhưng nếu xét về phương diện nghệ thuật thì họ lại là tri âm tri kỷ của nhau. Chính vì hiểu được sở thích cao quý, lòng yêu nghệ thuật và yêu cái đẹp của viên quản ngục mà Huấn Cao mới đồng ý cho chữ.

Dường như, tấm lụa trắng tinh kia cùng những nét chữ vẫn còn thơm mùi mực và cả tấm lòng lương thiện của tên ngục tù Huấn Cao đã đánh đổ được nhà tù tàn bạo và đen tối kia. Trong không gian cho chữ, không còn ai gọi là tội phạm và cũng không còn ai gọi là quản ngục, nơi đây đã trở thành chốn tâm giao giữa những người nghệ sĩ yêu cái đẹp. Có thể nói, cảnh cho chữ đã chắp cánh cho ngòi bút của nhà văn Nguyễn Tuân giúp ông dựng nên một tượng đài nghiêm trang về một con người rất tài hoa và tràn đầy khí phách anh hùng.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, người đọc có thể thấy cảnh tượng cho chữ không chỉ làm thức tỉnh những con người đang lầm lỡ trở về với lương thiện mà còn góp phần mang đến một ý nghĩa nhân sinh vô cùng sâu sắc về tình đời, tình người và lòng đam mê cái đẹp. Cánh cửa làm người lương thiện luôn dang rộng đón chờ những ai biết quay đầu lại với sai trái và quyết tâm làm lại từ đầu.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 9

Khi nhắc tới lối văn chương luôn khát khao hướng tới chân-thiện-mĩ, người ta thường nhắc tới Nguyễn Tuân- một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp. Ông được đánh giá là một trong những cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tac của Nguyễn Tuân, các nhân vật thường được miêu tả, nhìn nhận như một nghệ sĩ. Và tác phẩm “Chữ người tử tù” cũng được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Bên cạnh đó, nhà văn đã khéo léo sáng tạo lên một tình huống truyện vô cùng độc đáo. Đó là cảnh cho chữ trong nhà giam- là phần đặc sắc nhất của thiên truyện này “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.


Đoạn cho chữ nằm ở phần cuối tác phẩm.ở vị trí này tình huống truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm vì viên quản ngục bỗng nhận được công văn về việc xử tử những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Do vậy cảnh cho chữ có ý nghĩa cởi nút,giải tỏa những băn khoăn,chờ đợi nơi người đọc, từ đó toát lên những giá trị lớn lao của tác phẩm.

Sau khi nhận được công văn, viên quản ngục đã rãi bày tâm sự của mình với thầy thơ lại. Nghe xong truyện, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam Huấn Cao để kể rõ nỗi lòng viên quản ngục. Và đêm hôm đó, trong một buồng tối chật hẹp với ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, “ một cảnh tượng xưa nay chưa từng có” đang diễn ra. Thông thường để sáng tạo nghệ thuật người ta thường tìm đến những nơi có không gian đẹp, thoáng đãng, yên tĩnh. Nhưng trong một không gian chứa đầy bóng tối, nhơ bẩn chốn ngục tù thì việc sáng tạo nghệ thuật vẫn xảy ra. Thời gian ở đây cũng gợi cho ta tình cảnh của người tử tù. Đây có lẽ là đêm cuối của người tử tù-người cho chữ và cũng chính là giờ phút cuối cùng của Huấn Cao. Và trong hoàn cảnh ấy thì “ một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” vẫn ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trăng tinh”. Trong khi ấy, viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm lúm chuyển động.ở đây cho thấy dường như trật tự xã hội đang bị đảo lộn. Viên quản ngục đáng nhẽ phải hô hào, răn đe kẻ tù tội. Thế nhưng trong cảnh tượng này thì tù nhân lại trở thành người răn dạy, ban phát cái đẹp.

Đây quả thực là một cuộc gặp gỡ xưa nay chưa từng có giữa Huấn Cao-người có tài viết chữ nhanh, đẹp và viên quản ngục, thầy thơ lại-những người thích chơi chữ. Họ đã gặp nhau trong hoàn cảnh thật đặc biệt: một bên là kẻ phản nghịch phải lĩnh án tử hình( Huấn Cao) và một bên là những người thực thi pháp luật. Trên bình diện xã hội, họ ở hai phía đối lập nhau nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm, tri kỉ của nhau. Vì thế mà thật là chua xót vì đây là lần đầu tiên nhưng cũng là lần cuối cùng ba con người ấy gặp nhau. Hơn thế nữa, họ gặp nhau với con người thật, ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, nhà văn đã sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối làm câu chuyện cũng vận động theo sự vận động của ánh sáng và bóng tối. Cái hỗn độn, xô bồ của nhà giam với cái thanh khiết của nền lụa trắng và những nét chữ đẹp đẽ. Nhà văn đã làm nổi bật hình ảnh của Huấn Cao, tô đậm sự vươn lên thắng thế của ánh sáng so với bóng tối, cái đẹp so với cái xấu và cái thiện so với cái ác. Vào lúc ấy, từ một quan hệ đối nghịch kì lạ: ngọn lửa của chính nghĩa bùng cháy ở chốn ngục tù tối tăm, cái đẹp được sáng tạo giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn… ở đây, Nguyễn Tuân đã nêu bật chủ đề của tác phẩm: cái đẹp chiến thắng cái xấu xa, thiên lương chiến thắng tội ác. Đó là sự tôn vinh cái đẹp, cái thiện đầy ấn tượng.

Sau khi cho chữ xong, Huấn Cao đã khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn: “đổi chỗ ở” để có thể tiếp tục sở nguyện cao ý. Muốn chơi chữ phải giữ được thiên lương. Trong môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể bền vững. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, nhơ bẩn, từ môi trường của cái ác( cho chữ trong tù) nhưng không thể chung sống với cái ác. Nguyễn Tuân nhắc đến thú chơi chữ là môn nghệ thuật đòi hỏi sự cảm nhận không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng tâm hồn. Người ta thưởng thức chữ không mấy ai thấy, cảm nhận mùi thơm của mực. Hãy biết tìm trong mực trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là cái thiện và chơi chữ chính là thể hiện cách sống có văn hóa.

Trước lời khuyên của người tử tù, viên quản nguc xúc động “ vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào: kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng sức mạnh của một nhân cách cao cả và tài năng xuất chúng, người tử tù đã hướng quản ngục đến một cuộc sống của cái thiện. Và trên con đường đến với cái chết Huấn Cao gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường. Trong khung cảnh đen tối của tù ngục, hình tượng Huấn Cao bỗng trở lên cao lớn là thường, vượt lên trên những cái dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh. Đồng thời thể hiện một niềm tin vững chắc của con người: trong bất kì hoàn cảnh nào con người vẫn luôn khao khát hướng tới chân- thiện-mĩ.

Có ý kiến cho rằng: Nguyễn Tuân là nhà văn duy mĩ, tức là điều khiến ông quan tâm chỉ là cái đẹp, là nghệ thuật. Nhưng qua truyện ngắn “ Chữ người tử tù” mà đặc biệt là cảnh cho chữ ta càng thấy rằng nhận xét trên là hời hợt, thiếu chính xác. Đúng là trong truyện ngắn này, Nguyễn Tuân ca ngợi cái đẹp nhưng cái đẹp bao giờ cũng gắn với cái thiện, thiên lương con người. Quan điểm này đã bác bỏ định kiến về nghệ thuật trước cách mạng, Nguyễn Tuân là một nhà văn có tư tưởng duy mĩ, theo quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật. Bên cạnh đó, truyện còn ca ngời viên quản ngục và thầy thơ lại là những con người tuy sống trong môi trường độc ác xấu xa nhưng vẫn là những “thanh âm trong trẻo” biết hướng tới cái thiện. Qua đó còn thể hiện tấm lòng yêu nước, căm ghét bọn thống trị đương thời và thái độ trân trọng đối với những người có “thiên lương” trên cơ sở đạo lí truyền thống của nhà văn.

“Chữ người tử tù” là bài ca bi tráng, bất diệt về thiên lương, tài năng và nhân cách cao cả của con người. Hành động cho chữ của Huấn Cao, những dong chữ cuối cung của đời người có ý nghĩa truyền lại cái tài hoa trong sáng cho kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau. Nếu không có sự truyền lại này cái đẹp sẽ mai một. Đó cũng là tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho đời.

Bằng nhịp điệu chậm rãi, câu văn giàu hình ảnh gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm. Từng hình ảnh, từng động tác dần hiện lên dưới ngòi bút đậm chất điện ảnh của Nguyễn Tuân: một buồng tối chật hẹp…hình ảnh con người “ba cái đầu đang chăm chú trên một tấm lụa trắng tinh”, hình ảnh người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang viết chữ. Trình tự miêu tả cũng thể hiện tư tưởng một cách rõ nét: từ bóng tối đến ánh sáng, từ hôi hám nhơ bẩn đến cái đẹp. Ngôn ngữ, hình ảnh cổ kính cũng tạo không khí cho tác phẩm. Ngôn ngữ sử dụng nhiều từ hán việt để miêu tả đối tượng là thú chơi chữ. Tác giả đã “phục chế” cái cổ xưa bằng kĩ thuật hiện đại như bút pháp tả thực, phân tích tâm lí nhân vật.( văn học cổ nói chung không tả thực và phân tích tâm lí nhân vật)

Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” đã kết tinh tài năng, sáng tạo và tư tưởng độc đáo của Nguyễn Tuân. Tác phẩm đã nói lên lòng ngưỡng vọng và tâm sự nuối tiếc đối với những con người có tài hoa, nghĩa khí và nhân cách cao thượng. Đan xen vào đó tác giả cũng kín đao bày tỏ cái đau xót chung cho cái đẹp chân chính, đích thực đang bị hủy hoại. Tác phẩm góp một tiếng nói đầy tính nhân bản: dù cuộc đời có đen tối vẫn còn có những tấm lòng tỏa sáng.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 10

   Nguyễn Tuân được sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, thơ văn của ông luôn viết về cái đẹp, ông dành cả cuộc đời của mình để đi săn tìm cái đẹp. Ông có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm "Chữ người tử tù" được in trong tập "Vang bóng một thời" đánh dấu tài năng của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám và được coi như là một văn phẩm đạt gần đến độ hoàn mĩ. Ở cuối truyện, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đậm vẻ đẹp lãng mạn của người anh hùng Huấn Cao, qua đó khẳng định được sự chiến thắng của thiên lương, của ánh sáng trước bóng tối và cái xấu. Có thể nói, cảnh cho chữ là cảnh tượng đắt giá nhất, cảnh mà xưa nay chưa từng có.

   Truyện ngắn được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, cả hai đều là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn, vượt lên hoàn cảnh, không chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, với nghệ thuật viết thư pháp, nét chữ ông trở thành niềm khao khát của biết bao nhiêu con người có thú chơi chữ. Và quản ngục là một trong số đó, sở nguyện lớn nhất của quản ngục là có được đôi câu chữ của Huấn Cao treo trong nhà. Ở đây, người nghệ sĩ gặp kẻ tri âm trong một hoàn cảnh bất thường: Người có nét chữ huyền thoại kia lại là người tử tù, còn người có thú chơi chữ tao nhã kia lại là một viên quản ngục. Chuyện xin chữ tưởng như khó có thể xảy ra bởi cả cuộc đời ông mới chỉ cho chữ có 3 người. Liệu Huấn Cao có thể cho chữ cho kẻ tiểu lại như quan ngục chăng? Nhưng điều bất ngờ đã xảy ra, điều không thể đã trở thành có thể, chính nhờ sở thích cao quý, tấm lòng quý trọng người tài của quản ngục đã khiến Huấn Cao phải xúc động. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình tại nơi ngục tù đó để cho chữ quản ngục, ông cho chữ không phải là để phô trương tài năng mà là để tạ một tấm lòng.

   Cảnh ông Huấn cho chữ được khắc họa bằng chi tiết gây ấn tượng, cảm hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc xảo, bút pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ điêu luyện. Cảnh cho chữ được diễn ra vào buổi đêm, đêm cuối cùng của ông Huấn tại nhà ngục. Địa điểm cho chữ là ngay trong buồng giam chật hẹp với mạng nhện đầy tường, trên đất bừa bãi phân chuột phân gián. Trong không khí trang nghiêm ba nhân vật hiện lên trong ba tư thế khác nhau: Huấn Cao thì cổ đeo gông, còn chân vướng xiềng nhưng vẫn ung dung vẽ dậm to từng nét chữ, viên quản ngục thì đang khúm núm cất những đồng tiền kẽm để đánh dấu từng ô chữ, còn thầy thơ lại thì đang run run bê lấy chậu mực. Tuy là khác nhau về tư thế, về địa vị về con người nhưng họ đều có điểm chung là biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp. Những nét chữ của con người chuẩn bị đi vào cõi chết mà không hề ngả nghiêng siêu vẹo mà "vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người". Những nét chữ như phượng múa rồng bay thể hiện được tài năng của ông Huấn. Không chỉ vậy, với thái độ ung dung, tràn trề cảm hứng sáng tạo, ông còn tinh tế cảm nhận được mùi mực thơm ngát thể hiện được khí phách hiên ngang, không sợ cái chết của ông Huấn. Nếu không có tinh thần tự do, không có sức mạnh thì chắc chắn sẽ không có được phong độ ấy. Khi viết chữ xong, ông buồn bã đỡ quản ngục đứng thẳng dậy, ông buồn không phải vì ngày mai mình sẽ bị giải ra pháp trường mà ông buồn vì người như quản ngục lại phải... Ông còn khuyên quản ngục thật chân thành hãy tìm về nhà quê mà ở, xong rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ, ở đây khó lòng giữ được thiên lương cho lành vững. Lời khuyên đặt ra yêu cầu đối với người thưởng thức: Phải có tâm hồn đẹp mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp, phải có một môi trường tốt để cái đẹp được bảo vệ và giữ gìn. Như vậy, Huấn Cao chuẩn bị đi vào cõi chết mà vẫn nghĩ tới sự sống của cái đẹp, cái đẹp không thể ở chung với cái xấu. Ông cho chữ quản ngục là để tạ một tấm lòng, để chia sẻ với một tri kỉ và để nâng đỡ một thiên lương.

   Có thể nói, cảnh cho chữ diễn ra nơi tù ngục nhưng cũng rất xúc động và thiêng liêng. Quản ngục nghe xong lời khuyên của ông Huấn, ông chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Qua thái độ kính cẩn của quản ngục, người đọc có thể thấy được thái độ trân trọng đặc biệt đối với người tài và cái đẹp, cái đẹp có khả năng cảm hóa con người, đưa những con người đang lầm đường lạc lối trở về con đường trong sáng. Trong đoạn văn tác giả sử dụng thành công thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa mùi thơm với mùi ô uế, bẩn thỉu. Ánh sáng ở đây không chỉ là ánh sáng của bó đuốc mà còn là ánh sáng của cái đẹp, mùi thơm ở đây không chỉ là mùi thơm của chậu mực mà còn là mùi thơm tỏa ra từ nhân cách con người. Bóng tối không thể che lấp được màu trắng của tấm vải, không thể che được ngọn đuốc đang cháy rừng rực và mùi mực tàu thơm ngát.

   Có thể khẳng định cảnh ông Huấn cho chữ là cảnh "xưa nay chưa từng có" vì thú chơi chữ là một thú chơi tao nhã thanh cao, người có tài viết chữ đẹp mà đạt tới trình độ viết thư pháp không có nhiều, người thưởng thức cũng phải là người có vốn văn hóa nhất định. Bình thường cảnh cho chữ thường được diễn ra nơi sảnh đường thoáng mát, thanh cao để người nghệ sĩ có thể thoải mái mà sáng tạo nhưng Huấn Cao lại cho chữ trong nhà ngục, nơi bóng tối ngự trị, nơi cái ác lên ngôi. Nhưng có lẽ, vì ánh sáng kia qua đẹp nên đã che lấp bóng tối, bóng tối ở đây càng làm tô đậm hơn nét đẹp của ánh sáng. Bình thường quản ngục là đại diện cho pháp luật ở chốn lao tù, là người của triều đình ở thế bề trên vậy mà trong cảnh này Huấn Cao lại ung dung trong tư thế làm chủ, kẻ có chức năng đi giáo dục người khác lại bị giáo dục lại. Như vậy, Nguyễn Tuân đã làm một cuộc đảo lộn trật tự xã hội để cho thấy, ở cảnh này, không còn người tử tù, cũng không còn quản ngục, gông xiềng bị vô hiệu hóa, chỉ còn người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp và người thưởng thức, sủng kính cái đẹp.

   Qua truyện ngắn "Chữ người tử tù" người đọc có thể dễ dàng thấy được quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm. Cảnh cho chữ cũng khơi gợi cho con người phải biết trân trọng các giá trị của văn hóa truyền thống, phải biết giữ gìn các truyền thống đang bị mai một dần kia.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 11

Cho chữ vốn là hoạt động thanh cao, là lúc nghệ thuật được đẩy lên vị trí cao nhất, là khoảng thời gian người nghệ sĩ sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy mà người ta thường sáng tạo thư pháp ở những nơi như thư phòng, viện sảnh hay là những nơi có đủ trăng, hoa, rượu thơm lừng để có cảm hứng tốt nhất mà tạo nên nghệ thuật. Thế nhưng hoàn cảnh cho chữ trong truyện ngắn “Chữ người tử tù” lại hoàn toàn khác.

Đó là lúc đêm khuya, không gian đối lập với sự thông thường. Tại trại giam vùng tỉnh Sơn chỉ còn tiếng mõ trên vọng canh, buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Ánh sáng phục vụ cho việc cho chữ không phải là những ngọn đèn lớn, ánh sáng rực rỡ mà là bó đuốc được tẩm dầu, khói bốc tỏa cay mắt. Cái ẩm ướt, tối tăm nơi nhà giam hoàn toàn đối lập với màu trắng tinh khôi của tấm lụa, ánh sáng đỏ rực của ngọn đuốc, mùi thơm của thoi mực.

Hơn thế, ánh sáng và bóng tối là hai hình ảnh đối lập nổi bật trong truyện mang người đọc đến với cảm giác muốn đọc tiếp, đào sâu hơn tình tiết truyện. Bóng tối nơi nhà tù đặc quánh như bao trùm, phủ kín tất cả như muốn nuốt tươi ánh sáng tồn tại nơi đây.Thế nhưng ánh sáng vẫn cứ cháy rừng rực, không chịu lu mờ trước bóng tối dày đặc. Ở đây đã không còn đơn thuần là ánh sáng vật lí, ánh sáng tỏa ra từ bó đuốc tẩm dầu nữa mà nó đã được nâng cao thành ánh sáng của nhân sinh, ánh sáng của thiên lương, ánh sáng của những tâm hồn đẹp biết nâng niu, trân trọng và gìn giữ cái đẹp. Ánh sáng ấy đã bừng cháy, xóa tan màn đêm nơi ngục tù nhơ bẩn để đến cuối cùng nó đã chiến thắng bóng tối âm u của không gian, thời gian còn con người đã chiến thắng cường quyền bạo lực. Nó giúp khai tâm, cảm hóa con người trở về với cuộc sống lương thiện.

Không gian và thời gian là thế, tư thế của con người càng lạ hơn, đặc biệt hơn. Đó là hình ảnh lẫm liệt của Huấn Cao: một người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng đang dậm tô nét chữ trên một tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Vẻ đẹp của một tư thế hiên ngang bất khuất, không có gông cùm xiềng xích nào có thể trói buộc được tâm hồn say mê sáng tạo cái đẹp đã được hiện hữu chỉ bằng một câu văn. Trái ngược với Huấn Cao là sự nhỏ bé , tầm thường của viên quản ngục và thầy thơ lại: quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm, thầy thơ lại gầy gò, run run bưng chậu mực. Đó là hai tư thế chưa từng có. Sự có mặt của quản ngục và thầy thơ lại càng tô đậm thêm nét đẹp ở Huấn Cao. Đến đây, bạn đọc có thể dễ dàng nhận ra đã có sự chuyển giao về quyền lực, ngôi bậc. Sự ô uế, nhơ bẩn trong nhà ngục không còn nữa. Ở đây ta chỉ còn bắt gặp sự uy nghi, đường hoàng, bắt gặp những tâm hồn nghệ sĩ đang hòa quyện vào nhau còn cái đẹp thì đang được tôn vinh. Lúc này, người tù đã ngự trị nơi mà cái ác, cái xấu bao quanh khiến cho quản ngục phải kính nể. Huấn Cao từ chỗ là một người tử tù giờ đây đã trở thành một người nghệ sĩ, một người anh hùng không bị vướng bận bởi cái chết ở gần kề trước mắt, vẫn một lòng đầy tâm huyết sáng tạo nên cái đẹp trong ánh hào quang bất tử, trong ánh sáng của lương tri. Những nét chữ điêu luyện, tinh tế đang hòa mình cùng ánh sáng của thiên lương để tỏa sáng giữa ngục tù của cái xấu cái ác, của nơi mà khi nhắc đến người ta đã nghĩ đến roi vọt, bạo tàn. Lại một lần nữa, cái tài hoa, khí phách hiên ngang và thiên lương trong sáng đã hợp lại thành một khối thống nhất, làm nên sức mạnh kì diệu khiến cho mọi uy quyền của nhà tù phải khuất phục, sụp đổ. Giờ đây ta không còn thấy khoảng cách giữa tử tù và quản ngục cũng như không còn cái xấu cái đẹp mà chỉ còn những con người cùng chung lí tưởng, những tâm hồn biết yêu, biết trân trọng và thưởng thức giá trị của cái đẹp; cái xấu đã nhường chỗ cho cái đẹp bất tử cùng thời gian.

Cảnh cho chữ là tiền đề mở ra ý nghĩa nhân sinh. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng với bóng tối; sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với sự phàm tục, nhơ bẩn; sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Lời khuyên nhủ của Huấn Cao với quản ngục hay còn được coi là một chúc thư về lẽ sống gắn liền với giá trị của cái đẹp. Chiến thắng đã được trỗi dậy ngay trong khoảnh khắc viên quản ngục nghẹn ngào xúc động: kẻ mê muội này xin bái lĩnh.

Gấp lại trang sách chắn chắn bạn đọc sẽ chẳng thể nào quên được một “cảnh tượng xưa nay chưa từng có cùng ngòi bút của người nghệ sĩ tài hoa: Nguyễn Tuân.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 12

Giữa những bộn bề phức tạp của buổi chợ phiên văn chương, giữa những náo nhiệt đông đúc của gian hàng lãng mạng. Nguyễn Tuân được nhận ra là một chủ cửa hàng cá đặc biệt với chất ngông đầy mới mẻ và cá tính, độc đáo của mình Nguyễn Tuân đã đưa người đọc phiêu du vào cuộc hành trình đi tìm cái đẹp ở một thời vang bóng. Tiêu biểu cho cuộc hành trình gian truân, vất vả đó là tác phẩm “Chữ người tử tù”. Đi sâu vào khám phá tác phẩm người đọc sẽ không khỏi ấn tượng trước cảnh cho chữ ở cuối truyện, nhận xét về tình huống này có ý kiến cho rằng cảnh cho chữ trong truyện ngắn Chữ Người Tử Tù là “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.

Quả không sai khi nói rằng sản phẩm văn học chỉ được khai sinh ra khi nó là kết quả nhào nặn từ đời sống, nếu sáng tác của văn học chỉ hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu và tưởng tượng mà không mong hơi thở đời sống thì sẽ không truyền được cảm xúc đến với bạn đọc. Văn học bao giờ cũng là chuyện cuộc đời, mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà văn khi sáng tạo nghệ thuật Nguyễn Tuân đã không ngừng tìm tòi, sáng tạo và ông đã khẳng định được vị thế của mình trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đồng thời tìm ra cho mình một phong cách hoàn toàn khác so với những nhà văn cùng thời. Ông luôn khát khao đi tìm cái đẹp với một niềm tin bất diệt, cái đẹp bao giờ cũng có sức cảm hóa đối với cái xấu và cái ác. Đọc Chữ Người Tử Tù ta sẽ thấy rõ được điều đó, đây là một trong 11 chuyện in trong tập “vang bóng một thời”, lúc đầu tác phẩm có tên là “dòng chữ cuối cùng” in trong tạp chí Tao Đàn năm 1938, sau đó đổi thành “Chữ Người Tử Tù” in trong tập “vang bóng một thời” xuất bản năm 1940.

Chữ Người Tử Tù, xoay quanh cuộc gặp gỡ éo le giữa Huấn Cao và viện quản ngục. Tuy xét trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng xét trên bình diện nghệ thuật họ lại là những chi ân, tri kỷ, giữa họ có những mối liên hệ khăng khít, một bên là say mê cái đẹp viên quản ngục và một bên là người ban cái đẹp. Đặc biệt tình huống cho chữ ở cuối truyện đã trở thành một tình huống độc đáo, đặc sắc để đưa cái tài, cái đẹp lên ngôi đồng thời làm sáng ngời vẻ đẹp của Huấn Cao.

Nhận xét về cảnh cho chữ ở cuối truyện có ý kiến cho rằng “đây là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”, cảnh tượng “xưa nay chưa từng có” tiếc là cảnh tượng hiếm gặp hiếm xảy ra và trong truyện ngắn này cảnh cho chữ thực sự là một cảnh tượng như vậy. Ý kiến trên đã một lần nữa khẳng định được sự khéo léo của nghệ thuật, trong việc tạo dựng tình huống truyện và khẳng định được sự hấp dẫn không bị thời gian vùi lấp của Chữ Người Tử Tù nói chung và cảnh cho chữ nói riêng.

Cảnh tượng cho chữ được nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả đầy đủ, chi tiết từ không gian, thời gian, đến địa điểm vào lúc nửa đêm khi trại giam tỉnh sơn chỉ còn đọng lại tiếng mõ trên võng canh, tại một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất đầy phân dán đang diễn ra cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có. Người cho chữ là kẻ tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, con người nhận chứ là viên quản ngục, người đại diện cho chính quyền phong kiến. Gọi là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, với việc cho chữ là một việc làm thanh cao thường diễn ra ở nơi trang trọng như thư phòng sạch sẽ, người cho chữ phải là nghệ nhân ở trong tâm thế ung dung thoải mái. Nhưng trong truyện ngắn này thì hoàn toàn đối lập, vì cảm động trước tấm lòng của viên quản ngục mà Huấn Cao đã bằng lòng dành đêm cuối cùng của cuộc đời để viết những dòng chữ cuối cùng cho một tấm lòng tri kỷ, trong thiên hạ. Dù biết mình sắp chết, nhưng Huấn Cao vẫn cho ra đời những nét chữ vuông vắn, tươi tắn, trong tư thế thoải mái, tự tại, còn viên quản ngục thì khúm núm, run run, sợ sệt cất những đồng kẽm đánh dấu ô. Đến đây trật tự kỷ cương đã bị đảo ngược, tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp và răn dạy quản ngục, quản ngục thì khúm núm với lạy tù nhân.

Cảnh cho chữ ở cuối truyện chắc hẳn đã để lại trong lòng bạn đọc ít nhiều những suy ngẫm, Huấn Cao trong lúc cận kề cái chết, vẫn cho ra đời một tác phẩm nghệ thuật, đó là những nét chữ mềm mại, cứng cáp thể hiện hoài bão tung hoành của một đời người. Đó cũng chính là sự ký thác của ông dành cho hậu thế, cảnh cho chữ ở cuối truyện đã một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiện luôn chiến thắng cái xấu, cái ác, mà ta thấy rằng dù có những người phải sống trong cái xấu, cái ác vẫn luôn hướng về cái thiên lương. Đó là niềm tin sắt đá của Nguyễn Tuân vào con người, với cảnh cho chữ ở cuối truyện Nguyễn Tuân không làm Huấn Cao chết đi mà đã đưa nhân vật vào cõi bất tử.

Bằng sự sáng tạo độc đáo, đặt nhân vật vào tình huống éo le, Nguyễn Tuân đã đưa hai con người, ở hai địa vị trái ngược nhau vào một điểm chung đó là sự say mê cái đẹp. Cảnh cho chữ ở cuối truyện thực sự là một cảnh tượng xưa nay chưa từng có, đi sâu vào tình huống này ta thấy được rằng, đến đây viên quản ngục và Huấn Cao đã hòa làm một, để cho cái đẹp lên ngôi. Cảnh cho chữ thật sự là ngọn đuốc rực rỡ, thắp sáng cả thiên truyện “Chữ người tử tù”.

Với nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, ngôn từ sắc sảo, góc cạnh, câu văn giàu hình ảnh, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên cảnh tượng cho chữ “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Để khẳng định sức mạnh, có thể chiến thắng cái xấu, cái ác, cảm hóa con người của cái tài, cái đẹp, cái thiên lương.

Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn còn đó những nét chữ vuông vắn, tươi tắn hội tụ sự tài hoa, bất khuất của Huấn Cao. Đó là những nỗi niềm kí thác dành cho hậu thế, thông qua cảnh tượng cho chữ Nguyễn Tuân đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của Huấn Cao và viện quản ngục. Có lẽ đây chính là lý do “Chữ Người Tử Tù” trở thành mốc son chói lọi trên nền vàng úa của vang bóng một thời./.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 13

Khi nhắc tới bút pháp lãng mạn, lối văn chương khao khát hướng tới chân – thiện – mĩ, không thể không nhắc tới Nguyễn Tuân – một nghệ sĩ dành cả cuộc đời để đi tìm cái đẹp. Nguyễn Tuân được đánh giá là một cây bút tài hoa nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong các sáng tác của ông, các nhân vật thường được mang một tầm vóc phi thường, chính tác phẩm “Chữ người tử tù” đã được xây dựng bằng cách nhìn nhận như vậy. Trong tác phẩm, phần đặc sắc nhất chính là cảnh cho chữ – một cảnh xưa nay chưa từng có.

Cảnh cho chữ được sắp ở cuối tác phẩm, ở đây tình huống truyện đã được đẩy lên đỉnh điểm khi viên quan ngục nhận được công văn về việc xử lí những tên phản loạn, trong đó có Huấn Cao. Chính vì vậy, cảnh cho chữ dã có ý nghĩa cởi nút, gải tỏa những bằn khoăn, chờ đợi nơi người đọc, qua đó toát lên giá trị lớn lao của tác phẩm. Sau khi nhận được công văn ấy, viên quản ngục đã giãi bày tâm sự, mong mỏi của mình với thầy thơ lại, nghe xong thầy thơ lại chạy xuống buồng giam để kể rõ nỗi lòng của viên quản ngục với Huấn Cao.

Trong đêm hôm đó, tròng giam chật hẹp, bẩn thỉu, tối tăm, chỉ có ánh sáng đỏ rực của bó đuốc tẩm dầu, đã diễn ra “một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Có nhiều chi tiết và sự đối lập, trái ngược nhau trong tình huống này. Đáng lẽ ra việc cho chữ – việc sáng tạo nghệ thuật phải được thực hiện ở những nơi đàng hoàng, đẹp đẽ, thoáng đãng và yên tĩnh, thế nhưng cảnh cho chữ này lại ở một không gian chứa đầy bóng tối, chốn ngục tù. Đáng lẽ ra người cho đi cái đẹp phải được sống trong tự do thì đây lại là đêm cuối cùng, những giờ phút cuối cùng của một kẻ tử tù sắp thi hành án.

Trong hoàn cảnh ấy “một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng” lại ung dung, đĩnh đạc “dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh”, còn người cầm quyền hành trong tay là viên quản ngục lại khúm núm, cầu xin Huấn Cao. Trong hoàn cảnh này, người tù tội chính là người răn dạy và ban phát cái đẹp. Trên bình diện xã hội họ là hai kẻ thù của nhau, nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm với nhau, thật chua xót khi đây là lần đầy tiên cững như lần cuối cùng họ được gặp nhau, họ đã được gặp nhau với con người thật và ước muốn thật của mình. Trong đoạn văn, tác giả sử dụng sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối và câu chuyện cũng được vân động theo đó.

Sự u tối, bẩn thỉu của buồng giam với tấm lụa trắng tinh và nét chữ đẹp đẽ, qua hình đó đã làm nổi bật lên hình tượng của Huấn Cao, sự vươn lên chiến thắng của ánh sáng với bóng tối, của cái đẹp – thiện với cái xấu – ác. Sau khi cho chữ, Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn, bởi tuy cái đẹp có thể sinh ra ở nơi tối tăm, nhơ bẩn, môi trường của cái ác nhưng không thể để chung sống với cái ác. Hãy biết tìm trong nét chữ mùi mực hương vị của thiên lương. Trước lời khuyên đó của Huấn Cao, viên quản ngục đã xúc động, vái lạy Huấn Cao và nói mà “dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Như vậy có thể thấy, bằng chính tài năng xuất chúng và nhân cách cao cả mà người tử tù Huấn Cao đã hướng cho viên quản ngục đến một cuộc sống thiên lương, ông đã gieo mầm cuộc sống cho những người lầm đường trong khi ông đang trên đường đi tới cái chết. Cảnh tượng ấy còn một lần nữa tô đẹp hình tượng Huấn Cao, cao lớn và phi thường, vượt lên trên những dung tục thấp hèn của thế giới xung quanh, đồng thời cũng khẳng định rằng, con người vẫn luôn khao khát hướng đến chân – thiện – mĩ trong mọi hoàn cảnh. Bên cạnh đó, ta cảm nhận được vẻ đẹp của viên quản ngục và thầy thơ lại, họ là những người tuy sống trong môi trường độc ác, xấu xa nhưng vẫn giữ được chính mình, là “những thanh âm trong trẻo” của một bản nhạc hỗn độn. Qua đó tác phẩm đã ca ngợi lòng yêu nước, thái độ căm ghét bọn cường quyền thống trị đương thời và trân trọng những người có “thiên lương”.

“Chữ người tử tù” đã trở thành một bài ca bi tráng và bất diệt về thiên lương về tài năng và nhân cách của con người. Những dòng chữ cuối đời của Huấn Cao mang ý nghĩa truyền lại cái tài hoa và nhân cách cho những kẻ tri âm, tri kỉ hôm nay và mai sau, đó là một tấm lòng muốn giữ gìn cái đẹp cho muôn đời.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 14

Nguyễn Tuân được sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn, thơ văn của ông luôn viết về cái đẹp, ông dành cả cuộc đời của mình để đi săn tìm cái đẹp. Ông có những đóng góp không nhỏ cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Tác phẩm Chữ người tử tù được in trong tập Vang bóng một thời đánh dấu tài năng của Nguyễn Tuân trước cách mạng tháng Tám và được coi như là một văn phẩm đạt gần đến độ hoàn mĩ. Ở cuối truyện, cảnh cho chữ là cảnh được tác giả tập trung miêu tả, tô đâm vẻ đẹp lãng mạn của người anh hùng Huấn Cao, qua đó khẳng định được sự chiến thắng của thiên lương, của ánh sáng trước bóng tối và cái xấu. Có thể nói, cảnh cho chữ là cảnh tượng đắt giá nhất, cảnh mà xưa này chưa từng có.

Truyện ngắn được xây dựng dựa trên mối quan hệ giữa hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, cả hai đều là nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn, vượt lên hoàn cảnh, không chịu sự chi phối của hoàn cảnh. Huấn Cao là người nghệ sĩ tài hoa, với nghệ thuật viết thư pháp, nét chữ ông trở thành niềm khao khát của biết bao nhiêu con người có thú chơi chữ. Và quản ngục là một trong số đó, sở nguyện lớn nhất của quản ngục là có được đôi câu chữ của Huấn Cao treo trong nhà, Ở đây, người nghệ sĩ gặp kẻ tri âm trong một hoàn cảnh bất thường: Người có nét chữ huyền thoại kia lại là người tử tù, còn người có thú chơi chữ tao nhã kia lại là một viên quản ngục. Chuyện xin chữ tưởng như khó có thể xảy ra bởi cả cuộc đời ông mới chỉ cho chữ có ba người. Liệu Huấn Cao có thể cho chữ cho kẻ tiểu lại như quan nhục chăng? Nhưng điều bất ngờ đã xảy ra, điều không thể đã trở thành có thể, chính nhờ sở thích cao quý, tấm lòng quý trọng người tài của quản ngục đã khiến Huấn Cao phải xúc động. Ông đã dành đêm cuối cùng của mình tại nhà giam tỉnh Sơn để cho chữ quản ngục, ông cho chữ không phải là dể phô trương tài năng mà là để tạ một tấm lòng.

Cảnh ông Huấn cho chữ trong nhà giam được khắc hoạ bằng chi tiết gây ấn tượng, cảm hứng mãnh liệt trước cảnh tượng cho chữ xưa nay khó có đã khiến Nguyễn Tuân say sưa sáng tạo bằng các ngôn từ sắc xảo, bút pháp dựng người, dựng cảnh đạt tới độ điêu luyện. Cảnh cho chữ được diễn ra vào buổi đêm, đêm cuối cùng của ông Huấn tại nhà ngục. Địa điểm cho chữ là ngay trong buồng giam chật hẹp với mạng nhện đầy tường, trên đất bừa bãi phân chuột phân gián Trong không khí trang nghiêm 3 nhân vật hiện lên trong 3 tư thế khác nhau: Huấn Cao thì cổ đeo gông, còn chân vướng xiềng nhưng vẫn ung dung vẽ dậm to từng nét chữ, viên quản ngục thì đang khúm núm cất những đồng tiền kẽm để đánh dấu từng ô chữ, còn thầy thơ lại thì đang run run bê lấy chậu mực. Tuy là khác nhau về tư thế, về địa vị về con người nhưng họ đều có điểm chung là biết thưởng thức và trân trọng cái đẹp. Những nét chứ của con người chuẩn bị đi vào cõi chết mà không hề ngả nghiêng siêu vẹo mà “vuông, tươi tắn nói lên hoài bão tung hoành của một đời con người”. Những nét chữ như phượng múa rồng bay thể hiện được tài năng của ông Huấn. Không chỉ vậy, với thái độ ung dung, tràn trề cảm hứng sáng tạo, ông còn tinh tế cảm nhận được mùi mực thơm ngát thể hiện được khí phách hiên ngang, không sợ cái chết của ông Huấn. Nếu không có tinh thần tự do, không có sức mạnh thì chắc chắn sẽ không có được phong độ ấy. Khi viết chữ xong, ông buồn bã đỡ quản ngục đứng thẳng dậy, ông buồn không phải vì ngày mai mình sẽ bị giải ra pháp trường mà ông buồn vì người như quản ngục lại phải... Ông còn khuyên quản ngục thật chân thành hãy tìm về nhà quê mà ở, xong rồi hãy nghĩ tới chuyện chơi chữ, ở đây khó lòng giữ được thiên lương cho lành vững. Lời khuyên đặt ra yêu cầu đối với người thưởng thức: Phải có tâm hồn đẹp mới có thể cảm nhận được hết cái đẹp, phải có một môi trường tốt để cái đẹp được bảo vệ và giữ gìn. Như vậy, Huấn cao chuẩn bị đi vào cõi chết mà vẫn nghĩ tới sự sống của cái đẹp, cái đẹp không thể ở chung với cái xấu. Ông cho chữ quản ngục là để tạ một tấm lòng, để chia sẻ với một tri kỉ và để nâng đỡ một thiên lương.

Có thể nói, cảnh cho chữ diễn ra nơi tù ngục nhưng cũng rất xúc động và thiêng liêng. Quản ngục nghe xong lời khuyên của ông Huấn, ông chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Qua thái độ kính cẩn của quản ngục, người đọc có thể thấy được thái độ trân trọng đặc biệt đối với người tài và cái đẹp, cái đẹp có khả năng cảm hoá con người, đưa những con người đang lầm đường lạc lối trở về con đường trong sáng. Trong đoạn văn tác giả sử dụng thành công thủ pháp đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa mùi thơm với mùi ô uế, bẩn thỉu, Ánh sáng ở đây không chỉ là ánh sáng của bó đuốc mà còn là ánh sáng của cái đẹp, mùi thơm ở đây không chỉ là mùi thơm của chậu mực mà còn là mùi thơm toả ra từ nhân cách con người. Bóng tối không thể che lấp được màu trắng của tấm vải, không thể che được ngọn đuốc đang cháy rừng rực và mùi mực tàu thơm ngát.

Có thể khẳng định cảnh ông Huấn cho chữ là cảnh “xưa nay chưa từng có” vì thú chơi chữ là một thú chơi tao nhã thanh cao, người có tài viết chữ đẹp mà đạt tới trình độ viết thư pháo không có nhiều, người thưởng thức cũng phải là người có vốn văn hoá nhất định. Bình thường cảnh cho chữ thường được diễn ra nơi sảnh đường thoáng mát, thanh cao để người nghệ sĩ có thể thoải mái mà sáng tạo nhưng Huấn Cao lại cho chữ trong nhà ngục, nơi bóng tối ngự trị, nơi cái ác lên ngôi. Nhưng có lẽ, vì ánh sáng kia qua đẹp nên đã che lấp bóng tối, bóng tối ở đây càng làm tô đậm hơn nét đẹp của ánh sáng. Bình thường quản ngục là đại diện cho pháp luật ở chốn lao tù, là người của triều đình ở thế bề trên vậy mà trong cảnh này Huấn Cao lại ung dung trong tư thế làm chủ, kẻ có chức năng đi giáo dục người khác lại bị giáo dục lại. Như vậy, Nguyễn Tuân đã làm một cuộc đảo lộn trất tự xã hội để cho thấy, ở cảnh này, không con người tử tù, cũng không còn quản ngục, gông xiềng bị vô hiệu hoá, chỉ còn người nghệ sĩ đang sáng tạo cái đẹp và người thưởng thức, sủng kính cái đẹp.

Qua truyện ngắn Chữ người tử tù người đọc có thể dễ dàng thấy được quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân: cái đẹp gắn với cái thiện và cái tài phải đi liền với cái tâm. Cảnh cho chữ cũng khơi gợi cho con người phải biết trân trọng các giá trị của văn hoá truyền thống, phải biết giữ gìn các truyền thống đang bị mai một dần kia

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 15

Nguyễn Tuân được coi là một trong những tác giả lớn người đã có những đóng góp vô cùng tích cực cho nền văn học Việt Nam. Cả cuộc đời Nguyễn Tuân ông miệt mài đi tìm cái đẹp và khát khao cháy bỏng tạo nên những điều chưa từng có trong thực tế. Và đến đây người ta không thể nào quên cảnh cho chữ được tác giả tái hiện trong tác phẩm “Chữ người tử tù”. Nó đã đưa Nguyễn Tuân trở thành một bậc thầy trong việc xây dựng tình huống truyện.

Cảnh cho chữ được nhắc đến ở cuối tác phẩm khi mà tâm trạng của viên quản ngục thầy thơ lại đang vô cùng rối ren. Họ phải đối diện với sự thật là ông Huấn Cao sắp phải hành hình.  Và chính tình huống này được coi như việc cởi nút thắt tháo gỡ những băn khoăn của người đọc đồng thời nó đã bộc lộ một giá trị vô cùng lớn lao của tác phẩm.

Sau khi nhận được công văn về việc Huấn Cao cùng đồng bọn phản nghịch sẽ bị xử tử, viên quản ngục lấy làm xót xa ông mang chuyện kể lại với thầy thơ lại. Nghe xong, thầy thơ lại đã chạy xuống buồng giam để tỏ rõ nỗi lòng với Huấn Cao. Và cũng chính đêm hôm ấy, dưới một khung cảnh chưa từng có trong lịch sử một việc chưa từng có đã diễn ra. Nơi ngục giam đầy u tối với lập lòe ngọn đèo dầu leo lét người ta thấy một người tử tù cổ đeo gông, chân mang xiềng ung dung đĩnh đạc thả hồn vào từng nét chữ trên dải lụa trắng. Trong sự khúm núm của những viên quản ngục, thầy thơ lại. Đến đây ta bắt gặp hai thứ vô cùng đối lập đó chính là sự thanh tao của nghệ thuật và sự đen tối dơ  bẩn của chế độ cũ. Tưởng chừng nó không thể xuất hiện cùng nhau nhưng lại hòa quyện trong một khung cảnh hết sức “bất ngờ” và đầy rẫy éo le.

Đêm hôm ấy có lẽ là đêm cuối cùng của người tử tù Huấn Cao và cảnh cho chữ cũng là những giây phút cuối cùng của cuộc đời ông. Hai con người ở hai thái cực khác nhau của xã hội một bên đại diện cho pháp luật, một bên là tử tù thế nhưng cuối cùng họ đã gặp nhau và đồng cảm với nhau trên bình diện nghệ thuật. Nhà văn vô cùng sáng tạo khi đã tạo nên một tình huống truyện đầy éo le, đầy rẫy sự tương phản. Mà dường như bóng tối, sự dơ bẩn của nhà tù phong kiến thực dân không thể làm làm lu bờ đi sự thiện lương trong con người. Nói cách khác thì cái đẹp nghệ thuật đã chiến thắng tất cả những xấu xa những định kiến của xã hội. Thế mới thấy, nghệ thuật có sức mạnh lớn lao đến nhường nào nó có thể xóa nhòa mọi ranh giới, mọi khoảng cách để người và người đến gần nhau hơn. Nghệ thuật chính là cảnh giới cao nhất của cuộc sống mà con người muốn hướng đến, ở đó không có thứ bậc, không có sang hèn chỉ có tâm hồn đồng cảm mà thôi.

Sau khi cho chữ xong Huấn Cao đã khuyên viên quản ngục nên về quê để tránh xa chốn dơ bẩn này vì bởi lẽ “chỗ này không hợp với ông đâu”. Có lẽ Huấn Cao bằng cái tài của một bậc hiền triết cũng đủ hiểu được viên quản ngục là người thế nào. Vì thế ông mới bảo họ tránh xa nơi này ra. Muốn chơi chữ thì phải giữ được thiên lương. Ở trong một môi trường đầy rẫy sự cám dỗ và cái ác thì cái đẹp không thể bền vững và tồn tại được. Cái đẹp có thể nảy sinh từ chốn tối tăm, từ những thứ trái nghịch nhưng nó không thể song song tồn tại với nhau. Thú chơi chữ cũng vậy nó không chỉ thể hiện qua nét mực mà còn phải cảm nhận bằng chính sự rung cảm sâu sắc bên trong của mỗi người. Cái gốc của việc chơi chữ chính là cái thiện và lối sống văn hóa.

Trước những lời khuyên của Huấn Cao, viên quản ngục chỉ biết chắp tay và chảy nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Bằng chính sức mạnh của tình người, của sự thiện lương của một con người xuất chúng tài ba Huấn Cao đã “cứu vớt” một linh hồn trong đóng bùn lầy của cái ác. Trên con đường đi tìm cái chết của mình Huấn Cao đã gieo mầm cđể những con người lạc lối như thầy thơ lại viên quản ngục trỗi dậy. Và cũng vì lẽ đó hình tượng của người anh hùng càng trở nên lớn lao hơn bao giờ hết. Nó khẳng định một điều bất diệt đó chính là dù ở bất cứ đâu, trong bất kì hoàn cảnh nào thì con người luôn khát khao đến sự chân thiện mĩ.

Bàn về nghệ thuật trước cách mạng có người cho rằng Nguyễn Tuân chính là một nhà văn theo tư tưởng duy mỹ tức là ông chỉ chăm chăm đi tìm kiếm cái đẹp. Thế nhưng đặt trong hoàn cảnh tác phẩm này thì quan điểm đó có vẻ sai lầm. Vì trong tác phẩm chữ người tử tù mà đặc biệt trong cảnh cho chữ này Nguyễn Tuân không chỉ tôn sùng cái đẹp mà còn nhấn mạnh cái đẹp bao giờ cũng đi liền với đạo đức với sự thiện lương. Và viên quản ngục thầy thơ lại chính là những thanh âm trong trẻo trong cái bản nhạc đầy xô bồ đó. Đồng thời cũng thể hiện một tình yêu nước bất diệt căm ghét bọn thống trị và ca ngợi những con người có tài có tâm như Huấn Cao và viên quản ngục.

Chữ người tử tù được xem như một bài ca bất diệt về tài năng nhân cách của con người và sức sống bền bỉ của nghệ thuật. Những dòng chữ của Huấn Cao như một sự gieo mầm của sự sống, gieo mầm cho nhân cách và nó sẽ được tiếp nối mãi cho đến sau này. Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn, hình ảnh vô cùng chậm rãi giàu sức gợi như một đoạn phim quay chậm để tái hiện một tình huống truyện đầy bi đát. Ngôn ngữ điêu luyện nhưng chân thực, nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật từ đó tái hiện lên một cảnh tượng khiến nhiều người suy ngẫm.

 Có thể nói cảnh cho chữ trong thiên phẩm “Chữ người tử tù” của Nguyên Tuân chính là một tình huống vô cùng đắt giá. Nó chính là bài ca ca ngợi sự tài hoa của những con người nghĩa khí, cho sự bất diệt của nghệ thuật. Đồng thời cũng ngầm khẳng định cái đẹp nghệ thuật có sức mạnh lớn lao. Có thể cảm hóa được những điều xấu xa của cuộc đời.

Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù 16

Qua tác phẩm “Chữ người tử tù” tác giả Nguyễn Tuân đã dựng nên hình tượng nhân vật Huấn Cao với cốt cách thanh cao, tài năng xuất chung và một tâm hồn cao đẹp. Nhân vật ấy là hình bóng của nhà thơ Cao Bá Quát – môt lãnh tụ nông dân đã đứng lên chống lại triều Nguyễn năm 1854. Và có lẽ cảnh Huấn Cao cho viên quản ngục chữ  trong ngục tối đã trở thành một cảnh quay đắt gía và để lại cho bạn đọc nhiều điều suy ngẫm.

Khung cảnh của buổi cho chữ không diễn ra tại nhà một thầy nhỏ với nghiêng mực, sách bút mà lại được diễn ra trong buồng giam chật hẹp, u tối , bẩn thỉu . Cho chữu là một việc làm thanh cao nhưng lại được diễn ra ở cái nơi đầy máu và tội ác phải chăng tác giả đã cố tình đặt cảnh cho chữ ấy vào một không gian đặc biệt và chính không gian ấy đã làm toát lên nhân cách thanh cao, trong sạch của nhà nho Huấn Cao.

Đêm hôm ấy “ trong một không khí khói tỏa nhà đám cháy nhà , ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt..” người tử tù “ cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván” còn viên quản ngục “lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng” và thầy thơ lại gầy gò “thì run run bưng chậu mực . Thay bút con đề xong lạc khoản..”.

Cảnh tượng thiêng liêng ấy diễn ra trong không gian yên tĩnh, chỉ thi thoảng văng vẳng lại tiếng mõ trên chòi canh. Không gian ấy không  chỉ là sự đối lập giữa sáng và tối mà nó đã vạch trần ranh giới giữa ánh sáng của lương tri với bóng tối của tội ác. Ánh sáng của tấm lòng lương thiện, của một vĩ nhân có nhân cách thanh cao đã dần dần đẩy lùi bóng tối – hiện thân của sự tàn bạo và độc ác đang ngự trị trong chính những buồng giam ngục tù này. Ánh sáng ấy dường như đã khai sáng , đã soi rọi cho những kẻ lầm đường lạc bước kia trở về với cuộc sống mang tên “người lương thiện”.

Liệu rằng giữa một nơi nhơ bẩn ấy lại có thể xảy ra một cảnh tượng “xưa nay hiếm” đến như vậy không? Cảnh tượng ấy xoay quanh hai nhân vật là Huấn Cao và viên quản ngục. Huấn Cao là một tử tù bị khép vào tội chết và ông đang chờ ngày ra pháp trường. Người tử tù ấy có tài năng xuất chúng đặc biệt là viết chữ rất đẹp “ chữ đẹp lắm, vuông lắm”. Còn viên quản ngục kia là kẻ có quyền , nhưng rất mê vẻ đẹp của những nét chữ thanh cao của Huấn Cao và hắn đêm ngày ao ước được sỏ hữu những nét chữ ấy.

Nếu chỉ xét trên phương diện tại ngục tù tối tăm kia thì Huấn Cao và viên quản ngục là hai người đứng đầu hai chiến tuyến. Một người đại diện cho sự lương thiện, cho nhân cách thanh cao và tài năng xuất chúng còn kẻ kia là hiện thân của tội ác, của bạo hành nhưng xét về phương diện nghệ thuật thì họ là tri kỉ của nhau, họ đều yêu và say mê cái đẹp. Bằng những  ngôn từ  đặc sắc và tài năng xây dựng tình huống độc đáo tác giả Nguyễn tuân đã dựng nên một tình huống oái oăm, đầy kịch tính làm nổi bật tính cách mỗi nhân vật.

Chính vì hiểu được sở thích cao quí , lòng yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp của viên quản ngục kia mà Huấn Cao mới quyết định cho hắn chữ, bởi lẽ ông nghĩ dù tàn ác đến đâu thì sâu thẳm trong tâm hồn hắn vẫn còn một chút lương tri của con người , hắn vẫn còn biết yêu cái gọi là “nghệ thuật chân chính”. Các cụ xưa có câu “nét chữ nết người”. Chữ đẹp chứng tỏ được viết từ ngườ có tâm , có nhân cách và ông cũng hi vọng rằng nét chữ ấy như những nét chữ khai sáng cho kẻ u tối kia tìm được đường về với lương thiện.