Dàn Ý Nghị Luận “Bình Ngô Đại Cáo” hay nhất
Mở bài
Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận: tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi.
Thân bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Tác giả: Nguyễn Trãi là nhà quân sự tài ba, là nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ.
– Tác phẩm: “Bình Ngô Đại Cáo” tựa bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc được viết vào khoảng cuối năm 1428..
Nghị luận tác phẩm
b.1. Tiền đề lí luận
* Tư tưởng nhân nghĩa:
– Nhân nghĩa trong tư tưởng Nho giáo: mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí.
– Nhân nghĩa trong tư tưởng Nguyễn Trãi:
+ Kế thừa tư tưởng Nho giáo: làm cho dân hạnh phúc (“yên dân”).
+ Tư tưởng mới: vì dân mà trừ bạo tàn (“ trừ bạo”)
-> Tư tưởng nhân nghĩa không bị bó hẹp trong phạm vi Nho giáo mà được mở rộng ra. Phân biệt rõ ràng ta là chính nghĩa, giặc Minh là phi nghĩa.
* Chân lí về độc lập dân tộc
– Dẫn chứng thuyết phục: văn hiến lâu đời, lãnh thổ riêng, phong tục phong phú, lịch sử lâu đời.
-> Khẳng định tư cách độc lập là chân lí không thể chối cãi.
– Từ ngữ: “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia”
-> Khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của đất nước ta.
– Thái độ của Nguyễn Trãi:
+ So sánh ngang bằng triều đại Đại Việt và Trung Hoa.
+ Gọi vua Đại Việt là “Đế” (vua phương Bắc trước nay chỉ gọi ta là Vương)
-> Ý thức chủ quyền độc lập cao độ.
– Phép liệt kê: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô,…
-> Lời cảnh cáo đanh thép về kết cục của kẻ chống lại chân lí.
b.2. Soi chiếu lí luận vào thực tiễn
* Tội ác của giặc Minh:
– Xâm lược: bịp bợm với ý đồ cướp nước ta (“nhân”, “thừa cơ”)
– Bóc lột nhân dân:
+ Tàn sát người vô tội (“nướng dân đen”, “vùi con đỏ”)
+ Vơ vét tài nguyên nước ta.
+ Phá hoại môi trường, tự nhiên sinh thái của ta.
-> Hình ảnh kẻ thù đối lập với nhân dân ta.
-> Nỗi xót xa với nhân dân và căm phẫn với kẻ thù.
*Lòng căm thù giặc của nhân dân:
– Nghệ thuật phóng đại: “Trúc Năm Sơn…rửa sạch mùi”
-> Ví sự tội ác giặc với sự vô cùng của tự nhiên.
– Câu hỏi tu từ: “Lẽ nào…chịu được”
-> Thái độ căm phẫn của nhân dân.
b.3. Diễn biến cuộc khởi nghĩa
*Hình tượng người anh hùng Lê Lợi:
– Xuất thân: nông dân.
– Căn cứ khởi nghĩa: “núi Lam Sơn dấy nghĩa”
– Lòng căm thù giặc sâu sắc: “ căm giặc nước thề không cùng sống”
– Lí tưởng lớn, biết trọng người tài: “Tấm lòng cứu nước…dành phía tả”
-> Lê Lợi hiện lên vừa bình dị vừa có cốt cã cách của bậc anh hùng.
*Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
– Giai đoạn đầu:
+ Khó khăn về vật dụng quân trang cũng như lương thực thực phẩm.
+ Tính thần của quân và dân: gắng chí, quyết tâm.
– Giai đoạn phản công và giành thắng lợi: biện pháp liệt kê tái hiện không khí chiến đấu sôi sục và sự chiến thắng giòn giã của ta.
– Sự thất bại nhục nhã của giặc:
+ Cởi áo giáp xin hàng (Thượng Hoàng Thư Phúc)
+ Nghệ thuật phóng đại: “thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”
– Cách ứng xử nhân đạo của quân ta: “Thần vũ chẳng giết hại…nghỉ sức”
-> Niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của Nguyễn Trãi.
b.4. Niềm tin của nhân
– Tuyên bố đất nước hoà bình, mở ra kỉ nguyên mới.
– Giọng điệu hào sảng -> Niềm tin của Nguyễn Trãi.
– Hình ảnh về tương lai đất nước: “xã tắc từ đây…vững chắc”
-> Lòng lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước.
Tổng kết
– Nội dung: Tác phẩm khẳng định chân lí độc lập của dân tộc và thay mặt vua Lê, tuyên cáo thành lập triều đại mới.
– Nghệ thuật: thể cáo được vận dụng tài tình, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính trị và chất văn chương, biện pháp liệt kê, phóng đại,…
Kết bài
Khẳng định giá trị của tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” và tài năng của Nguyễn Trãi.
Nghị Luận tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo 1
Nếu “Nam quốc sơn hà” được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì “Bình Ngô Đại Cáo” xứng đáng được tôn xưng như bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai. Bằng ngòi bút và tư tưởng vượt trước thời đại của mình, Nguyễn Trãi đã tạo nên một thiên anh hùng ca, vừa có giá trị văn học vừa có giá trị lịch sử sâu sắc.
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba, đóng góp quan trọng cho việc thành lập nhà Lê mà ông còn là một nhà thơ với sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Ông để lại tiếng thơm cho đời bởi những tư tưởng nhân nghĩa ông gửi gắm trong từng tác phẩm của mình. Tiêu biểu trong số ấy là “Bình Ngô Đại Cáo” ra đời vào mùa xuân năm 1482, tựa một bản tuyên ngôn hùng hồn của dân tộc. Sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay vua Lê Lợi thảo bản cáo này để tuyên bố sự thắng lợi của quân và dân ta. Nhan đề tác phẩm có nghĩa là: bài cáo quan trọng tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô (tên gọi hàm ý khinh bỉ thay cho giặc Minh).
Trước hết, Nguyễn Trãi đặt ra tiền đề lí luận cho những lí lẽ của mình. Ông đi vào khẳng định cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Nếu trong Nho giáo, nhân nghĩa là mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí thì đến Nguyễn Trãi, ông đã tiếp thu và mở rộng phạm vi nhân nghĩa ra:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nhân nghĩa không chỉ là việc làm cho dân hạnh phúc (“yên dân”) mà còn cả việc trừ bạo tàn, diệt những kẻ làm dân khốn đốn (“trừ bạo”). Đây hoàn toàn là một lời khẳng định đanh thép về bản chất của ta và địch: ta chính nghĩa, địch phi nghĩa. Qua đó còn thể hiện sự tuyên bố về quốc gia và chủ quyền. Nguyễn Trãi đã tài tình nêu ra một loạt các dẫn chứng thuyết phục cho chân lí độc lập không thể chối cãi của dân tộc: có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục phong phú và lịch sử lâu đời,… Song hành với đó, các từ “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia” góp phần củng cố thêm sự tồn tại hiển nhiên của đất nước ta. Bản thân Nguyễn Trãi cũng có ý thức về chủ quyền độc lập cao độ khi dùng phép so sánh ngang bằng khi so sánh triều đại Đại Việt ta và triều đại Trung Hoa. Trong khi vua phương Bắc trước nay chỉ gọi vua ta là “Vương” (chức cai quản một vùng đất nhỏ) thì Nguyễn Trãi khẳng khái gọi “Đế” (danh gọi vua của một nước). Chỉ một chữ đó thôi nhưng cũng thể hiện lòng kiêu hãnh của một nước nhỏ về diện tích lãnh thổ nhưng không hề nhỏ về lòng tự tôn dân tộc. Các danh tướng của giặc lần lượt được liệt kê chỉ thêm tô đậm lời cảnh cáo về kết cục của kẻ chống lại chân lí: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đô bị bắt sống,… Tư tưởng nhân nghĩa làm tiền đề cho lời tuyên bố về chủ quyền của một quốc gia và chắc chắn rằng dòng giống con Rồng cháu Tiên sẵn sàng đánh đổi tất cả để giữ vững quyền tự do độc lập đó.
Soi chiếu lí luận vào thực tiễn, hình ảnh nhân dân ta quằn quại đau đớn dưới gót giày thống trị của giặc Minh không khỏi khiến người đời xót xa:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Nặng thuế khoá sạch ko đầm núi
Vét sản vật, bắt dò chim sá, chốn chốn lưới chăng
Nhìu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cặm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ
Tan tác cả nghề canh cửi…
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Nặng nề những nỗi phu phen
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
Nguyễn Trãi đã vạch trần sự bịp bợm, giả dối của những kẻ cướp nước với ý đồ xâm lược nước ta (“nhân”, “thừa cơ”) mà lại giao giảng những thứ đạo lí lừa đời. Chúng bóc lột nhân dân ta đến kiệt cùng: tàn sát người vô tội, vơ vét tài nguyên, phá hoại môi trường,… Một sự hủy diệt tàn bạo khiến trời đất cũng phải căm phẫn. Hình ảnh phóng đại “Trúc Nam Sơn ko ghi hết tội nước Đông Hải ko rửa hết mùi” với sự ví von tội ác của giặc trước sự vô cùng vô tận của tự nhiên thêm phần khẳng định tội ác không thể nào gột rửa của kẻ thù. Dường như trong lồng ngực chúng không còn là trái tim, là dòng máu của một con người mà là khối sắt không có cảm giác. Chúng như những con quỷ khát máu lúc nào cũng nhe nanh đi đòi mạng những người dân lành. Câu hỏi tu từ mở ra cũng là lúc thái độ nhân dân phẫn uất đến cùng cực:
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được”
Vũ trụ ngàn năm còn chẳng xuôi lòng trước bàn tay độc ác của quân thù nữa là người dân!
Như một kết quả tất yếu khi nước tràn li, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã nổ ra, đòi lại hòa bình cho đất nước. Mở đầu là hình tượng vị anh hùng Lê Lợi “áo vải”:
“Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình”
Xuất thân từ nông dân, mang theo lòng căm thù giặc sâu sắc, con người tài trí hết mực ấy một lòng thực hiện lí tưởng cao cả. Quên ăn, quên ngủ, cả trong mộng cũng lo việc nước nhà không thành. Những câu văn khắc sâu thêm ý chí, lòng quyết tâm vì đại nghĩa của một vị chủ tướng vừa có tâm vừa có tài, hết lòng vì đại cuộc. Giai đoạn phản công và giành thắng lợi được tác giả sử dụng phép liệt kê nhằm nhấn mạnh thêm không khí chiến đấu sôi sục và sự chiến thắng giòn giã của ta. Đối lập với chiến thắng tất yếu ấy là sự thất bại nhục nhã ê chề của giặc:
“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.”
Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch tiến quân ra Bắc. Giặc thì huy động tổng lực cố thủ, ta thì hừng hực quyết thắng. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng cũng đành bỏ mạng.”
Nghệ thuật phóng đại (“thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”) khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến cũng như sự bại vong của giặc Minh. Với tấm lòng nhân nghĩa nghìn đời, “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn” thì quân và dân ta chọn cách ứng xử nhân đạo với những kẻ cướp nước bại trận:
“Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”
Ta không cần phải đuổi cùng giết tận, Nguyễn Trãi thực sự thanh cao khi biết việc bây giờ không phải khiến mất thêm bất kì sinh mạng nào mà cần tập trung lo cho binh sĩ, lo cho nhân dân sau những ngày binh đao dồn dập.
Niềm tin của nhân dân sau những ngày đại thắng thêm vững mạnh. Nguyễn Trãi thay mặt vua Lê, tuyên cáo với toàn thiên hạ rằng đất nước đã hoà bình, mở ra một kỉ nguyên mới của dân tộc – kỉ nguyên độc lập, tự do:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.”
Giọng điệu vô cùng hào sảng, hình ảnh về tương lai đất nước chưa bao giờ ngời sáng hơn thế. Vua dân chung một lòng lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước. Vậy là trên mọi miền quê, dưới mỗi mái nhà, độc lập, tự do và sự yên bình đã thực sự trở lại. Cuối cùng, Nguyễn Trãi không quên nhắn gửi lời biết ơn chân thành tới ông cha ta:
“Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”
Thật vậy, ““Bình Ngô Đại Cáo” là một áng văn chương hùng tráng, với hơi văn cuồn cuộn.” Tác phẩm ngùn ngụt chí khí khẳng định chân lí độc lập của dân tộc và lời tuyên bố thành lập triều đại mới. Lòng yêu nước, chiến thuật quân sự đúng đắn đã khiến quân thù phải khiếp sợ mà lui. Nguyễn Trãi bằng ngòi bút điêu luyện của mình, đã vận dụng tài tình thể cáo, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính trị và chất văn chương. Biện pháp liệt kê, phóng đại cũng được đan xen triệt để, tạo nên những hiệu quả nghệ thuật thật tuyệt vời
“Bình Ngô Đại Cáo” thực sự là một áng thiên cổ hùng văn. Qua đó, Nguyễn Trãi thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền độc lập dân tộc, khẳng định truyền thống yêu nước ngàn đời. Khí thế ấy còn vang vọng trong bài ngâm bên sông như Nguyệt hôm nào:
Nghị Luận tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo hay nhất 2
Mùa xuân năm 1428, sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay Bình Định Vương Lê Lợi thảo bản “Cáo Bình Ngô” để tuyên bố sự thắng lợi của dân tộc. Bài cáo đã khẳng định chủ quyền, độc lập, tự tôn dân tộc rất rõ ràng, khí thế cà được coi là bản tuyên ngôn đọc lập thứ hai của dân tộc sau “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Điều đầu tiên mà Nguyễn Trãi nhắc tới ở bài cáo là tư tưởng “nhân nghĩa”. Nhân nghĩa là lễ nghĩa, nghĩa tình của một con người, nâng lên thành tư tưởng chính là cách đối nhân xử thế của một con người thực thụ, mà ở đây là cốt ở “yên dân”. Đây được coi là một tư tưởng mới, thấm nhuần nội dung tiến bộ của đạo Nho gia, đó là lấy dân làm gốc. Hơn ai hết, ông hiểu rằng, không gì quan trọng hơn là lo cho nhân dân một cuộc sống âm no, yên ổn. Bởi nhân dân chính là cái gốc của một dân tộc, một dân tộc không có dân thì không gọi là dân tộc, nhân dân sẽ là yếu tố quyết định số phận cả một dân tộc: “Đẩy thuyền là dân, Lật thuyền là dân”. Xuất phát từ tư tưởng ấy, mọi hành động đều là vì sự no ấm của dân, mà muốn dân yên ổn, phải trừ được bạo tàn chính là bè lũ bán nước và cướp nước. Phải dẹp gọn giặc xâm lăm, nhân dân mới được hưởng thái bình, sung túc. Tư tưởng ấy không chỉ còn là tư tưởng đạo đức mà đã nâng lên thành chân lí bất di bất dịch. Từ đó, ông đưa ra nhân nghĩa còn gắn với bảo vệ độc lập, khẳng định chủ quyền dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên đế một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Nếu Lý Thường Kiệt khẳng định sự độc tôn dân tộc bằng sách trời thì Nguyễn Trãi đã khẳng định nước Đại Việt ta là một nước hoàn toàn độc lập, tự chủ với một nền văn hiến và có lãnh thổ riêng. Chúng ta và phương Bắc khác nhau về những phong tục, tập quán, văn hóa truyền thống và có cả lịch sử, nhân tài. Núi sông bờ cõi cũng đánh dấu rõ ràng ranh giới lãnh thổ, không cớ gì chúng nhận nước ta là một phần của chúng. Phương Bắc có chúa, Đại Việt cũng có vua, từng thời điểm lịch sử qua cũng có những thời đại riêng sánh ngang với những thời đại lớn ở phương Bắc. Một đất nước có đủ mọi phương diện về văn hiến và lãnh thổ, chính là một đất nước độc lập không thể chối cãi, chính vì vậy, việc xâm lược của các nước phương Bắc đối với Đại Việt là sai trái, trái với nhân nghĩa.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Ông còn tự hào chỉ ra rõ ràng những tên tuổi, địa danh, những vết tích ô nhục của quân địch phải chịu khi xâm lược vào bờ cõi nước ta, lịch sử về việc chúng thảm bại dưới gươm chính nghĩa của nhân dân Đại Việt vẫn còn đó, chứng ứ còn rõ ràng hơn ban ngày. Điều đó đã khẳng định chúng là quân hiểm ác nhất định sẽ thất bại dưới chúng ta. Vậy mà, chúng vẫn không chịu đầu hàng:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Rồi, nhân đó, ông chỉ ra những nỗi khổ mà nhân dân phải chịu đựng khi chính sự rối ren:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa?
Ông gọi nhân dân là “dân đen, con đỏ” thể hiện sự thương yêu, xót xa khôn cùng. Ông vạch ra tội ác của bọn xâm lăng, đi đến đâu là vùi chôn nhân dân trong lửa, trong máu, những việc tàn nhẫn như chôn sống, dối lừa, bắt thuế, bắt người xuống biển đi mò sản vật, lên rừng săn quý hiếm,… Những việc làm của chúng làm cho nhân dân không những không thể sống yên ổn mà còn chịu biết bao khổ sợ đau đớn, người mất mạn vô số, kẻ lầm than ở khắp nơi. Trong mắt nhân dân chúng chỉ như những con quỷ khát máu khát thịt lúc nào cũng nhe nanh đòi máu, đì mỡ, là những kẻ tội đồ mà:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Những cụm từ được đặt lên đầu câu nhấn mạnh vào sự căm hờn vô tả của Nguyễn Trãi đối với tội ác của bọn xâm lăng, những tội ác ấy không sao kể xuể, không gì rửa sạch được, không có ngòi bút nào kể hết, không nước ở đâu rửa sạch được máu mà chúng ta ấy lên đất Đại Việt. Sự tàn nhân và tội ác mà chúng để lại cho dân tộc ta đã chất nhiều vô kể, khiến cho:
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Những lời sau là Nguyễn Trãi nói thay lời Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Ở đoạn này, Nguyễn Trãi tập trung chủ yếu vào việc miêu tả hình ảnh của Lê Lợi. Bắt đầu từ lòng căm thù đối với bè lũ bán nước và cướp nước khiến cho nhân dân ta lầm than, đến việc quyết định dấy binh khởi nghĩa, chịu bao nhiêu khó khăn nhưng vẫn kiên trì theo đuổi, bao nhiêu đêm trằn trọc, mất ngủ cũng đều là vì việc quân việc nước. Đúng là một chủ tướng vừa có tâm vừa có tài, hết lòng vì đại cuộc, với nhân dân lúc này chính là cần một người thủ lĩnh như vậy để dẫn dắt họ đứng lên đấu tranh đánh đuổi những tên xấu xa ra khỏi đất nước, giữ yên bờ cõi, giữ yên cuộc sống yên ổn, ấm no.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Tình thần thì kì vĩ nhưng khó khăn cũng không kém đồ sộ. Buổi đầu của cuộc kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn, vất vả, không thể chiêu dụ người tài, đất nước lại đang nhiều khó khăn, quân địch thì đang lúc mạnh nhất, khó đủ mọi bề. Nhưng nhờ vào sự đoàn kết của binh lính, coi nhau như ruột thịt, dốc lòng vì cuộc kháng chiến nên bao trận chiến ác liệt nổ ra, dân ta lấy ích địch nhiều nhưng lòng vẫn hồ hởi tự tin vào chiến thắng cuối cùng.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo
Dân ta chính là đại nghĩa, bọn xâm lược chính là hung tàn, câu thơ đối cực hay làm nổi bật sự khác biệt giữa ta và địch, đó chính là lí do, ta tất thắng. Vì thế mà những trận đánh trở nên ngày càng quyết liệt, hăng say:
Sĩ khí đã hăng quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Những trận đánh quyết liệt được chỉ ra hết sức tự hào, thể hiện chí khí ngút trời và tinh thần không chịu lui của quân và dân. Nhưng quân ta càng mưu trí, hãnh diện bao nhiêu, lú cướp nước càng đê hèn bấy nhiêu;
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Rồi những chiến thắng đến bắt đầu dồn dập như vũ báo, báo hiệu sự toàn thắng của quân và dân ta:
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Tiếp đó, Nguyễn trãi chuyển bài cáo sang không khí trận mạc, qua đó ta thấy được hình ảnh oai dũng của quân và dân ta trên chiến trường, đánh cho quân giặc không còn manh giáp:
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Vì thế mà chiến công hiển hách vang dội chất đầy như núi, thảm bại của giặc không kể sao cho xiết:
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Toàn những kẻ tham sống sợ chết, đê hèn bị ổi, xin hàng trong sự thất bại ê chề, vì nhân nghĩa, quân và dân ta dùng lòng nhân đạo để bao dung kẻ vô nhân. Kể từ ấy, chúng ta yên tâm vì:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Đất nước từ nay bước sang một trang mới, thời kì của đọc lập, tự chủ, của ấm no, hạnh phúc, không còn đâu những cảnh đau thương tan tác, mặt trời như đã tỏ rạng khắp giang sơn. Cuối cùng, Nguyễn Trãi nhắn đến cha ông ta như một sự biết ơn:
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Bài cáo có giá trị lớn lao, không chỉ thể hiện độc lập, chủ quyền dân tộc trong niềm tự tôn mà còn là tiếng nói yêu nước, yêu dân, tinh thần nhân nghĩa, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm của con dân Đại Việt.
Nghị Luận tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo ngắn gọn nhất 3
Trong dòng văn học ca ngợi truyền thống yêu nước xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được đánh giá là ánh “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, được các thế hệ người Việt luôn yêu thích, tự hào.
"Bình Ngô đại cáo" được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết vào khoảng đầu năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi, quân Minh buộc phải kí hòa ước, rút quân về nước, nước ta bảo toàn được nền độc lập tự chủ, hòa bình. Nguyễn Trãi (1380-1442) là một anh hùng dân tộc, là người toàn tài hiếm có trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh đồng thời cũng là nhà thơ trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận kiệt xuất, là cây đại thụ đầu tiên của văn học trung đại Việt Nam.
Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” được Nguyễn Trãi viết theo thể cáo, một thể văn có nguồn gốc từ Trung Hoa, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn hùng biện chính luận, có nội dung thông báo một chính sách, một sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia dân tộc, công báo trước toàn dân. Nhan đề tác phẩm có Ý nghĩa là bài cáo trọng đại tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô-một tên gọi hàm ý khinh bỉ căm thù giặc Minh xâm lược. Bài cáo có bố cục chặt chẽ mạch lạc, viết theo lối biền ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hệ thống hình tượng sinh động, gợi cảm.
Bài cáo gồm bốn đoạn. Đoạn đầu nêu cao luận đề chính nghĩa của cuộc kháng chiến, đó là tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với độc lập dân tộc: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân-Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” và “Như nước Đại Việt ta từ trước-Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đoạn thứ hai của bài cáo đã vạch trần, tố cáo tội ác dã man của giặc Minh xâm lược. Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép, tố cáo giặc Minh ở các điểm: âm mưu cướp nước, chủ trương cai trị phản nhân đạo, hành động tàn sát tàn bạo. Đồng thời, đoạn văn cũng nêu bật nỗi thống khổ, khốn cùng của nhân dân, dân tộc ta dưới ách thống trị của kẻ thù: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn-Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”; “Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kế-Gây binh kết oán, trải hai mươi năm”. Đoạn văn ngùn ngụt Ý chí căm thù giặc và thống thiết nỗi thương dân lầm than. Đoạn văn thứ ba là đoạn dài nhất của bài cáo, có Ý nghĩa như bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn văn đã tổng kết lại quá trình khởi nghĩa. Ban đầu cuộc khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn, lương thảo, quân sĩ, người tài đều thiếu, nghĩa quân ở vào thế yếu “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần-Khi Khôi Huyện quân không một đội”, “Tuấn kiệt như sao buổi sớm-Nhân tài như lá mùa thu”, “lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều”…Nhưng nghĩa quân có người lãnh tụ Lê Lợi sáng suốt, bền chí, yêu nước “Ngẫm thù lớn há đội trời chung-Căm giặc nước thề không cùng sống”, biết đoàn kết lòng dân “Sĩ tốt một lòng phụ tử-Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”, dùng chiến thuật phù hợp nên nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành “Sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh” và ngày càng chiến thắng giòn giã, vang dội “Đánh một trận sạch không kình ngạc-Đánh hai trận tan tác chim muông”, giặc Minh thì liên tiếp thất bại, thất bại sau lại càng thảm hại hơn thất bại trước, mỗi tên tướng giặc bại trận lại có vết nhục nhã riêng: kẻ treo cổ tự vẫn, kẻ quỳ gối dâng tờ tạ tội, kẻ bị bêu đầu…Đoạn văn thứ ba của bài cáo cũng ca ngợi lòng nhân đạo, chuộng hòa bình của nhân dân, dân tộc ta, tha sống cho quân giặc đã đầu hàng, lại cấp cho chúng phương tiện, lương thảo về nước. Đoạn cuối của bài cáo đã tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định nền độc lập, hòa bình vững bền của đất nước, thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.
Bài cáo có sự kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa yếu tố chính luận sắc bén với yếu tố văn chương truyền cảm, kết hợp giữa lí luận chặt chẽ và hình tượng nghệ thuật sinh động. Cảm hứng nổi bật xuyên suốt tác phẩm là cảm hứng anh hùng ca hào hùng sôi nổi, mãnh liệt. Giọng điệu của bài cáo rất đa dạng, khi tự hào về truyền thống văn hóa, anh hùng lâu đời của dân tộc, khi thì căm phẫn sục sôi trước tội ác của kẻ thù, khi thống thiết xót thương trước nỗi đau lầm than của nhân dân, khi lo lắng trước những khó khăn của cuộc kháng chiến, khi hào hùng ngợi ca chiến thắng, khi trịnh trọng tuyên bố độc lập của dân tộc, đất nước.
“Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi là bản anh hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của dân tộc ta thế kỉ XV. Tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử mà còn lưu truyền lòng yêu nước tự hào dân tộc đến các thế hệ người Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam ngày nay đều hào sảng trước những câu văn hùng hồn
Nghị Luận tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo 4
“Bình ngô đại cáo” là áng “thiên cổ hùng văn” bậc nhất trong văn học chữ Hán cổ điển nước ta, là bản anh hùng ca bằng thể văn biền ngẫu, nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, kể tội quân xâm lược, ngợi ca anh hùng, hào kiệt và võ công trừ bạo của dân tộc ta.
Bài đại cáo còn là khúc trữ tình thiết tha trước nổi đau mất nước, chứa chan niềm tự hào dân tộc và niềm vui chiến thắng. Cáo là 1 thể văn cổ có từ thời xưa, hoàng đế thường dùng để bổ nhiệm, phong tặng, bảo ban các quan, toàn dân, được gọi là “cáo mệnh”, “cáo phong”, “cáo giới”... đại cáo vốn là tên 1 thiên trong Thượng thư do Chu Công làm để tuyên bố việc phò tá Thành Vương, phế bỏ nhà Ân, sau trở thành thể loại văn học công bố sự kiện trọng đại cho thiên hạ biết. Đặt tên bài văn này là “bình ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi vừa muốn dùng lại tên Đại cáo để công bố đạo lớn, vừa tỏ ý đi theo truyền thống nhân nghĩa lâu đời. Bình là đánh dẹp, Ngô là tên nước cũ thời Tam quốc. Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương dấy binh ở đất Giang Tô, lúc đầu xưng là Ngô Quốc Công, do vậy quân nhà Minh được gọi là Quân Ngô. Tên bài này có nghĩa là tuyên bố về sự nghiệp đánh dẹp giặc Ngô.
Là 1 thể văn như có tính quan phương, không nhất thiết bài cáo nào cũng có giá trị văn học nhưng vì tầm tư tưởng lớn lao, sự kiện trọng đại và lời văn hùng hồn, khảng khái, bài “bình ngô đại cáo” do Nguyễn Trãi làm thay lời Lê Lợi đã trở thành 1 thiên anh hùng ca bằng văn tứ lục.
Mở đầu bài cáo, tác giả tuyên bố ngay lập trường chính nghĩa của mình:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
2 câu này có nghĩa là: việc nhân nghĩa cốt làm cho nhân dân được yên, mà muốn cho dân yên thì trước hết phải lo tiêu diệt quân tàn bạo. Tư tưởng đó đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Cho nên, tiếp theo, bài cáo nhắc lại truyền thống “yên dân trừ bạo” của các triều đại “từ triệu Đinh, Lí, Trần bao đời gây nên độc lập”, đời nào cũng có hào kiệt đứng lên trừ bạo để yên dân. Kết quả là Lưu Cung đời Hán thất bại, Triệu Tiết của Tống tiêu vong. Toa Đô, Ô Mã đời Nguyễn kẻ bị giết, người bị bắt. Đáng chú ý ở đoạn này là ngay từ đầu Nguyễn Trãi khẳng định đó là truyền thống văn hoá Đại Việt. “Đại Việt” là quốc hiệu của nước ta thời Lí, thời Trần, đời nhà Đinh đặt quốc hiệu là “đại Cồ Việt” cũng theo tinh thần đó đồng thời ông cũng khẳng định mỗi đằng “làm đế 1 phương”, đối chọi với Bắc đế, nối tiếp truyền thống của Lí Nam Đế, Lí Thường Kiệt đời trước. Như vậy, bài đại cáo mở đầu không chỉ với tư tưởng nhân nghĩa, mà còn với tư thế của 1 quốc gia có chủ quyền. Phần mở đầu nhằm khẳng định sự nghiệp Lê Lợi là sự kế tục vẻ vang của các truyền thống đó.
Phần 2 của bài nói đến tội ác của giặc và tình cảnh khốn khó của nhân dân và Đất nước dưới ách thống trị của giặc Minh. Cuộc đánh dẹp nào cũng phải có lí do, mà lí do chính đáng nhất là tội ác của quân thù và nỗi khốn khó của nhân dân. Tác giả đã dùng 12 cặp đối để tố cáo kẻ thù và phơi bày nổi khổ nhục của nhân dân. Đáng chú ý nhất là tính chất huỷ diệt tàn bạo tột cùng của quân xâm lược:
“Nướng dân đen trên ngọn lừa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
“Dân đen”, “con đỏ” là hình ảnh ước lệ chỉ người dân trăm họ, vô tội. Quân giặc xem dân ta như dê, như cừu, mặc sức tàn hại. Chúng dối trời, lừa dân, gây binh, tính ác trong 2 mươi năm làm cho nhân nghĩa bại hoại, đất trời tan nát. Không có gì không bị huỷ diệt tàn bạo:
“Nặng thuế khoá sạch không đầm núi”
Vét sản vật, bắt dò chim sá, chốn chốn lưới chăng
Nhiều nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cặm đặt”
“tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ”
Tan tác cả nghề canh cửi...”
Số phận thê thàm của nhân dân được nhắc tới với 1 tình cảm xót thương sâu nặng:
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc”.
“nặng nề những nỗi phu phen”
“nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”.
Tác giả đã khắt hoạ 1 bức tranh khái quát về tội ác chống chất của kẻ thù, mà “Trúc Nam Sơn không ghi hết tội”, “nước Đông Hải không rửa hết mùi”.
Người xưa chép sách và thẻ tre, tội ác của giặc Minh cho dù chặc hết trúc Nam Sơn cũng không ghi hết tội. “Khánh trúc nam thư” là thành ngữ của Lã Thị Xuân Thu, người Trung Quốc thường dùng để kể tội ác quân giặc trong các bài thơ, hịch, ở đây dùng để vạch tội ác giặc Minh, thật là đắc dụng. đoạn kể tội kẻ thù được kết thúc bằng vế đối vang dội, đầy tính kích động như 1 lời hịch:
“lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được”
Phần thứ 3 của bài cáo là công bố quá trình dấy binh và kháng chiến thắng lợi. Đây là phần trữ tình và sảng khoái nhất của bài văn.
Đoạn một của phần này gồm 15 cặp đối nói về ý thức sứ mệnh và buổi đầu dựng nghiệp khó khăn của Lê Lợi. Tác giả đã xây dựng nên hình ảnh người anh hùng dân tộc, một hình tượng trữ tình cao cả, thống nhất.
Bằng phương thức tự giới thiệu, bài đại cáo khắc hoạ tấm lòng, chí khí, tài trí, mục đích đầy nghĩa của Lê Lợi. Bằng một loạt vị ngữ, đoạn văn thể hiện thế giới nội tâm phong phú. Một lời tự giới thiệu thật dõng dạc:
“Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình”
Một ý thức sứ mệnh tự giác xem mối thù của nước, nỗi đau của trăm họ như của chính mình, ngày đêm canh cánh bên lòng suốt 20 năm
“Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chóc đã mười mấy năm trời
nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối”
“quên ăn, quên ngủ, cả trong mộng cũng lo việc lấy lại nước nhà:
những trần trọc trong cơn mọng mị
chỉ băn khoăn 1 nỗi đồ hồi”
Những hình ảnh “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận”, “trần trọc trong cơn mộng mị” làm nhớ tới gương chịu đựng gian khổ, nung nấu ý chí chiến đấu vì đại nghĩa.
Những nỗi gian nan, khó nhọc buổi đầu như thiếu người, thiếu quân, thiếu lương thảo đã thử thách tinh thần nhẫn nại, đức quý trọng hiền tài và khả năng tập hợp của Lê Lợi. Người tài như sao buổi sớm, như lá mùa thu, vốn rất hiếm, còn tấm lòng cầu mong của Lê Lợi cũng rất chân thành “Cổ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả”.
Bên trái là chỗ ngồi tôn quý mà Ngụỵ công tử Tín Lăng Quân dành để mời người gác cửa thành là Hậu Doanh cộng tác với mình. Nhưng càng chờ đợi, “người càng vắng bóng”, và vai trò chủ động của minh chủ Lê Lợi càng nổi bật.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối. Cuối cùng, người anh hùng đã tập hợp được nhân dân dưới cờ đại nghĩa của mình, tạo thành một khối đoàn kết tuyệt đẹp:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc, ngọn cớ phấp phới
tướng sĩ một lòng phụ từ, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”.
Hình ảnh “dựng cần trúc làm cờ” nói lên tích chết cuộc khởi nghĩa của nhân dân, đừng lên vì nghĩa lớn. Hình ảnh “hoà nước sông chén rượu ngọt ngào” thể hiện tinh thần đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi.
Đồng thời Lê Lợi đã có 1 chiến lược, chiến thuật hết sức đúng đắn:
“Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”.
Đoạn 2 của phần bài kể về cuộc phản công thắng lời. Đây là đoạn hào hứng, sảng khoái của bài cáo: những thắng lợi liên tiếp, giòn giã, được kể ra với một giọng hả hê, tự hào. ở đây tiếp tục xuất hiện hình tượng người lãnh tụ thao lược, hình tượng uy lực của nghĩa quân, nhưng nổi bật nhất là hình ảnh thất bại nhục nhã của quân giặc.
Tác giả không giản đơn kể lại bản tin chiến sự hay bản tổng kết chiến thắng mà còn đem lại niềm tự hào về sức mạnh chính nghĩa:
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay”
Lê Lợi “thay trời hành đạo”, tự cảm nhận được uy lực của nghĩa quân mạnh như uy trời, không một sức mạnh nào chống đỡ được:
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn
Đánh 1 trận, sạch không kinh ngạc
Đánh 2 trận, tan tác chim muông
Cơn gió trút sạch lá khô
tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”
các hình ảnh “đá núi mòn”, “nước sông cạn”, “sạch không kinh ngạc”, “tan tác chim muông”, “trút sạch lá khô”, “sụt toang đê vỡ” gọi lên 1 sức công phá mạnh mẽ, phi thường của nghĩa quân và sự sụp đổ không cách gì chống đỡ được của quân giặc. Đó là những ẩn dụ thể hiện quy mô vũ trụ, khổng lồ của sức mạnh chính nghĩa.
Cùng với các hình thức khổng lồ, hùng vĩ và hình tượng về nhịp độ chiến thắng mau lẹ như trúc chẻ ngói tan khiến địch trở tay không kịp, cách vài ngày một chiến thắng, cách vài ngày giết một tướng giặc.
Hình ảnh thất bại của quân giặc thể hiện rõ rệt nhất cho sức mạnh của quân ta. Những kẻ sống thì kinh hồn bạt vía:
“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía
Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”
“đô Đốc Thôi Tụ lê gối dâng sở tạ tội
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng”
Kẻ chết thì sông máu núi thây:
“Ninh kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ Động thây chết đầy nội, nhơ để ngàn năm...”
“suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá thây chất thành núi, có nội đầm đìa máu đen...”
Ở đây, sự thất bại của quân giặc cũng mang tầm cỡ vũ trụ. “vạn dặm”, “nghìn năm”, “núi”, “sông”, “có nội”.
Hình ảnh Lê Lợi điều binh khiển tướng khẩn trương, sáng suốt, chủ động, mau lẹ, túc trí đa mưu.
Trái với kẻ thù đã “trí cùng lực kiệt”, Lê Lợi phát huy chiến thuật “mưu phạt, tâm công”. “chẳng đánh mà người chịu khuất, ta nay mưu phạt, tâm công”. Cả câu này không chỉ nói chiến thuật mà còn nói về chiến lược: Lê Lợi không muốn dùng vũ lực để đánh, mà muốn “phạt mưu, tâm công” trước. nhưng quân giặc thất bại cũng không biết hối cải, còn bày thêm mưu kế, chuốc tội gây oan, cho nên Lê Lợi mới đánh đuổi đến cùng. Đến đây, Lê Lợi bộc lộ một thiên tài quân sự lỗi lạc:
“Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại
Tuyển binh tiến đánh. Đông Đô đất cũ thu về”
“Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Ta sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực”.
Ta đánh thắng nhưng không hiếu sát, không hiếu chiến, mà rộng lòng hiếu sinh, yêu hoà bình, lập kế lâu dài.
“Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
.....................
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
Quân giặc tha về vẫn còn kinh hồn, bạt vía, tạo thành âm vang lâu dài của chiến thắng vĩ đại.
Tóm lại, tác giả không chỉ thuật lại chiến thắng, mà chủ yếu khắc hoạ uy vũ của chiến thắng, tầm vóc của chiến thắng, ảnh hưởng lâu dài của chiến thắng và nhất là vẻ đẹp của nhân nghĩa, trí dũng của người chiến thắng, những đặc điểm này đem lại màu sắc anh hùng ca cho bài cáo.
Phần cuối cùng bày tỏ niềm tin vào nền hoà bình lâu dài của đất nước, cảm ơn trời đất, tổ tiên phù hộ.
Bài “bình ngô đại cáo” không chỉ hay vì phản ánh chiến thắng oanh liệt, thể hiện tầm vóc lớn lao của tư tưởng nhân nghĩa, mà còn hay vì ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu. trong bài văn này, các cặp đối tề chỉnh, nhịp văn tứ lục đã phát huy tác dụng thẩm mĩ cao độ trong việc xây dựng những hình tượng kì vĩ mang tính chất sử thi, thấm nhuần những tình cảm lớn của dân tộc. Bình Ngô đại cáo quả là một thiên anh hùng ca bằng văn biền ngẫu.
Nghị Luận tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo hay nhất 5
Cáo là một thể loại văn khá đặc biệt trong thời xa xưa. Nhà vua thường dùng “Cáo” để bổ nhiệm, phong tặng, tuyên bố… hay nói chung là công bố những sự kiện trọng đại liên quan đến quốc gia để cho toàn thiên hạ biết. Và trong tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” tác giả đã mượn thể văn chương này nói lên niềm tự hào dân tộc, niềm vui chiến thắng và sự đau xót trước nỗi đau mất nước.
“Đại cáo” chính là một sự công bố điều lớn lao, “Bình” là đánh dẹp kẻ thù, “Ngô” là tên nước cũ thời Tam Quốc. “Bình Ngô Đại Cáo” với ý nghĩa là sự tuyên bố về việc đánh tan giặc Ngô. Hôm nay chúng ta hãy cùng nhau Nghị Luận “Bình Ngô Đại Cáo” một tác phẩm của Nguyễn Trãi. Một tác phẩm quý giá mà Nguyễn Trãi đã để lại cho kho tàng văn chương Việt Nam.
Mặc dù là một thể văn có tính quan phương, không phải bài cáo nào cũng có giá trị văn học. Thế nhưng bài “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi thực sự là một thiên anh hùng ca. Mở đầu bài cáo là một sự tuyên bố về lập trường chính nghĩa.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Ý nghĩa ở hai câu này đó là phải làm cho nhân dân được sống yên ổn mới là việc nhân nghĩa. Nhưng muốn dân được yên thì trước tiên phải lo diệt quân cường bạo. Và đây cũng chính là tư tưởng xuyên suốt của lịch sử Việt Nam. Nguyễn Trãi như đang muốn nhắc lại truyền thống “yên dân trừ bạo” của các triều đại Việt Nam ta, triều đại nào cũng đi theo tư tưởng đó.
Mở đầu bài cáo không chỉ là sự thể hiện tư tưởng nhân nghĩa trừ bạo làm yên dân mà còn là một sự tuyên bố của một quốc gia chủ quyền. Và chúng ta luôn ở trạng thái sẵn sàng để bảo vệ có chủ quyền đó như là một truyền thống dân tộc đã thấm nhuần trong tư tưởng.
Tiếp đó tác giả Nguyễn Trãi nói lên tội ác của quân xâm lược. Chúng đã khiến cho dân ta lao đao khốn khó, một cuộc sống cơ cực dưới ách thống trị của giặc Minh. Tác giả đã vận dụng 12 cặp đối trong câu văn để tố cáo tội ác quân thù, làm nổi bật lên hình ảnh khổ nhục của dân ta.
“Nướng dân đen trên ngọn lừa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Nặng thuế khoá sạch ko đầm núi
Vét sản vật, bắt dò chim sá, chốn chốn lưới chăng
Nhìu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cặm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ
Tan tác cả nghề canh cửi…
Người bị ép xuống biển, dòng lưng mò ngọic, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi, đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Nặng nề những nỗi phu phen
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng
Trúc Nam Sơn ko ghi hết tội nước Đông Hải ko rửa hết mùi”.
“Dân đen”, “con đỏ” là những hình ảnh mang tính ước lệ ám chỉ những người dân nghèo hèn vô tội. Họ đang bị những kẻ ác thú đày đọa, đối xử không như con người. Chúng dối trời, lừa dân, vùi dập nhân dân ta trong bao nhiêu năm trời. Một sự hủy diệt đến tàn bạo khiến trời đất tan nát. Người bị ép xuống biển mò ngọc trai với bao nguy hiểm rình rập cá mập thuồng luồng. Người thì bị ép vào núi đãi cát tìm vàng sống trong rừng sâu nước độc.
Người chết, người sống thì ngàn cân treo sợi tóc khổ cho vợ con góa bụa ở nhà cũng đang sống trong cảnh khốn cùng. Tội ác của kẻ thù không thể nào ghi hết ra được, và cũng không thể nào rửa sạch được những tội ác đó. Chúng đã thực sự không còn là con người, cũng không còn là con thú, mà là những kẻ vô nhân tính. Và tội ác đó trời không dung đất không tha
“Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được”
Phần thứ ba của bài cáo là một sự công bố về quá trình dấy binh chống lại kẻ thù và thể hiện niềm vui chiến thắng. Đây cũng là phần văn chương của tác phẩm khiến người đọc cũng phải thực sự hả hê và sảng khoái. Đoạn một của phần ba gồm 15 cặp đối nói về sứ mệnh của Lê Lợi trong thời kỳ đầu dựng nghiệp khó khăn. Nguyễn Trãi đã xây dựng nên hình tượng anh hùng dân tộc với tâm huyết đánh tan kẻ thù, bảo vệ chủ quyền với ý chí, tài trí hơn người. Như một lời giới thiệu hiên ngang, dõng dạc:
“Ta đây
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình”
Một sự hiên ngang của một nhân vật lớn đang nuôi ý chí dấy cờ khởi nghĩa. Và điểm xuất phát cho chiến dịch đó là tại ngọn Núi Lam Sơn. Nơi chốn hoang dã chính là một chốn nương mình để thực hiện hoài bão của mình. Một sự ý thức về sứ mệnh, thấm nhuần sự đau xót nỗi đau trăm họ luôn canh cánh bên mình trong suốt hai mươi năm trời.
“Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề ko cùng sống
Đau lòng nhức óc, chóc đã mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải 1 2 sớm tối”
Quên ăn, quên ngủ, cả trong mộng cũng lo việc lấy lại nước nhà
những trần trọc trong cơn mọng mị
chỉ băn khoăn 1 nỗi đồ hồi”
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.”
Căm thù quân giặc cướp nước, thề không đội trời chung. Nuôi ý chí hoài bão lớn, chấp nhận việc sống một cuộc sống nếm mặt nằm gai, ngày đêm thao thức canh cánh trong lòng. Ngay cả trong mộng mị cũng chỉ có một sự băn khoăn đó là làm sao đánh tan kẻ thù lấy lại nước nhà. Những câu văn thể hiện một ý chí nung nấu, quyết chiến đấu vì đại nghĩa.
“Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.”
Thời kỳ đầu của cuộc khởi nghĩa mặc dù sĩ khí và tinh thần quyết tâm lên cao. Nhưng thực sự đúng giai đoạn khó khăn khi mà kẻ thì đang mạnh. Quân ta còn đang ít người, tướng tài còn thiếu chẳng khác nào như “sao buổi sớm” “như lá mùa thu”. Những lúc bị vây hãm lương thực gần như cạn kiệt, quân sĩ chẳng còn mấy người…
Thế như đó chính là những thử thách, và chính nhờ ý chí, vững khí, lòng quyết tâm, sự quật cường, sự đoàn kết. Chúng ta đã xây dựng được một lực lượng vững mạnh tuy có ít hơn kẻ thù nhưng sẵn sàng lấy ít địch nhiều. Lấy yếu chống mạnh với những chiến thuật đúng đắn.
Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn. Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng ; quân ta chiến thắng nhanh chóng.
Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:
“Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.”
Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lục sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng. Do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tựợng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
“Ninh Kiều máu chày thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng củng đành bỏ mạng.”
Cuộc chiến đã đến giai đoạn cuối cùng. Nguyễn Trãi đã miêu tả chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang như một bản anh hùng ca vang dội nhất của một cuộc kháng chiến trường kỳ.
“Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.”
Mặc văn dồn dập, thể hiện những chiến thắng dồn dập. Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi mọi thứ như đang bắt đầu tăng tốc. Như một sự thần tốc với những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân.
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.”
Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:
Sĩ tốt kén tay hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Hình ảnh quân ta lúc này hiện lên với lực lượng đông đảo, ý chí mạnh mẽ kiên cường, tầm vóc lồng lộng nơi vũ trụ. Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng, khí thế ngập đất trời bởi trái tim luôn tràn trề tình yêu nước. Bởi thế nên quân ta mới đánh bại quân giặc. Lúc này, quân giặc hiện lên trong thật đáng thương, thảm hại:
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,
Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Sĩ khí dâng cao, chiến thắng dồn dập, quân địch tan hoang. Những kẻ tham sống sợ chết hèn hạ, nhục nhã bị cầm tù phải xin tha mạng. Quân ta cũng chẳng cần phải giết hại những kẻ đó, mở cho chúng một con đường sống. Chúng trở về mà hồn vẫn bay phách lạc, tim đập chân run. Thật là thảm hại!.
Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Nếu kẻ thù đã xin tha, đã có sự hòa hiếu thì ta cũng không thể cạn tình. Nguyễn Trãi đề cao sự nhân nghĩa, sinh mạng con người ở đây, mặc dù những kẻ đó là kẻ địch. Nhưng chúng ta đã chiến thắng. Chúng ta cũng không cần phải đuổi cùng giết tận, tha cho chúng về nước. Để tập trung việc lo cho binh sĩ, lo cho nhân dân nghỉ sức. Nguyễn Trãi thực sự đã thể hiện một sự nhân nghĩa, sự thanh cao đến tuyệt vời.
Bài cáo kết thúc với những câu văn chuyển sang trạng thái khoan thai, trang trọng, vui tươi.
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.”
Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông thiêng liêng đã đồng lòng giúp đỡ. Từ đây dân tộc bước vào một thời đại mới. Độc lập, tự do và sự yên bình lại trở về trên mỗi miền quê. Đoạn văn dựa vào những quy luật tất yếu của tự nhiên mà khái quát thành những điều tất yếu trong xã hội.
Xã hội phải đối diện với “những sự đổi thay” nhưng cũng như càn khôn “bĩ rồi lại thái”, như nhật nguyệt “hối rồi lại minh”. Và dường như cũng chỉ có như vậy ta mới thấu hết được cái ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian lao, và mới hiểu thế nào là “muôn thuở nền thái bình vững chắc”. Đất nước đã thanh bình, hình ảnh đất nước trong tương lai vững vàng và tươi sáng:. “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”.
“Bình Ngô Đại Cáo” là một áng văn chương hùng tráng, với hơi văn cuồn cuộn.
Nó như một nhát chém vào quân thù xâm lược. Và thể hiện một ý chí quyết chiến quyết thắng của dân tộc ta. Mặc dù gian khổ, nguy hiểm luôn rình rập, nhưng với sự quyết tâm và đoàn kết. Với chiến lược đúng đắn quân ta đã đánh tan kẻ thù, khiến cho chúng phải khiếp sợ.
Áng văn chương đã thể hiện một sự bừng bừng. Một cảm xúc hào sảng trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận giòn giã. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Tác phẩm thể hiện rõ ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền của dân tộc ta, thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc với ý chí chiến đấu chống lại bất cứ kẻ thù xâm lược nào.
Nghị Luận tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo 6
Bình Ngô đại cáo là bài cáo của Nguyễn Trãi viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt.
Về mặt văn chương, tác phẩm được người đương thời, ngay cả hậu thế, đều rất thán phục và coi là thiên cổ hùng văn. Có nhiều ý kiến cho rằng: đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của Việt Nam (sau bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt và trước bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 của Hồ Chí Minh).
Tác giả bài Đại Cáo này là khai quốc công thần của nhà Hậu Lê, Nguyễn Trãi. Ông tuy không tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu, nhưng cũng theo phò Bình định Vương Lê Lợi từ khi nghĩa quân Lam Sơn còn ở thế yếu trước sự đàn áp của quân Minh, đã vạch ra nhiều kế sách giúp cho nghĩa quân Lam Sơn thu phục nhân tâm và giành được ưu thế trên chiến trường. Tương truyền, ông là người nghĩ ra kế sách viết dòng chữ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” (Lê Lợi làm vua, Nguyễn Trãi làm tôi thần) trên lá cây, tạo ra như một điềm trời, khẳng định về yếu tố "thiên mệnh" cho Lê Lợi, làm lòng người nhanh chóng hướng về nghĩa quân Lam Sơn.
Sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã phong thưởng cho Nguyễn Trãi là bậc cao trọng nhất bên văn quan, ông được ban quốc tính (tức được mang họ vua, họ Lê), tước Hầu (Quan Phục Hầu) chỉ kém tước Công một bậc. Trên thực tế ông vừa là cố vấn, vừa là quân sư, nhà chính trị, tài kiêm văn võ rất thân với vua.
Nghị Luận tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo 7
Bình Ngô đại cáo (BNĐC) là tác phẩm văn học chức năng hành chính quan trọng không chỉ đối với lịch sử dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển văn học sử Việt Nam. Trong tác phẩm này, tác giả đã kết hợp một cách uyển chuyển giữa tính chân xác lịch sử với chất sử thi anh hùng ca qua lối văn biền ngẫu mẫu mực của một ngọn bút tài hoa uyên thâm Hán học. Chính vì thế, Bình Ngô đại cáo đã sớm trở thành tác phẩm cổ điển đi vào sách giáo khoa từ trung học cơ sở đến trung học phổ thông và được giảng dạy ở tất cả các trường cao đẳng, đại học ngành Khoa học xã hội - nhân văn. Với vị trí như vậy, BNĐC cần được nghiên cứu một cách thấu đáo từ văn bản, dịch bản đến chú giải. Mặc dù suốt thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu đã đổ khá nhiều công sức vào việc nghiên cứu BNĐC, nhưng tới nay, không phải chẳng còn gì để bàn. Trong hai bài trước (1), chúng tôi đã giải quyết ba vấn đề:
1. Bài Bình Ngô đại cáo trong Bản kỉ thực lục sách Đại Việt sử kí toàn thư là văn bản có độ tin cậy nhất. Tại văn bản này, không có câu “Đại Thiên Hành Hóa hoàng thượng nhược vân”. Câu “Đại Thiên... nhược vân” là lời mào đầu của viên hoạn quan, nói trước khi truyền chỉ.
Bốn chữ “Đại Thiên Hành Hóa” là hiệu của Lê Lợi do các tướng sĩ tôn xưng ngài sau chiến thắng Tân Bình - Thuận Hóa năm At Tị 1425. theo Toàn thư, tôn hiệu trên được dùng cho tới tháng 12 năm Đinh Mùi 1427 khi quân ta đại thắng giặc Minh. Sau đấy, Lê Lợi lên ngôi, không dùng tôn hiệu đó nữa, mà thay bằng niên hiệu Thuận Thiên.
3. Bản mà lâu nay các sách như Tổng tập văn học Việt Nam, Tuyển tập văn học Việt Nam, SGK Văn học 9, Văn học 10... vẫn ghi là Bùi Kỷ dịch, thực ra không phải. Đấy là bản Trần Trọng Kim dịch, in trong Việt Nam sử lược từ năm 1919. Nguyên nhân có sự nhầm lẫn này là, Dương Quảng Hàm hiểu lầm ghi chú của Bùi Kỷ in trong Quốc văn cụ thể năm 1932.
Trên cơ sở hai bài viết trước, ở bài này chúng tôi sẽ đề cập tới vấn đề khác: một số chữ nghĩa trong BNĐC. về chữ nghĩa bài BNĐC quả là còn nhiều việc phải làm. Trong khuôn khổ một bài viết, chúng tôi chỉ đề cập tới cách hiểu nhan đề bài cảo và cụm từ máu chảy trôi chày. Nhưng chữ còn lại, xin để dịp khác.
Cách hiểu nhan đề Bình Ngô đại cáo.
BNĐC là tác phẩm văn học chức năng hành chính. Một quy tắc tuy không thành văn nhưng người cầm bút nào cũng phải tuân thủ là, ngay trong nhan đề phải ghi rõ loại hình thể loại của chúng. Nguyên tắc này dường như bất di bất dịch đối với tất cả tác phẩm văn học chức năng (hành chính và lễ nghi). Ta có thể lấy một số tên tác phẩm văn học chức năng hành chính Việt Nam thế kỉ X - XIV làm ví dụ. Chẳng hạn các tác phẩm Thiên đô chiếu của Lí Công uẩn, Dụ chư tì tướng hích văn của Trần Quốc Tuấn, Thất trảm sớ của Chu Văn An... Những chữ đứng cuối tác phẩm đã chỉ cho người đọc biết thể loại của chúng, như: “chiếu”, “hịch văn” “sớ”... Nhan đề bài BNĐC cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Cho nên, hai chữ “đại cáo” sẽ là thể loại tác phẩm của Nguyễn Trãi.
Vậy “đại cáo” là gì?
Các nhà biên soạn SGK hiện hành có hai cách giải thích khác nhau. Soạn giả Văn học 10 cho rằng, BNĐC “dịch cho sát nghĩa là: tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên giặc Ngô”; rồi bổ sung thêm: “bài này viết theo thể cáo”. Cách giải thích trên cho thấy, “đại cáo” là một cụm từ, trong đó “đại” là “rộng rãi”, còn “cáo” là “tuyên cáo” - nó vừa là động từ, vừa là danh từ chỉ thể loại tác phẩm. Soạn giả Văn học 9 thì giải thích khác: “Bỉnh Ngô đại cáo” là bài cáo có quy mô lớn, nói việc dẹp yên giặc Ngô” . Như vậy, “đại cáo” vẫn là một cụm từ, ở đó, “cáo” là danh từ chỉ thể loại, “đại” phản ánh “quy mô” tác phẩm: lớn.
Thế thì, “đại cáo” trong BNĐC thực chất là cụm từ hay một từ? Nếu là cụm từ, chúng thuộc cụm danh từ hay cụm động từ? Và, “đại” dùng để nói về tính phổ biến “rộng rãi” hay “quy mô” tác phẩm?
Trong Hán ngữ có hai chữ “cáo”: một chữ không bộ ngôn một chữ có bộ ngôn.
Chữ “cáo” không bộ ngôn dùng cho kẻ dưới trình lên bề trên và thường làm động từ; chữ “cáo” có bộ ngôn dùng để bề trên ban xuống kẻ dưới và thường làm danh từ. Tuy nhiên, không phải lúc nào người viết cũng phân biệt rạch ròi như vậy, trừ những văn bản văn học chức năng hành chính hoặc lễ nghi. Hơn nữa, cả hai chữ “cáo” nói trên đều có thế’ đứng sau chữ “đại” để thành “đại cáo”. Chẳng hạn, thiên Vũ Thành trong Kinh Thư có đoạn: “Việt Nam nhật Canh Tuất, Sài Vọng, đại cáo vũ thành” - “sau ba ngày là ngày Canh Tuất, làm lễ Sài, lễ Vọng, kính cáo (đại cáo) việc võ đã thành công”. Hai chữ “đại cáo” ở câu trên, Thẩm Quỳnh dịch là “kính cáo”, còn Nhượng Tống dịch là “cả tâu”. Trong trường hợp này hai ông đều hiểu “cáo” là động từ, “đại” làm trạng ngữ.
Chữ “cáo” có bộ ngôn thường dùng để chỉ thể loại văn học, khi kết hợp với “đại” sẽ thành “đại cáo”. Nguyễn Trãi dùng hai chữ đại cáo này để chỉ thể loại tác phẩm của mình. Các sách Toàn thư, Hoàng Việt văn tuyển... đều xác nhận như vậy và ghi: Bình Ngô đại cảo.
Vậy “đại cáo” là thể loại gì và ý nghĩa của nó như thế nào? Hán ngữ đại từ điển giải thích: “đại cáo” là tên một thiên trong sách Thượng Thư. Lời tựa thiên Đại cáo có đoạn: “Vũ Vương mất, Tam Giám cùng Hoài Di làm phản. Chu Công giúp Thành Vương trừ bỏ nhà An, viết Đại cáo”. Khổng truyện viết rằng, “Trình bày “đại” đạo để “cáo” với thiên hạ (trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ), nên lấy làm tên thiên”, sau dùng để phiếm xưng những bài văn có tính chất điển cảo. Như vậy ban đầu “đại cáo” do hai chữ mang ý nghĩa quan trọng nhất trong mệnh “trần “đại” đạo dĩ “cáo” thiên hạ” ghép lại, dùng để gọi tên một thiên trong Kinh Thư, rồi thành từ cố định chỉ loại đặc biệt của thể cáo.
Đấy là nghĩa thứ nhất gắn với thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.
“Đại cáo” còn có nghĩa thứ hai gắn với đương đại thời Minh. Nghĩa này cũng không kém phần quan trọng: “Văn kiện pháp luật ban bố năm Hồng Vũ thứ 18 thời Minh” gọi là Đại cáo. Hồng Vũ là niên hiệu Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương - người khai sáng ra nhà Minh, làm hoàng đế Trung Hoa những năm 1368 - 1398.
Dựa vào hai nghĩa mà Hán ngữ đại từ điển đã nêu ra, chúng ta hãy xem, Nguyễn Trãi dùng hai chữ “đại cáo” đặt trong nhan đề tác phẩm của mình nhằm mục đích gì và có ý nghĩa như thế nào?
Thứ nhất, chiến thắng giặc Minh là sự kiện quan trọng, là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó không chỉ đánh dấu sự thất bại thảm hại của các thế lực hung làn và cường bạo, mà còn khẳng định sự tất thắng của một dân tộc biết lấy đại nghĩa và chí nhân làm nền tảng tư tưởng. Vì thế, Nguyễn Trãi muốn nhân dịp này, bày tỏ để nhân loại thấy cái “đại đạo” - đạo lí lớn nhất của Việt Nam là, “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, đúng như lời ghi trong Khổng truyện. “trần đại đạo dĩ cáo thiên hạ”. Đây vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bài BNĐC của Nguyễn Trãi, vừa là mục đích mà thiên Đại cảo ở sách Thượng Thư một trong năm bộ “kinh” (Ngũ Kinh) của Trung Hoa cổ đại hằng dương cao. Xa rời mục đích ấy, ta không thể hiểu thấu đáo tư tưởng chủ đạo bài cáo của Nguyên Trãi. Khi đi đánh Vũ Canh, Chu Thành Vương truyền Đại cáo\ bình xong giặc Ngô, Lê Lợi cũng tuyên Đại cáo. Tác giả muốn sánh Lê Lợi với Chu Thành Vương, quân sư của Lê Lợi với Chu Công Đán và muốn bài Cáo binh Ngô của thời đại ông mang ý nghĩa ngang tầm với thiên Đại cáo đánh Vũ Canh thời Tây Chu của Trung Hoa cổ đại.
Vì sao Chu Thành Vương phải đánh Vũ Canh? Bởi, y là tên phản chủ, kẻ phản phúc! Sách Kinh Thư kể rằng, sau khi diệt xong Thương Vương Trụ tàn bạo, Chu Vũ Vương - cha của Chu Thành Vương vẫn thương tình, phong cho con trai Trụ Vương là Vũ Canh làm vua nước An. Khi Vũ Vương qua đời, con nối ngôi là Chu Thành Vương còn nhỏ. Trước hoàn cảnh đó, Tam Giám gồm Quản Thúc, Thái Thúc và Hoắc Thúc nổi loạn. Vũ Canh bèn liên kết với các tộc Di ỏ' phía đông, hùa theo Tam Giám, đem quân đánh Thành Vương, phản lại nhà Chu. Cuộc bình Ngô của Lê Lợi cũng mang ý nghĩa như việc Thành Vương diệt Vũ Canh. Đấy là ý thứ nhất của hai chữ “đại cáo” mà Nguyễn Trãi dùng cho bài bình Ngô ở thời đại ông.
Thứ hai, Nguyễn Trãi viết bài Cáo bình Ngô khoảng cuối năm 1427 đầu 1428, sau văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố năm Hồng Vũ 18 (1365) tới hơn 40 năm. Điều đó cho thấy, khi viết bài cáo, Nguyễn Trãi hoàn toàn biết có sự kiện Chu Nguyên Chương ban bố Đại cáo. Minh sử ghi: “Minh Thái Tổ đã định xong “luật lệnh”, các quan Hữu ti tuân thủ thi hành. Nhưng những kẻ phạm pháp ngày càng nhiều, bèn lệnh cho thu thập các sai phạm của quan và dân, chia ra từng điều, làm thành Đại cáo, gồm 10 mục. Tháng 10 năm Hồng Vũ thứ 18, Đại cáo hoàn thành, gồm 74 điều. Lệnh ban xuống cho các trường học phải đem ra để dạy sĩ tử; còn ở làng quê thì đặt các trường tư, thuê thầy dạy”. Không những vậy, Chu Nguyên Chương còn khuyến khích mọi người đọc, học Đại cáo bằng lệnh: “Những ai đang bị tù đày mà đọc được Đại cảo thì sẽ giảm tội”. Năm sau - 1386, Chu Nguyên Chương lại ban Đại cáo tục biên, gồm 87 điều, Đại cáo tam biên 43 điều. Như vậy là, trong hai năm liền, Minh Thái Tổ đã liên tiếp ba lần ban Đại cáo, tổng cộng 204 điều. Tiếp theo, năm sau - Hồng Vũ thứ 20 (1387), Minh Thái Tổ lại ban Đại cáo vũ tliần. Xem thế đủ biết, “Đại cáo” chính biên, tục biên, tam biên và vũ thần của ông Thái Tổ nhà Minh cực kì quan trọng thật! Ông bắt tất cả mọi người, từ thành thị tới nông thôn, từ quan đến dân, từ văn đến võ, từ sĩ tử tới “phó thường dân”..., ai ai cũng phải đọc, phải học, phải thấm nhuần và quán triệt tinh thần của Đại cáo. Lớp học Đại cáo mở tới tận làng quê, thậm chí, biết đọc Đại cảo là tiêu chuẩn xét giảm án và ân xá cho các phạm nhân. Thế mà, nay Nguyễn Trãi gọi bài “bình Ngô” do mình soạn thảo là “Đại cáo”! Rõ ràng, Nguyễn Trãi muốn người đọc thấy rằng, bài cáo mà mình thay mặt dân tộc viết ra, chính là một văn kiện mang tính pháp luật, có ý nghĩa trọng đại, ngang với văn kiện pháp luật mà Minh Thái Tổ ban bố ròng rã suốt ba năm: Hồng Vũ 18, Hồng Vũ 19, Hồng Vũ 20. Đặt pháp luật Đại cáo để thống nhất đất nước, để cai trị nhân dân, để diệt trừ tội ác... Lẽ ra, văn kiện pháp luật Đại cảo của người sáng lập nhà Minh phải tượng trưng cho uy quyền và là công cụ bảo vệ nhà Minh. Nhưng, ở Việt Nam, ngược lại, nó dùng để “bình Ngô”!
Ngô là ai? Dụng ý của Nguyễn Trãi khi dùng hai chữ “bình Ngô”?
Không nên hiểu “Ngô” theo hai cách thư soạn giả Văn học 10 đã nêu ra. Ngô là nước Ngô, người Ngô, giặc Ngô! Vâng! Nhưng nguồn gốc khái niệm “Ngô” từ đâu ra?
Chu Nguyên Chương gốc người Hào Châu mà, Hào Châu xưa, thuộc đất Ngô. Vì thế, “Ngô” chính là quê cha đất tổ của người sáng lập ra nhà Đại Minh: Thái Tổ Chu Nguyên Chương! Hơn nữa, khi sự nghiệp đang trên đà thắng lợi (chiếm xong lộ Tập Khánh), năm 1356, Chu Nguyên Chương xưng Ngô Quốc công, ý muốn nhắc tới nguồn gốc của mình: người đất Ngô. Tám năm sau, khi sự nghiệp sắp thành công, ông cải xưng là Ngô Vương, ý muốn hồi cố và ước mơ sự nghiệp của mình sánh với nước Ngô thời cực thịnh dưới quyền Ngô Vương Hạp Lư đánh tan nước Sở hung mạnh, truyền ngôi cho con là Ngô Vương Phù Sai; Phù Sai lại diệt nước Việt, cầm tù Việt Vương Câu Tiễn..
Bởi vậy, Ngô ở đây vừa là tước hiệu của Minh Thái Tổ khi chưa lên ngôi: Ngô Quốc công, Ngô Vương; vừa là nguồn gốc, quê cha đất tổ của người khai sáng ra nhà Đại Minh: Chu Nguyên Chương. “Bình Ngô” là “bình” tận gốc gác nòi giống họ Chu - Thái Tổ nhà Minh. Ba đời Vua Minh xâm lược nước ta là Thành Tổ Chu Đệ, Nhân Tông Chu Cao Xí, Tuyên Tông Chu Chiêm Cơ Tuyên Đức. Nếu kể từ Thái Tổ Chu Nguyên Chương, Tuyên Đức là đời vua Minh thứ năm. “Bình Ngô” là “bình” tận ông thượng tổ năm đời của “đứa trẻ ranh” Tuyên Đức. Hai chữ “Đại cáo” nói riêng, nhan đề BNĐC nói chung, mang ý nghĩa thâm thúy và sâu sắc như vậy. Nắm được ý nghĩa nhan đề BNĐC là nắm được tư tưởng cốt lõi của tác phẩm.