Dàn ý chung bài văn thuyết minh về hoa bỉ ngạn
Mở bài:
- Giới thiệu đối tượng thuyết minh: Hoa bỉ ngạn.
Thân bài:
Nguồn gốc, tên gọi, phân bố
- Hoa Bỉ Ngạn ban đầu được tìm thấy ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ
- Hoa Bỉ Ngạn có 2 màu chính: Bỉ Ngạn màu trắng gọi là Mạn Đà La Hoa , Bỉ Ngạn màu đỏ gọi là Mạn Châu Sa Hoa.
Truyền thuyết về hoa bỉ ngạn (nếu em biết)
- Truyền thuyết tương truyền
- Truyền thuyết của Phật giáo
- .....
Đặc điểm sinh sống, nhận biết
- Bỉ Ngạn mọc hoang trên những triền đồi, đôi bờ sông, ven đường đi, những bờ ruộng và rất nhiều trong nghĩa địa.
- Là một loại cây thân thảo, có chiều cao từ 40-100cm. Cây mọc sát nhau, hoa có 3 màu chính là màu đỏ, vàng, trắng nhưng phổ biến nhất là màu đỏ
- Cây có những cánh hoa vươn dài từ mặt đất, phía trên đài gồm từ 5-7 nụ, khi nở xòe ra mọi hướng như muốn đón lấy tất cả tinh túy của trời đất.
- Củ của hoa bỉ ngạn rất độc.
Ý nghĩa của loài hoa bỉ ngạn
- Nhật Bản: Hồi ức đau thương.
- Triều Tiên: Nhớ về nhau.
- Trung Quốc: Ưu mỹ thuần khiết.
=> Hoa bỉ ngạn còn có ý nghĩa là “phân ly, đau khổ, không may mắn, vẻ đẹp của cái chết” , nhưng nhiều người hiểu ý nghĩa hoa là “hồi ức đau thương”.
Kết bài:
Cái đẹp của Mạn Châu Sa Hoa khiến con người ta chìm đắm nhưng nó lại mang vẻ đẹp khiến tâm ta càng đau.
Thuyết minh về hoa Bỉ Ngạn 1
Bỉ Ngạn hoa khai khai bỉ ngạn,
Vong Xuyên hà bạn diệc vong xuyên.
Nại Hà kiều đầu không nại hà,
Tam Sinh thạch thượng tả tam sinh.
(Nhật kí của Trọng Duy Ly)
Nếu bạn là tín đồ của ngôn tình thì ai cũng biết về hoa Bỉ Ngạn vì hầu như các truyện đều nhắc đến nó như một biểu tượng của tình yêu trác việt. Nhưng chắc có ai đã hiểu biết rõ ràng, đầy đủ về loài hoa kiêu sa, xinh đẹp này. Không những có một vẻ đẹp yêu mị, sắc đỏ như máu huyết, bỉ ngạn hoa còn gắn với một truyền thuyết vô cùng kì bí. Nhắc đến hoa bỉ ngạn khiến ai cũng nghĩ đến một mối tình tuyệt đích nhưng cũng tuyệt vọng.
Hoa Bỉ ngạn được biết đến đầu tiên ở Trung Quốc. Người Trung Quốc vốn đã xem nó là một loài hoa quý, có sức quyến rũ kì lạ, vừa đáng yêu lại vừa đáng sợ. Hoa bỉ ngạn cũng được tìm thấy ở Nhật Bản và một số nơi khác ở châu Á.
Loài cây này được trông thấy ở Hoa kỳ lần đầu tiên năm 1854. Đó là khi Hoa Kỳ mở cửa thương mại cho Nhật Bản. Thuyền trưởng William Roberts trong một lần trở lại Hoa kỳ đã mang theo loài Lycoris radiata này từ Nhật. Ông mang theo 3 cây, và những cây này được trồng và chăm sóc bởi cô cháu gái. Sau một thời gian chăm sóc và cô thấy rằng loài cây này không nở hoa cho đến khi sau một cơn mưa đầu mùa của mùa thu. Kể từ đó, theo bước chân của các thuyền buôn, hoa bỉ ngạn nổi tiếng trên toàn thế giới.
Cây hoa bỉ ngạn có tên khoa học là Lycoris Radiata. Cây có nguồn gốc từ Trung Quốc và phát triển ở một số nước như Nhật Bản, Hoa Kỳ và có du nhập về Việt Nam trong thời gian gần đây.
Ngoài cái tên chính Bỉ Ngạn hoa, loài hoa này còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như: Mạn Châu Sa Hoa, Hồng hoa Thạch Toán, Thạch Toán, Long Trảo hoa, Vô Nghĩa thảo, San Ô Độc, U Linh hoa, hoa Địa Ngục, Tử Nhân hoa, Vong Xuyên hoa.
Hoa bỉ ngạn có 3 màu sắc chính là đỏ, vàng, trắng. Trong đó, màu đỏ là màu chủ đạo. Hoa màu trắng gọi là Mạn Đà La Hoa (mandarava), hoa màu đỏ gọi là Mạn Châu Sa Hoa (Manjusaka). Sắc hoa đỏ như máu huyết, trông nhìn hết sức ấn tượng.
Bỉ Ngạn là giống cây thân thảo, có chiều cao trung bình 40-100 cm thường mọc hoang trên những triền đồi, đôi bờ sông, ven đường đi, những bờ ruộng và rất nhiều trong nghĩa địa. “Củ” của loài hoa này rất độc vì chứa lycorine, một chất độc thuộc nhóm alcaloid, gây tổn hại đến hệ thần kinh. Truyền thuyết kể rằng có người đã tuyệt mệnh bằng cách ăn “củ” của loài hoa này trong lúc đói. Có lẽ vì thế, thời xa xưa, người Nhật cho rằng đó là loài hoa của điềm gở và chết chóc.
Người ta còn lấy ngày hoa bỉ ngạn nở để đoán định thời gian. Trong một năm có 2 ngày mặt trời chiếu thẳng góc xuống xích đạo, vào thời điểm đó độ dài của ngày và đêm bằng nhau, đó là ngày xuân phân và thu phân. Ba ngày trước và sau xuân phân gọi là Xuân Bỉ Ngạn, ba ngày trước và sau thu phân gọi là Thu Bỉ Ngạn. Hoa Bỉ Ngạn nở vào Thu Bỉ Ngạn, thời gian rất chính xác cho nên mới gọi là hoa Bỉ Ngạn.
Đây cũng là thời gian mà theo lời dạy của phật trong thời gian 7 ngày của mùa thu, người sống có thể đi vào thế giới của người chết để gặp gỡ ông bà tổ tiên.
Với người Nhật, đây cũng là dịp họ đi thăm viếng sửa sang mồ mả của những người đã khuất. Trong dân gian người ta cho rằng Bỉ Ngạn là cửa ngõ để đi vào thế giới của những người đã chết, cũng có người lại nói rằng, vào những ngày người trần gian gặp người âm giới, Bỉ Ngạn là nơi trú ngụ của những linh hồn.
Các cây Bỉ Ngạn thường được trồng ở những khu vực có hệ thống thoát nước tốt để các bông hoa không bị tổn hại và phát triển bình thường. Đặc biệt là khu vực trồng cũng không bị ảnh hưởng bởi gió quá nhiều vào những tháng mùa đông. Bỉ Ngạn không thích nhiệt. Nó thích một môi trường ấm áp. Khi nhiệt độ vào mùa hè quá cao, các cây Bỉ Ngạn sẽ chết
Để trồng được một khóm hoa bỉ ngạn cũng không hề khó. Cây hoa bỉ ngạn ưa bóng mát nên bạn cần ưu tiên lựa chọn những vùng đất dốc để có khả năng thoát nước tốt. Trồng cây vào thời gian tốt nhất thường là cuối đông đầu xuân. Bạn vẫn có thể trồng vào các mùa trong năm. Nếu trồng vào mùa hè thì cây vẫn phát triển xanh tươi tốt. Tuy nhiên, trồng vào mùa xuân thì sẽ có hoa đẹp, phát triển nhanh hơn.
Cái đẹp của Mạn Châu Sa Hoa là vẻ đẹp chẳng lành của yêu dị, tai nạn, tử vong và chia lìa. Nhưng dù sao Bỉ Ngạn hoa cũng được nhiều người ưa thích vì màu sắc đẹp đẽ và chói mắt của nó. Bỉ ngạn hoa mãi mãi là huyền thoại khiến ta nhớ đến những ảo vọng trong tình yêu và sức mạnh tìm kiếm cái vĩnh hằng của con người.
Thuyết minh về hoa Bỉ Ngạn 2
Bỉ ngạn hoa có lẽ là một loài hoa đặc biệt, không chỉ bởi cái tên, vẻ đẹp mà còn ý nghĩa huyền bí của nó khiến người ta dễ khắc ghi. Nhưng có lẽ ít người biết rõ thông tin về loài hoa này nên tôi xin đưa ra những thông tin dưới đây để mọi người cùng hiểu hơn về câu chuyện của loài hoa này.
Hoa Bỉ Ngạn ban đầu được tìm thấy ở Trung Quốc. Nó cũng được tìm thấy ở Nhật Bản. Ở Hoa Kỳ Bỉ Ngạn phát triển ở Bắc Carolina, Texas, và nhiều tiểu bang phía Nam khác. Tại 3 nước Châu Á nêu tên ở trên hoa bỉ Ngạn mang một ý nghĩa khác nhau. Nhưng đại ý khi nhắc đến loài hoa này có ý nghĩa là “phân ly, đau khổ, không may mắn, vẻ đẹp của cái chết”, nhưng nhiều người hiểu ý nghĩa hoa là “hồi ức đau thương”.
Bỉ Ngạn mọc hoang trên những triền đồi, đôi bờ sông, ven đường đi, những bờ ruộng và rất nhiều trong nghĩa địa. Củ của loài hoa này rất độc vì chứa lycorine, một chất độc thuộc nhóm alcaloid, gây tổn hại đến hệ thần kinh.
Truyền thuyết kể rằng có người đã tuyệt mệnh bằng cách ăn củ của loài hoa này trong lúc đói. Có lẽ vì thế, thời xa xưa, người Nhật cho rằng đó là loài hoa của điềm gở và chết chóc.
Trong một năm có 2 ngày mặt trời chiếu thẳng góc xuống xích đạo, vào thời điểm đó độ dài của ngày và đêm bằng nhau, đó là ngày xuân phân và thu phân. Bỉ Ngạn nở hoa trùng với tiết thu phân. Đây cũng là thời gian mà theo lời dạy của phật trong thời gian 7 ngày của mùa thu, người sống có thể đi vào thế giới của người chết để gặp gỡ ông bà tổ tiên. Với người Nhật, đây cũng là dịp họ đi thăm viếng sửa sang mồ mả của những người đã khuất.
Bỉ Ngạn không thích nhiệt. Nó thích một môi trường ấm áp. Khi nhiệt độ vào mùa hè quá cao, các cây Bỉ Ngạn sẽ chết. Các cây Bỉ Ngạn thường được trồng ở những khu vực có hệ thống thoát nước tốt để các bông hoa không bị tổn hai và phát triển bình thường. Đặc biệt là khu vực trồng cũng không bị ảnh hưởng bởi gió quá nhiều vào những tháng mùa đông.
Tương truyền loài hoa này nở nơi hoàng tuyền, đa số người đều nhận định rằng hoa Bỉ Ngạn nở bên cạnh Vong Xuyên Hà ở Minh giới. Hoa có màu đỏ rực rỡ như máu, phủ đầy trên con đường thông đến địa ngục, mà có hoa thì không có lá, đây là loài hoa duy nhất của Minh giới.
Truyền thuyết cũng nêu rằng Bỉ Ngạn là đóa hoa trong truyền thuyết tình nguyện đi vào địa ngục, bị chúng ma quỷ bắt quay về nhưng vẫn ngập ngừng trên con đường Hoàng Tuyền, chúng ma quỷ không nhịn được nên đều đồng ý cho nàng nở trên con đường này, cho những linh hồn đã rời khỏi nhân giới có một sự chỉ dẫn và an ủi.
Bỉ Ngạn hoa nở ở bờ bên kia thế giới, chỉ là một khối đỏ rực như lửa; hoa nở không lá, lá mọc không hoa; cùng nhớ cùng thương nhưng không được gặp lại, chỉ có thể một thân một mình ở trên đường cực lạc.
Hoa lá không bao giờ gặp gỡ, đời đời dở lỡ. Bởi vậy mấy có cách nói: ”Bỉ Ngạn hoa nở nơi Bỉ Ngạn, chỉ thấy hoa, không thấy lá”. Nhớ nhau thương nhau nhưng vĩnh viễn mất nhau, cứ như thế luân hồi hoa và lá không bao giờ nhìn thấy nhau, cũng có ý nghĩa là mối tình đau thương vĩnh viễn không thể gặp gỡ. Cũng vì thế mà người ta dùng nó để làm ví dụ cho những chuyện tình không có kết quả (hay không có kết quả gì tốt đẹp).
Nhưng mặc dù "Hoa Bỉ Ngạn lúc nở hoa nhìn không thấy lá, khi có lá thì không thấy hoa" thì ta vẫn luôn thấy được "Hoa lá không thấy nhau, nhưng chúng đan xen với nhau đời đời." Có lẽ đó cũng là lý do khiến ta không thể nào buông bỏ được loài hoa này.
Hoa bỉ ngạn là gì?
Có 2 loại là bỉ ngạn trắng (Mạn Đà La Hoa ) và đỏ (Mạn Châu Sa Hoa), là loài hoa nở rộ vào mùa xuân phân.
Loài hoa này nhận được sự yêu thích của mọi người nhờ vào vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của nó.
Ý nghĩa Hoa Bỉ Ngạn Đỏ, Xanh, Trắng, Vàng
- Nhật Bản: Hồi ức đau thương.
- Triều Tiên: Nhớ về nhau.
- Trung Quốc: Ưu mỹ thuần khiết.
Hoa bỉ ngạn với câu chuyện tình bi đát, cảm động khiến hàng triệu người rơi nước mắt. Ngàn năm hoa nở, ngàn năm hoa tàn, hoa vừa kịp nở lá vội tan, lá vừa chớm mọc thì hoa lại tàn, chỉ thấy hoa mà không thể thấy lá, khi thấy lá lại chẳng thể gặp hoa, lá và hoa dẫu cùng chung một rễ, vốn rất gần mà chẳng thể gặp nhau, cứ nhớ thương mà ôm sầu thương nhớ…
Nguồn gốc của Hoa Bỉ Ngạn
+ Hoa bỉ ngạn ban đầu được tìm thấy ở Trung Quốc. Nó cũng được tìm thấy ở Nhật Bản. Ở Hoa Kỳ bỉ ngạn phát triển ở Bắc Carolina, Texas, và nhiều tiểu bang phía Nam khác.
+ Loài cây này được thấy ở Hoa Kỳ lần đầu tiên năm 1854. Đó là khi Hoa Kỳ mở cửa thương mại cho Nhật Bản. Thuyền trưởng William Roberts trong một lần trở lại Hoa Kỳ đã mang theo loài Lycoris radiata này từ Nhật.
+ Ông mang theo 3 cây, và những cây này được trồng và chăm sóc bởi cô cháu gái. Sau một thời gian chăm sóc và cô thấy rằng loài cây này không nở hoa cho đến khi sau một cơn mưa đầu mùa của mùa thu.
Ý nghĩa của hoa bỉ ngạn
+ Còn có ý nghĩa là “phân ly, đau khổ, không may mắn, vẻ đẹp của cái chết”, nhưng nhiều người hiểu ý nghĩa hoa là “hồi ức đau thương”.
+ Bỉ Ngạn hoa loài hoa không thanh khiết, không nhuốm bụi như Bạch Liên, cũng không cao cao tại thượng ngất ngưỡng trời như vạn hoa chi vương Mẫu Đơn. Bỉ Ngạn mang một chút gì đó buồn thẳm, mang một chút gì đó tà ác, mang một huyết sắc đỏ rực. Bỉ Ngạn hoa gợi cho ta cái cảm giác chính là trăng trong nước, hoa trong gương, càng ngắm càng muốn nắm giữ. Tưởng chừng như đã có thể nắm giữ được trong tay thì cuối cùng lại phát hiện ra tất cả phải chăng đều là hư hư thực thực. Liệu đã có ai thật sự chạm vào, thật sự nắm giữ được trong tay? Càng đẹp càng tà độc, càng rực rỡ lại càng chóng tàn phai
+ Ứng với hoa Mạn Đà La miền Cực Lạc và hoa Mạn Châu Sa bên bờ sông Vong Xuyên là hai thứ hoa Bỉ Ngạn (đỏ và trắng) sinh trưởng ở cõi thế gian. Hoa giống như lời nhắc nhở với thế nhân:
+ Ái tình là mộng ảo, khi duyên hết thì tình cũng dứt, trả hết nợ một đời thì đừng nên luyến tiếc mà càng thêm đau khổ. Vì con người mê đắm trong ‘Tình’ nên cần phải ngộ được chân lý này mới có thể thanh thản giữa các kiếp luân hồi.
+ Ái tình là chi đây? Đau khổ cả một đời, nhung nhớ cả một đời, lưu luyến cả một đời, chẳng phải cuối cùng rồi cũng theo chén canh Mạnh Bà mà tan vào hư vô hay sao? Tình ái cũng giống như đóa hoa Bỉ Ngạn kia: Mỹ lệ kiều diễm đấy, nhưng chóng tàn; có hoa có lá đấy, nhưng vĩnh viễn chẳng thể ở bên nhau.
+ Người ta nói, hoa Bỉ Ngạn là loài hoa có độc, cho nên ái tình cũng là một thứ “độc dược”, khiến những ai chìm đắm trong đó phải đau khổ day dứt cả một đời.
+ Người ta nói, hoa Bỉ Ngạn là loài hoa nơi địa phủ, cho nên những ai không thể bước qua được ái tình sẽ chỉ khiến tâm hồn chôn vùi trong dĩ vãng.
+ Người ta nói, hoa Bỉ Ngạn là loài hoa rực lửa, cho nên tình ái mới khiến người ta say đắm nồng nàn. Chẳng phải người đời vẫn hay nói “tình yêu rực lửa”, “tình yêu cháy bỏng” đó sao? Nhưng thiên tình sử nào, cuối cùng rồi cũng trái ngang.
+ Người ta nói nhiều về ý nghĩa của hoa Bỉ Ngạn, ở Nhật Bản là ‘hoa hồi ức đau thương’, ở Triều Tiên là ‘hoa nhung nhớ’, ở Trung Quốc là ‘hoa ưu mỹ thuần khiết’. Nhưng trên tất cả, đây là loài hoa cảnh tỉnh thế nhân về ảo ảnh của ái tình.
Truyền thuyết về Hoa Bỉ Ngạn
+ Xưa có một đôi nam nữ, theo luật Thiên Đình họ không được phép gặp gỡ. Một ngày, cả hai đã phá vỡ giới luật để tìm đến bên nhau. Chàng là một nam tử hào hoa anh tuấn, còn nàng lại là một nhi nữ đẹp tựa tiên sa. Cả hai vừa gặp đã quen thân, quyến luyến không xa rời, nguyện ước hẹn ở bên nhau đến kiếp kiếp đời đời.
+ Nhưng vì đã phạm luật Trời, họ bị đọa xuống trần gian rồi biến thành hoa và lá của cùng một cây. Lá xanh, hoa đỏ, đẹp kiêu sa nhưng chất chứa nỗi buồn. Có điều, loài hoa này rất đặc biệt, có hoa thì không thấy lá, mà có lá lại chẳng thể thấy hoa, giữa hoa và lá, cuối cùng cũng không thể gặp mặt.
+ Một ngày, Đức Phật đi ngang qua, thấy trên mặt đất có một loài hoa đỏ rực như lửa, vừa nhung nhớ lại vừa u sầu. Phật vừa liếc nhìn đã thấu tỏ được huyền cơ trong đó. Quả thật là:
“Bỉ Ngạn hoa, khai nhất thiên niên, lạc nhất thiên niên, hoa diệp vĩnh bất tương kiến. Tình bất vi nhân quả, duyên chú định sinh tử” – Bỉ Ngạn hoa, một nghìn năm nở, một nghìn năm tàn, hoa và lá vĩnh viễn không thể gặp nhau. Tình không vì nhân quả, duyên đã định tử sinh.
+ Đức Phật xót thương, bèn quyết định mang hoa về miền Cực Lạc. Nhưng vì Cực Lạc là Phật quốc, là thế giới thanh tịnh và thuần khiết, nên tất cả những gì là ‘tình si’, ‘nhung nhớ’, ‘u sầu’, ‘đau khổ’… đều không được phép tiến nhập vào miền tịnh thổ. Những thứ xúc cảm con người ấy đều phải rời khỏi hoa, kết thành một màu đỏ rực lửa rồi rơi xuống sông Vong Xuyên.
+ Bởi vậy, khi về đến Cực Lạc, đóa hoa trong tay Phật đã biến thành một màu trắng tinh khiết không còn nhuốm bụi trần. Đức Phật bèn gọi nó là Mạn Đà La hoa, hoa của cõi Phật, cũng chính là một loại hoa Bỉ Ngạn.
+ Lại nói về màu đỏ rực lửa. Lúc ấy, Bồ Tát Địa Tạng thần thông quảng đại đã biết rằng nghiệp duyên của hoa Mạn Đà La hiện đang nằm dưới sông Vong Xuyên. Ngài bèn đến bên bờ sông, ném xuống một hạt giống, chỉ trong chốc lát một đóa hoa đỏ tươi bay ra khỏi mặt nước. Bồ Tát đón lấy hoa và nói:
“Ngươi đã thoát thân trở về miền Cực Lạc, sao còn đem nỗi hận tình si để lại nơi khổ ải vô biên này chứ? Vậy thì, ngươi hãy ở đây làm sứ giả tiếp dẫn các linh hồn đi về phía luân hồi. Cực Lạc đã có Mạn Đà La hoa rồi (Mandarava), vậy ta sẽ gọi ngươi là Mạn Châu Sa hoa vậy (Manjusaka)”.
+ Từ đó có hai loài hoa Bỉ Ngạn, một loại trắng ngần tinh khiết, một loại lại rực rỡ hoa lệ; một loại gợi nhớ gợi thương, chia ly đau khổ, một loại lại vô dục vô cầu, vô khổ vô bi; một loại trầm luân trong nỗi sầu nhân thế, một loại lại thản thản đãng đãng nơi Phật quốc thanh cao.
Hoa bỉ ngạn có độc không?
Ta thường thấy hoa bỉ ngạn mọc trên đồi, bên bờ sông, ven đường đi, ngoài bờ ruộng hay rất nhiều bên trong nghĩa địa. Củ của loài hoa này thì lại rất độc bởi trong nó có chứa lycorine - một chất độc thuộc nhóm alcaloid gây tổn hại đến thần kinh.
- Theo truyền thuyết người đời kể lại rằng có những người đã tuyệt mệnh bằng cách ăn củ của loài hoa này trong lúc đói, vì vậy mà rất nhiều người ghét cay ghét đắng loài hoa này và cho rằng loài hoa này tượng trưng cho sự chết chóc và những điềm gở.
- Theo quan niệm dân gian thì người ta cho rằng loài hoa này chính là cửa ngõ để đi vào thế giới của những người đã chết. Tuy nhiên, cũng có người lại nói rằng vào những ngày mà trần gian gặp lại người âm giới thì bỉ ngạn chính là nơi để trú ngụ cho những linh hồn.