Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo hay nhất (32 mẫu)

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 1 

Nguyễn Trãi danh nhân văn hóa thế giới, ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Bình Ngô đại cáo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Trãi. Tác phẩm là bản tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh đầy gian lao mà cũng vô cùng hào hùng của dân tộc.

   Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hoà, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỉ nguyên hoà bình lâu dài cho dân tộc. Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là một bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại để báo cáo rộng rãi cho toàn dân được biết. 

   Với nghệ thuật chính luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, đồng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Toàn bộ nội dung Đại cáo bình Ngô được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lí về chủ quyền độc lập của nước Đại Việt.

   Có một chi tiết xưa nay ít ai để ý nhưng thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là tại sao Nguyễn Trãi lại gọi quân xâm lược nhà Minh là giặc Ngô và viết Đại cáo bình Ngô? Từ Ngô xuất hiện từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc xâm chiếm và cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau đó, từ Ngô nhập vào vốn ngôn ngữ dân gian của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm, nó được dùng để chỉ quân giặc phương Bắc nói chung với thái độ khinh bỉ. Như vậy là Nguyễn Trãi đã cố ý dùng cách gọi mà nhân dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phẫn và coi thường của mình.

   Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng là tư tưởng thân dân mà ông rất coi trọng:

              Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

              Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

   Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng bằng tình thương yêu và đạo lí. Điều đáng nói hơn nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân nghĩa một nội dung mới rút ra từ thực tiễn của lịch sử dân tộc. Theo ông, yên dân trước hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hoà bình.

   Trong bài văn này cũng như trong các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, không chỉ là dân đen, con đỏ chung chung mà đã cụ thể ra là manh, lệ (kẻ đi cày, người đi ở), là dân mọn nơi xóm làng, là nhân dân lao động ở khắp bốn phương đất nước. Giặc giày xéo đất nước đồng nghĩa với giày xéo nhân dân. Lo nước tức lo dân, thương nước tức thương dân, cứu nước tức cứu dân. Nước và dân là một.

   Nhân nghĩa không còn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã là một lí tưởng xã hội, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bản) làm chỗ dựa. Vì thế phải chăm lo cho dân chúng được no ấm, bình yên.

   Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch và phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa.

   Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, cho nên sự tồn tại có chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt cũng là một chân lí khách quan.

   Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lòng tự hào, tự tôn về đất nước có một nền văn hiến lâu đời:

             Như nước Đại Việt ta từ trước,

             Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

             Núi sông bờ cõi đã chia,

             Phong tục Bắc Nam cũng khác.

             Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,

             Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

             Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

             So hào hào kiệt đời nào cũng có

   Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư - Thơ Thần), từ lâu đời đã song song tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm cùng với hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia có chủ quyền độc lập, tự do.

   So với bài Thơ Thần của Lí Thường Kiệt thì Đại cáo binh Ngô thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm về quốc gia và dân tộc. Lí Thường Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh chủ quyền dân tộc ở lãnh thổ riêng biệt, ở ý chí độc lập thể hiện trong việc xưng đế, trong sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao khái niệm đó lên rất nhiều. Các vua Nam cũng xưng đế chẳng khác gì các đời vua của Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương, hoàn toàn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng nói đến bờ cõi riêng biệt, nhưng không viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn hiến, tức nói đến nền văn hoá của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc với đầy đủ tư cách độc lập. Như vậy, chủ quyền của quốc gia Đại Việt là một chân lí tất nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nổi. Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính những chứng cứ còn ghi trong lịch sử:

               Vậy nên:

               Lưu Cung tham công nên thất bại,

               Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

               Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

               Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

               Việc xưa xem xét,

               Chứng cớ còn ghi.

   Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh ý: Những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đồng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về phía những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này thật hùng hồn và sắc sảo.

   Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những chi tiết cụ thể và nhận định khái quát, tác giả đã vẽ ra thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Cả đất nước chỗ nào thịt da cũng như rướm máu, chỗ nào cũng vang lên tiếng thét căm giận, oán than. Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép kết tội bọn bán nước và quân cướp nước.

   Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối cùng là tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh:

                Vừa rồi:

                Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

                Để trong nước lòng dân oán giận.

                Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,

                Bọn gian tà bán nước cầu vinh.

   Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu cướp nước Đại Việt của giặc Minh đã có từ lầu, đồng thời vạch trần luận điệu bịp bợm "phù Trần diệt Hồ”, để “mượn gió bẻ măng” của chúng. Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân, đúng hơn chỉ là một cái cớ để giặc Minh thừa cơ gây hoạ. Những từ như nhân (nhân dịp), thừa cơ đã góp phần phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của chúng. Điều đáng lưu ý là khi vạch rõ âm mưu xâm lược của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường dân tộc, nhưng khi tố cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân nghĩa:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

   Ông đã tố cáo tội ác của chúng bằng hai hình ảnh rất ấn tượng: nướng dân đen, vùi con đỏ, vừa diễn tả một cách rất cụ thể tội ác man rợ kiểu trung cổ của lũ giặc, vừa mang tính khái quát như khắc vào bia căm thù để muôn đời người dân nước Việt nguyền rủa quân xâm lược bạo tàn.

   Ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi không đi sâu vào việc tố cáo chủ trương đồng hoá thâm độc mà tố cáo những chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không chỉ vơ vét hết các sản vật quý báu mà còn bóc lột sức người, sức của bằng thuế má, phu phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại cả môi trường sống, tàn sát dân chúng vô tội không biết ghê tay. Người dân nước Nam sống trong tình cảnh bi đát đến cùng cực. Cái chết đợi họ trên rừng, dưới biển, đúng như lời bài cáo đã nêu:

              Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

              Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

              Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

              Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

              Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

              Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

              Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,

              Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

              Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

              Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

   Đối lập với thảm cảnh của người dân vô tội là hình ảnh kẻ thù xâm lược hung hãn, man rợ: Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Câu văn đã khắc hoạ bộ mặt quỷ sứ khát máu của quân xâm lược.

   Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc và khối căm hờn sôi sục của nhân dân ta, Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:

                Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

                Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

   Tác giả đã lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để so sánh với cái vô hạn (tội ác của giặc), dùng cái vô cùng (nước Đông Hải) để nói cái vô cùng (sự dơ bẩn của kẻ thù). Câu văn đầy hình tượng ấy đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc tội ác của giặc Minh xâm lược. Dân tộc ta chỉ còn con đường duy nhất là đứng lên hành động:

               Lẽ nào trời đất dung tha,

               Ai bảo thần nhân chịu được?

   Lời văn trong bản cáo trạng vừa hùng hồn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sôi, khi thì cảm thương da diết; lúc muốn thét thật to, lúc nghẹn ngào, căm tức. Tất cả cùng một lúc diễn tả những cung bậc khác nhau trong tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi. Đại cáo bình Ngô chứa đựng những nội dung thiết yếu của một bản "tuyên ngôn độc lập" bởi chính những nội dung đã phân tích ở trên.

   Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ:

               Ta đây:

               Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

               Chốn hoang dã nương mình.

   Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất hài hoà giữa con người bình thường và thủ lĩnh nghĩa quân. Lê Lợi xứng đáng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa bởi ông có khả năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đồng thời có phẩm chất của một nhà quân sự, chính trị tài ba. Lê Lợi căm thù giặc sâu sắc và có quyết tâm cao độ để thực hiện lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:

             Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

             Căm giặc nước thề không cùng sống.

             Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;

             Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

             Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;

             Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.

             Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

              Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.

   Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống là thái độ và chí hướng của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận... là sự rèn luyện, thử thách đối với bản thân, từ trái tim đến khối óc. Không phải một sớm một chiều mà là suốt mười mấy năm trời. Bởi vì trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh mối lo toan cứu nước, cứu dân cho nên Lê Lợi luôn ở trọng tâm trạng: Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. Qua hình tượng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã nói lên được tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

   Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yếu hơn giặc rất nhiều:

   Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

   Chính lúc quân thù đương mạnh.

   Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân đã phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một lòng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.

   Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên? Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê Lợi. Ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.

   Với nghệ thuật chính luận tài tình, với cảm hứng trữ tình sâu sắc, Đại cáo bình Ngô tố cáo tội ác kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trên cơ sở chân lí chính nghĩa tất thắng, Nguyễn Trãi đã viết nên áng "thiên cổ hùng văn", giống như một tượng đài chiến thắng hoành tráng, cao vút giữa bầu trời nước Việt.

Phân Tích Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo hay nhất 2

Nguyễn Trãi (1380-1942), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, quân sự tài ba và lỗi lạc, ông tham gia tích cực và đóng góp nhiều nhiều công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi với vai trò là một quân sư. Với những công trạng vĩ đại của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nguyễn Trãi đã trở thành bậc khai quốc công thần đời đầu của nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, việc tham gia sâu rộng vào chính trị và có nhiều đóng góp to lớn đã khiến ông trở thành cái gai trong mắt của nhiều thế lực đối lập, cuối cùng bản thân ông và gia đình phải chịu án oan thảm khốc tru di tam tộc (thảm án Lệ Chi viên), khiến người đời không khỏi đau xót, tiếc thương. Ngoài là một nhà chính trị, quân sự tài ba, Nguyễn Trãi còn được biết đến là một nhà văn chính luận kiệt xuất, với số lượng tác phẩm tuy ít nhưng bài nào cũng để lại tiếng vang đến muôn đời có thể kể đến hai tác phẩm tiêu biểu là Quân trung từ mệnh tập và Bình ngô đại cáo. Ông là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của  nền Nho giáo thế nhưng theo như lời của Trần Đình Hựu thì “Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, không câu nệ và vì vậy không chỉ là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó”. Có thể thấy, tư tưởng của Nguyễn Trãi gồm có ba điểm chính thứ nhất là tư tưởng nhân nghĩa, thứ hai là tư tưởng phụng mệnh trời và cuối cùng là tư tưởng nhân dân, tiến bộ hẳn so với các danh nhân, nghĩa sĩ cùng thời. Và hệ thống tư tưởng này ta có thể nhận thấy rõ trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Bình ngô đại cáo, tác phẩm được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc sau Nam quốc sơn hà.

Bình ngô đại cáo được sáng tác vào cuối năm 1427, thời điểm nghĩa quân Lam Sơn giành được thắng lợi huy hoàng, tiêu diệt 15 vạn viện binh của giặc Minh xâm lược do Liễu Thăng và Mộc Thạnh dẫn đầu. Vương Thông buộc phải viết thư xin hàng và rút quân về nước, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để công bố cho nhân dân về việc đã dẹp yên giặc Minh xâm lược, đồng thời nó cũng đóng vai trò như là một bản tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra một triều đại mới, triều đại thịnh thế của nhà Hậu Lê, mở ra kỷ nguyên mới độc lập, tự do cho dân tộc. Bình Ngô đại cáo được đọc vào đầu năm 1428. Về ý nghĩa nhan đề “Bình Ngô đại cáo”, ở đây có thể lý giải rằng vua Minh là người đất Ngô, nên khi nói “Bình Ngô” ta sẽ hiểu rằng là bình định quân Minh xâm lược. Hoặc một cách hiểu khác, thì trước đây vào thời tam quốc, nước Ngô là nước đã cai trị nước ta một cách tàn ác và vô nhân đạo, cái tên “giặc Ngô” hay nước hay “nước Ngô” đã trở thành một loại từ khóa ám ảnh với nhân dân ta bao đời, thế nên khi nói đến giặc Ngô tức là nói đến thứ giặc xâm lược tàn bạo và độc ác. “Đại cáo” tức là bản cáo lớn, ở đây Nguyễn Trãi muốn khẳng định đại đạo của dân tộc “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân để thay cường bạo” vốn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tác phẩm. Thứ hai nữa “đại cáo” này còn gắn liền với thể loại văn bản đương đại của nhà Minh, có ý nghĩa pháp luật, tác giả muốn khẳng định rằng đây cũng là một văn kiện pháp luật của Đại Việt, có giá trị, ý nghĩa tương đương với văn kiện pháp luật của nhà Minh, khẳng định nền độc lập của dân tộc.

Mở đầu bài cáo Nguyễn Trãi đã nêu ra các luận đề chính nghĩa với mục đích làm cơ sở, căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo.

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có

Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”

Đầu tiên Nguyễn Trãi nêu ra tư tưởng nhân nghĩa thể hiện ở việc yêu thương con người, được bộc lộ thông qua các hành động cụ thể bao gồm “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, nghĩa là người đứng đầu một đất nước phải có trách nhiệm bảo vệ cuộc sống bình yên, ấm no cho nhân dân. Kéo theo việc bảo vệ cuộc sống bình yên đó thì “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, vốn là một tích xuất phát từ điển cố trong Kinh thư, ngụ ý muốn “yên dân” thì phải tiêu trừ tham tàn bạo ngược, những thế lực đã phá vỡ sự bình yên của nhân dân. Từ đó thấy được quan điểm mới mẻ, tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Trãi: Nhân nghĩa tức là gắn với việc yêu dân, chuộng hòa bình, và gắn với lòng yêu nước sâu sắc. Luận đề thứ hai mà Nguyễn Trãi đề cập đó là sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt ta từ bao đời nay, được tác giả khẳng định như một chân lý khách quan thông qua năm yếu tố cơ bản để chứng minh cho luận đề trên của mình. Bao gồm nền văn hiến độc lập đã tồn tại từ lâu đời “vốn xưng nền văn hiến đã lâu”, bao gồm cương vực lãnh thổ riêng “núi sông bờ cõi đã chia”, rồi về văn hóa chúng ta cũng có phong tục tập quán riêng khi “phong tục Bắc Nam cũng khác”. Xét về khía cạnh lịch sử, nếu như phương Bắc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì nước Đại Việt ta cũng chẳng kém cạnh khi có Triệu, Đinh, Lý, Trần những triều đại đã bao lần gây nền độc lập. Truyền thống lịch sử riêng này còn được cụ thể hóa trong những câu thơ “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/Song hào kiệt thời nào cũng có”, khẳng định đời nào, triều đại nào chúng ta cũng có những anh hùng vang danh sử sách, lập nên những chiến công vĩ đại để bảo vệ nền độc lập dân tộc của chúng ta, khiến kẻ thù biết bao phen thất bại, khốn đốn. Vậy nên mới có những chuyện như “Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô; Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”, đó đã là những chứng cứ, những sự thực minh bạch không thể chối cãi, in hằn trong từng trang sử sách của nước Đại Việt ta bao đời nay. Và cuối cùng kết lại những yếu tố trên là lời khẳng định chủ quyền độc lập riêng của dân tộc trong ý thơ “mỗi bên xưng đế một phương” thể hiện phong thái tự tin, mạnh mẽ, ý thức tự cường dân tộc của Nguyễn Trãi trong việc khẳng định nền độc lập, bờ cõi của đất nước. Rằng vua nước Nam chỉ xưng “đế”, chứ không xưng “vương” theo cái kiểu mạt sát, khinh thường của nước phương Bắc, xem chúng ta là nước chư hầu, phụ thuộc vào “thiên triều” của chúng. Mà ta có thể thấy rõ ở bài cáo này Nguyễn Trãi đã hoàn toàn phủ nhận cái quan điểm ngạo mạn ấy, khẳng định sự tách biệt giữa hai quốc gia dân tộc trên tất cả các lĩnh vực bao gồm địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, chủ quyền lãnh thổ tạo nên một hệ thống lý luận, căn cứ vững chắc để triển khai tiếp các luận đề phía sau. Có thể nói rằng Nguyễn Trãi đã rất tinh tế khi xây dựng một khái niệm về quốc gia dân tộc dựa trên 5 yếu tố trên, đây là một bước tiến rất lớn, hoàn thiện định nghĩa về tổ quốc so với bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất chỉ bao gồm 2 yếu tố lãnh thổ và chủ quyền riêng, thể hiện tài năng lý luận và tầm tư duy của một nhân tài kiệt xuất đi trước thời đại. Thêm vào đó ngoài nội dung chính của luận đề, sự thuyết phục của quan điểm trên còn nằm ở cái cách mà tác giả Nguyễn Trãi sử dụng các từ ngữ như: từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác. Mà tất cả những từ ngữ này lại thuộc cùng một trường khẳng định sự hiển nhiên, vốn có, lâu đời của chân lý mà tác giả đã nêu ra. 

Sau khi nêu ra hai luận đề chính nghĩa, Nguyễn Trãi đã tiến hành nêu ra các tội ác của giặc Minh đã gây ra đối với nhân dân ta. Tác giả đã đứng trên hai lập trường là lập trường của dân tộc và lập trường nhân nghĩa nhân bản để tố cáo tội ác của kẻ thù. Trước hết là trên lập trường dân tộc, ông đã tố cáo, nhận diện rõ ràng âm mưu cướp nước của giặc Minh thông qua mấy câu thơ sau:

“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”

Dùng các từ ngữ “nhân”, “thừa cơ” để vạch trần luận điệu bịp bợm của nhà Minh kéo quân sang nước ta với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ”, nhưng thực tế là thừa dịp xâm lược Đại Việt. Vịn vào việc Hồ Quý Ly lên ngôi không danh chính ngôn thuận, không được lòng dân để lấy được sự ủng hộ của nhân dân Đại Việt nhằm thực hiện mưu hèn kế bẩn mà chúng đã ấp ủ bấy lâu nay. 

Đứng trên lập trường nhân bản, nhân nghĩa, đứng về phía quyền sống của nhân dân để tố cáo chủ trương cai trị phản nhân đạo của kẻ thù. Thứ nhất là giặc Minh đã hủy hoại cuộc sống của nhân dân bằng hành động diệt chủng vô cùng tàn bạo, man rợ “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” . Tội ác thứ hai là hủy hoại môi trường sống của nhân dân Đại Việt “Nặng thuế khóa sạch không đầm núi/Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”, các loại sưu cao thuế nặng đã đẩy nhân dân vào bước đường buộc phải vơ vét cạn kiệt tài nguyên đất nước, gây ra sự tàn phá nặng nề đối với các giống loài tự nhiên, triệt đường sống của vạn vật. Tội ác thứ ba của chúng là việc sử dụng người dân như là một công cụ biết nói để vơ vét sản vật, là công cụ để phục dịch cho lòng tham vô đáy của mình“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, nhưng khốn nỗi rừng sâu nước độc/ Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?” vô cùng độc ác và tàn bạo. Sự cai trị tàn bạo của giặc Minh xâm lược đã khiến cho người dân vô tội lâm vào bước đường cùng cực, bị triệt tiêu đường sống, đẩy nhân dân ta vào chỗ nguy hiểm khi phải đối mặt với “rừng thiêng nước độc”, với “cá mập thuồng thuồng”. Chưa kể là cuộc sống vốn yên ấm bấy lâu nay cũng vỡ nát khi “tan tác cả nghề canh cửi”, gia đình hạnh phúc bỗng chốc mất đi người chồng người cha “Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng”. Sự độc ác ấy đến “trúc Nam Sơn không ghi hết tội”, sự hèn hạ bẩn thỉu này có dùng nước Đông Hải cũng muôn đời tanh tưởi. Nguyễn Trãi viết “Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?” chính là sự giận dữ trước chính sách cai trị tàn bạo của kẻ thù, đồng thời cũng là tấm lòng đau xót vạn phần cho những nỗi thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng suốt mấy mươi năm qua. Về nghệ thuật viết cáo trạng trong đoạn này, ta có thể nhận thấy rõ cách sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập giữa nhân dân ta và giặc thù, nhằm nhấn mạnh, khắc sâu sự đớn đau của nhân dân và tội ác man rợ của kẻ thù. Bên cạnh đó Nguyễn Trãi còn sử dụng các hình ảnh rất giàu giá trị biểu cảm, gợi tả như “trúc Nam Sơn”, “nước Đông Hải”, dùng cái vô cùng, tột độ để diễn tả cái vô tận trong những tội ác của kẻ thù. Giọng văn có lúc thì thống thiết, đau đớn, xót xa khi nói về thảm cảnh của nhân dân, nhưng cũng có lúc đanh thép, hùng hồn để kết tội kẻ thù “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán/ Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?” là lời kết tội kẻ thù, là lời để ngỏ, lời để dồn lòng căm thù vào đối tượng đã gây ra biết bao đớn đau cho dân tộc, giống nòi.

Tiếp tục soi chân lý vào thực tiễn, Nguyễn Trãi đã nói về tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và niềm tin tất thắng của cuộc khởi nghĩa. Trong giai đoạn đầu, “vạn sự khởi đầu nan” cuộc khởi nghĩa của chủ tướng Lê Lợi gặp rất nhiều khó khăn, đầu tiên Nguyễn Trãi đã tái hiện lại sự tương quan giữa ta và địch. Về phía địch, khi cờ khởi nghĩa của ta vừa dấy lên, thì cũng chính là lúc “quân thù đang mạnh”, giặc Minh được thế giở thói “hung đồ ngang dọc” thả sức tác oai tác quái, phô trương thanh thế đàn áp nhân dân. Trái lại về phía ta thì lại gặp vô vàn khó khăn trắc trở “tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá màu thu”, vốn đã thiếu người, thiếu lực lượng và thiếu nhất là những người tài chịu đứng ra giúp nước phò tá Lê Lợi, trong việc bôn tẩu, bàn bạc kế sách chống quân thù. “Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi” người thiếu, lực mỏng và con đường khởi nghĩa cũng còn quá mơ hồ, bởi so với địch thực sự thế lực của ta chẳng thể chống đỡ được quá lâu. Một nỗi lo khác nữa ấy là ngoài thiếu nhân lực ta còn thiếu cả vật lực “Vận nước khó khăn/Linh Sơn lương hết mấy tuần/Khôi huyện quân không một đội”, thiếu thốn lương thực, vũ khí, không có nguồn tiếp tế khiến nghĩa quân nhiều lần lao đao, khốn khó trong việc duy trì tinh thần quân lính. Có thể thấy rõ rằng, tương quan lực lượng giữa ta và địch là hoàn toàn chênh lệch với cái thế yếu thuộc về nghĩa quân Lam Sơn. Và để vượt qua tất cả những khó khăn trên, lật ngược ván cờ làm nên chiến thắng lừng lẫy trước kẻ thù phải kể đến yếu tố tiên quyết đó là sự lãnh đạo xuất sắc của vị lãnh tụ đứng đầu nghĩa quân - Lê Lợi. Ở Lê Lợi hội tụ đầy đủ những yếu tố của một nhà lãnh tụ vĩ đại: Có lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm cao độ trong việc thực hiện lý tưởng cao đẹp khôi phục giang sơn, nền độc lập của dân tộc “Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời...Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”. Ông cũng là người rất biết coi trọng nhân tài “Cỗ xe cầu hiền thường chăm chăm còn dành phía tả”, biết coi trọng vai trò của nhân dân, biết tập hợp sức mạnh của nhân dân vốn là yếu tố tiên quyết để quyết định chiến thắng của khởi nghĩa. Thêm vào đó ở Lê Lợi còn có khả năng thu phục lòng người tạo nên khối đại đoàn kết vững mạnh trong toàn quân, quân sĩ trên dưới một lòng chống giặc “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”. Cuối cùng một yếu tố không thể thiếu ở người lãnh đạo ấy là sự tài trí mưu lược, giỏi bày binh bố trận của Lê Lợi “Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”. 

Sau giai đoạn đầu đầy khó khăn của cuộc khởi nghĩa nhưng với vai trò của người lãnh tụ kiệt xuất Lê Lợi thì nghĩa quân bắt đầu bước vào giai đoạn phản công mạnh mẽ mẽ để giành thắng lợi. Ở chặng thứ nhất, quân ta đã tiến đánh các vị trí đóng quân khác nhau của  địch làm cho chúng sức cùng lực kiệt, phải cầu cứu quân tiếp viện, trái ngược với giai đoạn đầu thì ở đây nghĩa quân đã liên tiếp giành được những chiến thắng vang dội, còn kẻ thù thì phải nhận hàng loạt các chiến bại, vô cùng nhục nhã. Về phía ta thì “Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay/Sĩ khí đã hăng/Quân thanh càng mạnh”, còn lũ địch nhát gan chỉ được nước “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân”. Quân ta liên tiếp giành lại những thành trì, vùng đất đã rơi vào tay giặc như Tây Kinh, Đông Đô, Tốt Động, Ninh Kiều, khiến quân giặc nghe hơi mà mất vía, trái lại về phía địch thì toàn nhận lại những trận thảm bại, “máu chảy thành sông”, “thây chất đầy nội”,  tướng lĩnh kẻ bêu đầu, đứa tử trận, Vương Thông, Mã Anh dù cố cứu nguy nhưng kết quả cũng đành “Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt”. Cuối cùng cái mà kẻ mưu đồ cướp nước nhận lại là là nỗi nhục đến muôn ngàn sau “Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian”. Tổng kết lại, kẻ thù hiện lên với bộ dáng hết sức thảm bại, nhục nhã, còn quân dân ta là sự vẻ vang rong chiến thắng sáng ngời tư tưởng nhân nghĩa “Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian”, “Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công”, làm nên chiến thắng vô cùng đáng trân trọng. 

Sang chặng đường thứ hai, sau khi kẻ thù rơi vào thất bại thảm hại, nhưng chúng vẫn ngoan cố không chịu rút về nước, trái lại còn đưa thêm quân tiếp viện do hai tướng Mộc Thạnh và Liễu Thăng chỉ huy chia làm hai đạo quân tiến vào nước ta hòng tiêu diệt nghĩa quân, lấy lại thế chủ động. Lúc này đây nghĩa quân ta tiếp tục quá trình kháng chiến, tiếp nối sĩ khí của chặng đường thứ nhất để chặn đánh quân địch ở vùng biên giới, phá tan âm mưu hiểm độc của chúng. Nhưng cuối cùng trước việc mạnh mẽ “chặt mũi tiên phong”, “tuyệt nguồn lương thực”, “Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá...Lại thêm quân bốn mặt vây thành/Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc/Sĩ tốt kén người hùng hổ/Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh”của ta. Thì cái mà quân địch nhận lại cũng chỉ có thảm bại hơn chứ không có thảm bại nhất, “trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế”, “trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu”, Lương Minh tử vong, Bá Khánh cùng kế phải tự vẫn. Sĩ khí  quân giặc vốn đã chán nản nay lại thêm điên cuồng lao vào tàn sát lẫn nhau, ta chưa đánh nhưng giặc đã tự loạn, quân Mộc Thạnh khiếp vía giẫm đạp lên nhau để mà thoát thân, thảm hại vô cùng. Nhưng với tư tưởng nhân nghĩa xuyên suốt, ta không những không đuổi cùng diệt tận mà “Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”, “Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền/ Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa” để chúng rút lui về nước trong sự tâm phục khẩu phục, vừa để quân dân nghỉ ngơi lấy sức khôi phục đất nước sau chiến tranh. Nghệ thuật chính trong toàn đoạn cáo nói về hai chặng đường chống giặc Minh của quân ta là bút pháp đậm chất anh hùng ca được miêu tả bằng các hình ảnh rộng lớn, thể hiện sự kỳ vĩ của thiên nhiên, dùng ngôn ngữ đặc sắc, với các động từ liên tiếp để diễn tả sự chuyển rung liên tiếp của trận chiến, dùng những tính từ ở mức độ tối đa để tạo ra sự tương phản sâu sắc giữa ta và địch. Thêm vào đó là nghệ thuật dùng câu văn linh hoạt, chiến thắng của ta thì dùng câu văn ngắn thể hiện sự dồn dập, quyết đoán mạnh mẽ, oai hùng, còn thất bại của địch thì được diễn tả bằng những câu văn dài thể hiện tính chất khôn cùng, không sao kể hết được. 

Cuối cùng Nguyễn Trãi chuyển sang tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn. “Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới”, tuyên bố chiến thắng, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập cho dân tộc, xây dựng nhà nước Đại Việt tự chủ và thịnh vượng dưới triều vua mới. Sau là rút ra những bài học lịch sử sâu sắc, từ quy luật của trời đất và tự nhiên, “Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh” thể hiện sự tin tưởng vào vận mệnh mới của dân tộc, sau khi đã trải qua cơn bĩ cực của lịch sử. Thứ hai là chiến thắng của chúng ta được tạo nên nhờ sự kết hợp của sức mạnh thời đại “Một cỗ nhung y chiến thắng/Nên công oanh liệt ngàn năm”, và yếu tố thứ hai chính là sức mạnh của truyền thống “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”.

Bình Ngô đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của dân tộc là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Về nghệ thuật, đó là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận, thể hiện ở kết cấu lý luận chặt chẽ, lập luận sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn, và chất văn chương nghệ thuật thể hiện ở lời văn rất giàu cảm xúc, câu văn giàu hình tượng. 

Phân Tích Tác Phẩm Bình Ngô Đại Cáo 3

Nếu bài thơ "Nam quốc sơn hà" có giá trị như một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc thì "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi được coi là "áng thiên cổ hùng văn", là bản tuyên ngôn độc lập chủ quyền thứ hai của đất nước ta. Đây là tác phẩm mang những đặc điểm cơ bản của thể loại cáo nói chung, bên cạnh đó cũng mang những đặc điểm sáng tạo riêng của tác giả.

Sau khi quân ta chiến thắng giặc Minh, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh Lê Lợi viết tác phẩm "Bình Ngô đại cáo". Bài cáo này được công bố vào tháng Chạp năm 1428 nhằm mục đích tổng kết lại quá trình chiến đấu chống giặc Minh xâm lược, bảo vệ đất nước và tuyên bố về nền độc lập của dân tộc ta. Cáo là một thể loại thuộc văn học chức năng và là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua, chúa, thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, sự nghiệp, tuyên ngôn về một sự kiện nào đó để mọi người cùng biết. Đặc trưng cơ bản của thể loại này là được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần lớn cáo được viết bằng văn biền ngẫu, có sử dụng các phép đối, các câu dài ngắn tự do. "Bình Ngô đại cáo" là bài cáo có bố cục chặt chẽ, lí luận sắc bén, giọng điệu, lời lẽ đanh thép, hùng hồn. Bố cục của bài cáo chia thành bốn phần: Phần một tác giả nêu luận đề chính nghĩa hay nói cách khác đó chính là tư tưởng nhân nghĩa của tác giả; nội dung chính của phần hai là những tội ác không thể dung tha của giặc Minh; ở phần ba, tác giả đã kể lại công cuộc chiến đấu và sự chiến thắng của quân ta và phần bốn là lời tuyên bố chiến thắng, lời khẳng định chủ quyền, vị thế của dân tộc.

Quân xâm lược nước ta là quân Minh nhưng nhan đề bài cáo lại là "Bình Ngô đại cáo" đã thể hiện ý đồ và dụng ý nghệ thuật của tác giả. "Ngô" là từ chỉ Chu Nguyên Chương lúc đầu xưng là Ngô Quốc Công, dấy binh ở Giang Tô, đồng thời cũng chỉ nhà Ngô thời Tam Quốc, triều đại phương Bắc sang xâm lược nước ta. Nhân dân ta gọi chúng là giặc Ngô với thái độ khinh ghét, căm thù. Nhan đề "Bình Ngô đại cáo" mang ý nghĩa tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô và tâm thế chiến thắng của toàn dân tộc ta trước kẻ thù tàn ác.

Bài cáo được mở đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa có ảnh hưởng sâu sắc từ Nho giáo:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".

"Nhân nghĩa" là tư tưởng, hành động vì con người, đấu tranh cho lẽ phải để bảo vệ cho đời sống của con người. Đời sống nhân dân no ấm, hạnh phúc thì đất nước mới có thể phát triển bền vững được. Vì vậy, những người đứng đầu đất nước phải lo việc "yên dân", "trừ bạo", dẹp yên được bọn xâm lược và cả bè lũ tay sai của chúng ở trong nước để bảo vệ cuộc sống của nhân dân. Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi nhắc đến là tư tưởng vì nhân dân mà diệt trừ cái ác đang ngự trị, chiến đấu quyết liệt để bảo vệ bỡ cõi lãnh thổ, bởi:

"Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có".

Nước Đại Việt ta đã có nền văn hiến từ lâu đời, có ranh giới riêng, phong tục tập quán đặc sắc và có bề dày lịch sử được sánh ngang với các triều đại phong kiến phương Bắc. Các triều đại nhà Triệu, Đinh, Lí, Trần được so sánh ngang hàng với các triều Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc để thấy rằng dân tộc ta cũng có sức mạnh riêng chứ không phải là một dân tộc nhỏ bé, tầm thường. Các từ "từ trước", "vốn xưng", "đã chia" đa thể hiện sự tồn tại và phát triển của nước ta trong lịch sử như một điều hiển nhiên không thể chối cãi. Điều đó khiến chúng ta tự hào về chính dân tộc của mình - một đất nước được dựng xây bởi những con người hiền lành, cần cù, chất phác, có lòng yêu nước sâu sắc. Tuy rằng, các triều đại lịch sử có lúc mạnh, lúc yếu nhưng các anh hùng hào kiệt, các anh hùng phò vua giúp nước thời nào cũng có. Nhờ có họ mà quân xâm lược phải chuốc lấy bao thất bại nặng nề:

"Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi".

Các tướng của phương Bắc đều bị anh hùng hào kiệt nước ta "giết tươi", "bắt sống" và nhận lấy kết cục bi thảm. Những cuộc chiến ấy đã được ghi vào sử sách để làm chứng cớ đến muôn đời sau. Quân xâm lược "thích lớn", "tham công", muốn thâu tóm nước ta nhanh gọn nên bị "tiêu vong" cũng là điều tất yếu. Sức mạnh của quân và dân ta đã tiêu diệt được bọn xâm lược gian tà, hung ác. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được bộc lộ bằng giọng điệu hào hùng, các vế đối hài hòa đã thể hiện niềm tự tôn dân tộc, niềm tin vào sức mạnh của dân tộc nhỏ bé nhưng vô cùng kiên cường.

Những tội ác của giặc Minh đã được tác giả nêu lên thành một bản cáo trạng với những dẫn chứng xác thực, hùng hồn. Giặc Minh đã lợi dụng tình thế nhà Hồ lúc bấy giờ để "thừa nước đục thả câu", thực hiện âm mưu xảo quyệt của mình:

"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh".

Triều chính nhà Hồ rối ren, lục đục, vua quan không chăm lo đến đời sống của nhân dân khiến "lòng dân oán hận". Lợi dụng điều đó, quân Minh tràn vào xâm lược nước ta, bọn gian tà trong nước thì mưu đồ bán nước để cầu vinh hoa phú quý mà hèn nhát không đứng lên chống giặc.

Quân Minh đã bắt nhân dân ta phải sống trong cảnh lầm than, cơ cực với những hiểm nguy luôn đe dọa đến sự sống còn:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi".

Chúng hung tàn, vô nhân tính, dùng muôn nghìn kế để thôn tính đất nước ta. Những người dân lao động thật đáng thương, vô tội khi bị chúng dùng các thủ đoạn xảo trá để bóc lột, tàn sát. Hành động của quân xâm lược rất dã man, chúng "nướng dân đen" trên ngọn lửa để làm thú mua vui hay "vùi" họ xuống hầm tai vạ để thỏa mãn sự tàn ác. Chúng lấy tính mạng của nhân dân ta để làm trò tiêu khiển. Còn hành động nào dã man hơn như thế? Không chỉ bóc lột dân ta bằng các loại thuế khóa, giặc Minh còn vơ vét hết những sản vật quý hiếm của nước ta để phục vụ lòng tham vô đáy của chúng. Nhân dân ta bị ép xuống biển mò ngọc, vào núi tìm vàng, phải đương đầu, đối mặt với biết bao thú dữ như cá mập, thuồng luồng hay sự khắc nghiệt của rừng thiêng, nước độc. Chúng giăng lưới, chăng bẫy để bắt chim trả về làm áo, đệm và bắt hươu đen để làm vị thuốc bổ. Ngay cả đến các loài cây cỏ chúng cũng không bỏ qua. Chúng "tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ", bắt nhân dân ta phục dịch xây nhà, đắp đất không ngừng nghỉ, chúng làm "tan tác cả nghề canh cửi" nhưng "máu mỡ bấy no nê chưa chán". Bấy nhiêu sự bóc lột tàn ác vẫn chưa đủ làm chúng thỏa mãn lòng tham. Chúng làm tan tác, li tán các gia đình gây nên cảnh tượng "nheo nhóc", tang thương khi những người vợ đi người chồng, những đứa con mất đi người cha,... Tội ác của giặc Minh đến cả trời đất cũng không thể dung tha, "trúc Nam Sơn không ghi hết tội", "nước Đông Hải không rửa sạch mùi" dơ bẩn của chúng. Sự vô hạn của trúc Nam Sơn và nước Đông Hải cũng không so sánh được với sự man rợ, tàn ác của giặc Minh trong suốt hai mươi năm "gây binh kết oán". Tác giả dùng phép liệt kê, thủ pháp phóng đại, câu hỏi tu từ "Lẽ nào thần nhân chịu được" cùng các hình ảnh vừa có tính khái quát vừa có tính cụ thể để tố cáo tội ác của giặc Minh bằng một lòng căm thù sâu sắc.

Trước sự xâm chiếm của kẻ địch, vị anh hùng Lê Lợi đã "dấy nghĩa", lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

"Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống".

Không thể chung sống dưới một bầu trời cũng kẻ thù, Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa chiến dấu vì đất nước, vì sự no ấm của nhân dân. Nhưng lúc "cờ nghĩa dấy lên" lại đúng lúc "quân thù đang mạnh". Hơn nữa:

"Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc".

Buổi đầu dấy nghĩa, người anh hùng Lê Lợi gặp không ít khó khăn khi kẻ thù đang trong lúc mạnh, tuấn kiệt, nhân tài không có nhiều, sách lược chiến đấu thiếu người bàn bạc, đỡ đần. Số lượng nhân tài, binh lính thì ít người, lương thực cũng cạn kiệt. Khó khăn chồng chất khó khăn nhưng vị chủ tướng vẫn "gắng chí khắc phục gian nan", chỉ cần sự đồng tâm, đồng lòng của nhân dân bốn cõi thì cuộc khởi nghĩa nhất định sẽ giành thắng lợi. Không có cờ, nhân dân ta lấy cần trúc làm cờ, không có nhiều rượu để khao quân, Lê Lợi đã đổ rượu xuống sông để các tướng sĩ chung sức đồng lòng uống cùng nhau "chén rượu ngọt ngào".

Lê Lợi không những tập hợp, đoàn kết được toàn dân ta mà còn biết sử dụng chiến lược để chiến đấu với kẻ thù, "lấy yếu chống mạnh", "lấy ít địch nhiều". Nhưng điều quan trọng hơn cả là Lê Lợi luôn giương cao tư tưởng nhân nghĩa:

"Đem nhân nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo".

Nhờ vào ý chí quật cường, khắc phục mọi khó khăn và tinh thần chiến đấu quyết liệt mà nghĩa quân đã giành được những chiến thằng vang dội:

"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng".

Quân ta chiến đấu với sức mạnh và khí thế quyết liệt khiến quân giặc tan tác dễ dàng, nhanh chóng như chẻ tre, tro bay. Bốn viên tướng Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính của nhà Minh thấy vậy mà "mất vía", "nín thở cầu thoát thân", các tướng khác thì bỏ mạng, đầu hàng. Các trận đánh ở Chi Lăng, Mã An, Cần Trạm,...đã khiến các tướng quân Minh phải tự vẫn, tử vong, "trói tay xin hàng", "xéo lên nhau chạy để thoát thân". Tinh thần chiến đấu của nghĩa quân được Nguyễn Trãi khắc họa qua hai câu văn:

"Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận tan tác chim muông".

Sức mạnh ấy đã khiến "Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng", đô đốc Thôi Tụ thì "dâng tờ tạ tội". Sự chiến thắng của quân ta đã làm "sắc phong vân phải đổi", "ánh nhật nguyệt phải mờ", thây của quân giặc "chất đầy đường", máu của quân giặc thì "trôi đỏ nước". Quân ta đã có được chiến thắng đáng nể phục và oai hùng biết nhường nào. Từ một người bình thường xuất thân ở "chốn hoang dã", người anh hùng áo vải Lê Lợi đã trở thành một vị chủ tướng tài giỏi với các chiến lược dùng binh đánh giặc. Đặc biệt, vị chủ tướng ấy còn khiến chúng ta khâm phục bởi ý chí sắt đá, khắc phục mọi khó khăn và hành động nhân nghĩa của ông khi cấp cho Mã Kì, Phương Chính năm trăm chiếc thuyền ra bể, phát cho Vương Thông, Mã Anh vài nghìn cỗ ngựa để về nước mà bọn chúng vẫn "hồn bay phách lạc", "tim đập chân run". Chúng không thể tin được rằng người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nước ta lại mở cho chúng một con đường sống, một con đường để thoát thân về nước. Đó là "mưu kế kì diệu" của Lê Lợi để nhân dân ta được "nghỉ sức" và cũng là để giữ hòa khí giữa hai nước.

Miêu tả các trận đánh của quân ta, tác giả đã sử dụng những động từ mạnh như "hồn bay phách lạc", "tim đập chân run" ..., các tính từ chỉ mức độ như "thây chất đầy đường", "máu trôi đỏ nước", "đầm đìa máu đen", "khiếp vía vỡ mật",...và thời gian, địa điểm các trận đánh được liệt kê để nhấn mạnh sự thất bại thảm hại của giặc Minh. Ông thể hiện rõ thái độ mỉa mai kẻ thù khi gọi chúng là "thằng nhãi con Tuyên Đức", "đồ nhút nhát Thạnh ,Thăng".

Phần cuối cùng của bài cáo là lời tuyên bố, khẳng định nền độc lập của dân tộc:

"Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay".

Dẹp yên giặc Minh, đất nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới, bế tắc rồi lại thông suốt, nhật nguyệt tối rồi lại sáng. Đó là quy luật vận động tất yếu của lịch sử, quy luật phát triển thịnh - suy của mỗi quốc gia. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi đã mở ra một kỉ nguyên mới để dựng xây đất nước Đại Việt ngày càng hung thịnh dưới triều vua Lê Lợi. Nhờ "trời đất tổ tong khôn thiêng ngầm giúp đỡ" nên mới có chiến thắng vẻ vang đến như vậy. Sức mạnh, sự phù trợ của đấng linh thiêng cùng sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn đã đánh đuổi được giặc Minh làm cho đất nước sạch bóng quân thù. Một đất nước sẽ phát triển bền vững nếu có các chính sách chăm lo đến đời sống dân chúng một cách phù hợp.

Với bố cục chặt chẽ, sự đăng đối hài hòa ở các câu văn và giọng điệu chính luận tài tình, "Bình Ngô đại cáo" không chỉ tố cáo tội ác của quân Minh mà còn ngợi ca sự chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và người anh hùng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã đề cao tư tưởng nhân nghĩa "yên dân", "trừ bạo" và tư tưởng lấy dân làm gốc để phát triển dân tộc ngày càng hưng thịnh. 

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 4

Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba của dân tộc mà ông còn là nhà thơ, nhà văn chính luận kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn chính luận của Nguyễn Trãi chúng ta không thể nào không nhắc tới “Bình Ngô đại cáo” - một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết sau cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc và được xem là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.

“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được viết theo thể cáo - một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc với bố cục, kết cấu chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu lên luận đề chính nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho toàn bộ bài cáo của mình.

Từng nghe: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Chỉ với hai câu mở đầu bài cáo của mình, tác giả đã nêu lên tư tưởng xuyên suốt bài cáo đó chính là nhân nghĩa - một phạm trù tư tưởng có nguồn gốc từ Nho giáo, dùng để thể hiện cách ứng xử và những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Và với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa đó bắt nguồn từ  tư tưởng “yên dân”, “trừ bạo’. Có thể nói, đây chính là cơ sở nền tảng xuyên suốt bài cáo, xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc, từ lòng yêu thương nhân dân và vì nhân dân mà diệt bạo, mà đánh đuổi các thế lực xâm lược. Đồng thời, cũng trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên những chân lí độc lập khách quan, làm sơ sở lí luận vững chắc để khẳng định độc lập dân tộc cũng như nêu lên tư tưởng của bài cáo. 

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Dù mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng dường như tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại  một cách chân thực và rõ nét những truyền thống vẻ vang từ ngàn đời nay của dân tộc. Trước hơn hết, nước ta có một nền văn hiến, phong tục Bắc Nam từ ngàn đời nay. Đồng thời, nước ta còn là nước có bờ cõi, lãnh thổ riêng, được mọi người thừa nhận. Đặc biệt hơn cả, thông qua việc so sánh các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả đã đặt các triều đại của ta, dân tộc ta ngang hàng với các triều đại phong kiến phương Bắc, điều đó không chỉ là cơ sở cho nền độc lập mà còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của tác giả Nguyễn Trãi. Không dừng lại ở đó, để nêu lên chân lí khách quan cho nền độc lập của nước ta, tác giả còn tái hiện lại những trang sử vẻ vang, hào hùng với những chiếc thắng vang dội khắp non sông của quân và dân ta trong suốt chặng đường lịch sử trước đó.

Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.

Thêm vào đó, từ cơ sở luận đề chính nghĩa đã nêu, trong phần tiếp theo của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã đi sâu vạch rõ những tội trạng man rợ, gian ác của kẻ thủ. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh đối với nước ta.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.

Như vậy, chỉ với bốn câu văn song tác giả đã vạch rõ cho người đọc âm mưu xâm lược của giặc Minh. Quân Minh đã lợi dụng tình hình rối ren ở trong nước ta dưới thời nhà Hồ, với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ”, bọn chúng đã tiến vào và thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Hơn thế nữa, không chỉ vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, tác giả Nguyễn Trãi còn tố cáo, vạch rõ những hành động, những tội ác dã man của bọn giặc trên hầu khắp tất cả các lĩnh vực bằng những hình ảnh, những từ ngữ độc đáo. Tội ác đầu tiên của giặc Minh đã được tác giả Nguyễn Trãi kể ra đó chính là tàn sát, giết hại những người dân vô tội.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Với nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, tác giả đã vạch rõ hành động giết người mạn rợn, tàn ác của giặc. Ngay đến cả những “dân đen’, “con đỏ” - những người vô tội, chúng cũng không nương tay. Tất cả những điều đó đã cho thấy hành vi giết người không ghê tay của bọn giặc. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát những người dân vô tội bằng cách đẩy những người dân đen kia vào những nơi rừng thiêng, nước độc với đầy rẫy những hiểm nguy, những nơi mà khi đã bước vào đấy sẽ không biết có ngày trở lại hay không.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.

 Đồng thời, tội ác của bọn giặc còn được thể hiện ở những chính sách thuế khóa nặng nề và hết sức vô lí cùng với những chính sách hủy hoại môi trường sống, cảnh quan tự nhiên, tiêu diệt sự sống của vạn vật trên đất nước ta.

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi

....
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới giăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt

Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ.

Như vậy, với hàng loạt các hình ảnh chân thực, giàu tính biểu tượng, đoạn hai của bài cáo như một bản cáo trạng đanh thép mà ở đó, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch rõ những tội ác, những hành động man rợn, ghê người của bọn giặc minh xâm lược. Và để rồi, tất cả những tội ác ấy được tác giả khái quát lại trong câu thơ giàu tính khái quát và biểu tượng. Đồng thời, qua  những lời thơ ấy cũng giúp chúng ta thấy được thái độ căm phẫn đến tột cùng của tác giả.

Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?

Không chỉ dừng lại ở vạch rõ những tội ác của kẻ thù, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi còn tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc quá trình kháng chiến và giành chiến thắng của quân và dân ta. Mở đầu cho đoạn văn chính là hình ảnh vị chủ tướng, người anh hùng Lê Lợi:

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình

Đại từ “ta” đặt ở đầu đoạn văn như một lời khẳng định, thể hiện rõ lai lịch, nguồn gốc, lai lịch, xuất thân của người anh hùng Lê Lợi. Xuất thân từ nhân dân, nên chắc có lẽ hơn ai hết Lê Lợi hiểu được những nhọc nhằn và cả sự căm phẫn, lòng căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta - “căm thù giặc thề không cùng chung sống”. Nhưng người anh hùng ấy không chỉ có lòng căm thù giặc sâu sắc mà còn mang trong mình bao nỗi niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận” để suy tính con đường đánh đuổi quân xâm lược và cuối cùng người anh hùng ấy đã dấy binh khởi nghĩa, mang theo trong mình tất cả niềm tin và một con đường đấu tranh kiên định, góp phần đi đến thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta. Song, không dừng lại ở việc tái hiện chân dung vị chủ tướng Lê Lợi, đoạn ba của bài cáo còn tái hiện lại những khó khăn, gian khổ và cả những chiến thắng vang dội của quân và dân ta. Trước hết, trong buổi đầu khởi nghĩa, nghĩa quân của ta gặp phải muôn vàn những khó khăn, thử thách cả về nhân lực và vật lực. Đó là những ngày quân giặc còn rất mạnh, nhân tài của ta còn nhiều hạn chế, “nhân tài như lá mùa thu”, “việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần”,... Thế nhưng, với tất cả ý chí, lòng quyết tâm và với một đường lối đấu tranh đúng đắn, kiên định “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn”, “lấy chí nhân để thay cường bạo”, nghĩa quân của ta đã vượt qua muôn vàn những khó khăn thử thách ấy để đạt được nhiều thắng lợi vang dội. Tác giả đã kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy từ hào khi tái hiện lại những thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Mở đầu của những chiến công ấy là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An,... và hàng loạt, hàng loạt những chiến thắng cứ thế liên tiếp nhau diễn ra.

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.

Như vậy, trong phần ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc hình tướng vị chủ tướng Lê Lợi cùng những khó khăn mà nghĩa quân của ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến và đặc biệt hơn cả là những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy. Đặc biệt,sau khi chiến thắng, nghĩa quân của ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc  để chúng con đường lui. Những hành động này của quân ta thêm một lần nữa chứng minh cho tư tưởng, luận đề chính nghĩa mà nghĩa quân của ta trọn đời theo đuổi. Và để rồi, trên cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn đã được nêu lên, phần cuối của bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, hòa bình cho dân tộc.

Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới

Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay

Với giọng văn hùng hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn của Nguyễn Trãi được tuyên bố rộng rãi tới tất cả mọi người. Lời tuyên ngôn ấy không chỉ là lời khẳng định về nền độc lập, hòa bình, thống nhất của dân tộc mà qua đó còn thể hiện thái độ ngợi ca và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn của đất nước, của dân tộc khi bước vào một thời kì mới.

Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn  là một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và yếu tố trữ tình. Trải qua chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa to lớn của bài cáo vẫn còn vẹn nguyên cho đến ngày hôm nay. 

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 5

Vua Lê Thánh Tông đã từng đề cao: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới, đánh giá như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Các tác phẩm là sự kết hợp hài hoà của tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu nước với lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn, đầy tính thuyết phục với tư tưởng lấy dân làm gốc. Một trong số tác phẩm của ông thể hiện rõ điều này là tác phẩm Bình Ngô đại cáo.

Tác phẩm ra đời khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Bình Ngô đại cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.

Ngay từ đầu, Nguyễn Trãi đã khẳng định sự đấu tranh này là vì lợi ích của nhân dân:

Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nguyễn Trãi đã viết tự đáy lòng ông, chứ không chỉ như được từng nghe suông. Chính ông đã coi việc nhân nghĩa cốt ở yên dân như mục tiêu phấn đấu cao nhất của đời mình.Với đạo đức nho giáo ngày xưa, nhân nghĩa là một điều mà con người ai cũng phải có, và thể hiện bằng cách xử sự đối đãi tốt đẹp với người khác. Ở Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã được nhân lên một tầm cao hơn hẳn, và mở rộng hơn nữa: đó là lo cho dân, giúp cho dân – dân ở đây nói với nghĩa bao trùm tất cả thiên hạ. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại- dân là nòng cốt, là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia. Nhân nghĩa còn là “trừ bạo”, bạo chính là quân nhà Minh, bọn gian tà chuyên đi hà hiếp nhân dân. Có thể thấy Nguyễn Trãi đã coi ‘dân” chính là trụ cột của một quốc gia, người chèo thuyền cũng là dân và người lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng này giản dị nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc. Trong những cuộc kháng chiến thì nhân dân đóng vai trò quan trọng đối với sự thắng bại của cuộc chiến đó. Nếu dân mạnh, lòng dân yên thì ắt hẳn sẽ đánh bay hết sự tàn bạo của quân thù.

Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. “Văn hiến” của nước Nam là do nhân dân Việt Nam xây dựng, trải qua thăng trầm, sự tàn khốc và mất mát của chiến tranh mới có được. Cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xoá bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc, điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thôn tính Đại Việt.

Để làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu”,“đã chia”, “cũng khác”. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Khẳng định nền độc lập và tư tưởng của mình, ông nêu ra các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử mà chúng đều thất bại:

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.

Ở đoạn thơ này, Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc. Cách nêu dẫn chứng rõ ràng, cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Nội dung được diễn đạt bằng những vế rất đăng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muôn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “Hàm Tử”, “Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức: “Lưu Cung... tham công”, “Triệu Tiết... thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Tất cả những trang sử hào hùng, vẻ vang ấy, đều đã được sử sách ta cẩn thận ghi lại, không thể chối cãi, và không ai có thể thay đổi.

Trong suốt toàn bài Đại cáo bình Ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi dã tỏ rõ lòng ưu ái đối với dân. Vì thương dân, ông đã xót xa trước những thảm cảnh mà quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ do bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Chúng đã:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?

Lợi dụng việc chính trị rối ren, giặc Minh cấu kết với bọn Việt gian bán nước, điên cuồng sang cướp nước ta, xâm phạm chủ quyền dân tộc, còn gây ra bao tội ác tày trời:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn đạt cường điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột người treo lên cây, nấu xác người lấy mỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng cách nướng những người dân vô tội. Ngoài ra, bọn giặc đã thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng để vơ vét của cải (Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng – Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc). Lòng tham vô đáy, chúng đã gây nên nỗi đau ghê gớm cho dân ta lúc bấy giờ, sản xuất bị đình trệ (tan tác cá nghề canh cửi), cuộc sống nhân dân bị huỷ hoại không còn lại gì (tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ), đẩy con người ta vào tình cảnh thê lương, khốn cùng (nheo nhóc thay kẻ goá bụa khôn cùng)... Tội ác của giặc Minh chồng chất đến dẫu chặt hết tre rừng cũng không ghi hết, khiến cho trời đất không thể dung tha, thần và dân đều không chịu được. Ông đã vạch trần bản chất thực của kẻ xâm lược bằng những câu văn phẫn nộ, bi thương. Đau xót và căm thù, người dân Đại Việt phải đồng lòng đứng dậy.

Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát toàn vẹn nưng phẩm chất tiêu biểu nhất của con người yêu nước ở thế kỷ XV. Những đặc điểm của con người yêu nước trong văn học thời kỳ này thường có đặc điểm sau: Xuất thân bình thường; Khởi đầu gặp nhiều khó khăn nhưng luôn có tinh thần vượt khó, kiên trì; Biết tập hợp, đoàn kết toàn dân; Biết sử dụng chiến lược, chiến thuật tài tình; Biết nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoạt động. Có thể nói, Lê Lợi chính là hình ảnh tiêu biểu của những con người yêu nước dám hy sinh quên mình đứng dậy chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như núi nhưng buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: quân giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng con mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân không một đội)... Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng đắn..., chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.

Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn. Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:

Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.

Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lục sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng; do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:

Ninh Kiều máu chày thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng củng đành bỏ mạng.

Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kì.

Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.

Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:

Sĩ tốt kén tay hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông

Hình ảnh quân ta lúc này hiện lên với lực lượng đông đảo, ý chí mạnh mẽ kiên cường, tầm vóc lồng lộng nơi vũ trụ. Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng, khí thế ngập đất trời bởi trái tim luôn tràn trề tình yêu nước. Bởi thế nên quân ta mới đánh bại quân giặc. Lúc này, quân giặc hiện lên trong thật đáng thương, thảm hại:

Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,
Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Những cái “danh” không thể giấu nổi sự hèn nhát và nhục nhã: Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính, Vương Thông, Mã Anh... Tất cả làm nên một khung cảnh chiến trường tuy hỗn độn nhưng thế chủ động hoàn toàn đã thuộc về phe chính nghĩa. Quân giặc nhốn nháo, hãi hùng, mỗi tên mỗi vẻ vô cùng thảm hại. Nhưng nhân dân ta vốn ưa hoà bình, không thích cảnh binh đao:

Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Quân giặc đã “tham sống sợ chết”, ta cũng chẳng cạn tình. Quan điểm “dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo” của Nguyễn Trãi chính được biểu hiện ở đây. Theo ông, binh đao khói lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì làm hao tổn sinh mạng, ông luôn mưu phạt tâm công, dùng áng văn chính luận có sức mạnh hơn 10 binh để tránh đổ máu mà thu phục được lòng người. Với quân tướng bại trận của giặc, ông đã tha bổng và giúp cho về nước, không giết hại: thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh để giữ vẹn hoà hiếu. Ta thấy Nguyễn Trãi quả là một con người nhân nghĩa, với tấm lòng nhân hậu, bác ái và thanh cao tuyệt vời!

Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai, dàn trải, trang trọng. Giọng văn hiền hoà tươi vui

Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.

Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông thiêng liêng đã đồng lòng giúp đỡ. Từ đây dân tộc bước vào một thời đại mới. Độc lập, tự do và sự yên bình lại trở về trên mỗi miền quê. Đoạn văn dựa vào những quy luật tất yếu của tự nhiên mà khái quát thành những điều tất yếu trong xã hội. Xã hội phải đối diện với “những sự đổi thay” nhưng cũng như càn khôn “bĩ rồi lại thái”, như nhật nguyệt “hối rồi lại minh”. Và dường như cũng chỉ có như vậy ta mới thấu hết được cái ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian lao, và mới hiểu thế nào là “muôn thuở nền thái bình vững chắc”. Đất nước đã thanh bình, hình ảnh đất nước trong tương lai vững vàng và tươi sáng: “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”.

Bài cáo còn viết với nghệ thuật xuất sắc: lời văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn cuồn cuộn như bão giông, như sóng lớn, từ ngữ sắc bén như những nhát dao chém thẳng vào quân xâm lược, phép đối kết hợp với cấu trúc câu của loại phú cận thể tạo nên tiết tấu mạnh mẽ thể hiện được tất cả các cảm xúc hào sảng bừng bừng trong huyết quản của tác giả ngay trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận giòn giã. Bài cáo đã ghi lại một thời kì đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh với những chiến thuật hết sức đúng đắn và sáng tạo đã đem lại những trận đánh long trời lở đất làm cho quân thù phải khiếp sợ, đẩy chúng đến sự thất bại toàn diện và nhục nhã. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước nhà.

Tóm lại, tác phẩm Bình Ngô đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo ngắn gọn nhất 6

Nguyễn Trãi danh nhân văn hóa thế giới, ông để lại sự nghiệp sáng tác đồ sộ. Bên cạnh những tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật, còn có những tác phẩm giàu tính chiến đấu, và một trong những tác phẩm đó không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm là bản tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh đầy gian lao mà cũng vô cùng hào hùng của dân tộc.

     Năm 1427, nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi huy hoàng, đã tiêu diệt viện binh của giặc. Lúc này, Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan để chờ hai đạo viện binh do hai tướng giỏi của nhà Minh chỉ huy là Liễu Thăng và Vạn Thạnh, nhưng hai đạo quân này đã bị quân ta chặn đánh, Vương Thông viết thư xin hàng và rút quân về nước. Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” để tuyên bố với toàn dân về việc dẹp yên giặc Ngô. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, được ban bố vào đầu năm 1428.

     Phần đầu của tác phẩm, Nguyễn Trãi nêu lên luận đề chính nghĩa: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo. Nhân nghĩa vốn được hiểu là lòng yêu thương con người. Nhưng với Nguyễn Trãi, yêu thương ấy phải được thể hiện bằng hành động cụ thể: “cốt ở yên dân”, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, mà trước hết là phải trừng trị kẻ có tội, bấy giờ chính là giặc Minh xâm lược. Như vậy, nhân nghĩa của ông xuất phát từ lòng yêu dân, mong cho dân có cuộc sống yên ổn. Đây là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Trãi, đồng thời đây cũng là lần đầu tiên người dân xuất hiện với vị trí quan trọng trong văn kiện có tầm cỡ thời đại.

     Phần tiếp theo, ông đưa ra năm yếu tố cơ bản để khẳng định sự tồn tại có chủ quyền của nước Đại Việt. Nền độc lập của ta được dựa trên: Cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, truyền thống lịch sử và chủ quyền riêng “mỗi bên xưng đế một phương”. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc. Đây là bước tiến dài so với bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất – Nam quốc sơn hà.

     Sau khi nêu lên luận đề chính nghĩa, bằng giọng văn đanh thép Nguyễn Trãi đã vạch trần tội ác của giặc Minh. Để tố cáo tội ác của chúng, ông đứng trên lập trường dân tộc, sử dụng ngôn ngữ hết sức chuẩn xác: nhân, thừa cơ cho thấy luận điệu bịp bợm của giặc Minh: phù Trần diệt Hồ. Không chỉ vậy ông còn đứng trên lập trường nhân bản để tố cáo tội ác của kẻ thù khi chúng cai trị nhân dân ta. Chúng hủy hoại cuộc sống của con người bằng những hành động hết sức dã man: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ. Không dừng lại ở đó chúng còn hủy hoại môi trường sống của muôn loài cây cỏ; Các chính sách thuế khóa nặng nề, vơ vét cho bằng hết sản vật của nước ta, tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, tiêu diệt đường sống muôn loài. Chúng sử dụng dân ta như một công cụ để phục dịch cho chúng: người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,… Những tội ác của chúng thấu đất, vang tới tận trời xanh, không thể dung thứ: Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần nhân chịu được. Câu hỏi vang lên như một lời cảnh cáo, cũng thể hiện niềm đau xót của tác giả trước thảm cảnh mà nhân dân phải hứng chịu. Với những hình ảnh đối lập tương phản, giàu giá trị gợi cảm tác giả đã tố cáo một cách đanh thép nhất tội ác của kẻ thù.

     Sau những lời văn thống thiết, nhưng cũng đầy mạnh mẽ, tiếp đến Nguyễn Trãi kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và thắng lợi tất yếu của quân dân ta. Trong những buổi đầu khởi nghĩa, tình thế quân ta hết sức khó khăn, quân thù đang vào thời điểm mạnh nhất, quân ta thì Tuấn kiệt như sau buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu. Tương quan đó khiến cuộc khởi nghĩa càng trở nên khó khăn. Nhưng dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Lê Lợi, quân ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Lê Lợi là người có lòng căm thù giặc sâu sắc: Ngẫm thù lớn há đội trời chung/ Căm giặc nước thề không chung sống và ông mang trong mình lòng quyết tâm lớn tiêu diệt quân xâm lược, mang lại bình yên cho nhân dân. Ông không chỉ coi trọng người hiền tài mà còn coi trọng vai trò của nhân dân: Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới. Tất cả người dân nhỏ bé, thấp kém nhất đều được tập hợp dưới ngọn cờ của Lê Lợi. Đây là lần đầu tiên người dân được đưa vào vị trí trang trọng đến vậy. Điều đó đã tạo nên sự thống nhất một lòng, đoàn kết toàn dân tộc. Chính sự đoàn kết đó đã đem lại hết thắng lợi này đến thắng lợi khác cho nhân dân ta: Đánh một trận, sạch không kình ngạc/ Đánh hai trận, tan tác chim muông/ Nổi gió to trút sạch lá khô/ Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.

     Lời tuyên bố chiến thắng, mở ra kỉ nguyên độc lập của dân tộc thật dõng dạc, tràn đầy niềm tự hào: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới, đất nước ta bước vào thời kì tự chủ, thịnh vượng dưới triều đại mới. Đồng thời ông cũng rút ra những bài học lịch sử: Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh, để khẳng định niềm tin vào vận mệnh mới của dân tộc sau khi đã trải qua những cơn bĩ cực. Đồng thời ông cũng khẳng định, chiến thắng chúng ta có được là nhờ sự kết hợp sức mạnh của thời đại và sức mạnh truyền thống dân tộc: Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.

     Văn bản là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và chất văn chương. Kết cấu văn bản chặt chẽ, lập luận vô cùng sắc bén, lời văn đanh thép tố cáo tội ác giặc, hùng hồn, hào sảng khi nói về chiến công của nhân dân ta. Nhưng bên cạnh đó cũng đậm chất văn chương nghệ thuật với những câu văn giàu cảm xúc, giàu hình tượng, giàu giá trị tạo hình, gây ám ảnh sâu sắc với người đọc.

     Tác phẩm là bài ca ngợi ca cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thần kì đã chấm dứt sự xâm lược của giặc Minh. Đồng thời cũng là bản tố cáo đanh thép, dõng dạc những tội ác mà giặc Minh phạm với nhân dân ta. Bên cạnh đó Đại cáo Bình Ngô còn là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn bất hủ của muôn đời.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 7

thấy rằng trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi có một tác phẩm rất nổi tiếng, chính là “Bình Ngô đại cáo” lưu danh ngàn đời. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta” là một phần đầu của bài cáo này. Đoạn trích nêu lên được luận đề về nhân nghĩa. Qua đó, khẳng định chủ quyền dân tộc vốn có của nước Đại Việt.

Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Trãi nêu lên luận đề nhân nghĩa rất rõ ràng:

“Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”

Nhân nghĩa là khái niệm đạo đức trong Nho giáo, nói về cách ứng xử và tình thương giữa người với người. Nguyễn Trãi đã kế thừa và phát huy khi sử dụng trong văn thơ. Nhân nghĩa không phải là điều gì xa xôi, mơ hồ mà nhân nghĩa là làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn, ấm no và hạnh phúc. Và để làm được điều đó thì quan trọng, thiết yếu là phải diệt giặc tàn bạo. Ở giai đoạn này, dân tộc ta đối mặt với quân Minh.

 thấy sau khi nêu vấn đề chính “nhân nghĩa” thì Nguyễn Trãi tiếp tục lập luận để đưa ra những dẫn chứng, chân lí vô cùng sắc bén:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương,

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.”

Nguyễn Trãi đưa ra nhiều yếu tố mấu chốt để khẳng định chủ quyền dân tộc Đại Việt ta. Chúng ta có thể thấy ở bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên “Nam quốc sơn hà” thì chỉ khẳng định chủ quyền  trên hai phương diện chính là chủ quyền và lãnh thổ. Đến Nguyễn Trãi thì ông lại đưa thêm các yếu tố khác như: phong tục, tập quán, lịch sử và chế độ riẻng. Với sự nhận thức sâu sắc, đúng đắn về vấn đề chủ quyền thì Nguyễn Trãi xem như là người đã hoàn chỉnh quan niệm về quốc gia dân tộc với các yếu tố thuộc về chiều sâu văn hóa. cho rằng Nguyễn Trãi sử dụng các từ mang nghĩa biểu đạt tính chất hiển nhiên: từng nghe, vốn xưng, đã lâu, đã chia,... để khẳng định sự tồn tại độc lập lâu dài của đất nước. Ông còn so sánh các triều đại của ta với Trung Quốc bằng biện pháp so sánh rất độc đáo để ai ai cũng nhận ra rằng dân tộc ta cũng có những triều đại xây dựng được nền độc lập.

Tác giả sử dụng một giọng văn đanh thép, dõng dạc xuyên suốt đoạn trích càng làm cho ý nghĩa của đoạn trích được chắn chắc, ai đọc cũng phải nhìn nhận. Đại Việt xứng đáng là một quốc gia có độc lập, chủ quyền và dù bất kì kẻ thù lớn mạnh như thế nào nếu xâm lược sẽ bị chuốt lấy bại vong.  Dù lúc này hay lúc khác, dù mạnh hay yếu thì ở nước ta vẫn có người tài cao, chí lớn hơn người.

đoạn thơ cuối trong đoạn trích nói lên sự thất bại của kẻ thù:

“Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.”

Nguyễn Trãi liệt kê các dẫn chứng hùng hồn của lịch sử: Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết thương vong, Toa Đô bị bắt, Ô Mã bị giết. Những dẫn chứng này cho thấy rõ niềm tự hào dân tộc của tác giả và càng chứng minh lời văn có sức thuyết phục cao.

Hai câu thơ cuối tuy ngắn gọn nhưng có ý nghĩa rất quan trọng:

“Việc xưa xem xét

Chứng cớ còn ghi.”

Một lần nữa, tác giả khẳng định chân lí tồn tại độc lập của dân tộc ta.

Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử lỗi lạc, ngoài tài năng về quân sự ông còn là một nhà thơ, nhà văn lớn với biết bao tác phẩm để đời. Các tác phẩm thơ cũng như văn chính luận đều đạt đến độ xuất sắc. 

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 8

Sau khi đã nắm được những nét chính về tác giả, tác phẩm, thể loại cũng như bố cục của tác phẩm, chúng ta cùng cảm nhận và phân tích Bình ngô đại cáo.

Ngay từ những dòng thơ đầu, tác giả đã nêu tư tưởng nhân nghĩa cũng như khẳng định cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là chính nghĩa, vì lợi ích của nhân dân:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Mối quan hệ giữa người với người được gây dựng bằng tình yêu thương và đạo lý thì đó chính là nhân nghĩa. Quan trọng hơn là tác giả đã đưa tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với thực tế lịch sử dân tộc. Ngay từ hai dòng thơ đầu, Nguyễn Trãi đã cho rằng, yên dân thì trước hết phải trừ bạo để dân được sống hòa bình và yên ổn.

Khi phân tích Bình ngô đại cáo, ta nhận thấy tư tưởng nhân nghĩa không còn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã trở thành lý tưởng xã hội, với đường lối chính trị lấy dân làm gốc. Do đó, nhân nghĩa phải gắn liền với dân, với cuộc sống bình yên, độc lập và no ấm của nhân dân. Để được như vậy thì cần phải diệt trừ quân xâm lược nhà Minh.  Như vậy, phân tích Bình ngô đại cáo đã cho ta thấy tư tưởng nhân nghĩa chính là lòng yêu nước, thương dân và tinh thần chống giặc ngoại xâm.

Tiếp theo, Nguyễn Trãi đã đưa ra một loạt chứng cứ xác đáng và thuyết phục nhằm khẳng định chủ quyền của đất nước, của dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Nước Đại Việt với hàng nghìn năm lịch sử cùng nền văn hiến lâu đời đã tạo nên một diện mạo mới cho dân tộc. Bên cạnh đó chính là sự phân chia về lãnh thổ, núi sông hay các phong tục tập quán. Phân tích Bình ngô đại cáo trong những câu thơ này đã thể hiện rất rõ Đại Việt là đất nước có chủ quyền, cũng như có các anh hùng hào kiệt chiến đấu hết mình để bảo vệ chủ quyền dân tộc.

Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại của dân tộc ngang hàng với các triều đại của Trung Quốc xưa đồng thời khẳng định các triều đại phương Bắc phát triển thì các triều đại của Đại Việt cũng hùng mạnh không kém. Phân tích Bình ngô đại cáo ta dễ thấy đây chính là sự tự tôn và niềm tự hào sâu sắc về dân tộc của tác giả. Bên cạnh đó, ông cũng nhắc đến những chiến thắng lừng lẫy của nước ta như lời khẳng định sự thất bại thảm hại của kẻ thù:

“Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.

Việc xưa xem xét,

Chứng cớ còn ghi”

Các tướng giỏi của Đại Việt đã đánh bại các tướng của nhà Tống, nhà Nguyên. Chính vì sự tham lam, tham công thích lớn nên phải nhận sự thất bại. Đó là những sự kiện hiển hách vang dội trong lịch sử được lưu lại hậu thế. Nguyễn Trãi đã sử dụng các phép so sánh đối xứng ngang hàng cùng với giọng điệu hào hùng đã làm nổi bật lên tư tưởng nhân nghĩa.

Bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân thù

Phân tích Bình ngô đại cáo trong đoạn tiếp theo này, chúng ta nhận thấy Nguyễn Trãi đã vạch tội những âm mưu và tội ác của kẻ thù xâm lược. Cùng với đó là những chính sách cai trị thâm độc, tàn bạo của kẻ thù và hình ảnh về sự thống khổ của người dân:

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lòng dân oán hận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,

Bọn gian tà bán nước cầu vinh”

Với chính sách phiền hà của nhà Hồ đã được quân Minh lợi dụng chớp lấy thời cơ xâm lược nước ta. Sự xâm lược tàn bạo, chính sách cai trị vô nhân đạo, tàn sát người vô tội, sự bóc lột dã man, đồng thời hủy hoại môi trường….Bước chân xâm lược của chúng khiên nhân dân ta vô cùng căm giận. Cùng lúc ấy thì những kẻ “gian tà” nịnh thần chỉ biết tư lợi cho bản thân mà tiếp tay cho kẻ thù để bán nước cầu vinh.

Để rồi, khi phân tích Bình ngô đại cáo, ta thấy những tội ác mà quân Minh gây ra là không thể dung tha:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây binh kết oán trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi”.

Nhân dân Đại Việt phải chịu cảnh lầm than, khổ cực dưới ách đô hộ thống trị của kẻ thù phương Bắc. Quân xâm lược cai trị nhân dân ta với đủ loại thuế phí vô lí, những kế sách nham hiểm với sự tra tấn dã man tàn bạo. Nhân dân ta phải chịu cuộc sống tăm tối với sự áp bức bóc lột nặng nề của giặc Minh.

Phân tích Bình ngô đại cáo ta còn thấy sự dã man hiểm độc của kẻ thù qua việc chúng hủy hoại môi trường sống, môi trường tự nhiên của dân tộc ta

“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt”.

Những hành động hung hãn, sự cai trị độc tài tàn bạo của giặc Minh như ép dân đen “xuống biển dòng lưng mò ngọc” rồi “vào núi đãi cát tìm vàng”. Quân Minh đã khiến nhân dân ta như những người nô lệ lầm than khổ cực. Chúng xâm lược Đại Việt ta để vơ vét hết những tài sản quý giá, hủy hoại môi trường và bóc lột dã man người dân.

Bên cạnh việc đẩy nhân dân ta vào những chổ hiểm nguy cận kề cái chết mà cúng còn tàn bạo với cả cây cỏ và côn trùng. Nhân dân ta rơi vào cảnh đầy bi thương và khốn khổ:

“Nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi”.

Những tội ác của quân Minh không sao kể hết bởi lẽ:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần nhân chịu được?”

Phân tích Bình ngô đại cáo đã chỉ rõ những tội ác và sự dơ bẩn của quân xâm lược ngay cả trúc Nam Sơn, nước Đông Hải cũng không thể ghi hết tội ác và rửa sạch được sự dơ bẩn. Câu hỏi tu từ cuối câu như nhấn mạnh sự ác độc của kẻ thù. Nhân dân ta không thể tha thứ những kẻ đã tàn sát đồng bào, tàn bạo cây cỏ và môi trường.

Sự đối lập giữa người dân đen vô tội bị đàn áp bóc lột thậm tệ với hình ảnh kẻ thù vô nhân tính đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa của tác giả.

Quá trình chiến đấu gian khổ và sự toàn thắng của khởi nghĩa Lam Sơn

“Ta đây:

Núi Lam sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống

Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời

Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thù đang mạnh…

….

Cũng là chưa thấy xưa nay”

Tác giả đã sử dụng cách tự xưng gần gũi ta đã cho thấy vị lãnh tụ mang theo trong mình tấm lòng căm thù giặc sâu sắc, há đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu tư đau lòng nhức óc, quên ăn vì giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Để rồi khi phân tích Bình ngô đại cáo, ta nhận ra khi vượt qua những ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở đời, người anh hùng dân tộc đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn yếu thế. Đúng lúc khởi nghĩa là khi quân thù đương mạnh, trong khi nhân tài, tuấn kiệt của ta lại hiếm hoi, thậm chí quân tiếp viện, lực lượng trực tiếp chiến đấu lẫn lương thảo đều ít ỏi, khó khăn

Người chủ tướng Lê Lợi nhận mệnh lớn trời trao, khi đã biết khắc phục gian nan thì cũng tìm ra được con đường chiến đấu. Do vậy, có tinh thần đoàn kết nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều và trên hết ta có đại nghĩa, có chí nhân.

Tuyên bố chiến thắng và nêu lên bài học lịch sử

Trong phạm vi chỉ đôi ba dòng của bài cáo, nhưng với sự khéo léo và tài tình của mình, tác giả đã tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc rất dễ hình dung ra toàn cảnh của chiến trường khốc liệt. Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, nối dài, phủ rộng khắp mọi miền. Phân tích Bình ngô đại cáo ta thấy đầu tiên là chiến dịch là trận Bồ Đằng, miền Trà Lân ở xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến Tây Kinh xứ Thanh, rồi thẳng tiến về Đông Đô với hai trận Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ thành công Thăng Long. Với khí thế và sự quyết tâm của cuộc khởi nghĩa đã khiến cho vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động binh cứu viện, nhưng dựa vào tình hình của ta mà nghĩa quân Lam Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng những trận đánh liên tiếp, mạnh mẽ.

“Âu cũng nhờ trời đất tổ tông

Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,

Nên công oanh liệt ngàn năm

Bốn phương biển cả thanh bình,

Ban chiếu duy tân khắp chốn.”

Xã tắc từ nay vững bền, đất nước từ nay đổi mới và bước sang một trang mới hơn – đó chính là thời kỳ của tự do, tự chủ, hạnh phúc và ấm no. Phân tích Bình ngô đại cáo ta thấy ở đoạn cuối này Nguyễn Trãi nhắn đến ông cha như một sự biết ơn.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 9

Bước sang thế kỷ XV, từ khởi nghĩa Lam Sơn cho đến khoảng ba mươi năm của triều Lê Thái Tông, văn học anh hùng ca của nước ta phát triển mạnh mẽ. Trong số những nhà thơ, nhà văn viết về đề tài anh hùng ca như Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du…, Nguyễn Trãi là người có công lao to lớn trong việc đưa thế loại anh hùng ca đi đến đỉnh cao chói lọi. Cho nên, nhắc đến anh hùng ca, chúng ta không thế nào quên tác phẩm Bình Ngô dại cáo, một áng "thiên cổ hùng văn", một bản tuyền ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta. Tháy mặt Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết Bình Ngô đại cáo để ban bố cho nhân dân cả nước biết sự nghiệp bình Ngô phục quốc đã thắng lợi, đất nước độc lập, hòa bình trở lại, một thời kỳ phục hưng bắt đầu. Mô đầu kiệt tác này, Nguyễn Trãi đã viết:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi dã chia

Phong tục Bắc Nam củng khúc

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời xây nền độc lập.

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng dể một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.

Song hào kiệt đời nào củng có…".

Đoạn cáo trên đã nêu lên mục đích cao cả của công cuộc kháng chiến chống quân Minh x'ậm lược đồng thời thề hiện niềm tự hào dân tộc mãnh liệt của Nguyễn Trãi.

Vấn đề "an dân" luôn cháy bỏng trong tâm hồn Nguyễn Trãi:

"Việc nhân 'nghĩa cốt ở yên dân.

Quân điếu phạt trước lò. trừ bạo".

Như vậy "nhân nghĩa" là phải làm cho "yên dân", đất nước được độc lập, tự do. Vì "yên dân" nên phải đánh tan thù trong giặc ngoài. Phải là một người sống gần dân, có ăn những bữa ăn dưa muối cùng dân, phải tận mắt thấy "dân chúng bốn phương cõng dịu nhau mà kéo đến" với nghĩa quân, phải mang nặng tồ quốc và nhân dân trong trái tim của mình nên Nguyễn Trãi mới có một quan niệm cao đẹp như thế. Tư tưởng này vượt xa Khống Tử và Mạnh Tứ. Mai Quốc Liên nhận xét rằng: "trong Luận ngữ, gần 150 lần Khổng Tử định nghĩa về chữ "nhân" nhưng chưa bao giờ ông định nghĩa "nhân" bằng yên dân, thương nước. Mạnh Tử có tinh thần dân chủ hơn Khổng Tử, ông trách các vua chúa đương thời "tranh đất, đánh nhau, giết người đầy đồng, tranh thành đánh nhau, giết người đầy thành" nhưng thời Mạnh Tử là thời theo chính ông, không có "chiến tranh chính nghĩa" (xuân thu vô nghĩa chiến), nên dù tiến bộ hơn Khổng Tử, ông cũng không thế đem lại cho khái niệm nhân nghĩa một nội dung chân chính như Nguyễn Trãi". Nếu đối chiếu với Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn thì quan niệm "trừ bạo" của Nguyễn Trãi vẫn có sự cách biệt. Trần Quốc Tuấn ra Hịch kêu gọi tướng sĩ trước hết vẫn vì quyền lợi của bản thân ông và các tướng dưới quyền. Còn nếu chúng ta..so sánh với bản tuyên ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc ta – bài thơ thần của Lý Thường Kiệt – quan niệm của Nguyễn Trãi vẫn tiến bộ hơn. Lý Thường Kiệt kêu gọi với quân giặc răng:

"Nam quốc sơn hà Nam đê cư"

(Núi sông Nam Việt vua Nam ở)

Quan niệm này vẫn nhấn mạnh vai trò của giai cấp thống trị: "vua Nam ở".

Hai câu tiếp theo, Nguyễn Trãi nói về nền văn hóa của dân tộc ta với niềm tự hào sâu sắc:

"Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu".

"Nền văn hiến" ấy bắt nguồn từ nền văn hóa dân gian đa dạng, phong phú của những con người Việt Nam "chân lấm tay bùn", cần cù, chất phác, giàu tình nặng nghĩa, bất khuất, hiên ngang. Nhân dân ta phải bao lần đổ xương, đố máu đế đấu tranh chống bọn phong kiên phương Bắc, đề giữ gìn và phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.

Có thế nói, hai câu văn là lời tuyền ngôn văn hóa đanh thép của dân tộc ta, bởi lẽ bọn xâm lược phương Bắc luôn có những tư tưởng cực kỳ phản động đối với nền văn hóa của dân tộc ta. Đó là sự phân biệt giữa "hoa hạ" và "tứ di" mà cha ông ta không thề nào chấp nhận được. Quan niệm "hoa hạ" và "tứ di" cho rằng bọn xâm lược là tốt đẹp, văn minh, còn ta là người man rợ phương Nam. Riêng triều đại nhà Minh, quan niệm ấy còn thâm độc và nham hiếm hơn nhiều. Vua Minh đã ban mệnh lệnh ngày 21-5-1407, cho Trương Phụ bảo rằng phải: "lập tức hủy hoại hết" nền văn hóa của ta từ cái nhỏ nhất là "một mảnh giây, một nửa chữ" cho đến cái lớn hơn là "những bia khắc" tên những anh hùng đã xả thân vì nước, vì dân.

Nếu hai câu trên là bản tuyên ngôn về văn hóa thì hai câu dưới là bản tuyên ngôn về chủ quyền của dân tộc ta:

"Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác".

Nội dung hai câu này chỏ' nặng tư tương của Lý Thường Kiệt năm xưa trong bản tuyên ngôn đầu tiên:

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư".

(Núi sòng Nam Việt vua Nam ở Vàng vặc sách trời chia xứ sớ)

Lời phát biểu dõng dạc, dường hoàng của Lý Thưởng Kiệt cũng như của Nguyễn Trãi đã chống lại thái độ của bọn giặc phương Hắc khi xem nước ta chỉ là một quận hoặc huyện nhỏ hẹp trên bản đồ của chúng.

Nhưng Nguyễn Trãi khẳng định rạch ròi: nước ta có chủ quyền thì mọi phong tục, tập quán của ta không thể nào giống với quân cướp nước được. Bên Bắc có Bắc đế thì bên Nam cũng có Nam đế:

"Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương".

Vậy nên, dù ở triều đại này hay triều đại khác, nước Đại Việt luôn có đủ mọi nhân tô để cấu thành một quốc gia độc lập.

Hai câu cuối cùng của đoạn trích nói lên niềm tự hào của Nguyễn Trãi về những anh hùng hào kiệt của Tố quốc:

"Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào củng có".

Trong nhiều tác phẩm, Nguyễn Trãi luôn đặt sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc lên hàng đầu. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi cũng không phủ nhận vai trò quan trọng của cá nhân và anh tài trong lịch sử. Trước Nguyễn Trãi, mỗi khi Tố quốc lâm nguy, lịch sử chòng chành, đều có rất nhiều người tài giỏi, đứng lên tập hợp quần chúng, lãnh đạo khơi nghĩa cứu nước, giúp dân như Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,… còn tại thời điểm Nguyễn Trãi đang sống, Lê Lợi là tấm gương sáng. Lê Lợi không những giàu tài năng, hoài bão, khí phách mà còn giàu đức độ. Lê Lợi thường nói: "Ta sở dĩ dấy quân đánh giặc, không phải có lòng tham phú quý, mà chỉ muốn cho người nghìn năm sau biết là ta không chịu làm tôi tá cho lủ giặc tàn ngược thôi" (Đại Việt sử kí toàn thư).

Chính niềm tự hào mãnh liệt ấy đã thúc đấy Nguyễn Trãi đi theo Lê Lợi, gia nhập khởi nghĩa Lam Sơn, tính kê vạch mưu cho nghĩa quân đánh giặc, viết thư thảo hịch, dụ địch qui hàng, lo liệu nội trị, bang giao,… Nguyễn Trãi đã trở thành danh thần bậc nhất trong sự nghiệp bình Ngô phục quốc, sửa sang văn trị thái bình.

Tóm lại, trích đoạn của bài Bình Ngô đại cáo đã thế' hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời của một trí tuệ trác tuyệt, siêu việt. Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã kế thừa được những yếu tố tích cực của các chủ nghĩa nhân đạo cố đại phương Đông nhưng đã vượt qua chúng về mặt tính chất và trình độ tư tưởng. Càng hiểu tâm hồn Nguyễn Trãi, càng hiểu thơ văn Nguyễn Trãi, nhất là bài Bình Ngô đại cáo, chúng ta càng kinh ngạc, khâm phục và kính trọng Nguyễn Trãi nhiều hơn.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 10

Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, tài ba có công lớn trong công cuộc dẹp giặc Minh đem lại nền thái bình thịnh trị cho nước nhà. Ông còn là một nhà văn nhà thơ lớn với khối lượng tác phẩm đồ sộ bao gồm cả văn học chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó phải kể đến một số tác phẩm như: Đại cáo bình Ngô, Quân trung từ mệnh tập, Quốc Âm thi tập, Ức Trai thi tập…

Đại cáo bình Ngô được coi là áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Trong đó, cốt lõi là phần đầu tác phẩm với lý tưởng nhân nghĩa được thể hiện rõ ràng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Mở đầu bài cáo tác giả nêu luận đề chính nghĩa. Việc nhân nghĩa của Nguyễn Trãi ở đây là “yên dân” và “trừ bạo”. “Yên dân” chính là giúp dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, như vậy dân có yên thì nước mới ổn định, mới phát triển được. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia.

Nguyễn Trãi thật tài tình khi nhận ra và khai sáng thành công vấn đề cốt lõi ấy. Việc nhân nghĩa tiếp theo chính là “trừ bạo” ý nói đến quân Minh, bọn gian tà chuyên đi bóc lột nhân dân. Bọn chúng thẳng tay hành hạ, cướp bóc, vùi dập dân ta trong vực thẳm của sự đau khổ. “Yên dân”, “trừ bạo”, hai việc này tưởng như không liên quan đến nhau nhưng lại là hai yếu tố có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau, vì nếu không yên dân tất trừ bạo khó yên, chúng được nhấn mạnh và tiến hành cùng lúc, thống nhất với nhau. Quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược, cụ thể là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân, gây ra bao tai hoạ.

Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là phạm trù đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội: phải chăm lo cho nhân dân được sống cuộc hạnh phúc, yên bình. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác”

Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Khi khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, NguyễnTrãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Đây chính là điểm sáng tạo cho thấy trí tuệ của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một quốc gia, nền văn hiến ngàn năm không ai có thể nhầm lẫn được, cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng.

Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy.

Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.

Từ năm yếu tố trên, Nguyễn Trãi đã khái quát gần như toàn diện về nền độc lập của một quốc gia. So với “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo thật sự hay hơn , đầy đủ, toàn diện hơn về nội dung cũng như tư tưởng xuyên suốt. Ngoài ra , để nhấn mạnh tư cách độc lập của nước ta, tác giả còn sử dụng cách viết sánh đôi nước ta và Trung Quốc: về bờ cõi, phong tục - hai nước ngang bằng nhau, về triều đại-bốn triều đại cường thịnh của ta so với bốn triều đại của Trung Quốc cùng nhân tài thời nào cũng có đã chứng tỏ ta không hề thua kém chúng.

Xuyên suốt đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác” đã làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Phần còn lại của đoạn đầu là chứng cớ để khẳng định nền độc lập, về các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử chúng đều thất bại là chứng cớ khẳng định rõ nhất:

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét

Chứng cứ còn ghi. 

Nguyễn Trãi đã tổng kết những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền độc lập dân tộc. Cách liệt kê, chỉ ra dẫn chứng rõ ràng, cụ thể, xác thực đã được công nhận bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đọc thấy ở đây ý thức dân tộc của Nguyễn Trãi đã vươn tới một tầm cao mới khi nêu cụ thể, rõ ràng từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “cửa Hàm Tử”, “sông Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm.

Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Bất cứ kẻ nào có ý muốn thôn tính, xâm lược ta đều phải chịu kết quả thảm bại. Cuộc chiến chống lại quân giặc, bảo vệ dân tộc là một cuộc chiến vì chính nghĩa, lẽ phải, chứ không như nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa khác, cho nên, dù thế nào đi nữa, chính nghĩa nhất định thắng gian tà theo quy luật của tạo hóa.

Đại cáo bình Ngô tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Trong đó, phần đầu tác phẩm, với nghệ thuật biền ngẫu, đã nêu được hai nội dung chính gần như hết bài cáo là nhân nghĩa và nền độc lập của dân tộc Đại Việt. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình.

Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 11

Sau khi cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thắng lợi vào cuối năm 1427, Lê Lợi đã sai Nguyễn Trãi soạn Đại cáo bình Ngô nhằm tổng kết lại một chặng đường lịch sử, ôn lại những tháng năm gian khổ, những chiến công hiển hách và ban bố cho toàn dân được biết. Tác phẩm được viết bằng thể cáo vốn có nguồn gốc ở Trung Quốc từ thời cổ.

Đây là một thể loại văn chương chính luận, một văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn đã được chép lại trong sách Đại Việt sử kí toàn thư (1479). Cũng như nhiều tác phẩm khác dưới thời trung đại, nhan đề bài cáo không phải Lê Lợi hay Nguyễn Trãi đặt mà do người đời sau thêm vào.

Trên thực tế, ngay trong sách Đại Việt sử kí toàn thư đã ghi rõ : Vào cuối tháng 12 năm Đinh Mùi “Vua đã bình được giặc Ngô, đại cáo thiên hạ, lời cáo viết…”. Như vậy tinh thần “Bình Ngô đại cáo” cũng đã được nhận thức từ rất sớm và đi vào tâm trí của nhiều thế hệ người đọc. Nhưng vì sao người xưa không nói “bình giặc Minh” mà lại nói “bình Ngô” ? Bản thân chữ “Ngô” không phải là cách gọi giặc phương Bắc hay mượn lối nói nôm na “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng” mà nhằm một ý khác sâu xa hơn.

Nguyên do bởi người lập ra triều Minh vốn tên Chu Nguyên Chương, suốt sáu năm trời trước khi lên ngôi Minh Thái Tổ đã từng xưng hiệu Ngô Vương. Bởi thế cách dùng từ “Ngô” ở đây chính là nhằm gọi đích danh vương hiệu thuỷ tổ nhà Minh và thể hiện thái độ khinh khi kẻ xâm lược. Ngay cả với ông tổ nhà Minh còn bị gọi tên như thế thì có sá gì không miệt thị vua Tuyên Tông đang tại vị : “Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng – Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy”,…

Tiếp cận Đụi cáo bình Ngô, người đọc hiện đại ngày nay cần chú ý rằng đây là tác phẩm văn chương chính luận điển hình dưới thời trung đại. về hình thức, tác phẩm được viết bằng lối văn biền ngẫu chữ Hán, gồm 74 liên (148 vế câu), phát huy sức mạnh thể văn tứ lục biến cách, giá trị biểu cảm, biểu âm, biểu nghĩa trong từng câu, từng khổ thơ và tạo nên khúc ca hùng tráng. Điều quan trọng hơn, tác phẩm có ý nghĩa kết tinh truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm và đặc điểm tư duy, quan niệm, nhận thức của con người trong thời trung đại về cơ sở lịch sử, văn hoá, xã hội, đất nước, dân tộc.

Rõ ràng bài cáo được viết theo lệnh nhà vua và dưới danh nghĩa lời tuyên cáo của vua với chúng dân, thế tất nội dung phải thể hiện được tiếng nói của nhà vua trong vai trò người cầm quyền. Toàn bộ nội dung tác phẩm Đại cáo bình Nqô toát lên tinh thần nhân nghĩa phù hợp với thiên mệnh, đạo trời; hành động của nhà vua phù hợp với ý nguyện trăm họ, chuyển hoá thành sức mạnh đánh tan quân xâm lược.

Cần chú ý rằng ngay từ câu mở đầu bài cáo đã nhấn mạnh vai trò người cầm quyền, người có trách nhiệm, đấng bề trên coi sóc và chăm nuôi muôn dân : “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Quan niệm “nhân nghĩa” phải hướng tới “yên dân” (làm cho dân yên) cho thấy chủ thể của “nhân nghĩa” không thể là số đông chung chung mà chỉ có thể là công việc lớn lao của bậc thức giả, vua chúa. Có thể khẳng định đây là một quan niệm tiến bộ nhưng trước sau vẫn không thể vượt qua được những quy định và giới hạn tất yếu của lịch sử.

Khi tiếp cận Đại cáo bình Ngô nói riêng cũng như mọi tác phẩm văn học thời trung đại cần đặt tác phẩm vào chính môi trường lịch sử, văn hoá đương thời mới hiểu đúng nội dung cũng như đánh giá đầy đủ những giá trị và bước tiến vượt bậc về tư tưởng so với quá khứ. Ngoài ra cũng cần đặc biệt chú ý tới đặc trưng “văn – sử – triết bất phân” thể hiện rất rõ trong bli cáo.

Những đặc điểm về văn học thể hiện nổi trội so với tư duy lịch sử (ghi chép các sự kiện, nhân vật, địa danh theo hình thức biên niên sử, theo tuyến tính thời gian,…) và triết học (quan niệm về nhân nghĩa, mệnh trời, thời vận, thời thế, mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân,…). Với Đại cáo bình Ngô, từ điểm nhìn dưới ánh sáng của loại hình học văn hoá trung đại vừa mang tính chuyên sâu vừa hướng tới liên ngành, tổng quát, khái quát sẽ giúp người đọc khám phá đúng đắn những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, đa diện và phong phú của tác phẩm.

Trong phần mở đầu, bài cáo khẳng định nền độc lập dân tộc, quyền tự chủ và truyền thống lâu đời bởi những khác biệt về văn hoá, về cương vực lãnh thổ, về phong tục tập quán và sự tự ý thức về sức mạnh dân tộc. Nguyễn Trãi đã khái quát phẩm chất người cầm quyền phải biết lấy yên dân làm cốt lõi của nhân nghĩa, trọng tâm của sự yêu thương con người và tôn trọng lẽ phải ; mọi hành động phải hướng đến thương xót, cứu giúp trăm họ và kiên quyết chống kẻ tàn bạo. Đó là nguyên cớ của cuộc khởi nghĩa và cũng là truyền thống của cả một dân tộc :

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,

Củng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khúc nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Giới nghiên cứu lâu nay đã khẳng định bài cáo có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, đứng sau bản thứ nhất là bài Nam quốc sơn hà tương truyền của Lí Thường Kiệt (?) Trên những nét cơ bản, đoạn văn trên đã bao quát được những nội dung cốt yếu trong định nghĩa về dân tộc được coi là kinh điển của I.V.Xtalin : “Dân tộc là một khối cộng đồng gồm nhiều người, khối ổn định, hình thành trong quá trình lịch sử, sinh ra trên cơ sở một ngôn ngữ chung, một lãnh thổ chung, một đời sống kinh tế chung, một cấu tạo tâm lí chung biểu hiện trong một nền văn hoá chung” (Tử điển triết học).

Nguyễn Trãi còn đặc biệt nhấn mạnh vai trò con người và sự tiếp nối của các thế hệ hào kiệt, bất chấp mọi hung vong, thắng thua, mạnh yếu. Điều đó làm nên truyền thống yêu nước và dòng chủ lưu của nền văn học yêu nước mà không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi. Từ việc ôn lại quá khứ xa đến nhắc lại quá khứ gần, Nguyễn Trãi kể rõ nguyên nhân mất nước và tội ác quân Minh trên tất cả các phương diện : tàn sát dân lành, áp bức chúng sinh, nặng thuế khoá, triệt hại môi trường sinh thái tự nhiên, phá hoại ngành nghề truyền thống, cưóp bóc để thoả mãn cuộc sốn? xa hoa hưởng lạc… Rồi ông đi đến khái quát:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần nhân chịu được?

Trước tội ác giặc Minh khiến cả trời và đất, thần và người đều căm giận, Nguyễn Trãi hoá thân trong vai trò chủ tướng Lê Lợi kể về nhũng ngày đầu nung nấu ý chí đánh giặc cứu nước :

Ta đây :

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không củng sống…

Giọng văn hoài cảm thiết tha, đầy những trăn trở lo toan và trở nên hài hoà hơn trong khí thế bốn phương đoàn kểt một lòng, nghĩa tình tướng sĩ gắn bó keo sơn và mưu lược đánh giặc:

Phần thì giận hung đồ ngang dọc,

Phần thì lo vận nước khó khăn.

….

Nhân dân bốn cối một nhà, dựng cẩn trúc ngọn cờ phấp phới;

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.

Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh ;

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều…

Ngay trong bản dịch, những cách dùng từ lặp lại : “Phần thì giận… Phần thì lo…”, “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần – Khi Khôi Huyện quân không một đội”,… cho thấy mức độ căng thẳng trong suy nghĩ cũng như khả năng đối phó với mọi khó khăn, biến cố đang dồn dập xảy ra. Cách nghĩ : “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn – Ta gắng chí khắc phục gian nan” thể hiện sâu sắc quan niệm triết thuyết Nho giáo “Thiên nhân cảm ứng”, “Thiên nhân hợp nhất”, “Đại thiên hành hoá”, “Thế thiên hành hoá” (Trời và người liên thông, cảm ứng với nhau ; trời và người hợp thành một thể thống nhất; bậc thức giả có thể thay trời hành đạo, giáo hoá chúng dân).

Rõ ràng đây là cách nghĩ nằm trong truyền thống tư tưởng Nho giáo nhằm suy tôn, linh thiêng hoá, huyền thoại hoá và vũ trụ hoá uy quyền nhà vua. Trước khi chuyển sang mô tả giai đoạn tấn công, thêm một lần Nguyễn Trãi khẳng định niềm tin vào chính nghĩa, lẽ phải của quân ta nhất định sẽ chiến thắng quân giặc mang bản chất phi nghĩa và tàn bạo.

Trọn hay :

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Đạo quân đem “đại nghĩa” (lẽ phải, nghĩa lớn, nghĩa cao cả) và “chí nhân”, hết lòng yêu thương, vị tha, trân trọng con người tất yếu sẽ chiến thắng. Từ đây những địa danh gắn với chiến thắng (Bồ Đằng, Trà Lân, Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động) và danh tính những tên tướng giặc bại trận (Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính, Trần Hiệp, Lí Lượng) nối tiếp được nêu lên phản ánh bước tiến của đạo quân không gì ngăn cản nổi:

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cũng lực kiệt;

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phụt, tâm công.

Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ ;

Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan…

Trong đoạn văn trên, Nguyễn Trãi đã nói lên được tư tưởng quân sự vừa mang tính chiến lược vừa là sự thể hiện nghệ thuật dụng binh bậc thầy. Riêng chữ mưu phạt có nghĩa là “đánh bằng mưu trí”, tâm công nghĩa là “đánh vào lòng người”. Binh pháp xưa khẳng định : “Trong phép dụng binh thượng sách là phạt mưu… ; thượng sách là công tâm”. Vấn đề đặt ra là sách xưa chỉ có hai từ phụt mưu và công tâm mà không sử dụng lối diễn đạt mưu phạt và tâm công. Vậy phải chăng Nguyễn Trãi đã dùng phép đảo trang để câu thơ vẫn giữ được ý người xưa mà lời thơ vẫn nhuần nhuyễn, âm điệu vẫn hài hoà “Ngã mưu phạt nhi tâm công, bất chiến tự khuất”.

Thế nhưng rất có thể Nguyễn Trãi đã không trình bày nội dung tâm công theo nghĩa truyền thống (đánh vào lòng người) mà đã sáng tạo và nâng cấp lên một trình độ nhân văn theo cách hiểu tâm công là “đánh bằng tấm lòng”, “tấn công bằng tấm lòng”, lấy tấm lòng nhân nghĩa mà giải thích, dùng lí lẽ để thuyết phục, cảm hoá, mở đường sống cho đối phương. Điều này càng trở nên có lí khi nối giữa hai từ này là liên từ chuyển nghĩa nhi (mà) biểu cảm sắc thái đối lập nhau và cả câu có thể được dịch xuôi: Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây đánh giặc bằng mưu trí nhưng lại tấn công bằng tấm lòng.

Tầm tư tưởng lớn thể hiện ở chỗ về lí thì đánh giặc bằng mưu trí nhưng về tình, xét trên phương diện nhân văn, thì dùng tấm lòng cảm hoá, mở mắt cho giặc hiểu rõ điều nhân nghĩa, đúng sai. Chính người đề cao nhân nghĩa, chủ động đứng trên tầm cao nhân nghĩa mới thấy hết hậu quả và lấy làm tiếc cho lối nghĩ cạn hẹp của giặc thù : “Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ – Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan”. Đó không phải là sự ngây thơ, ảo tưởng mà là tấm lòng nhận nghĩa cao cả của bậc thức giả, từ tầm cao nhân văn vẫn mong mở đường sống cho kẻ thù, nhưng nếu chúng vẫn còn ngoan cố thì tiếng nói của lí trí sẽ nổi lên diệt trừ không thương tiếc.

Nếu như ở đoạn trên, những tên người và địa danh đứng biệt lập trong từng câu thơ thì với toàn bộ phần sau, nhiều câu thơ lại xuất hiện đồng thời cả thời gian ngày tháng, tên người và tên đất. Ngay cả đến tên hiệu vua nhà Minh cũng bị vạch mặt gọi tên, chỉ rõ hành vi phản phúc : “Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng”. Mặt khác, cách thức liệt kê thời gian theo trình tự biên niên sử tạo nên cảm giác về các sự kiện, biến cố thay đổi dồn dập. Chiến công nối tiếp chiến công với đủ các cách đánh công đồn diệt viện, chốt giữ nơi hiểm yếu, chẹn đường cắt nguồti lương thực. Có được chiến thắng ấy là nhờ ở sự đoàn kết, sức mạnh của chính con người và ý chí đánh giặc :

Sĩ tốt kén người hùng hổ,

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

Đánh một trận sạch không kình ngạc,

Đánh hai trận tan tác chim muông…

Trong trận chiến quyết liệt này, biết bao những uy danh như Bá tước, Thượng thư, Đô đốc gắn với từng tên tuổi tướng giặc đều phải chịu thất bại thảm hại. Những hình ảnh ẩn dụ : đá núi mòn, nước sông cạn, sạch không kình ngạc, tan tác chim muông, trút sạch lá khô, sụt toang đê vỡ,… thể hiện sức mạnh chính nghĩa ở tầm vóc quy mô vũ trụ của nghĩa quân, trong khi thất bại của kẻ thù được đo đếm bằng các từ ngữ cụ thể, biểu cảm bằng những hình ảnh, động tác, hành vi xác thực, đời thường và tầm thường: lê gối dùng tờ tạ tội, trói tay để tự xin hùng, thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước, nghỉ ngờ khiếp vía mà vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân, tan tành, khốn đốn, quay gót chẳng kịp, cởi giúp ra hàng, hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,… Những địa danh đất nước thì gắn liền với chiến thắng của quân ta và thất bại của giặc thù, đưa đến lời cảm thương mang tầm vóc đất trời, vũ trụ:

Lụng Giang, Lạng Sơn, thây chất đẩy đường;

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.

Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ…

Trong toàn bộ phần trên đây, những câu ngắn dài đan xen nhau, biến hoá linh hoạt tạo nên âm điệu như hồi trống trận, khi thúc giục khi ngân vang, khi đanh thép, khi bi ai thương cảm. Dễ thấy những câu văn thể hiện sức mạnh và không khí chiến thắng của nghĩa quân Lam Sơn thường ngắn gọn, âm hưởng mạnh mẽ, dứt khoát; những câu mô tả thất bại của kẻ thù thường kéo dài, mang tính liệt kê, trình bày, dẫn giải. Đáng lưu ý là các thủ pháp nghệ thuật so sánh, tương phản, liên tưởng, cực tả giúp cho các câu văn trở nên sinh động, giàu hình ảnh, dễ đi vào lòng người.

Sau khi đánh tan quân giặc, thêm một lần nữa Nguyễn Trãi nhấn mạnh tinh thần nhân nghĩa, lấy tấm lộng mà đối xử với kẻ thù ngay cả khi chúng ở vào thế cùng lực kiệt : “Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh”. Với tầm suy nghĩ xa rộng của bậc thức giả, ông xác định rõ mục đích hoà hiếu : “Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức” (Dư dĩ toàn quân vi thượng nhi dữ dán đắc tức).

Quan điểm lấy dân làm gốc, ý thức “khoan dân”, nới sức dân đã được Nguyễn Trãi hết sức coi trọng. Điều này thể hiện tầm trí tuệ uyên bác nhưng đồng thời cũng là bài học lịch sử mà chính ông đã chứng kiến, nghiệm sinh trong thời nhà Hồ, thấy rõ cọc gỗ, lưới giăng cửa biển cũng vô ích và sức mạnh nhân dân mới là vô địch : “Lật thuyền mới rõ dân như nước” (Đóng cửa biển).

Đến phần kết, bài cáo trở lại nội dung quan phương và tuân theo những quy phạm về mặt thể loại. Câu thơ trở nên hoành tráng, chuẩn mực, giọng điệu khoa trương để nhấn mạnh thời thế lịch sử đã chuyển sang một trang mới và khẳng định sự trường tồn của dân tộc: “Xã tắc từ đây vững bền – Giang sơn từ đây đổi mới… Muôn thuở nền thái bình vững chắc – Ngàn thu vết nhục sạch làu”. Ngay ở lời kết này, tư duy hướng về lực lượng siêu nhiên Trời – Đất – Tổ tông tiếp tục được nhấn mạnh: “Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy”.

Trên cả hai chiều thời gian và không gian, chiến thắng lần này sẽ còn vang vọng tới mai sau và đem lại cuộc sống an bình cho mọi miền non sông đất nước: “Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm – Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”,… Tác phẩm Đại cáo bình Ngô được coi là “bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc”, “thiên cổ hùng văn”, “bản hùng ca lẫm liệt”, “một văn kiện chính trị có V nghĩa lịch sử lớn” và thuộc “một thể loại văn bản hành chính của nhà nước quân chủ”,. .

Do tính quy phạm của một tác phẩm thuộc thể cáo cho nên các phương diện thuộc về hình thức nghệ thuật thường ít có điều kiện được triển khai tìm hiểu. Hơn nữa, bản thân cách phiên dịch, cách hiểu, cách giải thích chiều sâu từng câu chữ văn bản cho đến nay vẫn chưa phải đã đến thấu đáo, toàn diện, chính xác. Tuy nhiên, chính nhờ giá trị tự thân mà Đại cáo bình Ngô cứ mãi toả hào quang, mãi cuốn hút mọi thế hệ người Việt Nam yêu nước và yêu văn chương.

Có thể nói rằng, với một tác phẩm không dài, lại được viết bằng lối văn biền ngẫu song Đại cáo bình Ngô đã có được sức vang hưởng vô cùng rộng lớn, tiêu biểu cho sức mạnh tinh thần, bản lĩnh văn hoá và nền văn hiến dân tộc. Vì lẽ đó mà tác phẩm được các thế hệ đón nhận, ngợi ca, luận bình và được giảng dạy rộng rãi trong nhà trường.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 12

Trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi đã ghi dấu tên mình như một nhà tư tưởng kiệt xuất, nhà chính trị lỗi lạc. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà thơ, nhà văn vĩ đại. Nổi bật trong gia tài văn học của Nguyễn Trãi là những áng văn chính luận kết hợp hài hòa giữa tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu nước thương dân với lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn. Bình ngô đại cáo là tác phẩm thể hiện rõ nhất tài năng cũng như tấm lòng nhân đạo của ông.

Bình Ngô đại cáo ra đời sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược hoàn toàn thắng lợi. Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Nhân nghĩa vốn là một phạm trù tư tưởng của Nho giáo, chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lí. Nguyễn Trãi đã chắt lọc lấy hạt nhân căn bản của tư tưởng nhân nghĩa: nhân nghĩa chủ yếu để yên dân, đồng thời phát huy truyền thống tốt đẹp của người Việt, đem đến nội dung mới cho nhân nghĩa: nhân nghĩa là yên dân trừ bạo. Đó là cơ sở để bóc trần giọng điệu xảo trá của giặc Minh, đồng thời khẳng định lập trường chính nghĩa của quân ta và tính chất xâm lược phi nghĩa của kẻ thù. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, giữ gìn độc lập dân tộc:


“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có”

Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của dân tộc ta. Với cảm hứng yêu nước, Nguyễn Trãi đã nói về độc lập dân tộc rất cụ thể: nước Đại Việt ta có cương vực lãnh thổ, có lịch sử, có nền văn hiến lâu đời, có lịch sử riêng, có chế độ riêng, có người hiền tài. Giọng điệu trang trọng, vang lên đầy kiêu hãnh, tự hào. Các từ ngữ: “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia”, “cũng khác” cho thấy sự tồn tại hiển nhiên, vốn có lâu đời của một đất nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến. So với Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt, ý thức độc lập dân tộc của Bình Ngô đại cáo toàn diện và sâu sắc hơn. Lý Thường Kiệt mới chỉ xác lập địa vị dân tộc ở hai phương diện lãnh thổ và chủ quyền. Nguyễn Trãi xác định dân tộc ở nhiều phương diện: lãnh thổ, lịch sử, văn hóa, văn hiến, con người. Lý Thường Kiệt căn cứ vào thiên thư- yếu tố tâm linh chứ không phải thực tiễn lịch sử. Nguyễn Trãi ý thức rõ và đề cao những yếu tố thực tiễn, căn bản nhất để làm nên một quốc gia độc lập. Tiếp theo, ông nêu ra những cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử mà chúng đều thất bại:

“Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi”

Soi chiếu luận đề chính nghĩa vào thực tiễn lịch sử, tác giả nêu lên bản cáo trạng đanh thép về tội ác của quân thù:
“Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những núi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?”

Phù Trần diệt Hồ chỉ là bức bình phong giặc để Minh lừa dối thiên hạ. Mục đích của chúng là lợi dụng tình hình chính trị bất ổn để thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Ngay sau đó là những câu văn thấm đẫm nước mắt và sự thương xót. Nguyễn Trãi đã phác họa bức tranh khổ cực của nhân dân ta khi giặc Minh xâm chiếm: kẻ lên núi tìm vàng, người xuống biển mò ngọc, tình cảnh chia lìa nheo nhóc, khốn cùng, vợ mất chống, con mất cha, gia đình li tán, dân tình bị đẩy vào cảnh phu phen, tàn hại cả môi trường sống. Hình ảnh nhân dân hiện lên tội nghiệp, đáng thương, khốn khổ, trong khi đó hình ảnh kẻ thù tàn bạo, vô nhân tính như những tên ác quỷ. Bằng biện pháp nói quá, tội ác của quân thù được khắc họa trong hai câu thơ giàu sức gợi: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Giọng điệu vừa uất hận sôi trào, vừa cảm thương tha thiết. Đau xót và căm thù tội ác trời không dung, đất không tha của quân giặc, nhân dân Đại Việt đã đồng lòng đứng dậy:
“Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.

Thế mà:

Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ

Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay”

Đoạn văn khắc họa hình tượng người chủ tướng Lê Lợi và những năm tháng gian khổ ban đầu của khởi nghĩa Lam Sơn. Hình tượng Lê Lợi được miêu tả bằng bút pháp tự sự kết hợp trữ tình: cách xưng hô khiêm nhường, nguồn gốc xuất thân cũng là chốn hoang dã nương mình cho đến địa bàn đóng quân hẻo lánh. Thế nhưng, người anh hùng áo vải lại có những phẩm chất đáng quý: lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí hoài bão lớn lao, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc. Cuộc khởi nghĩa được tiến hành trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ, khan hiếm lương thực, thế và lực không cân xứng, thiếu nhân tài hào kiệt. Nhưng, nhờ ý chí khắc phục gian nan, sức mạnh đoàn kết, tư tưởng chính nghĩa, sử dụng chiến lược, chiến thuật linh hoạt, quân và dân ta đã giành được nhiều thắng lợi. Ở đây, Nguyễn Trãi đã đề cao tính chất nhân dân, tính chất toàn dân, đặc biệt đề cao vai trò của những người dân nghèo, địa vị thấp hèn. Đó là tư tưởng lớn, tiến bộ trước đó chưa từng có và mãi đến thế kỉ 19 mới được Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục ca ngợi. Quá trình phản công và chiến thắng của quân ta được miêu tả hết sức sinh động bằng những hình ảnh có tính phóng đại, giọng văn sôi nổi, hào hùng diễn tả những chiến thắng dồn dập, liên tiếp cùng sự thất bại thảm hại của kẻ thù. Tình yêu hòa bình, tư tưởng nhân nghĩa yên dân- trừ bạo tiếp tục được khẳng định và sâu sắc hơn nữa.

Kết thúc bài cáo là lời tuyên bố thắng trận, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa và nêu lên bài học lịch sử:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;

Than ôi!

Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay”.
Bằng giọng văn trang nghiêm, trịnh trọng, bài cáo khẳng định, tuyên bố với toàn dân về nền độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước đã được lặp lại, đồng thời nêu lên bài học lịch sử: sự thay đổi thực chất là sự phục hưng dân tộc, là nguyên nhân, là điều kiện đề thiết lập sự vững bền. Có được thành quả như vậy là nhờ sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại được phát huy cùng với sức mạnh chính nghĩa. Nguyễn Trãi còn sáng suốt nhìn ra con đường đi cho dân tộc khi đặt ra vấn đề phải đổi mới để đất nước được vững bền.

Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc ta. Tác phẩm đã nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, chân lí độc lập dân tộc, tố cáo tội ác của kẻ thù, tái hiện quá trình kháng chiến hào hùng và tuyên bố độc lập, rút ra bài học lịch sử. Bình Ngô đại cáo còn là áng thiên cổ hùng văn, mang đậm cảm hứng anh hùng ca, kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận sắc bén và văn chương trữ tình.

Cho dù đã trải qua hàng mấy thế kỉ, đến ngày nay, Bình Ngô đại cáo vẫn giữ nguyên được giá trị tư tưởng vượt tầm thời đại của nó. Tác phẩm đã giúp người đọc hình dung ra một trang vàng son trong lịch sử dân tộc, khơi dậy tình yêu nước và tự hào dân tộc ở mỗi con người.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 13

Mùa xuân năm 1428, sau khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay Bình Định Vương Lê Lợi thảo bản “Cáo Bình Ngô” để tuyên bố sự thắng lợi của dân tộc. Bài cáo đã khẳng định chủ quyền, độc lập, tự tôn dân tộc rất rõ ràng, khí thế cà được coi là bản tuyên ngôn đọc lập thứ hai của dân tộc sau “Sông núi nước Nam” của Lý Thường Kiệt.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;
Điều đầu tiên mà Nguyễn Trãi nhắc tới ở bài cáo là tư tưởng “nhân nghĩa”. Nhân nghĩa là lễ nghĩa, nghĩa tình của một con người, nâng lên thành tư tưởng chính là cách đối nhân xử thế của một con người thực thụ, mà ở đây là cốt ở “yên dân”. Đây được coi là một tư tưởng mới, thấm nhuần nội dung tiến bộ của đạo Nho gia, đó là lấy dân làm gốc. Hơn ai hết, ông hiểu rằng, không gì quan trọng hơn là lo cho nhân dân một cuộc sống âm no, yên ổn. Bởi nhân dân chính là cái gốc của một dân tộc, một dân tộc không có dân thì không gọi là dân tộc, nhân dân sẽ là yếu tố quyết định số phận cả một dân tộc: “Đẩy thuyền là dân, Lật thuyền là dân”. Xuất phát từ tư tưởng ấy, mọi hành động đều là vì sự no ấm của dân, mà muốn dân yên ổn, phải trừ được bạo tàn chính là bè lũ bán nước và cướp nước. Phải dẹp gọn giặc xâm lăm, nhân dân mới được hưởng thái bình, sung túc. Tư tưởng ấy không chỉ còn là tư tưởng đạo đức mà đã nâng lên thành chân lí bất di bất dịch. Từ đó, ông đưa ra nhân nghĩa còn gắn với bảo vệ độc lập, khẳng định chủ quyền dân tộc:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên đế một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Nếu Lý Thường Kiệt khẳng định sự độc tôn dân tộc bằng sách trời thì Nguyễn Trãi đã khẳng định nước Đại Việt ta là một nước hoàn toàn độc lập, tự chủ với một nền văn hiến và có lãnh thổ riêng. Chúng ta và phương Bắc khác nhau về những phong tục, tập quán, văn hóa truyền thống và có cả lịch sử, nhân tài. Núi sông bờ cõi cũng đánh dấu rõ ràng ranh giới lãnh thổ, không cớ gì chúng nhận nước ta là một phần của chúng. Phương Bắc có chúa, Đại Việt cũng có vua, từng thời điểm lịch sử qua cũng có những thời đại riêng sánh ngang với những thời đjai lướn ở phương Bắc. Một đất nước có đủ mọi phương diện về văn hiến và lãnh thổ, chính là một đất nước độc lập không thể chối cãi, chính vì vậy, việc xâm lược của các nước phương Bắc đối với Đại Việt là sai trái, trái với nhân nghĩa.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết chí lớn phải vong thân;
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét.
Chứng cứ còn ghi.
Ông còn tự hào chỉ ra rõ ràng những tên tuổi, địa danh, những vết tích ô nhục của quân địch phải chịu khi xâm lược vào bờ cõi nước ta, lịch sử về việc chúng thạm bại dưới gươm chính nghĩa của nhân dân Đại Việt vẫn còn đó, chứng ứ còn rõ ràng hơn ban ngày. Điều đó đã khẳng định chúng là quân hiểm ác nhất định sẽ thất bại dưới chúng ta. Vậy mà, chúng vẫn không chịu đầu hàng:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây loạn
Rồi, nhân đó, ông chỉ ra những nỗi khổ mà nhân dân phải chịu đựng khi chính sự rối ren:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
Ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,
Khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng,
Máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất,
Chân tay nào phục dịch cho vừa?
Ông gọi nhân dân là “dân đen, con đỏ” thể hiện sự thương yêu, xót xa khôn cùng. Ông vạch ra tội ác của bọn xâm lăng, đi đến đâu là vùi chôn nhân dân trong lửa, trong máu, những việc tàn nhẫn như chôn sống, dối lừa, bắt thuế, bắt người xuống biển đi mò sản vật, lên rừng săn quý hiếm,… Những việc làm của chúng làm cho nhân dân không những không thể sống yên ổn mà còn chịu biết bao khổ sợ đau đớn, người mất mạn vô số, kẻ lầm than ở khắp nơi. Trong mắt nhân dân chúng chỉ như những con quỷ khát máu khát thịt lúc nào cũng nhe nanh đòi máu, đì mỡ, là những kẻ tội đồ mà:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Những cụm từ được đặt lên đầu câu nhấn mạnh vào sự căm hờn vô tả của Nguyễn Trãi đối với tội ác của bọn xâm lăng, những tội ác ấy không sao kể xuể, không gì rửa sạch được, không có ngòi bút nào kể hết, không nước ở đâu rửa sạch được máu mà chúng ta ấy lên đất Đại Việt. Sự tàn nhân và tội ác mà chúng để lại cho dân tộc ta đã chất nhiều vô kể, khiến cho:
Lòng người đều căm giận,
Trời đất chẳng dung tha;
Những lời sau là Nguyễn Trãi nói thay lời Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Ở đoạn này, Nguyễn Trãi tập trung chủ yếu vào việc miêu tả hình ảnh của Lê Lợi. Bắt đầu từ lòng căm thù đối với bè lũ bán nước và cướp nước khiến cho nhân dân ta lầm than, đến việc quyết định dấy binh khởi nghĩa, chịu bao nhiêu khó khăn nhưng vẫn kiên trì theo đuổi, bao nhiêu đêm trằn trọc, mất ngủ cũng đều là vì việc quân việc nước. Đúng là một chủ tướng vừa có tâm vừa có tài, hết lòng vì đại cuộc, với nhân dân lúc này chính là cần một người thủ lĩnh như vậy để dẫn dắt họ đứng lên đấu tranh đánh đuổi những tên xấu xa ra khỏi đất nước, giữ yên bờ cõi, giữ yên cuộc sống yên ổn, ấm no.

Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước,
Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền,
Thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng,
Mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng,
Vội vã hơn cứu người chết đói.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà,
Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử,
Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Tình thần thì kì vĩ nhưng khó khăn cũng không kém đồ sộ. Buổi đầu của cuộc kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn, vất vả, không thể chiêu dụ người tài, đất nước lại đang nhiều khó khăn, quân địch thì đang lúc mạnh nhất, khó đủ mọi bề. Nhưng nhờ vào sự đoàn kết của binh lính, coi nhau như ruột thịt, dốc lòng vì cuộc kháng chiến nên bao trận chiến ác liệt nổ ra, dân ta lấy ích địch nhiều nhưng lòng vẫn hồ hởi tự tin vào chiến thắng cuối cùng.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạọ
Dân ta chính là đại nghĩa, bọn xâm lược chính là hung tàn, câu thơ đối cực hay làm nổi bật sự khác biệt giữa ta và địch, đó chính là lí do, ta tất thắng. Vì thế mà những trận đánh trở nên ngày càng quyết liệt, hăng say:
Sĩ khí đã hăng quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy,
Mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh
Mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong,
Giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất,
Ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn
Nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính
Lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người,
Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc,
Để cười cho tất cả thế gian.
Những trận đánh quyết liệt được chỉ ra hết sức tự hào, thể hiện chí khí ngút trời và tinh thần không chịu lui của quân và dân. Nhưng quân ta càng mưu trí, hãnh diện bao nhiêu, lú cướp nước càng đê hèn bấy nhiêu;
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín,
Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười,
Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm,
Chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường
Tuyệt nguồn lương thực
Rồi những chiến thắng đến bắt đầu dồn dập nhưu vũ báo, báo hiệu sự toàn thắng của quân và dân ta:
Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Tiếp đó, Nguyễn trãi chuyển bài cáo sang không khí trận mạc, qua đó ta thấy được hình ảnh oai dũng của quân và dân ta trên chiến trường, đánh cho quân giặc không còn manh giáp:
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.

Vì thế mà chiến công hiển hách vang dội chất đầy như núi, thảm bại của giặc không kể sao cho xiết:
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ.
Bị ta chặn ở Lê Hoa,
Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật
Toàn những kẻ tham sống sợ chết, đê hèn bị ổi, xin hàng trong sự thất bại ê chề, vì nhân nghĩa, quân và dân ta dùng lòng nhân đạo để bao dung kẻ vô nhân. Kể từ ấy, chúng ta yên tâm vì:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Đất nước từ nay bước sang một trang mới, thời kì của đọc lập, tự chủ, của ấm no, hạnh phúc, không còn đâu những cảnh đau thương tan tác, mặt trời như đã tỏ rạng khắp giang sơn. Cuối cùng, Nguyễn Trãi nhắn đến cha ông ta như một sự biết ơn:
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông
Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Bài cáo có giá trị lớn lao, không chỉ thể hiện độc lập, chủ quyền dân tộc trong niềm tự tôn mà còn là tiếng nói yêu nước, yêu dân, tinh thần nhân nghĩa, ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm của con dân Đại Việt.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 14

Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hòa, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỷ nguyên hoà bình lâu dài cho dân tộc. Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là một bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại để báo cáo rộng rãi cho toàn dân được biết. Đại cáo bình Ngô được coi là "bản tuyên ngôn độc lập thứ hai" sau Thơ Thần của Lý Thường Kiệt, xứng đảng là áng "thiên cổ hùng văn" trong lịch sử văn chương nước ta.

Với nghệ thuật chính luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, đổng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Toàn bộ nội dung Đại cáo bình Ngô được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về chủ quyền độc lập của nước Đại Việt.

Có một chi tiết xưa nay ít ai để ý nhưng thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là tại sao Nguyễn Trãi lại gọi quân xâm lược nhà Minh là giặc Ngô và viết Đại cáo bình Ngô? Từ Ngô xuất hiện từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc xâm chiếm và cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau đó, từ Ngô nhập vào vốn ngôn ngữ dân gian của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm, nó được dùng để chỉ quân giặc phương Bắc nói chung với thái độ khinh bỉ. Như vậy là Nguyễn Trãi đã cố ý dùng cách gọi mà nhân dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phần và coi thưởng của mình.

Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng là tư tưởng thần dân mà ông rất coi trọng:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng bằng tình thương yêu và đạo lí. Điếu đáng nói hơn nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân nghĩa một nội dung mới rút ra từ thực tiễn của lịch sử dân tộc Theo ông, yên dân trước hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hoà bình.

Trong bài văn này cũng như trong các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, không chỉ là dân đen, con đò chung chung mà đã cụ thể ra là mạnh, lệ (kè đi cày, người đi ở), là dân mọn nơi xóm làng, là nhân dân lao động ở khắp bốn phương đất nước. Giặc giày xéo đất nước đổng nghĩa với giày xéo nhân dân Lo nước tức là dân, thương nước tức thương dân, cứu nước tức cứu dân. Nước và dân là một.

Nhân nghĩa không còn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã là một lý tưởng xã hội, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bản) làm chỗ dựa. Vi thế phải chăm lo cho dân chúng được no ấm, bình yên.

Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch và phân định rạch ròi ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa.

Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, cho nên sự tồn tại có chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt cũng là một chân lý khách quan.

Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lòng tự hào, tự tôn về đất nước có một nền văn hiến lâu đời:

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có

Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư - Thơ Thần), từ lâu đời đã song song tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm củng với hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia cổ phù quyển độc lập, tự do.

So với bài Thơ Thần của Lý Thường Kiệt thì Đại cáo bình Ngô thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm về quốc gia và dân tộc. Lý Thường Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh chủ quyền dân tộc ở lãnh thổ riêng biệt, ở ý chí độc lập thể hiện trong việc xưng đế, trong sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao khái niệm đó lên rất nhiều. Các vua Nam cũng xưng đế chẳng khác gì các đời vua của Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương, hoàn toàn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng nói đến bờ cõi riêng biệt, nhưng không viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn hiến, tức nói đến nền văn hoá của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc với đầy đủ tư cách độc lập. Như vậy, chủ quyển của quốc gia Đại Việt là một chân lý tất nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nổi- Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính những chứng cứ còn 0/7/trong lịch sử:

Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Của Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.

Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh ý: những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đổng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về phía những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này thật hùng hồn và sắc sảo.

Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những chi tiết cụ thể và nhận định khái quát, tác giả đã vẽ ra thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Cả đất nước chỗ nào thịt da cũng như rướm máu, chỗ nào cũng vang lên tiếng thét căm giận, oán than. Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép kết tội bọn bán nước và quân cướp nước.

Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối cùng là tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh:

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 15

Sau khi cuộc khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thắng lợi vào cuối năm 1427, Lê Lợi đã sai Nguyễn Trãi soạn Đại cáo bình Ngô nhằm tổng kết lại một chặng đường lịch sử, ôn lại những tháng năm gian khổ, những chiến công hiển hách và ban bố cho toàn dân được biết. Tác phẩm được viết bằng thể cáo vốn có nguồn gốc ở Trung Quốc từ thời cổ.

Đây là một thể loại văn chương chính luận, một văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn đã được chép lại trong sách Đại Việt sử ký toàn thư (1479). Cũng như nhiều tác phẩm khác dưới thời trung đại, nhan đề bài cáo không phải Lê Lợi hay Nguyễn Trãi đặt mà do người đời sau thêm vào.

Trên thực tế, ngay trong sách Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi rõ: Vào cuối tháng 12 năm Đinh Mùi “Vua đã bình được giặc Ngô, đại cáo thiên hạ, lời cáo viết…”. Như vậy tinh thần “Bình Ngô đại cáo” cũng đã được nhận thức từ rất sớm và đi vào tâm trí của nhiều thế hệ người đọc. Nhưng vì sao người xưa không nói “bình giặc Minh” mà lại nói “bình Ngô” ? Bản thân chữ “Ngô” không phải là cách gọi giặc phương Bắc hay mượn lối nói nôm na “Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng” mà nhằm một ý khác sâu xa hơn.

Nguyên do bởi người lập ra triều Minh vốn tên Chu Nguyên Chương, suốt sáu năm trời trước khi lên ngôi Minh Thái Tổ đã từng xưng hiệu Ngô Vương. Bởi thế cách dùng từ “Ngô” ở đây chính là nhằm gọi đích danh vương hiệu thuỷ tổ nhà Minh và thể hiện thái độ khinh khi kẻ xâm lược. Ngay cả với ông tổ nhà Minh còn bị gọi tên như thế thì có sá gì không miệt thị vua Tuyên Tông đang tại vị: “Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng – Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy”,…

Tiếp cận Đại cáo bình Ngô, người đọc hiện đại ngày nay cần chú ý rằng đây là tác phẩm văn chương chính luận điển hình dưới thời trung đại. về hình thức, tác phẩm được viết bằng lối văn biền ngẫu chữ Hán, gồm 74 liên (148 vế câu), phát huy sức mạnh thể văn tứ lục biến cách, giá trị biểu cảm, biểu âm, biểu nghĩa trong từng câu, từng khổ thơ và tạo nên khúc ca hùng tráng. Điều quan trọng hơn, tác phẩm có ý nghĩa kết tinh truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm và đặc điểm tư duy, quan niệm, nhận thức của con người trong thời trung đại về cơ sở lịch sử, văn hoá, xã hội, đất nước, dân tộc.

Rõ ràng bài cáo được viết theo lệnh nhà vua và dưới danh nghĩa lời tuyên cáo của vua với chúng dân, thế tất nội dung phải thể hiện được tiếng nói của nhà vua trong vai trò người cầm quyền. Toàn bộ nội dung tác phẩm Đại cáo bình Ngô toát lên tinh thần nhân nghĩa phù hợp với thiên mệnh, đạo trời; hành động của nhà vua phù hợp với ý nguyện trăm họ, chuyển hoá thành sức mạnh đánh tan quân xâm lược.

Cần chú ý rằng ngay từ câu mở đầu bài cáo đã nhấn mạnh vai trò người cầm quyền, người có trách nhiệm, đấng bề trên coi sóc và chăm nuôi muôn dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Quan niệm “nhân nghĩa” phải hướng tới “yên dân” (làm cho dân yên) cho thấy chủ thể của “nhân nghĩa” không thể là số đông chung chung mà chỉ có thể là công việc lớn lao của bậc thức giả, vua chúa. Có thể khẳng định đây là một quan niệm tiến bộ nhưng trước sau vẫn không thể vượt qua được những quy định và giới hạn tất yếu của lịch sử.

Khi tiếp cận Đại cáo bình Ngô nói riêng cũng như mọi tác phẩm văn học thời trung đại cần đặt tác phẩm vào chính môi trường lịch sử, văn hóa đương thời mới hiểu đúng nội dung cũng như đánh giá đầy đủ những giá trị và bước tiến vượt bậc về tư tưởng so với quá khứ. Ngoài ra cũng cần đặc biệt chú ý tới đặc trưng “văn – sử – triết bất phân” thể hiện rất rõ trong bli cáo.

Những đặc điểm về văn học thể hiện nổi trội so với tư duy lịch sử (ghi chép các sự kiện, nhân vật, địa danh theo hình thức biên niên sử, theo tuyến tính thời gian,…) và triết học (quan niệm về nhân nghĩa, mệnh trời, thời vận, thời thế, mối quan hệ Thiên – Địa – Nhân,…). Với Đại cáo bình Ngô, từ điểm nhìn dưới ánh sáng của loại hình học văn hoá trung đại vừa mang tính chuyên sâu vừa hướng tới liên ngành, tổng quát, khái quát sẽ giúp người đọc khám phá đúng đắn những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc, đa diện và phong phú của tác phẩm.

Trong phần mở đầu, bài cáo khẳng định nền độc lập dân tộc, quyền tự chủ và truyền thống lâu đời bởi những khác biệt về văn hoá, về cương vực lãnh thổ, về phong tục tập quán và sự tự ý thức về sức mạnh dân tộc. Nguyễn Trãi đã khái quát phẩm chất người cầm quyền phải biết lấy yên dân làm cốt lõi của nhân nghĩa, trọng tâm của sự yêu thương con người và tôn trọng lẽ phải, mọi hành động phải hướng đến thương xót, cứu giúp trăm họ và kiên quyết chống kẻ tàn bạo. Đó là nguyên cớ của cuộc khởi nghĩa và cũng là truyền thống của cả một dân tộc:

Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,
Củng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.

Giới nghiên cứu lâu nay đã khẳng định bài cáo có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc, đứng sau bản thứ nhất là bài Nam quốc sơn hà tương truyền của Lý Thường Kiệt (?) Trên những nét cơ bản, đoạn văn trên đã bao quát được những nội dung cốt yếu trong định nghĩa về dân tộc được coi là kinh điển của I.V.Xtalin: “Dân tộc là một khối cộng đồng gồm nhiều người, khối ổn định, hình thành trong quá trình lịch sử, sinh ra trên cơ sở một ngôn ngữ chung, một lãnh thổ chung, một đời sống kinh tế chung, một cấu tạo tâm lý chung biểu hiện trong một nền văn hoá chung” (Tử điển triết học).

Nguyễn Trãi còn đặc biệt nhấn mạnh vai trò con người và sự tiếp nối của các thế hệ hào kiệt, bất chấp mọi hung vọng, thắng thua, mạnh yếu. Điều đó làm nên truyền thống yêu nước và dòng chủ lưu của nền văn học yêu nước mà không một thế lực nào có thể ngăn cản nổi. Từ việc ôn lại quá khứ xa đến nhắc lại quá khứ gần, Nguyễn Trãi kể rõ nguyên nhân mất nước và tội ác quân Minh trên tất cả các phương diện: tàn sát dân lành, áp bức chúng sinh, nặng thuế khoá, triệt hại môi trường sinh thái tự nhiên, phá hoại ngành nghề truyền thống, cướp bóc để thoả mãn cuộc sống? xa hoa hưởng lạc… Rồi ông đi đến khái quát:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần nhân chịu được?

Trước tội ác giặc Minh khiến cả trời và đất, thần và người đều căm giận, Nguyễn Trãi hoá thân trong vai trò chủ tướng Lê Lợi kể về những ngày đầu nung nấu ý chí đánh giặc cứu nước:

Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không còn sống…

Giọng văn hoài cảm thiết tha, đầy những trăn trở lo toan và trở nên hài hoà hơn trong khí thế bốn phương đoàn kết một lòng, nghĩa tình tướng sĩ gắn bó keo sơn và mưu lược đánh giặc:

Phần thì giận hung đồ ngang dọc,
Phần thì lo vận nước khó khăn.
….
Nhân dân bốn cối một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều…

Ngay trong bản dịch, những cách dùng từ lặp lại: “Phần thì giận… Phần thì lo…”, “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần – Khi Khôi Huyện quân không một đội”,… cho thấy mức độ căng thẳng trong suy nghĩ cũng như khả năng đối phó với mọi khó khăn, biến cố đang dồn dập xảy ra. Cách nghĩ: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn – Ta gắng chí khắc phục gian nan” thể hiện sâu sắc quan niệm triết thuyết Nho giáo “Thiên nhân cảm ứng”, “Thiên nhân hợp nhất”, “Đại thiên hành hoá”, “Thế thiên hành hoá” (Trời và người liên thông, cảm ứng với nhau, trời và người hợp thành một thể thống nhất; bậc thức giả có thể thay trời hành đạo, giáo hóa chúng dân).

Rõ ràng đây là cách nghĩ nằm trong truyền thống tư tưởng Nho giáo nhằm suy tôn, linh thiêng hoá, huyền thoại hoá và vũ trụ hoá uy quyền nhà vua. Trước khi chuyển sang mô tả giai đoạn tấn công, thêm một lần Nguyễn Trãi khẳng định niềm tin vào chính nghĩa, lẽ phải của quân ta nhất định sẽ chiến thắng quân giặc mang bản chất phi nghĩa và tàn bạo.

Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Đạo quân đem “đại nghĩa” (lẽ phải, nghĩa lớn, nghĩa cao cả) và “chí nhân”, hết lòng yêu thương, vị tha, trân trọng con người tất yếu sẽ chiến thắng. Từ đây những địa danh gắn với chiến thắng (Bồ Đằng, Trà Lân, Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động) và danh tính những tên tướng giặc bại trận (Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính, Trần Hiệp, Lý Lượng) nối tiếp được nêu lên phản ánh bước tiến của đạo quân không gì ngăn cản nổi:

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cũng lực kiệt;
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ,
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan…

Trong đoạn văn trên, Nguyễn Trãi đã nói lên được tư tưởng quân sự vừa mang tính chiến lược vừa là sự thể hiện nghệ thuật dụng binh bậc thầy. Riêng chữ mưu phạt có nghĩa là “đánh bằng mưu trí”, tâm công nghĩa là “đánh vào lòng người”. Binh pháp xưa khẳng định: “Trong phép dụng binh thượng sách là phạt mưu…, thượng sách là công tâm”. Vấn đề đặt ra là sách xưa chỉ có hai từ phụt mưu và công tâm mà không sử dụng lối diễn đạt mưu phạt và tâm công. Vậy phải chăng Nguyễn Trãi đã dùng phép đảo trang để câu thơ vẫn giữ được ý người xưa mà lời thơ vẫn nhuần nhuyễn, âm điệu vẫn hài hoà “Ngã mưu phạt nhị tâm công, bất chiến tự khuất”.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 16

Đọc thơ Nguyễn Trãi, Xuân Diệu cảm nhận: “Trán thi sĩ chạm mây nhưng ruột thơ thì cháy lên một ngọn đời hồng rất ấm”. Cái hay trong những câu thơ của Nguyễn Trãi là dẫu mang tầm vóc của một vị anh hùng dân tộc nhưng vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi sự xuyên thấm và chân thực của nó. Một trong những tác phẩm đi vào lòng người đọc bao thế hệ của ông, là một “thiên cổ hùng văn”, đó chính là “Bình Ngô đại cáo”.

Cuối tháng 12 năm Đinh Mùi “Vua đã bình được giặc Ngô, đại cáo thiên hạ” (trích “Đại Việt sử ký toàn thư”), Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết bài cáo để tổng kết lại một chặng đường lịch sử, ôn lại những năm tháng gian khổ, những chiến công hiển hách và ban cố cho toàn dân được biết. Tác phẩm được viết theo thể cáo, một thể loại văn chương chính luận có nguồn gốc ở Trung Quốc thời trung cổ ban cố những sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn. Bài cáo là sự kết hợp tuyệt diệu giữa mục đích chính trị với nghệ thuật văn chương, sự giao thoa của hai nguồn cảm hứng: chính trị và sáng tạo nghệ thuật.

Đầu tiên, tác giả đã nêu lên luận đề chính nghĩa của dân tộc.

Luận đề chính nghĩa trước hết được phát biểu qua tư tưởng nhân nghĩa mở đầu bài cáo:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;”

Nhân nghĩa vốn là tư tưởng Nho giáo có ý nghĩa về chính trị, đạo đức, chỉ mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương, đạo lí. Quan niệm ấy có ý nghĩa tích cực nhưng chỉ giới hạn trong những mối quan hệ cụ thể và hạn chế ở lớp trên, không phải là tư tưởng cho lớp “dân đen con đỏ”. Nhưng đến Nguyễn Trãi, ông đã kế thừa tư tưởng nhân nghĩa tốt đẹp trên cơ sở đó còn phát huy truyền thống đạo đức nhân hậu của dân tộc Việt, trở thành một tư tưởng nhân nghĩa toàn diện: Nhân nghĩa- yêu nước, thương dân- sợi chỉ đỏ xâu chuỗi toàn bộ tư tưởng trong văn thơ ông; đường lối chính trị đúng đắn trong toàn bộ sự nghiệp Nguyễn Trãi: lấy dân làm gốc. Với Nguyễn Trãi, cơ bản nhất của Nguyễn Trãi là “yếu tại an dân”. Muốn dân yên ổn, khi có kẻ muốn phá hoại cuộc sống nhân dân thì điều lo lắng trước hết của đội quân nhân nghĩa, của những người vì thương xót nhân dân mà dấy binh khởi nghĩa là làm thế nào để trừ khử quân bạo ngược. Đó chính là “nghĩa”. Từ đó đề ra mục đích rõ ràng của cuộc chiến: vì thương dân mà diệt trừ tàn bạo. Quan niệm của Nguyễn Trãi đã có sự phát triển tư tưởng vượt tầm thời đại, trong chiến tranh cũng như trong thời bình: luôn lấy dân làm gốc.

Tiếp đó, tác giả khẳng định tư cách tồn tại của nền độc lập dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.”

Đó là sự thật lịch sử có tính chất hiển nhiên: “từ trước, vốn, đã chia”. Chủ quyền đất nước được phát biểu sâu sắc và đầy đủ, toàn diện trên các phương diện: lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử các thời, nhân tài hào kiệt. Với cảm hứng yêu nước, tự hào dân tộc chính đáng, Nguyễn Trãi đã nói về đất nước một cách chính đáng:

“Thực thi văn hiến chi bang”

Giọng điệu vang lên đầy kiêu hãnh, tự hào. Tự hào về lãnh thổ, cương vực độc lập với Trung Hoa, về “núi sông bờ cõi”- non sông mỹ lệ, là rừng vàng biển bạc, đồng ruộng phì nhiêu mà mỗi tấc đất là tấc vàng. Để rồi sau này, trong “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi khẳng định:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”.

Ta còn tự hào về phong tục tập quán riêng, thể hiện sức mạnh dân tộc từ cái răng cái tóc, từ nếp ăn, nếp mặc đến cái chắp tay trước bàn thờ tổ tiên; tự hào về giống nòi vẻ vang, tinh hoa là người hào kiệt. Nếu “Nam quốc sơn hà” còn phải dựa vào sách trời, “Hịch tướng sĩ” dựa vào bổng lộc tướng sĩ mang tính lợi ích thì “Bình Ngô đại cáo” dựa vào những yếu tố vĩnh hằng, cao cả, được lịch sử chứng minh. Tư tưởng độc lập dân chủ vừa toàn diện, tiến bộ lại vừa sâu sắc, có khả năng thuyết phục lớn.

Tiếp theo, Nguyễn Trãi soi chiếu luận đề chính nghĩa vào thực tế lịch sử để thấy: kẻ thù đã làm những hành động trái nhân nghĩa. Đứng trên lập trường nhân nghĩa vì dân, tác giả đã nhìn suốt hành trình 20 năm ròng tham chiến, câu văn giọng nghẹn ngào, căm tức không cùng. Những câu văn đầy máu, thấm đẫm nước mắt và sự xót thương khôn cùng:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…”

Nguyễn Trãi đã phác lên bức tranh khổ cực của nhân dân khi giặc Minh xâm chiếm: người lên núi đào vàng, kẻ xuống biển mà ngọc, tình cảnh chia lìa, nheo nhóc, khốn cùng: vợ mất chồng, con mất cha, nặng nề những nỗi cơ cực người bị đẩy vào cảnh phu phen, ngành nghề bị tiêu hủy, … Hơn thế nữa chúng còn hủy diệt sự sống, sinh linh. Để viết lên những câu văn cô đọng như vậy, hẳn Nguyễn Trãi phải kìm nén đau thương nhiều lắm mới có thể nhìn thẳng vào sự thật, ghi thấu vào xương tủy. 16 câu thơ là những trang đầy máu và nước mắt không ngừng nghĩ về đất nước, người dân trong những giờ khắc bi thảm. Không hết, tác giả phải nén lại trong hai câu giàu tình khái quát:

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!”

Và tác giả khẳng định, chúng ta chiến đấu để bảo vệ chính nghĩa qua diễn biến cuộc khởi nghĩa. Giai đoạn đầu gắn với hình tượng người lãnh tụ Lê Lợi- linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Người chủ tướng xuất thân bình thường, xưng hô khiêm nhường, địa bàn hẻo lánh, Những người có quyết tâm, ý chí và lí tưởng chiến đấu: có những trằn trọc suy tư. Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa được tiến hành trong điều kiện vô cùng khó khăn: thế lực không cân sức, thiếu nhân tài hào kiệt, binh mã, tư trang. Nhưng vượt lên với ý chí kiên định, Lê Lợi vẫn thu phục được lòng người để tạo nên một khối đoàn kết:

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.”

Và các nghĩa quân Lam Sơn đã mang vào trận chiến sức mạnh kì diệu:

“Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn,
Dĩ chí nhân nhi dị cường bạo.”

Tác giả dùng cả đoạn văn dài để nói về cuộc kháng chiến- khúc khải hoàn ca về với những thắng lợi táo bạo, bất ngờ với cảm hứng chủ đạo là tự hào, tự tôn dân tộc:

“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay…
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.”

Những câu thơ sử dụng hàng loạt động từ mạnh liên tiếp tạo những rung chuyển dồn dập. Câu văn biền ngẫu đăng đối cùng thủ pháp đối lập, nhịp điệu khi nhanh khi chậm, sôi nổi tạo nên một khúc ca khải hoàn.

Cách kết thúc chiến tranh, khi giặc bị đẩy vào thế cùng lực kiệt thì những người lãnh đạo đã sáng suốt kết thúc cảnh binh đao trong hòa bình để mở đường hiếu sinh. Đó cũng là biểu hiện của sự nhân nghĩa.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 17

              Đề 1: Bình ngô đại cáo là bản báo cáo lớn, công bố rộng khắp cho mọi người biết về việc dẹp yên giặc Ngô, khẳng định chủ quyền của dân tộc và tương lai của đất nước. Bởi vậy, nó được coi là một bản tuyên ngôn độc lập. Như chúng ta đều biết, sau một thời gian cầm sự để xây dựng lực lượng (1418- 1423), nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển sang thời kì phản công. Đến mùa đông 1427, sau khi đập tan mười năm vạn quân tiếp viện của giặc minh, nước ta hoàn toàn được giải phóng. Đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Như vậy, bài cáo trong lúc toàn quân, toàn dân đang hân hoan chào đón chiến thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ, anh dũng. Trước hết, Bình ngô đai cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam. Nhìn đại thể, Bình Ngô đại cáo có thể chia làm bốn phần: Phần 1. Khẳng định lí tưởng nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và truyền thấng bất khuất của dân tộc (từ đầu đến chứng cứ còn ghi…) Phần 2. Tố cáo tội ác của bọn cướp nước lợi dụng hoàn cảnh rối ren của nước ta, đưa quân sang xâm lược và gây ra bao đau khổ cho nhân dân (tiếp theo đến ai bảo thần dân chịu được…). Phần 3. Mô tả quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, mục đích của cuộc chiến đấu. Những khó khăn ban đầu (quá trình chiến đấu), những chiến công hiểu hách của nghĩa quân chấm dứt ách nô lệ (tiếp theo đến củng là chưa thấy xưa nay). Phần 4. Lời tuyên bố kết thúc, chiến tranh khẳng định tư thế dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước muôn thưở phồn vinh (tiếp theo đến hết). Ở phần thứ nhất, trước hết Bình Ngô đại cáo khẳng định lí tưởng của cuộc kháng chiến việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Đánh giặc chính là nhân nghĩa. Tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng định Việt Nam là một quốc gia văn hiến từ bao đời đã sánh vai với cường quốc Trung Hoa về nhiều phương diện. Nội dung nói trên được tác giả biểu đạt bằng những câu văn sang trọng, đĩnh đạc gợi không khí trang nghiêm lịch sử. Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác

      Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương Ở đây, nổi bật là việc nhấn mạnh đến tư tưởng nhân nghĩa của Cuộc kháng chiến và tư thế độc lập của dân tộc. Nhân nghĩa gắn liền với việc yên dân. Nguyễn Trãi quan tâm trước hết đến đời sông nhân dân, đến hạnh phúc cùa mọi người. Đây chính là tư tưởng lớn và tiến bộ của Nguyễn Trải, làm nền tổng cho cả bài cáo. Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trái đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Mỗi nước một bờ cõi, mỗi nước một phong tục với những triều đại khác nhau. Vì là nước văn hiến lâu đời nên người tài giỏi của Đại Việt thời nào cũng có, giặc đến thời nào cũng thất bại. Nội dung ấy được diễn đạt bằng những vế rất đăng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muôn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với những chiến công huy hoàng (Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô- Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã). Do đó, có thể nói ở phần 1 này, Nguyễn Trãi vừa thể hiện niềm tin vào cuộc kháng chiến, vừa bộc lộ niềm tự hào trước truyền thông oanh liệt của dân tộc. Bình ngô đại cáo là một tác phẩm chứa đựng một nội dung lớn, một tư tư tưởng cao Phần thứ 2 của bài cáo là phần luận tội giặc. Lợi dụng việc họ Hồ để mất lòng dân, giặc Minh cấu kết với bọn Vỉệt gian bán nước, điên cuồng sang cướp nước ta, gây ra bao tội ác trời không dung đất không tha: Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn đạt cường điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột người treo lên cây, nấu xác người lấymỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng cách nướng những người dân vô tội. Ngoài ra, bọn giặc đã thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng để vơ vét của cải (Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng – Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc). Do đó, chúng đã gây nên cho nước ta những hậu quả ghê gớm, sản xuất bị đình trệ (tan tác cá nghề canh cửi), môi trường sinh thái bị huỷ hoại nghiêm trọng (tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ), đẩy nhân dân Đại Việt vào tình cảnh thê thảm (nheo nhóc thay kẻ goá bụa khôn cùng) … Tội ác của giặc Minh chồng chất đến dẫu chặt hết tre rừng cũng không ghi hết, khiến cho trời đất không thể dung tha, thần và dân đều không chịu được. Đau xót và căm thù, người dân Đại Việt phải đồng lòng đứng dậy. Phần thứ 3 thuật lại qua trình của cuộc khởi nghĩa từ khởi đầu đến ngày chiến thắng. Bài cáo nhân danh Lê Lợi: Ta đây, Núi Lam Sơn đấy nghĩa… Những lời tự bạch như phải trải tâm can mình trước thần dân: Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời – … Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh – Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ. Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: quân giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng con mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện

      quân không một đội) … Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng đắn…, chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng. Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn. Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng ; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh: Sĩ khí đã hăng Quân Thanh càng mạnh Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân. Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lục sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng ; do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tựợng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh: Ninh Kiều máu chày thành sông, tanh trôi vạn dặm Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu. Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng củng đành bỏ mạng. Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kì. Như vậy mọi người đã biết, lẽ ra sau một loạt chiến bại, giặc Minh phải rút quân, nhưng trái lại, với bản chất ngoan cố, chúng lại cử viện binh hừng hậu chia làm nhiều ngả tiến xuống Đại Việt. Hai tên tướng giỏi chỉ huy hai đạo quân mạnh tạo nên thế gọng kim hòng đè bẹp quân ta: Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại, Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang. Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy: Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong. Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực. Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân: Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

     Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu. Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong. Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn. Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta: Sĩ tốt kén tay hùng hổ, Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh, Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn, Đánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận, tan tác chim muông Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Hình ảnh quân ta càng hừng tráng bao nhiêu, thì hình ảnh quân giặc càng thảm hại bấy nhiêu và từ giọng văn sảng khoái và đầy tự hào tác giả chuyển sang giọng mỉa mai châm biếm đầy khinh bỉ: Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh, Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẫn hồn bay phách lạc. Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai. Giọng văn hiền hoà tươi vui: Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới. Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ. Bình ngô đại cáo là quả là một tác phẩm chứa đựng một nội dung lớn, một tư tư tưởng cao, được diễn đạt bằng một áng văn đầy nghệ thuật, đáng được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ra đời trong thời đại Văn, Sử bất phân nên văn bá cáo mà đầy chất văn chương, hình ảnh từng từng lớp lớp, hành văn biến hoá, giọng điệu linh hoạt, diễn đạt tài tình những tình huống khác nhau của cuộc khởi nghĩa, và những cung bậc tình cảm khác nhau của người viết, thật xứng danh một áng thiên cổ hùng văn..

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 18

  Nguyễn Trãi là một nhà văn chính luận lỗi lạc trong nền văn học trung đại Việt Nam, không những thế ông còn là một nhà quân sự, chính trị tài ba kiệt xuất của cả dân tộc Việt Nam. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng lớn các tác phẩm văn chính luận, trong số đó phải kể đến “Bình Ngô đại cáo”, đây được coi là một áng “thiên cổ hùng văn” bậc nhất trong các tác phẩm chữ Hán cổ điển của nước ta. Đây là bài cáo mà Nguyễn Trãi viết thay vua Lê Thái Tổ để tuyên cáo rộng rãi trong nhân dân về qua trình kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Về mặt cấu trúc, tác phẩm có thể chia thành bốn phần. Phần 1là nêu luận đề chính nghĩa (Từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”), phần 2 là phần tố cáo tội ác, vạch trần âm mưu xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc (Tiếp theo phần 1 đến “Ai bảo thần dân chịu được”), phần 3 là quá trình kháng chiến và sự thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn (Tiếp theo phần 2 đến “cũng là chưa thấy xưa nay”), phần 4 là phần nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định chính nghĩa sẽ thắng phi nghĩa (phần còn lại). Ở phần mở đầu tác giả nêu lên triết lí về nhân nghĩa, một triết lí có giá trị lịch sử và tầm vóc của thời đại. Trong thơ Nguyễn Trãi, vấn đề “nhân nghĩa” không đơn giản chỉ là sự yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mà nó đã được nâng lên và thể hiện trong hành động cụ thể: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Đối với Nguyễn Trãi, việc trước hết là “trừ bạo” để nhân dân có được một cuộc sống yên ổn, ấm no, hạnh phúc. Ông cho rằng nếu muốn trị vì thiên hạ thì việc phải nghĩ đến đầu tiên chính là “nhân nghĩa”. Những câu thơ tiếp theo tác giả muốn nói về nước Đại Việt của chúng ta: “Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu … Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có” Trong những câu thơ trên Nguyễn Trãi cho rằng “nhân nghĩa” đã có từ lâu đời ở nước ta, đồng thời khẳng định chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc được thể hiện ở việc núi sông bờ cõi đã được phân chia rõ ràng. Vì đã được phân chia nên việc hình thành những phong tục tập quán cũng có nhiều khác biệt tuy nhiên vẫn có điểm chung là sự tồn tại song song của các triều đại lịch sử. Lời thơ như một lần khẳng định lại nội dung của “Nam quốc sơn hà” – được coi như bản tuyên ngôn đầu tiên của dân tộc: “Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời” Chính vì đã có những hành động xâm chiếm nước ta nên họ phải chuốc lấy hậu quả:

      “Lưu Công tham công nên thất bại Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã” Những kết cục như thế này đều tự do chính họ chuốc lấy vì thông qua bài tuyên ngôn đầu tiên đã như một lời cảnh cáo nhưng họ vẫn cố tình thực hiện. Ở phần thứ hai, tác giả đã nêu ra những tội ác của giặc và vạch rõ bộ mặt thật của giặc đằng sau lớp vỏ ngụy tạo “phù Trần diệt Hồ”: Từ việc: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” Cho đến việc chúng bắt nhân dân phải xuống biển mò ngọc trai lên rừng sâu đãi cát tìm vàng, phải đối mặt với “rừng thiêng nước độc” và muôn vàn khó khăn nguy hiểm , rồi đến sưu thuế chồng chất, phu phen lao dịch nặng nề. Chúng hành hạ nhân dân ta đủ mọi đường “thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”, sự độc ác và tàn nhẫn khiến tác giả phải thốt lên: “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi” Giữa lúc ấy, nghĩa quân Lam Sơn đã dấy lên tinh thần yêu nước và tiến hành cuộc khởi nghĩa: “Núi Lam Sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống” Căm phẫn trước tội ác của giặc, bóc lột nhân dân đủ đường khiến nhân dân lầm than cực khổ khiến người lãnh đạo là Lê Lợi và nghĩa quân mất ăn, mất ngủ, quyết tâm chiến đấu với tất cả tinh thần vì độc lập nước nhà: “Căm giặc nước thề không chung sống Đau lòng nhức óc chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm tối Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh” Tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như núi nhưng chỉ còn lo một nỗi về việc tìm kiếm “nhân tài” và “hào kiệt”, đây là một việc khó vì theo tác giả: “Hào kiệt như sao buổi sớm Nhân tài như lá mùa thu”

   Trong khi đó, nghĩa quân vừa dấy quân khởi nghĩa vẫn còn non nớt, thiếu thốn về mọi mặt như lương thực “KhiLinh Sơn lương hết mấy tuần”, quân sĩ “Lúc Khôi Huyện quân không một đội”, còn quân thù thì đang rất mạnh, đây chính là khó khăn của chúng ta và cách khắc phục duy nhất chính là sự đồng lòng của toàn bộ nghĩa quân “Tướng sĩ một lòng phụ tử/ Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Lê Lợi “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” và triết lí “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo” cùng với sự dũng cảm, gan dạ của binh sĩ, nghĩa quân Lam Sơn ngày một trưởng thành và lớn mạnh “sĩ khí đã hăng, quân thanh càng mạnh”, kết quả là nghĩa quân giành được nhiều chiến thắng vang dội “Đánh một trận sạch không kinh ngạc/ Đánh hai trận tan tác chim muông”, còn giặc Minh thì phải chấp nhận những thất bại liên tiếp và những tên tướng đều có kết thúc thật bi thảm: “Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn” Tác giả đã ghi lại chi tiết từng mốc thời gian như những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc nhưng lại là vết nhơ, nỗi nhục nhã đối với giặc Minh. Mặc dù tội ác của giặc mãi mãi không thể rửa sạch nhưng quân ta vẫn trợ cấp cho giặc để về nước khi đã bại trận: “Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa Về đến nước mà vẫn tim đập chân run”. Hành động này thể hiện truyền thống nhân nghĩa từ lâu đời của dân tộc ta, một lần nữa khẳng định lời của Nguyễn Trãi: “Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn Lấy chí nhân để thay cường bạo” Phần cuối của tác phẩm đã nêu ra bài học lịch sử quý báu về ý thức độc lập chủ quyền và vấn đề nhân nghĩa, đồng thời khẳng định sự thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa: “Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới … Âu cũng nhờ trời đất tổ tong Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”

   Đọc áng thiên cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo”, người đọc như cảm nhận được sức mạnh to lớn của dân tộc ta qua mỗi trang thơ của Nguyễn Trãi, càng tự hào bao nhiêu về dân tộc mình bao nhiêu thì càng căm ghét tội ác của quân giặc bấy nhiêu. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi xứng đáng là một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo hay nhất 19

Có thể nói, Nguyễn Trãi là một bậc anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới. Đồng thời, Nguyễn Trãi còn là nhà văn trữ tình sâu sắc, nhà văn chính luận lỗi lạc. Và, nhắc đến văn chính luận Nguyễn Trãi, ta không thể không nhắc đến bài “ Đại cáo bình Ngô “ mang những nét rất đặc trưng, cơ bản của thể cáo. Như chúng ta đã biết: năm 1427 đánh dấu sự kiện trọng đại quân ta đại thắng chống lại giặc Minh xâm lược. Thừa lệnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã sáng tác ra “ Đại cáo bình Ngô”- được coi là bản tuyên ngôn độc lập, một áng “ thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. “ Bình Ngô đại cáo” đã nói lên phần nào nỗi lòng của Nguyễn Trãi cũng như của cả dân tộc Việt Nam ta: căm thù, phẫn uất trước kẻ thù xâm lược đồng thời thể hiện niềm tự hào về chiến công to lớn của thời đại. “ Đại cáo bình Ngô” được viết theo thể cáo, gồm bốn phần với những ý nghĩa sâu sắc khác nhau. Chúng ta hãy cùng đến với đoạn mở của” Bình Ngô đại cáo”. Ở đoạn này, tác giả đã khẳng định luận đề chính nghĩa ngay ở những câu đầu tiên: “ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Tác giả khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống giặc Minh là để cuộc sống yên bình, là diệt trừ những thế lực tham tàn, bạo ngược, đó chính là việc làm danh nghĩa. Sau đó, Nguyễn Trãi còn khẳng định nước ta là một nước độc lập có chủ quyền, có lãnh thổ, phong tục, triều đại riêng…. Ở đây, giọng thơ nghe sao tự hào quá đỗi. Phải chăng, đây chính là những dòng thơ viết từ chính tiếng lòng hạnh phúc của Nguyễn Trãi, từ chính tấm lòng yêu quê hương, đất nước cao đẹp: “ Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” Bằng những lí lẽ xác đáng, lập luận chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã khẳng định nghĩa quân Lam Sơn chống lại giặc Minh là việc làm nhân nghĩa, hợp với lòng dân, hợp với quy luật là chính nghĩa. Và lẽ dĩ nhiên, những việc làm cao quý đó chỉ có thể xuất phát từ một lòng yêu nước, thương dân cao cả. Vạch rõ, tố cáo những tội ác của giặc Minh chính là nội dung chính của đoạn tiếp theo. Ở đây, Nguyễn Trãi đã liệt kê ra một loạt tội ác của giặc Minh. Chúng không chỉ có âm mưu xâm lược nước ta mà còn thực hiện nhiều chính sách thuế má, phuaphen nặng nề, vơ vét sản vật quý hiếm, diệt xản xuất, sự sống, tàn sát dã man dân ta, làm cho dân ta lâm vào cảnh” khốn cùng”. “ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” Cuối cùng, sau khi liệt kê một loạt tội ác của giặc Minh, tác giả đã bộc lộ thái độ căm thù, phẫn uất đồng thời kết tội chúng: “ Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi Lẽ nào trời đất dung tha Ai bảo thần nhân chịu được ? “ Tác giả đã có cách lập luận chặt chẽ, lời văn đanh thép, sử dụng những hình ảnh rất thực và có sức khái quát cao, giọng văn linh hoạt để kết tội giặc Minh. Có thể nói, phần thứ hai là một bảng cáo trạng đanh thép, tố cáo tội ác của giặc Minh là thế lực bạo tàn cần phải diệt trừ. Đoạn tiếp theo kể về quá trình nghĩa quân Lam Sơn chiến đấu chống lại giặc Minh bạo tàn. Tả về những ngày đầu kháng chiến đầy gian khổ, tác giả đã lấy đó làm nền để lột tả hết những chiến thắng oanh liệt của nhân dân ta: “ Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đương mạnh. Lại ngặt vì : Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. “ Trong lúc thế giặc mạnh thì quân ta binh lực yếu kém, có khi lương thực cạn kiệt, có khi quân ta hiếm hoi nhân tài. Thế nhưng, nhờ tài lãnh đạo của Lê Lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đoàn kết một lòng, vượt qua khó khăn tạo nên sức mạnh to lớn chiến thắng kẻ địch. Đó là do người lãnh đạo có quyết tâm cao độ, có những chiến lược, chiến thuật phù hợp để nâng cao sức mạnh của tình đoàn kết của nhân dân, chú trọng mưu cơ hơn binh lực. Có thể nói, hình tượng của Lê Lợi chính là hình tượng người anh hùng áo vải sinh động và toàn diện. Với giọng điệu hào hùng, tác giả đã kể về ba trận đánh: Trận Bồ Đằng-tro bay ; Trận Ninh Kiều-Tốt Động ; Trận Chi Lăng-Mã An đến Xương Giang. Trong một loạt những cặp câu biền ngẫu, lối viết thậm xưng, nhạc điệu dồn dập mạnh mẽ mang đậm chất anh hùng ca, tác giả đã nhấn mạnh được sự thất bại thảm hại của giặc Minh và khí thế hào hùng của quân ta. Đoạn cuối, tác giả đã tuyên bố chiến thắng, khẳng định sự nghiệp chiến đấu chính nghĩa đã thắng lợi hoàn toàn: “ Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới “ Bằng giọng văn nhẹ nhàng khoan thai, tác giả đã tuyên bố nền hòa bình của dân tộc ta đã được lặp lại. Đồng thời, tác giả cũng rút ra bài học lịch sử và thể hiện niềm tin vào tương lai tươi sáng của đất nước. Với nghệ thuật chính luận tài tình, cảm hứng trữ tình sâu sắc, “ Đại cáo bình Ngô “ đã có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương, được xem là áng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta. Ca ngợi sức mạnh của truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, tinh thần tự lập tự cường nêu bật sức mạnh của nhân dân ta, mở ra kỷ nguyên mới-kỉ nguyên hòa bình, độc lập tự do cho lịch sử dân tộc chính là những ý nghĩa sâu sắc mà “Bình Ngô đại cáo” mang lại. “Đại cáo bình Ngô” tiêu biểu cho thể loại cáo, tiêu biểu cho thể loại văn chính luận của Nguyễn Trãi. Bài cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta, thể hiện được khát vọng tự chủ độc lập, yêu chuộng hòa bình
Phân tích bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi – Bài số 26
“Bình Ngô đại cáo’’ là áng “thiên cổ hùng văn” thể hiện thiên tài của Nguyễn Trãi, đỉnh cao về tư tưởng, và nghệ thuật của nền văn hiến Đại Việt trong thế kỉ XV. Cùng với “Lam Sơn thực lục… ”, “Quán trungtừ mệnh tập”, "Ức Traithi tập", "Quốc âm thi tập"… “Bình Ngô đại cáo” đã làm cho ngôi sao Khuê trở nên chói sáng và lấp lánh ngàn thu.

Mùa xuân năm 1428, cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh xâm lược hoàn toàn thắng lợi. Nguyễn Trãi đã thay lời Lê Lợi viết "Bình Ngô đại cáo” tổng kết cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc "nên công oanh liệt ngàn năm ”, tuyên bố nước Đại Việt bước vào một kỉ nguyên mới độc lập bền vững, "muôn thủa nền thái bình vững chắc

1. Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của "Bình Ngô đại cáo ”, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo ".

Dấy quân khởi nghĩa vì thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt bọn giặc tàn bạo, đem lại cuộc sống yên vui cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa vẫn là học thuyết của Nho giáo đề cao đạo đức, tình nhân ái giữa con người với nhau. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy lợi ích của nhân dân và của dân tộc làm gốc. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, phải đánh giặc để cứu nước, cứu dân; "triết lí nhân nghĩa của NguyễnTrãi chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: Cái nhân nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng, chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân” (Phạm Văn Đồng).Trong nhiều bức thư gửi tướng tá giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường nhân dân và dân tộc, nêu cao nhân nghĩa, vạch trần tội ác và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bè lũ chúng: "Nước mày nhân dịphọ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng là "điếu dân phạt tội'', kì thực làm việc bạo tàn, ăn cướp đứt nước tư, bóc lột nhân dân tư, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làngkhôngđược sốngyên. Nhân nghĩa mù lại thếư? ".

("Lại thư trả lời Phương Chính")

Trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định nền văn hoá Việt Nam, nền văn hiến Đại Việt và con người Việt Nam, một dân tộc văn minh, anh hùng. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng, Nguyễn Trãi đại diện cho đất nước chiến thắng đã nêu cao giá trị lớn lao của truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên,

Mỗi bên xưng để một phương.

Tuymạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có

Nền văn hiến Đại Việt, nền "văn hoá Thăng Long" được hình thành, xây dựng và phát triển qua một quá trình lịch sử "đã lâu ", đã có "từ trước "đằng đẵng mấy nghìn năm. Đại Việt không chỉ có lãnh thổ chủ quyền "núi sông bờ cõi”, mà còn thuần phong mĩ tục mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, chế độ riêng "bao giờ gây nền độc lập”, đã từng “xưng đế một phương”, có nhiều nhân tài, hào kiệt. Phải có mấy trăm năm độc lập dưới các triều đại Đinh, Lê, Lí, Trần…, phải có những trang sử vàng chói lọi (Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đỏ, Ô Mã Nhi bị giết tươi, bị bắt sống…) phải có những con người “trí mưu tài thức " đã làm nên "thi thư” của Đại Việt, của nền văn minh sông Hồng, thì Nguyễn Trãi mới có thể viết nên những lời tuyên ngôn đĩnh đạc hào hùng như vậy. Nếu như bốn trăm nămvề trước, trong “Nam Quốc sơn hà", Lí Thường Kiệt chí mới xác định được hai nhân tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia và lập trường dân tộc, thì trong "Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, đó là: văn hiến, phong tục, lịch sử và nhân tài. Điều đó cho thấy ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ XV, và đó cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi.

2. Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ.

Năm 1407, nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang xâm lược nước ta. Lúc đầu thì lấy cớ "phù Trần diệt Hồ”, nhưng sau đó, chúng đã chia đất nước ta thành quận huyện, thi hành một chính sách cai trị vô cùng độc ác:

"Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,

Bọn quan tà còn bán nước cầu vinh”

Nguyễn Trãi đã căm giận lên án tội ác vô cùng dã man của quân "cuồng Minh Chúng đã tàn sát nhân dân ta một cách man rợ:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ  dưới hầm tai vạ”

Sử sách còn ghi lại bao tội ác chồng chất của giặc Minh trong suốt một thời gian dài hơn hai mươi năm “dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế”: rán mỡ người lấy dầu, rút ruột người treo lên cây, thui người trên giàn lửa, phanh thây đàn bà có thai… Chúng bắt nhân dân ta phải xuống biển mò ngọc trai, lên rừng sâu đãi cát, tìm vàng, cống nạp ngà voi, hươu đen, trả biếc,… Sưu thuê chồng chất, phu phen lao dịch nặng nề. Chúng đã tàn phá môi sinh, môi trường, dồn nhân dân ta vào bước đường cùng, vào hố diệt vong:

"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi

(…) Vét sản vật, bắt dò chim trá, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bắt bầy hươu đen, nơi nơi cạm đặt

Tổn hại cả giốngcôn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng… ”

Đằng sau những hành động dã man, mưu mô xảo quyệt, là bộ mặt ghê tởm lũ ác ôn, bầy quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên xương máu, nước mắt, trên tính mạng và tài sản nhân dân ta: "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán Tội ác của giặc Minh đối với nhân dân ta, không thể ghi hết tội, không thể rửa hết mùi dơ bẩn, trời đất không thể dung tha, người người đều cămgiận”.Câu văn cảm thán của Nguyễn Trãi cất lên như một lời nguyền, chất chứa căm hờn, oán giận, xúc động lay tỉnh hồn người:

"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi!

Lấy trúc Nam Sơn, nước Đông Hải, cái vô hạn để nói về tội ác và sự nhơ bẩn của quân “cuồng Minh ”, cái cùng cực, cái vô cùng, Nguyễn Trãi đã ghi sâu vào lòng người, vào bia miệng đến nghìn năm vẫn chưa phai. Nguyễn Trãi đã từng “tiễn cha lên ải Bắc… ”, từng nếm mật nằm gai, là chứng nhân của lịch sử gọi vua nhà Minh hiếu chiến là "giảo đồng” (trẻ ranh, nhãi ranh), lũ tướng tá giặc Minh là đồ "nhút nhát”. Đó cũng là tiếng nói căm thù, khinh bỉ, là ý chí sắt đá chống quân xâm lược, chống lũ bành trướng phương Bắc tham tàn, hiếu chiến:

“Thằng nhãi ranh Tuyên Đức động binh không ngừng,

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy!”

3. Ta đây núi Lam Sơn dấy nghĩa.

Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là Lê Lợi. Trong bia Vĩnh Lăng, các bài thơ “Hạ tiệp”, "Đề kiếm "… đều có nói đến Lê Lợi, nhưng chỉ trong "Bình Ngô đại cáo ”, Lê Lợi mới được thể hiện một cách tuyệt đẹp, tiêu biểu cho tinh hoa và khí phách của Đại Việt. Là một anh hùng của nhân dân giàu lòng yêu nước, nuôi chí lớn phục thù, phục quốc, đã từng nhiều năm mai danh ẩn tích đón đợi thời cơ:

“Ta đây

Núi Lam Sơn dấy nghĩa.

Chốn hoang dã nương mình”.

Con người ấy đã gắn bó với nhân dân, đã đau trong nỗi đau lầm than của dân tộc, đã “nếm mật nằm gai”, đã “đau lòng nhức óc suốt mấy chục năm trời”, quyết không đội trời chung với giặc:

"Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống”.

Con người ấy tiêu biểu cho trí tuệ Việt Nam, có một nhãn quan lịch sử nhìn suốt thời gian và nắm chắc vận mệnh dân tộc:

“Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫmtrước đến nay: lẽ hưng phế đắn do càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoan một nỗi đồ hồi

Ngày đầu khởi nghĩa, quân không quá 2.000 người, có lúc “cơm ăn thì sớm tối không được hai bữa, áo mặc thì đông hè chỉ có một manh … khí giới thì thật tay không”.(Quân trung từ mệnh tập). Thế và lực, giữa ta và giặc vô cùng chênh lệch: “Vừa lúc cờ khỏi nghĩa dấy lên – Chính lúc quân thù đang mạnh”Khó khăn, thử thách chồng chất nặng nề. Ngặt nghèo nhất là thiếu nhân tài hào kiệt:

"Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu.

Việc bôn tẩu thiếu kẻ dỡ đần,

Nơi duy ác thiếu người bàn bạc”.

Người anh hùng áo vải Lam Sơn, một mặt "Cổ xe cầu hiển, thường chăm chắm còn dành phía tả”, mặt khác nêu cao quyết tâm “gắng chí phục thù gian nan”, đồng cam cộng khổ với tướng sĩ, đoàn kết toàn dân để đánh giặc:

"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”.

Sức mạnh của nghĩa quân bắt nguồn từ sức mạnh vô tận của nhân dân, của lực lượng đông đảo "manh lệ chi đồ tứ tập”, của đoàn nghĩa sĩ "phụ tử chi binh nhất tâm”. Điều đó cho thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc chiến tranh nhân dân do người anh hùng áo vải lãnh đạo. Sức mạnh của nhân dân, tài năng xuất chúng của lãnh tụ là nguồn gốc của chiến thắng. Người anh hùng ấy là một thiên tài quân sự "sách lược thao suy xét đã tinh… lẽ hưng phê đắn đo càngkỹ”. Người anh hùng ấy đã phát huy tinh hoa nền quân sự Việt Nam, để chỉ đạo chiến tranh, phát huy mọi tiềm năng của dân tộc, của tướng sĩ để chiến đấu và chiến thắng:

"Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”

Có thể nói, cảm xúc trữ tình trong "Bình Ngô đại cáo” được thể hiện qua hình ảnh Lê Lợi, người anh hùng nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi vừa bình dị, vừa vĩ đại, vị cứu tinh của đất nước xuất hiện và nếm trải bao cay đắng lầm than cùng nhân dân, từ máu đổ xương tan mà “nên công oanh liệt ngàn năm”. Nguyễn Trãi đã có sự nhập thân, hoá thân kì diệu khi thể hiện tài trí, khí phách và tầm vóc vĩ đại của Lê lợi, một mặt nêu cao lòng tự hào dân tộc, tự hào về nền văn hiến Việt Nam, mặt khác cũng thể hiện nhân cách, chí hướng, tài trí và tâm huyết của mình. Với cảm hứng anh hùng và cảm xúc trữ tình, Nguyễn Trãi đã dành những câu văn, đoạn văn đẹp nhất khi khắc hoạ hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn.

4. Đánh một trận sạch không kinh ngạc – Đánh hai trận tan tác chim muông.

Nguyễn Trãi đã dành phần lớn bài đại cáo nói về diễn biến cuộc đấu tranh vũ trang và quá trình phản công của nghĩa quân Lam Sơn. Phần thứ tư này như những trang ký sự chiến trường mang giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ. Sức mạnh nhân nghĩa, ấy là đại nghĩa, là chí nhân đã đè bẹp và nghiền nát giặc Minh hung tàn, cường bạo. Lời văn sang sảng cất lên:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo

Có vượt qua những thử thách nặng nề “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần- Khi Khôi Huyện quân không một đội”, nghĩa quân mới trưởng thành trong máu lửa. Quân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn. Chiến công nối tiếp chiến công, thế đánh như “trúc chẻ cho bay”, như “sấm vang chớp giật” giáng xuống đầu quân xâm lược. Cảnh tượng chiến trường vô cùng rùng rợn, máu giặc chảy thành sông, xác giặc chất cao như núi:

"Ninh Kiều máu cháy thành sông, tanh trôi vạn dặm,

Tụy Đông thấy chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”.

Trên đà chiến thắng "Sĩ khí đã hăng-Quân thanh càng mạnh’’, nghĩa quân tiến công trên quy mô rộng lớn, giải phóng những vùng chiến lược quan trọng: “Tây Kinh quân ta chiếm lại… Đông Đô đất cũ thu về”. Giặc đã thảm bại “trí cùng lực kiệt”, lũ tướng Thiên triều, đứa thì “nghe hơi mà mất vía”, thằng thì "nín thở cầu thoát thân ”, Trần Hiệp “phải bêu đầu ”, Lí Lượng “đành bỏ mạng”.

Chiến cục Chi Lăng – Xương Giang – Bình Than vào mùa thu năm 1427 diễn ra vô cùng ác liệt. Quân ta làm chủ chiến trường đã "điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong”, đã “sai tướng chen đường, tuyệt nguồn lương thực”, đã dồn 15 vạn viện binh giặc vào tử địa. Liễu Thăng cụt đầu, Lương Minh đại bại tử vong, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn. Hành chục vạn giặc bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống:

"LạngGiang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước ”

Đạo quân Vân Nam bị quân ta chặn đánh ở Lê Hoa "nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật”, quân Mộc Thạnh đại bại ở Cần Trạm “xéo lên nhau chạy để thoát thân”. Sông suối bao la một vùng biên giới tây bắc ngập đầy máu giặc:

“Suối Lãnh Cáu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiến í; khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.”

Đây là tướng sĩ của nghĩa quân Lam Sơn: “Sĩ tốt kén tay tì hổ – Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.Và đây là hình ảnh bọn tướng tá Thiên triều trong tình hình "quân cô, lực kiệt, viện tuyệt, thế cùng”:   

"Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng

“Bình Ngô đại cáo” là một bản tổng kết chiến tranh 10 năm. Tác giả đã tái hiện lại toàn bộ diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu cờ nghĩa mới phất lên, trải qua những chặng đường máu lửa, trưởng thành trong thử thách hy sinh, giành thế chủ động chiến lược, tiến lên đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Nghệ thuật miêu tả các trận đánh dùng lối đặc tả, rất biến hóa, lúc ghi lại hình ảnh thảm bại, thảm họa của lũ tướng tá Thiên triều, lúc thì miêu tả cảnh chiến trường rùng rợn. Kết cấu tương phản đối lập được tác giả vận dụng sáng tạo để làm nổi bật giữa ta và địch, chính nghĩa và phi nghĩa, đại thắng và đại bại… Cách dùng từ, sáng tạo hình ảnh, các biện pháp đối xứng và thậm xưng cho thấy một bút pháp nghệ thuật kì tài, tạo nên âm điệu anh hùng ca. "Bình ngô đại cáo ” là khúc ca thắng trận vô cùng oanh liệt, cho ta bao xúc động tự hào:

"Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông… ”

Qua "Bình Ngô đại cáo”, ta thấy Lê Lợi là một nhà chiến lược vĩ đại đã biết phát động chiến tranh khi thời cơ đã chín mùi, khi mà tội ác quân cuồng Minh "Lẽ nào trời đất dung tha – Ai bảo thần dân chịu được? Trải qua bao năm tháng! Lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”, “Sách lược thao suy xét đã tinh”, Lê Lợi mới phất cờ khởi nghĩa. Lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có tài chỉ đạo chiến tranh đánh cho lũ giặc Minh đại bại:

"Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng”.

Chính trong điều kiện chiến trường đó, Lê Lợi đã kết thúc chiến tranh, đã “mở đường hiếu sinh” trao trả cho nhà Minh hàng chục vạn tù binh:  

"Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”.

Khởi nghĩa để "trừ bạo" và "yên dân”, kết thúc chiến tranh để chấm dứt đổ máu, để bảo vệ "toàn quân", "để nhân dân nghỉ sức”. Nguyễn Trãi với niềm tự hào chiến thắng đã ca ngợi “đại nghĩa” và "chí nhân" của dân tộc ta. Đại Việt là một nước văn hiến lâu đời, rất nhân đạo và yêu chuộng hòa bình.

5. Xã tắc từ đây vững bền.

Kết thúc bài đại cáo là một khúc ca khải hoàn vang lên hướng về ngày mai tươi sáng của Đại Việt – một nước văn hiến:

"Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ mà lại thái

Nhật nguyệt hối mà lại minh

Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.

Như một quy luật tất yếu: “ bí mà lại thái ”, "hối mà lại minh ”, đất nước ta sau 20 năm trời bị quân cuồng Minh "dối trời, lừa dân…, gây binh kết oán ” nay đã sạch bóng quân xâm lược, “ ngàn năm vết nhục nhã sạch làu”. Tổ quốc Đại Việt bước vào một kỉ nguyên mới độc lập, hoà bình, thịnh vượng trong “vữngbền”, hướng về “đổi mới ”, và “vững chắc ” đến muôn đời. Giọng văn đĩnh đạc hào hùng, đầy tự hào tin tưởng, thể hiện khát vọng hoà bình, độc lập và hạnh phúc của nhân dân ta. Sự nghiệp ''Bình Ngô" mà đại thắng là nhờ sức mạnh chính nghĩa, nhân nghĩa và truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta. Đó là nguồn gốc, là nguyên nhân sâu xa làm nên chiến thắng. Sự nghiệp “bình Ngô“ là trang sử vàng chói lọi, là "Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm… ”

Trong chiến tranh, Nguyễn Trãi là một mưu sĩ “tâm công” cánh tay phải đắc lực của Lê Lợi, là người “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời” (Lê Quý Đôn). Thư từ gửi tướng tá giặc Minh của ông “có sức mạnh như mười vạn quân ” (Phan Huy Chú). Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi làm nên sự nghiệp “bình Ngô” là người đã thảo ra "Bình Ngô đại cáo”, bản tuyên ngôn độc lập, hoà bình của Đại Việt trong thế kỉ XV.

"Bình Ngô đại cáo” cho ta thấy một bút lực và tài học vô song của ức Trai. Cáo là một thể văn cổ điển rất trang nghiêm, để thông báo cho toàn dân một sự kiện quan trọng. Sự nghiệp "bình Ngô" kéo dài trong 10 năm trời. Quân và dân ta trải qua muôn vàn gian lao thử thách, lập bao chiến công lẫy lừng… từ những tháng năm lầm than đến ngày toàn thắng “bốn phươngbiển cả thanh bình”, thế mà NguyễnTrãi đã viết một cách hàm súc: bài đại cáo chí dài 1343 chữ. Cảm hứng nhân nghĩa, cảm hứng anh hùng và khát vọng độc lập, hoà bình đã tạo nên tầm vóc văn chương, màu sắc sử thi của bài đại cáo bình Ngô, bản anh hùng ca Đại Việt. Ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Trãi rất biến hóa trong miêu tả và tự sự, trong trữ tình và bình luận, vừa sắc sảo và thấm thía, vừa đa thanh; lúc thì đĩnh đạc, hào hùng, trang nghiêm, lúc thì thắm thiết căm giận, lúc thì mạnh mẽ, hùng tráng… Đất nước và con người Đại Việt được nói đến trong bài đại cáo là một đất nước, một nhân dân văn hiến, anh hùng.

Thật vậy, “Bình Ngô đại cáo" toát lên "một chủ nghĩa nhân văn tích cực, sáng suốt tỉnh táo, mênh mông (Đặng Thai Mai), là bài ca yêu nước và tự hào dân tộc.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo ngắn gọn nhất 20

Bình Ngô đại cáo là hiện tượng có một không hai trong lịch sử văn học Việt Nam. Với ngòi bút của người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi – nhân vật toàn tài số một của thời phong kiến – bài cáo không chỉ là sự tuyên bố về thắng lợi của sự nghiệp “Bình Ngô” như mệnh lệnh mà Lê Lợi giao phó. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.

Lý tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta là điểm cốt lõi đã được Nguyễn Trãi khẳng định một cách mạnh mẽ ngay từ câu đầu tiên của tác phẩm:

“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân”

Nhân nghĩa trước hết và hơn đâu hết được thể hiện ở mục tiêu an dân. Đem lại cuộc sống ấm no, yên ổn cho dân vốn là tư tưởng cả đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Trong thơ văn của mình, ông không ít lần nhắc đến điều đó:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng.
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Cũng luôn cánh cánh “làm cho khắp thôn cùng xóm vắng không còn tiếng hờn giận oán sầu”. Điều quan trọng là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí, một lý tưởng. Mặt khác, ngay ở những câu đầu tiên Nguyễn Trãi không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn ông đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Đó là trừ bạo, an dân. Muốn theo đuổi và thi hành tư tưởng nhân nghĩa không có cách nào hơn là hướng tới cuộc sống nhân dân.

Vấn đề cốt lõi đó của tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở cả hai mặt thống nhất: quan tâm đến sự yên ổn, no ấm cho dân cũng đồng nghĩa với việc phải chiến đấu đánh đuổi kẻ thù của nhân dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược. Kẻ thù của nhân dân ở đây được Nguyễn Trãi xác định cụ thể là kẻ thù xâm lược, là bọn “cuồng Minh” giày xéo lên cuộc sống nhân dân gây ra bao tai hoạ, đến mức:

Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội.
Nhơ bẩn thay thay nước Đông Hải khôn rửa sạch mùi

Đây là một nét mới mà Nguyễn Trãi chỉ ra trong tư tưởng nhân nghĩa dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử dân tộc. Nội dung này không thấy trong tư tưởng, triết lý nhân nghĩa của đạo lý Khổng – Mạnh. Ngay trong nét nghĩa mới này vẫn thể hiện sự nhất quán với truyền thống nhân nghĩa đã xác định ở đầu tác phẩm.

Nhân nghĩa trước hết thể hiện ở lòng thương dân, chăm lo cho nhân dân. Cao hơn thế, trong quan hệ với kẻ thù xâm lược, tư tưởng ấy vẫn thể hiện một cách sáng ngời: chúng ta đánh giặc bằng mưu kế và đánh vào lòng người: “mưu phạt, tâm công”. Với tư cách là vị quân sư lỗi lạc của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã không ít lần dùng những áng văn chính luận “có sức mạnh hơn 10 vạn binh” của mình để công phạt, khuất phục kẻ thù khiến cho bọn chúng “chẳng đánh mà chịu khuất”. Không những thế, khi bọn chúng đã khuất phục, đã đầu hàng nhân dân ta luôn mở cho chúng con đường sống:

Thần vũ chẳng giết hại,
Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Cấp cho phương tiện trở về:

Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền…
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa…

Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận, xoa dịu hận thù để không gây hậu họa về sau cũng chính là đại nghĩa với nhân dân vậy. Bởi lẽ, như bài cáo đã khẳng định "Họ đã ham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng / Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức".
Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta được Nguyễn Trãi thể hiện trong bài cáo vừa toàn diện, vừa cụ thể; vừa chỉ ra điểm cốt lõi, cơ bản vừa bổ sung những khía cạnh mới mẽ. Bởi thế nó trở thành điểm ngời sáng trong tư tưởng nhân dân, là tiền đề cho mọi hành động. Soi chiếu vào thực tiễn cuộc kháng chiến tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp ấy còn là căn nguyên tạo nên sức mạnh cho nghĩa quân Lam Sơn:

Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo

Với lí tưởng nhân nghĩa ấy, quân dân ta có thể khắc phục và vượt qua những khó khăn tưởng chừng không thể:

Khi Linh Sơn lương het mấy tuần.
Khi Khôi Huyện quân không một đội

Để rồi từ đó có thể lấy ít địch nhiều, dùng yếu chống mạnh mà làm nên thắng lợi vang dội, giúp cho:

Xã tắc từ đây bền vững
Giang sơn từ đây đổi mới
…Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu

Có thể nói, Nguyễn Trãi đã tổng kết tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân ta thành một truyền thống, một nguyên lý cao đẹp bằng những lý luận và dẫn chứng đanh thép cùng những hình tượng nghệ thuật giàu sức gợi tả. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn cùng sự vững bền vĩnh cửu của dân tộc, đất nước.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 21

Mùa xuân năm 1428, đất nước ta sạch bóng quân thù, Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi viết “ Bình Ngô đại cáo” tổng kết mười năm cuộc kháng chiến chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn và tuyên bố mở ra kỉ nguyên độc lập tự do của dân tộc. Có thể nhận nói “ Bình Ngô đại cáo” là bản hùng ca về lòng yêu nước gây xúc động mạnh mẽ trong lòng người đọc.

Sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, trái tim Nguyễn Trãi đã sớm cảm thương với dân với nước. Sau này, khi giặc Minh cướp nước, cha bị đưa sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi càng khắc sâu thêm ý chí rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Ông theo Lê Lợi tham gia khởi nghĩa và góp phần làm nên chiến thắng hào hùng cho dân tộc. Chiến thắng vẻ vang ấy, tình yêu nước cháy bỏng ấy đã được kết tinh trong áng văn bất hủ “ Bình Ngô đại cáo”.

Không như những tác phẩm khác, tình yêu nước thương dân của Nguyễn Trãi đã được nâng lên tầm tư tưởng, đó là tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc:

“ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.

Nhân nghĩa là quan niệm Nho gia đề cao mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người và xã hội mà trong thời phong kiến, nhân nghĩa là yêu nước, là trung quân ái quốc. Đến Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã được nâng lên tầm khái quát, tiến bộ. Nó không chỉ là trung với vua, là một lòng theo vua mà quan trọng nhất là thương dân, yêu dân, lấy dân làm gốc, “ cốt ở yên dân”. “ Yên dân”, quan tâm đến hạnh phúc, ấm no của dân cũng đồng nghĩa với việc đâú tranh đánh đuổi kẻ thù của dân, diệt trừ những kẻ tham tàn bạo ngược “ quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Dân có hạnh phúc thì đất nước mới thái bình bền lâu. Nó đã được chứng minh bằng sự tồn tại của nước Đại Việt ta như một chân lý lịch sử:

“ Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.”

Ngoài khẳng định về lãnh thổ và ý thức về chủ quyền như trong thơ thần của Lí Thường Kiệt, Nguyễn Trãi đã nêu lên những yếu tố đầy đủ nhất của một quốc gia độc lập: văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán. Với một quốc gia, lãnh thổ, núi sông phải được chia rõ ràng thì văn hiến càng đậm nét và không thể nhầm lẫn. Phong tục tập quán cũng như văn hóa ở mỗi miền Nam, Bắc hay Đại Việt, Trung Quốc đều có những nét riêng không thể xoá bỏ. Từ đó làm nên bản sắc văn hóa dân tộc như một lời khẳng định đanh thép về đất nước hoàn toàn độc lập, có chủ quyền, ngang hàng với các triều đại phong kiến phương Bắc:

“ Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.”

Giọng thơ hùng hồn chất chứa niềm tự hào dân tộc mãnh liệt. Các vua nước ta cũng như vua Trung Quốc đều là bậc đế vương trên giang sơn của mình. Và chính nhân tài, là con người đã góp phần khẳng định nền độc lập chủ quyền ấy:

“ Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có.”

Đất nước ta có chủ quyền, độc lập nên mọi hành vi xâm lấn của kẻ thù đều là phi nghĩa. Bởi vậy, chúng phải nhận lấy sự thất bại, tiêu vong:

“ Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Rồng bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.”

Đây chính là sức mạnh của nhân nghĩa. Nhân nghĩa là yên dân mà cũng là trừ bạo. Trong “ Bình Ngô đại cáo”, ngòi bút Nguyễn Trãi đã thấu rõ nối đau và căm hận của nhân dân gặp buổi lầm than:

“ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”

“ Nặng thuế khoá sạch không đầm núi”

“ Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng…”

Đâu lòng biết bao trước cảnh đất nước bị dày xéo, nhân dân bị áp bức. Chúng tàn nhẫn nướng dân ta trên ngọn lửa hung tàn. Chúng ngang nhiên đặt ra những thứ thuế khoá nặng nề bắt dân ta phục dịch. Chúng ép dân ta lên rừng xuống biển đãi vàng mò ngọc. Chúng vơ vét sản vật của ta, nhiễu dân ta. Để rồi những người dân đáng thương ấy phải chịu cảnh gia đình tan tác, con cái nheo nhóc, muôn loài bị phá hủy… Tội ác của quân thù đến độ:

“ Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.”

Nhân nghĩa mách bảo Nguyễn Trãi đã đến lúc trừ bạo để yên dân. Chính từ đau nỗi đau của dân,thương cho dân, ông đã quật dậy ý chí kiên cường bất khuất của toàn quân, quật dậy tình yêu cuộc sống, yêu gia đình, đất nước của mọi người để cùng chống lại quân Minh xâm lược:

“ Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo”

Tư tưởng nhân nghĩa đã thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc là chim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của khởi nghĩa Lam Sơn. Nhân nghĩa đã giúp Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa mang về chiến thắng vẻ vang cho dân tộc:

“ Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận, tan tác chim muông”

Chiến thắng kẻ thù xâm lăng, nhận ra kẻ thù đã “ tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng”, Nguyễn Trãi đã mưu phạt công tâm để tránh đổ máu và thu phục được lòng người. Với tướng giặc, ông mở ra cho đường hiếu sinh, tha bổng cho về nước. Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận, xoa dịu hận thù để không gây ra hậu quả về sau chính là đại nghĩa với nhân dân “ Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.”

Chiến tranh kết thúc, Nguyễn Trãi thay lời Lê Lợi tuyên bố đồng thời khẳng định một lần nữa quyền độc lập tự chủ lâu dài của đất nước. Lịch sử sang trang, đất nước bước vào kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của hoà bình, độc lập, tự do:

“ Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

Muôn thuở nền thái bình vững chắc

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.”

Tình cảm thương dân, tinh thần trọng dân, ý chí chiến đấu vì dân là nội dụng xuyên suốt trong thơ văn Nguyễn Trãi. Xuất phát từ nhận thức sâu sắc và nảy sinh từ thực tiễn, nhận ra sức dân như nước làm lật thuyền, Nguyễn Trãi đã phản ánh lịch sử cũng như yêu cầu của lịch sử: nói đến nước là nói đến dân, nói đến dân lại cần phải có nước. Do đó, nó đã vượt qua bao thế kỷ, bao thời đại để vang danh trên thế giới, trở thành một tư tưởng vĩ đại của loài người.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 22

Đại cáo Bình Ngô được Nguyễn Trãi sáng tác vào cuối năm 1427 đầu năm 1428 để tổng kết về cuộc kháng chiến chống quân Minh. Đồng thời cũng tuyên bố kết thúc 20 năm đô hộ của giặc Minh và 10 năm diệt thù của ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã kết thúc thắng lợi. Nó mở ra cho dân tộc ta một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập tự do và hòa bình.

1. Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của "Bình Ngô đại cáo ”, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo ".

Dấy quân khởi nghĩa vì thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt bọn giặc tàn bạo, đem lại cuộc sống yên vui cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa vẫn là học thuyết của Nho giáo đề cao đạo đức, tình nhân ái giữa con người với nhau. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo hướng lấy lợi ích của nhân dân và của dân tộc làm gốc. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là yêu nước, thương dân, phải đánh giặc để cứu nước, cứu dân; "triết lí nhân nghĩa của NguyễnTrãi chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: Cái nhân nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng, chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân” (Phạm Văn Đồng).Trong nhiều bức thư gửi tướng tá giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường nhân dân và dân tộc, nêu cao nhân nghĩa, vạch trần tội ác và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bè lũ chúng: "Nước mày nhân dịphọ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng là "điếu dân phạt tội'', kì thực làm việc bạo tàn, ăn cướp đứt nước tư, bóc lột nhân dân tư, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làngkhôngđược sốngyên. Nhân nghĩa mù lại thếư? " .

("Lại thư trả lời Phương Chính")

Trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định nền văn hoá Việt Nam, nền văn hiến Đại Việt và con người Việt Nam, một dân tộc văn minh, anh hùng. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng, Nguyễn Trãi đại diện cho đất nước chiến thắng đã nêu cao giá trị lớn lao của truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập,

CùngHán, Đường, Tống, Nguyên,

Mỗi bên xưng để một phương.

Tuymạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có

Nền văn hiến Đại Việt, nền "văn hoá Thăng Long" được hình thành, xây dựng và phát triển qua một quá trình lịch sử "đã lâu ", đã có "từ trước " đằng đẵng mấy nghìn năm. Đại Việt không chỉ có lãnh thổ chủ quyền "núi sông bờ cõi”, màcòn thuần phong mĩ tục mang bản sắc riêng, có lịch sử riêng, chế độ riêng "bao giờ gây nền độc lập ”, đã từng “xưng đế một phương”, có nhiều nhân tài, hào kiệt. Phải có mấy trăm năm độc lập dưới các triều đại Đinh, Lê, Lí, Trần..., phải có những trang sử vàng chói lọi (Lưu Cung thất bại, Triệu Tiết tiêu vong, Toa Đỏ, Ô Mã Nhi bị giết tươi, bị bắt sống...) phải có những con người “trí mưu tài thức " đã làm nên "thi thư” của Đại Việt, của nền văn minh sông Hồng, thì Nguyễn Trãi mới có thể viết nên những lời tuyên ngôn đĩnh đạc hào hùng như vậy. Nếu như bốn trăm nămvề trước, trong “Nam Quốc sơn hà ", Lí Thường Kiệt chí mới xác định được hai nhân tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia và lập trường dân tộc, thì trong "Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, đó là: văn hiến, phong tục, lịch sử và nhân tài. Điều đó cho thấy ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ XV, và đó cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi.

2. Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ.

Năm 1407, nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang xâm lược nước ta. Lúc đầu thì lấy cớ "phù Trần diệt Hồ”, nhưng sau đó, chúng đã chia đất nước ta thành quận huyện, thi hành một chính sách cai trị vô cùng độc ác:

"Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa,

Bọn quan tà còn bán nước cầu vinh”

Nguyễn Trãi đã căm giận lên án tội ác vô cùng dã man của quân "cuồng Minh Chúng đã tàn sát nhân dân ta một cách man rợ:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ  dưới hầm tai vạ”

Sử sách còn ghi lại bao tội ác chồng chất của giặc Minh trong suốt một thời gian dài hơn hai mươi năm “dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế”: rán mỡ người lấy dầu, rút ruột người treo lên cây, thui người trên giàn lửa, phanh thây đàn bà có thai... Chúng bắt nhân dân ta phải xuống biển mò ngọc trai, lên rừng sâu đãi cát, tìm vàng, cống nạp ngà voi, hươu đen, trả biếc,... Sưu thuê chồng chất, phu phen lao dịch nặng nề. Chúng đã tàn phá môi sinh , môi trường, dồn nhân dân ta vào bước đường cùng, vào hố diệt vong:

"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi

(...) Vét sản vật, bắt dò chim trá, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bắt bầy hươu đen, nơi nơi cạm đặt

Tổn hại cả giốngcôn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng... ”

Đằng sau những hành động dã man, mưu mô xảo quyệt, là bộ mặt ghê tởm lũ ác ôn, bầy quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên xương máu, nước mắt, trên tính mạng và tài sản nhân dân ta: "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán Tội ác của giặc Minh đối với nhân dân ta, không thể ghi hết tội, không thể rửa hết mùi dơ bẩn, trời đất không thể dung tha, người người đều cămgiận”.Câu văn cảm thán của Nguyễn Trãi cất lên như một lời nguyền, chất chứa căm hờn, oán giận, xúc động lay tỉnh hồn người:

"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi!

Lấy trúc Nam Sơn, nước Đông Hải, cái vô hạn để nói về tội ác và sự nhơ bẩn của quân “cuồng Minh ”, cái cùng cực, cái vô cùng, Nguyễn Trãi đã ghi sâu vào lòng người, vào bia miệng đến nghìn năm vẫn chưa phai. Nguyễn Trãi đã từng “tiễn cha lên ải Bắc... ”, từng nếm mật nằm gai, là chứng nhân của lịch sử gọi vua nhà Minh hiếu chiến là "giảo đồng” (trẻ ranh, nhãi ranh), lũ tướng tá giặc Minh là đồ "nhút nhát”. Đó cũng là tiếng nói căm thù, khinh bỉ, là ý chí sắt đá chống quân xâm lược, chống lũ bành trướng phương Bắc tham tàn, hiếu chiến:

                  “Thằng nhãi ranh Tuyên Đức động binh không ngừng,

                  Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy!”

3. Ta đây núi Lam Sơn dấy nghĩa.

Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là Lê Lợi. Trong bia Vĩnh Lăng, các bài thơ “Hạ tiệp ”, "Đề kiếm "... đều có nói đến Lê Lợi, nhưng chỉ trong "Bình Ngô đại cáo ”, Lê Lợi mới được thể hiện một cách tuyệt đẹp, tiêu biểu cho tinh hoa và khí phách của Đại Việt. Là một anh hùng của nhân dân giàu lòng yêu nước, nuôi chí lớn phục thù, phục quốc, đã từng nhiều năm mai danh ẩn tích đón đợi thời cơ:

“Ta đây

Núi Lam Sơn dấy nghĩa.

Chốn hoang dã nương mình”.

Con người ấy đã gắn bó với nhân dân, đã đau trong nỗi đau lầm than của dân tộc, đã “nếm mật nằm gai”, đã “đau lòng nhức óc suốt mấy chục năm trời”, quyết không đội trời chung với giặc:

"Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống”.

Con người ấy tiêu biểu cho trí tuệ Việt Nam, có một nhãn quan lịch sử nhìn suốt thời gian và nắm chắc vận mệnh dân tộc:

“Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫmtrước đến nay: lẽ hưng phế đắn do càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoan một nỗi đồ hồi

Ngày đầu khởi nghĩa, quân không quá 2.000 người, có lúc “cơm ăn thì sớm tối không được hai bữa, áo mặc thì đông hè chỉ có một manh ... khí giới thì thật tay không”.(Quân trung từ mệnh tập). Thế và lực, giữa ta và giặc vô cùng chênh lệch: “Vừa lúc cờ khỏi nghĩa dấy lên - Chính lúc quân thù đang mạnh”Khó khăn, thử thách chồng chất nặng nề. Ngặt nghèo nhất là thiếu nhân tài hào kiệt:

"Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu.

Việc bôn tẩu thiếu kẻ dỡ đần,

Nơi duy ác thiếu người bàn bạc”.

Người anh hùng áo vải Lam Sơn, một mặt "Cổ xe cầu hiển, thường chăm chắm còn dành phía tả”, mặt khác nêu cao quyết tâm “gắng chí phục thù gian nan ”, đồng cam cộng khổ với tướng sĩ, đoàn kết toàn dân để đánh giặc:

"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”.

Sức mạnh của nghĩa quân bắt nguồn từ sức mạnh vô tận của nhân dân, của lực lượng đông đảo "manh lệ chi đồ tứ tập ”, của đoàn nghĩa sĩ "phụ tử chi binh nhất tâm”. Điều đó cho thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc chiến tranh nhân dân do người anh hùng áo vải lãnh đạo. Sức mạnh của nhân dân, tài năng xuất chúng của lãnh tụ là nguồn gốc của chiến thắng. Người anh hùng ấy là một thiên tài quân sự "sách lược thao suy xét đã tinh... lẽ hưng phê đắn đo càngkỹ”. Người anh hùng ấy đã phát huy tinh hoa nền quân sự Việt Nam, để chỉ đạo chiến tranh, phát huy mọi tiềm năng của dân tộc, của tướng sĩ để chiến đấu và chiến thắng:

"Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”

Có thể nói, cảm xúc trữ tình trong "Bình Ngô đại cáo” được thể hiện qua hình ảnh Lê Lợi, người anh hùng nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi vừa bình dị, vừa vĩ đại, vị cứu tinh của đất nước xuất hiện và nếm trải bao cay đắng lầm than cùng nhân dân, từ máu đổ xương tan mà “nên công oanh liệt ngàn năm”. Nguyễn Trãi đã có sự nhập thân, hoá thân kì diệu khi thể hiện tài trí, khí phách và tầm vóc vĩ đại của Lê lợi, một mặt nêu cao lòng tự hào dân tộc, tự hào về nền văn hiến Việt Nam, mặt khác cũng thể hiện nhân cách, chí hướng, tài trí và tâm huyết của mình. Với cảm hứng anh hùng và cảm xúc trữ tình, Nguyễn Trãi đã dành những câu văn, đoạn văn đẹp nhất khi khắc hoạ hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn.

4. Đánh một trận sạch không kinh ngạc - Đánh hai trận tan tác chim muông.

Nguyễn Trãi đã dành phần lớn bài đại cáo nói về diễn biến cuộc đấu tranh vũ trang và quá trình phản công của nghĩa quân Lam Sơn. Phần thứ tư này như những trang ký sự chiến trường mang giọng điệu hào hùng, mạnh mẽ. Sức mạnh nhân nghĩa, ấy là đại nghĩa, là chí nhân đã đè bẹp và nghiền nát giặc Minh hung tàn, cường bạo. Lời văn sang sảng cất lên:

“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo

Có vượt qua những thử thách nặng nề “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần- Khi Khôi Huyện quân không một đội”, nghĩa quân mới trưởng thành trong máu lửa. Quân ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng lớn. Chiến công nối tiếp chiến công, thế đánh như “trúc chẻ cho bay”, như “sấm vang chớp giật” giáng xuống đầu quân xâm lược. Cảnh tượng chiến trường vô cùng rùng rợn, máu giặc chảy thành sông, xác giặc chất cao như núi:

"Ninh Kiều máu cháy thành sông, tanh trôi vạn dặm,

Tụy Đông thấy chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”.

Trên đà chiến thắng "Sĩ khí đã hăng-Quân thanh càng mạnh’’, nghĩa quân tiến công trên quy mô rộng lớn, giải phóng những vùng chiến lược quan trọng: “Tây Kinh quân ta chiếm lại... Đông Đô đất cũ thu về”. Giặc đã thảm bại “trí cùng lực kiệt”, lũ tướng Thiên triều, đứa thì “nghe hơi mà mất vía”, thằng thì "nín thở cầu thoát thân ”, Trần Hiệp “phải bêu đầu ”, Lí Lượng “đành bỏ mạng”.

Chiến cục Chi Lăng - Xương Giang - Bình Than vào mùa thu năm 1427 diễn ra vô cùng ác liệt. Quân ta làm chủ chiến trường đã "điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong”, đã “sai tướng chen đường, tuyệt nguồn lương thực”, đã dồn 15 vạn viện binh giặc vào tử địa. Liễu Thăng cụt đầu, Lương Minh đại bại tử vong, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn. Hành chục vạn giặc bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống:

"LạngGiang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước ”

Đạo quân Vân Nam bị quân ta chặn đánh ở Lê Hoa "nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật”, quân Mộc Thạnh đại bại ở Cần Trạm “xéo lên nhau chạy để thoát thân”. Sông suối bao la một vùng biên giới tây bắc ngập đầy máu giặc:

“Suối Lãnh Cáu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiến í; khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. ”

Đây là tướng sĩ của nghĩa quân Lam Sơn: “Sĩ tốt kén tay tì hổ - Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.Và đây là hình ảnh bọn tướng tá Thiên triều trong tình hình "quân cô, lực kiệt, viện tuyệt, thế cùng”:     

"Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng

“Bình Ngô đại cáo” là một bản tổng kết chiến tranh 10 năm. Tác giả đã tái hiện lại toàn bộ diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu cờ nghĩa mới phất lên, trải qua những chặng đường máu lửa, trưởng thành trong thử thách hy sinh, giành thế chủ động chiến lược, tiến lên đánh bại hoàn toàn quân xâm lược. Nghệ thuật miêu tả các trận đánh dùng lối đặc tả, rất biến hóa, lúc ghi lại hình ảnh thảm bại, thảm họa của lũ tướng tá Thiên triều, lúc thì miêu tả cảnh chiến trường rùng rợn. Kết cấu tương phản đối lập được tác giả vận dụng sáng tạo để làm nổi bật giữa ta và địch, chính nghĩa và phi nghĩa, đại thắng và đại bại... Cách dùng từ, sáng tạo hình ảnh, các biện pháp đối xứng và thậm xưng cho thấy một bút pháp nghệ thuật kì tài, tạo nên âm điệu anh hùng ca. "Bình ngô đại cáo ” là khúc ca thắng trận vô cùng oanh liệt, cho ta bao xúc động tự hào:

"Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông... ”

Qua "Bình Ngô đại cáo ”, ta thấy Lê Lợi là một nhà chiến lược vĩ đại đã biết phát động chiến tranh khi thời cơ đã chín mùi, khi mà tội ác quân cuồng Minh "Lẽ nào trời đất dung tha - Ai bảo thần dân chịu được? Trải qua bao năm tháng ! Lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”, “Sách lược thao suy xét đã tinh”, Lê Lợi mới phất cờ khởi nghĩa. Lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã có tài chỉ đạo chiến tranh đánh cho lũ giặc Minh đại bại:

"Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng”.

Chính trong điều kiện chiến trường đó, Lê Lợi đã kết thúc chiến tranh, đã “mở đường hiếu sinh” trao trả cho nhà Minh hàng chục vạn tù binh:    

"Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”.

Khởi nghĩa để "trừ bạo " và "yên dân ”, kết thúc chiến tranh để chấm dứt đổ máu, để bảo vệ "toàn quân", "để nhân dân nghỉ sức”. Nguyễn Trãi với niềm tự hào chiến thắng đã ca ngợi “đại nghĩa” và "chí nhân" của dân tộc ta. Đại Việt là một nước văn hiến lâu đời, rất nhân đạo và yêu chuộng hòa bình.

5. Xã tắc từ đây vững bền.

Kết thúc bài đại cáo là một khúc ca khải hoàn vang lên hướng về ngày mai tươi sáng của Đại Việt - một nước văn hiến:

"Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ mà lại thái

Nhật nguyệt hối mà lại minh

Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.

Như một quy luật tất yếu: “ bí mà lại thái ”, "hối mà lại minh ”, đất nước ta sau 20 năm trời bị quân cuồng Minh "dối trời, lừa dân..., gây binh kết oán ” nay đã sạch bóng quân xâm lược, “ ngàn năm vết nhục nhã sạch làu”. Tổ quốc Đại Việt bước vào một kỉ nguyên mới độc lập, hoà bình, thịnh vượng trong “vữngbền”, hướng về “đổi mới ”, và “vững chắc ” đến muôn đời. Giọng văn đĩnh đạc hào hùng, đầy tự hào tin tưởng, thể hiện khát vọng hoà bình, độc lập và hạnh phúc của nhân dân ta. Sự nghiệp ''Bình Ngô" mà đại thắng là nhờ sức mạnh chính nghĩa, nhân nghĩa và truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta. Đó là nguồn gốc, là nguyên nhân sâu xa làm nên chiến thắng. Sự nghiệp “bình Ngô“ là trang sử vàng chói lọi, là "Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm... ”

Trong chiến tranh, Nguyễn Trãi là một mưu sĩ “tâm công” cánh tay phải đắc lực của Lê Lợi, là người “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời” (Lê Quý Đôn). Thư từ gửi tướng tá giặc Minh của ông “có sức mạnh như mười vạn quân ” (Phan Huy Chú). Nguyễn Trãi đã cùng Lê Lợi làm nên sự nghiệp “bình Ngô” là người đã thảo ra "Bình Ngô đại cáo”, bản tuyên ngôn độc lập, hoà bình của Đại Việt trong thế kỉ XV.

"Bình Ngô đại cáo ” cho ta thấy một bút lực và tài học vô song của ức Trai. Cáo là một thể văn cổ điển rất trang nghiêm, để thông báo cho toàn dân một sự kiện quan trọng. Sự nghiệp "bình Ngô" kéo dài trong 10 năm trời. Quân và dân ta trải qua muôn vàn gian lao thử thách, lập bao chiến công lẫy lừng... từ những tháng năm lầm than đến ngày toàn thắng “bốn phươngbiển cả thanh bình”, thế mà NguyễnTrãi đã viết một cách hàm súc: bài đại cáo chí dài 1343 chữ. Cảm hứng nhân nghĩa, cảm hứng anh hùng và khát vọng độc lập, hoà bình đã tạo nên tầm vóc văn chương, màu sắc sử thi của bài đại cáo bình Ngô, bản anh hùng ca Đại Việt. Ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Trãi rất biến hóa trong miêu tả và tự sự, trong trữ tình và bình luận, vừa sắc sảo và thấm thía, vừa đa thanh; lúc thì đĩnh đạc, hào hùng, trang nghiêm, lúc thì thắm thiết căm giận, lúc thì mạnh mẽ, hùng tráng... Đất nước và con người Đại Việt được nói đến trong bài đại cáo là một đất nước, một nhân dân văn hiến, anh hùng.

Thật vậy, “Bình Ngô đại cáo" toát lên "một chủ nghĩa nhân văn tích cực, sáng suốt tỉnh táo, mênh mông (Đặng Thai Mai), là bài ca yêu nước và tự hào dân tộc.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 23

Sau hai mươi năm của cuộc kháng chiến chống quân Minh và sau hơn mười năm của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi (1416 - 1427), bản Đại cáo bình Ngô ra đời là một điều tất yếu. Trên phương diện hành chính quan phương, đây là một văn kiện lịch sử nhằm thông báo, tuyên bố rộng rãi về nền độc lập của dân tộc sau nhiều năm gian truân, khổ cực, “tướng sĩ một lòng”. Nhưng đây còn là một áng văn yêu nước hùng tráng, kết tinh của biết bao nhiêu trái tim yêu chuộng hòa bình của dân tộc, mà tác giả Nguyễn Trãi là người đã thổi hồn vào đó qua từng con chữ, câu văn. Mạch cảm xúc không vì thế mà khô khan, cứng nhắc như vốn có, ngược lại đầy cháy bỏng, tha thiết… để mỗi chúng ta được ôn lại truyền thống oai hùng của lịch sử đất nước.

Cáo là một thể loại quen thuộc, cũng như chiếu, biểu, hịch,… mà trong chốn cung cấm tôn nghiêm hay dùng để ban những sắc lệnh quan trọng trong một thời điểm của vua hoặc người đứng đầu. Nhưng Bình Ngô đại cáo là một bản đại cáo khác xa với ý nghĩa thông thường, mang tính thời vụ đó. Bởi Nguyễn Trãi đã đưa khát vọng, niềm tự hào, kiêu hùng của nhân dân và của chính bản thân ông để một văn kiện lịch sử nhằm thông báo sự kiện trọng đại có tính chất quốc gia này mang theo một sức sống trường tồn, bất hủ. Tuy viết bằng chữ Hán, song bản dịch hiện hành cho đến giờ gần như không có độ chênh lệch lớn, vẫn bảo toàn nguyên vẹn ý nghĩa gốc. Bố cục bài cáo bốn phần rõ ràng, mạch lạc. Đoạn 1, nêu luận đề chính nghĩa. Đoạn 2, vạch trần tội ác của giặc Minh. Đoạn 3, cuộc khởi nghĩa đầy gian khổ và tất thắng của quân và dân ta. Đoạn 4, lời tuyên bố độc lập. Qua ngòi bút đầy tài năng của mình, Nguyễn Trãi đã viết nên một áng văn chính luận xuất sắc, đỉnh cao và trở thành mẫu mực cho văn chương chính luận trung đại Việt Nam.

   Mở đầu bài cáo, tác giả viết:

    Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

    Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

   Nhân nghĩa – một tư tưởng quen thuộc, nhắc tới cách hành xử tốt đẹp giữa người với người trong quan niệm đạo đức Nho gia. Tại sao Nguyễn Trãi lại đề cập đến ngay ở đầu bài cáo. Đây chẳng những là lí tưởng đạo đức suốt đời trong sự nghiệp cống hiến cho đất nước cũng như sáng tác văn chương của ông, mà còn là một điều mới mẻ, được nâng lên một tầm cao về mặt ý nghĩa so với trước đó. Bởi cốt lõi nhân nghĩa mà Ức Trai tôn thờ là yên dân, làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn, hạnh phúc. Vậy trong hoàn cảnh ngoại bang, “quân điếu phạt” Minh xâm lược, muốn dân được yên không gì khác ngoài việc phải lo trừ bạo. Tức là vì thương dân mà phải diệt trừ lũ bạo ngược đã hại dân, bao gồm bọn giặc Minh với ách đô hộ đầy hà khắc và cả bọn bán nước trục lợi, cầu vinh. Trên nền tảng lấy “dân làm gốc”, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Biết dựa sức mạnh vào dân là phương kế chính trị lớn lao đem lại thắng lợi to lớn cho dân tộc ở mọi thời đại. Bởi vậy, nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo nói riêng và cả sự nghiệp văn thơ Nguyễn Trãi đã trở thành một đạo lý dân tộc, một lí tưởng xã hội sáng ngời.

   Từ lập trường nhân nghĩa ấy, tác giả đã xây dựng một cơ sở lí luận vững chắc, nêu lên được luận đề chính nghĩa ở ngay phần mở đầu của bài cáo.

    Như nước Đại Việt ta từ trước

    …

    Chứng cớ còn ghi.

   Đây là đoạn văn đã chạm khắc vào lịch sử dân tộc những giá trị bất khả xâm phạm về nền độc lập một cách đầy đủ nhất. Lối lập luận so sánh sắc bén, đa chiều đã khẳng định những phương diện cốt lõi để định danh chủ quyền của mỗi quốc gia. Bỏ qua yếu tố lớn nhỏ, mạnh yếu mà cân nhắc, xem xét ở những điều có hay không. Văn hiến, núi sông bờ cõi, phong tục, lịch sử và hào kiệt Đại Việt ta so với Đại Hán, Bắc phương đều có cả, thậm chí tương xứng, song hành. Cái hay mà Nguyễn Trãi đem lại không những khẳng định được nền độc lập dân tộc mà còn cho thấy cả quá trình để sức sống độc lập ấy tồn tại đầy mãnh liệt. Chỉ một đoạn văn nhỏ mà thấy cả dòng chảy lịch sử suốt năm trăm năm, với sáu lần đánh bại quân thù. Không còn điều gì có thể tự hào hơn, không còn điều gì có thể thay đổi chân lý đó. Những chứng cớ lịch sử năm xưa lại càng “khóa chặt” cho cơ sở lí luận về nền độc lập dân tộc, về sự chính nghĩa trong công cuộc trường chinh bảo vệ đất nước của vua tôi nhà hậu Lê.

   Chủ quyền quốc gia độc lập, vậy nếu bất cứ kẻ nào xâm phạm đều mang trong mình trọng tội. Bè lũ gặc Minh và bọn bán nước cầu vinh lúc bấy giờ thì:

    Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội

    Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi

   Cớ gì mà vị quân sư chính trực của Lê Lợi lại khẳng định một cách tận cùng về tội ác của bọn chúng như vậy? Cả một đoạn văn có lẽ thấm đẫm nước mắt, căm hờn sục sôi mà bao lâu nay bị dồn nén được Nguyễn Trãi viết ra một cách tường tận. Từ âm mưu xâm lược thâm độc Nhân họ Hồ chính sự phiền hà/ thừa cơ gây họa, lợi dụng tình hình rối ren của đất nước do nhà Hồ gây ra, chúng mang theo luận điệu xảo trá phù Trần diệt Hồ, nhằm bịp bợm nhân dân. Đến những hành vi xâm lược, bóc lột tàn bạo, dã man không thể diễn tả nổi. Dưới góc nhìn của Nguyễn Trãi, qua lăng kính của tư tưởng nhân nghĩa, yên dân thì tội ác không thể chấp nhận được của bọn chúng là dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế. Vì vậy bút pháp phóng đại, ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giọng điệu đanh thép đã chắp bút để ông vạch trần bộ mặt man rợ, trắng trợn của bè lũ cướp nước. Thật đau xót, tê dại khi nhớ lại:

    Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

    Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

   Cái đáng sợ của bọn giặc Minh là ngay cả đến dân đen, con đỏ cũng chẳng tha. Hai động từ nướng, vùi đã lột tả trần trụi đến rợn người về sự tàn sát của chúng. Nhưng đâu chỉ có vậy, chúng còn Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt, ép dân xuống biển dòng lưng mò ngọc, vào núi đãi cát tìm vàng. Biết bao người dân vô tội phải thiệt mạng vì cá mập thuồng luồng, vì bệnh tật nơi rừng sâu nước độc. Thảm cảnh Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng chỉ là một trong số vô vàn những đau khổ chúng để lại cho dân lành. Về kinh tế, chúng cũng cũng đẩy đất nước rơi vào cảnh kiệt quệ. Năng thuế khóa để bóc lột, vơ vét tài nguyên, khoáng sản, tàn phá cả nghề trồng lúa, nghề dệt vải… Đến cả giống côn trùng cây cả cũng không tha. Các từ ngữ chốn chốn, nơi nơi chỉ không gian rộng và Gây binh kết oán trải hai mươi năm chỉ thời gian dài khiến Bại nhân nghĩa nát cả đất trời. Tội ác của bọn chúng đúng là trời không dung, đất không tha, cả thần và nhân không chịu nổi. Bản cáo trạng như thấm đẫm cả máu, nước mắt của nhân dân mà Nguyễn Trãi đã tổng kết lại. Từng chữ, từng câu chất chứa nỗi uất nghẹn, căm hờn. Những chứng cớ về tội ác ấy là bản cáo trạng đanh thép nhất, là thực tiễn lịch sử xác đáng nhất để chứng tỏ phải diệt trừ lẽ lũ ngang tàng, bạo ngược, dối trá – giặc Minh là một việc làm đầy chính nghĩa của nhân dân ta, mà đội quân Lam Sơn là người gánh vác sứ mệnh.

   Trước kẻ thù hiểm ác, thâm độc như thế, việc trừ bạo không hề dễ dàng. Ở đoạn văn tiếp theo, Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy điều đó khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn trong buổi đầu sơ khai. Và hình ảnh đầu tiên xuất hiện là chủ tướng Lê Lợi:

    Ta đây:

    Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

    Chốn hoang dã nương mình.

   Cách tự xưng gần gũi ta, xuất thân nơi núi, chốn hoang dã cũng bước ra từ nhân dân nhưng vì mến nghĩa mà đứng lên. Vị lãnh tụ mang theo trong mình tấm lòng căm thù giặc sâu sắc, há đội trời chung, thề không cùng sống với bao nhiêu trăn trở, ưu tư đau lòng nhức óc, quên ăn vì giận, những trằn trọc, nỗi băn khoăn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vượt qua những ngày tháng nếm mật nằm gai, thấu hiểu lẽ hưng phế ở đời, người anh hùng ấy đã trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa. So với địch, tướng sĩ Lam Sơn khi bắt đầu hoàn toàn yếu thế. Đúng lúc khởi nghĩa là lúc quân thù đương mạnh, nhân tài, tuấn kiệt của ta lại hiếm hoi, thậm chí quân tiếp viện, lực lượng trực tiếp chiến đấu lẫn lương thảo đều ít ỏi, khó khăn. Vậy điều gì lại giúp Lê Lợi và cộng sự của mình thắng lợi? Đó chẳng phải là:

    Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông;

    Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành về phía tả.

   Người chủ tướng nhận mệnh lớn trời trao, biết khắc phục gian nan thì cũng tìm ra được con đường chiến đấu. Vì thế, có tinh thần đoàn kết nhân dân bốn cõi một nhà, tướng sĩ một lòng phụ tử; có kế sách lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều và trên hết ta có đại nghĩa, có chí nhân để:

    Trọn hay:

    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

    Lấy chí nhân để thay cường bạo.

   Chính nhờ đó mà mỗi ngày, mỗi ngày lực lượng kháng chiến một lớn mạnh, lại biết tận dụng thời cơ, quân ta đã mở những chiến dịch phản công và giành thắng lợi vẻ vang.

   Trong phạm vi hạn hẹp của bài cáo, nhưng với sự khéo léo tài tình của mình, Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực, nhiều góc độ, giúp người đọc rất dễ hình dung ra toàn cảnh của chiến trường. Trước hết phải kể đến những trận đánh liên tiếp, nối dài, phủ rộng khắp mọi miền. Mở màn là chiến dịch là trận Bồ Đằng, miền Trà Lân ở xứ Nghệ, tiếp tục kéo đến Tây Kinh xứ Thanh, rồi thẳng tiến về Đông Đô với hai trận Ninh Kiều và Tốt Động, bảo vệ thành công Thăng Long. “Thằng nhãi con Tuyên Đức” là vua nhà Minh lúc bấy giờ phải động binh cứu viện, nhưng nghĩa quân Lam Sơn lại chặn đứng bọn viện binh bằng những trận đánh liên tiếp, mạnh mẽ:

    Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

    Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu,

    Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,

    Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.

   Có thể nói, trong một đoạn văn dài người đọc không thể rời mắt, những trận đánh như sấm vang chớp giật, trúc trẻ tro bay, thừa thắng ruổi dài mà xông lên, cứ thuận đà mà:

    Đánh một trận sạch không kình ngạc

    Đánh hai trận tan tác chim muông

   Quân tướng thì khí thế hừng hực, quyết chiến, quyết thắng thật oai hùng:

    - Sĩ khí đã hăng

    Quân thanh càng mạnh

    - Sĩ tốt kén người hùng hổ

    Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

    Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

    Voi uống nước, nước sông phải cạn

   Ta ở trong tư thế chủ động tấn công, lấn chiếm cả chiến trường. Từ không khí đến cảnh tượng đều để lại thật nhiều ấn tượng:

    Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,

    Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.

   Nhìn lại từ buổi đầu khởi nghĩa mà thấy thật là một kì tích, một sức mạnh thật phi thường.

   Nhưng quá trình lược thuật về cuộc khởi nghĩa, không dừng lại ở việc ca ngợi chiến thắng của ta, mà còn khắc họa một cách sống động, chân thực về sự thất bại của kẻ thù. Cứ nghĩ đến cảnh Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước ta không khỏi ghê rợn. Nếu ta chủ động thì giặc lại rơi vào bị động, thất thế. Chúng cứ liên tục gỡ thế nguy, cứu trận đánh, bó tay để đợi bại vọng, trí cùng lực kiệt… Lũ giặc cả tướng lẫn quân đều suy sụp về tinh thần, hao hụt về ý chí nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân, kẻ bêu đầu, kẻ bỏ mạng, bại trận tử vong, cùng kế tự vẫn…Thất bại nhục nhã, ê chề ấy là kết cục tất yếu của bọn chúng.

   Tuy nhiên, đường nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi – Lê Lợi vạch ra từ ban đầu vẫn luôn luôn soi tỏ. Ta chiến thắng nhưng biết điểm dừng, không dồn giặc vào thế khốn cùng mà ngược lại còn mở đường hiếu sinh cho chúng một con đường sống, cũng là để toàn dân nghỉ ngơi, lấy sức. Ta đã cấp cho chúng thuyền, ngựa để trở về. Vì thế thắng lợi của ta là thắng lợi của tinh thần thượng võ, của lòng nhân ái, nhân văn. Cũng bởi vậy mà kẻ thù đã thua lại còn phục, sẵn sàng cởi giáp ra hàng, trói tay tự xin hàng, lê gối dâng tờ tạ tội, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

   Giọng điệu sục sôi, khí thế, ngôn ngữ giàu chất tạo hình, bút pháp tương phản, mang tính sử thi, Đại cáo bình Ngô đã làm sống dậy những trang sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Niềm tự hào, kiêu hãnh không chỉ là ở những chiến công mà ở sức mạnh của toàn dân quyết chí một lòng để làm nên chiến thắng vẻ vang.

   Sáng đến đoạn cuối giọng điệu có phần thư thái, mang không khí mừng vui phấn khởi khi nhắc đến vấn đề quan trọng nhất, đó là nền độc lập, cảnh thái bình.

    Xã tắc từ đây vững bền

    …

    Ai nấy đều hay

   Vậy là từ nay đã chấm dứt cảnh bạo tàn, khốc liệt, sẽ không còn những tháng ngày tăm tối, đau thương dưới ách quân thù. Lời tuyên bố độc lập như vang lên đầy hào sảng, mang tới niềm vui sướng, tự hào cho muôn triệu con dân. Bao khao khát bấy lâu nay, giờ cả non sông rạng rỡ, đến nhật nguyệt, càn khôn cũng sáng ngời. Dân tộc từ nay có thể ngẩng đầu kiêu hãnh và hướng tới một ngày mai tươi sáng, một kỉ nguyên xây dựng đất nước độc lập, hòa bình.

   Đã sáu trăm năm trôi qua, lịch sử cũng đã lùi vào dĩ vãng, nhưng Đại cáo bình Ngô vẫn trọn vẹn sức sống như thuở ban đầu. Bản văn kiện lịch sử mang tầm tư tưởng vĩ đại, một luận văn tổng kết lịch sử yêu nước vô cùng xuất sắc, cũng là một áng văn chương tiêu biểu cho ngòi bút thần Nguyễn Trãi. Tác phẩm chính là nguồn cảm hứng bất tận cho bao thế hệ người Việt Nam về lòng yêu nước, về tinh thần đấu tranh bảo vệ và dựng xây đất nước.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 24

Nguyễn Trãi là nhà quân sự, nhà văn hóa lớn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam. Ông đã đóng góp cho kho tàng văn học trung đại Việt Nam nói riêng và kho tàng văn học Việt Nam nói chung nhiều tác phẩm văn học độc đáo, có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc mọi thế hệ và “Bình Ngô đại cáo” là một trong số những tác phẩm như thế. “Bình Ngô đại cáo” ra đời sau thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân minh xâm lược. Tác phẩm không chỉ là một văn kiện lịch sử tuyên bố nền độc lập của dân tộc mà nó còn là áng văn yêu nước, áng văn chính luận xuất sắc của nền văn học nước ta.

Được viết theo thể cáo – một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Hoa, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi cũng có một bố cục rất chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã khéo léo nêu lên luận đề chính nghĩa, làm cơ sở, nền tảng cho chân lí độc lập dân tộc.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Như chúng ta đã biết, “nhân nghĩa” là một trong số những phạm trù tư tưởng quen thuộc và gần gũi của Nho giáo, nó được dùng để nhắc tới mối quan hệ, cách ứng xử tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo đức. Với Nguyễn Trãi, “việc nhân nghĩa” phải gắn liền với việc “yên dân” bởi ông luôn “lấy dân làm gốc”, làm nền tảng cho mọi hành động, việc làm của mình. Đặc biệt, trong bối cảnh quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Trãi khẳng định, muốn “yên dân” thì trước hơn hết phải lo “trừ bạo” nghĩa là phải đánh đuổi quân xâm lược, những kẻ đang đàn áp nhân dân và đẩy nhân dân vào cuộc sống lầm than, cơ cực. Như vậy, với hai câu thơ mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên tiền đề tư tưởng cho toàn bộ tác phẩm, đó chính là tư tưởng nhân nghĩa và tư tưởng ấy luôn lấy dân làm gốc, xét đến cùng đây là một tư tưởng tiến bộ và mới mẻ của ông. Thêm vào đó, trong phần mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nêu lên chân lí khách quan để khẳng định nền độc lập của dân tộc ta từ bao đời nay.

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Dường như, đoạn văn đã gợi lại trong chúng ta những truyền thống đáng tự hào của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Đại Việt là một dân tộc có truyền thống văn hiến, phong tục từ lâu đời, có bờ cõi, lãnh thổ riêng. Đồng thời, với lối so sánh các triều đại phong kiến của nước Đại Việt với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả Nguyễn Trãi đã đặt nước ta ngang hàng với Trung Quốc, điều đó không chỉ khẳng định nền độc lập của dân tộc mà nó còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc với truyền thống văn hiến từ ngàn năm. Đồng thời, để khẳng định chân lí độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã liệt kê, kể lại những chiến thắng hào hùng, tất thắng của quân ta trong các cuộc chiến đấu ở trước đó.

Lưu Công tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Trên cơ sở tiền đề chính nghĩa và chân lí độc lập ở đoạn một, đoạn hai của bài cao đi sâu chỉ rõ những tội ác man rợn của giặc Minh. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa

Bọn gian tà bán nước cầu vinh

Lợi dụng tình hình rối ren trong nước của nhà Hồ, giặc Minh với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ” để lừa bịp nhân dân, chúng đã tiến vào xâm lược nước ta. Để rồi, sau đó, chúng đã thi hành hàng loạt chính sách dã man và dưới ngòi bút của mình, Nguyễn Trãi đã lật mặt, vạch rõ hàng loạt tội ác không thể tha thứ của giặc Minh. Chúng đã tàn sát những người dân vô tội một cách tàn độc và dã man.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Bọn giặc Minh thật tàn ác biết bao, ngay đến cả “dân đen”, “con đỏ” chúng cũng không chịu tha. Hai động từ “nướng”, “vùi” được đặt lên đầu câu dường như đã lột tả đến tột cùng sự tàn sát man rợn, giết người không ghê tay của bọn chúng. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát nhân dân bằng cách đẩy họ vào những noi đầy rẫy những hiểm nguy, nơi mà khi đã đi rồi thì rất khó để có thể sống sót để trở về.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc

Đồng thời, tội ác của giặc Minh còn ở đặt lên đầu nhân dân những chính sách thuế khóa nặng nề, và vô lí và không dừng lại ở đó, chúng còn hủy hoại cả môi trường sống, môi trường tự nhiên.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt

Tàn sát cả giống côn trùng, cây cỏ,

Như vậy, bằng hàng loạt các hình ảnh chân thực, rõ nét cùng việc sử dụng phép đối lập giữa tội ác của kẻ thù với nỗi đau thống khổ của nhân dân và giọng văn đanh thép, hùng hồn, tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng về những tội ác man rợn của kẻ giặc và bản cáo trạng ấy khép lại bằng một hình ảnh so sánh giàu sức khái quát và đầy ám ảnh về tội ác của chúng.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Tiếp đó, trong đoạn ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại quá trình chiến đấu và giành chiến thắng của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu chống quân Minh xâm lược. Và trước hơn hết đó chính là hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi.

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa

Chốn hoang dã nương mình

Với đại từ “ta” tự xưng gần gũi cùng cách sử dụng từ “nơi”, “chốn” đã cho thấy nguồn gốc xuất thân của chủ tướng Lê Lợi. Người anh hùng ấy cũng xuất thân từ nhân dân, cũng bước ra từ lòng nhân dân và thấu hiểu bao nỗi nhọc nhằn của nhân dân. Người anh hùng ấy mang trọn trong mình lòng căm thù giặc sâu sắc – “ngẫm thù lớn hạ độ trời chung”, “căm thù giặc thề không cùng chung sống’ cùng bao nỗi niềm nghĩ suy, trăn trở đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “quên ăn vì giận” và cả “những trằn trọc trong đêm mộng mị” để đứng lên dấy binh khởi nghĩa. Dẫu cuộc khởi nghĩa ấy diễn ra giữa lúc “quân thù đương mạnh” và gặp phải muôn vàn khó khăn nhưng điều đó không thể ngăn được bước chân và ý chí của Lê Lợi, ông vẫn không nguôi nỗi lòng thương dân và niềm khát khao đánh thắng kẻ thù xâm lược và để rồi, dẫu trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ông vẫn tìm ra con đường để tranh đấu, để đưa cuộc chiến của ta đi đến thắng lợi.

Trọn hay:

Đen đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo

Chính nhờ chân lí, con đường ấy mà cuộc khởi nghĩa của ta đã từng ngày, từng ngày vượt qua khó khăn và đi đến thắng lợi. Tuy nhiên, khi tái hiện quá trình chiến đấu và chiến thắng của quân ta, Nguyễn Trãi không chỉ tái hiện hình ảnh của anh hùng Lê Lợi mà ông còn tái hiện rõ nét từng chặng đường trong cuộc kháng chiến ấy. Trong buổi đầu của cuộc kháng chiến, nghĩa quân của ta gặp phải rất nhiều khó khăn, thiếu thốn về nhân lực – “việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần”, thiếu thốn lương thực,… nhưng với lòng quyết tâm và ý chí, cả nghĩa quân vẫn sát cánh bên nhau và cùng cố gắng. Để rồi, trong giai đoạn sau của cuộc chiến, quân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang. Mở đầu là các chiến thắng ở trận Bồ Đằng, trận Trà Lân rồi tiếp đó là chiến thắng Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều,… và tiếp đó là hàng loạt các chiến công liên tiếp:

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế

Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu

Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong

Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.

Có thể nói, bằng tất cả lòng quyết tâm, ý chí và lòng căm thù giặc sâu sắc, quân ta đã đánh thắng kẻ thù xâm lược, khiến chúng thất bại thảm hại và khiếp sợ. Đồng thời, trong trận chiến ấy, quân ta vẫn thể hiện rõ tư tưởng chính nghĩa đã đặt ra, bởi vậy nên khi quân giặc thua trận, nghĩa quân của ta vẫn cho chúng đường lui, không những tha chết cho bọn chúng mà còn cấp ngựa, cấp lương thực và cấp thuyền cho chúng trở về nước. Và có lẽ bởi vậy, chiến thắng của ta chính là sự chiến thắng của nhân nghĩa, của lòng nhân ái và tinh thần thượng võ.

Cuối cùng, trên cơ sở luận đề chính nghĩa và thực tiễn của cuộc chiến đấu đoạn cuối của bài cáo đã lên tiếng tuyên bố nền hòa bình, độc lập của dân tộc.

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới

(…)

Xa gần bá cáo

Ai nấy đều hay.

Với giọng văn hào hùng, trịnh trọng xen lẫn niềm vui và tự hào dân tộc, lời tuyên bố độc lập được tuyên bố rộng rãi đến toàn thể mọi người. Lời tuyên bố ấy không chỉ thể hiện lòng tự hào dân tộc mà còn cho thấy niềm tin vào một tương lai đất nước thái bình và thịnh vượng.

Tóm lại, với sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố trữ tình và yếu tố chính luận cùng việc sử dụng nhiều hình ảnh độc đáo và giọng văn biến đổi linh hoạt, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi xứng đáng là “áng thiên cổ hùng văn” trong nền văn học Việt Nam.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 25

Bình ngô đại cáo là tác phẩm tiêu biểu nhất của nguyễn trãi , nhà chính trị, quân sự và dĩ nhiên là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất của dân tộ. bình ngô đại cáo là bài cáo của nguyễn trãi thay vua lê thía tổ viết để tuyên cáo rộng rãi với nhân dân về quá trình kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa lam sơn. Thông qua bài cáo, nguyễn trãi cũng nêu lên triết lý nhân nghĩa của ông cũng như đã định nghĩa 1 cách tự hào về đất nước

Nhân nghĩa là 1 nội dung nho giáo nói về sự thương yêu, giúp đỡ giữa con người với nhau. Tuy nhiên đối với nguyễn trãi, nhân nghĩa đã nâng lên thành 1 bậc. nhân nghĩa đối với ông là việc, là hành động cụ thể

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điều phạt trước lo trừ bạo

Thường thì trong xã hội phong kiến, quân đội được xây dựng là để bảo vệ chế độ, bảo vệ nhà vua. Nhưng ở đây, nguyễn trãi cho rằng, quân đội thì phải trừ bạo, phải làm cho dân được ấm no, hạnh phúc

Nguyễn trãi đã dùng rượu mới để đỗ vào bình cũ của nho giáo. Nhân nghĩa là 1 khái niệm phải nghĩ đến trước tiên nếu như muốn trị thiên hạ

Đất nước việt nam có truyền thống nhân nghĩa, con người việt nam nhân đạo. đó là nội dung mà nguyen trãi muốn đề cập ở những câu cuối của phần 1 bài cáo. Nguyễn trãi đã cất cao giọng nêu tên đất nước

Như nước đại việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Ta nhận thấy ở đây 1 giọng điệu sảng khoái, phấn khở, chắc có lẽ khi viết hai dòng văn này, mọi tình cảm yêu nước ông đều họp lại tại trái tim để rồi từ đó, ông bật ra

Như nước đại việt ta từ trước

Nước đại việt đã có từ trước, vì thế mà hình thành một nền văn hiến lâu đời. văn hóa đại việt dù ít nhiều có ảnh hưởng của văn hóa phương bắc nhưng nó vẫn đậm đà bản sắc dân tộc

Nếu như lí thường kiệt đã từng nói sông núi bờ cõi nước nam đã được định phận tại sách trời thì nguyễn trãi lại nêu lên 1 nội dung khái quát hơn

Núi sống bờ cõi đã chia
Phong tục bắc nam cũng khác

Đất nam đất bắc đã có ranh giới rõ ràng được chia. Có thể do trời chia nhưng cũng có thể do người chia. Nhưng ta có thể hiểu rằng, trải qua hơn một ngàn năm đấu tranh gian khổ, qua bao nhiêu nhọc nhằn, cha ông mới dựng nên đất nước. vâng, chính con người việt nam đã đưng lên đấu tranh, đã nằm xuống, đã quyết tử cho tổ quốc quyết sinh để hình thành nên đất nước. giang san đã được chia thì phong tục, tập quán cũng có nhiều khác lạ. dân nước nam khác dân nước bắc, ngôn ngữ cũng khác. Nhưng có 1 điều giống nhau là cả 2 nước đều tồn tại song song những triều đại

Từ triệu đinh lí trần bao đời gây nền độc lập
Cùng hán đường tống nguyên mỗi bên xưng đế 1 phương

Đây là dòng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, từ bấy lâu, các hoàng đế trung hoa đều cho rằng đất nước ta là 1 bộ phận, 1 quận nhỏ của họ. nhưng giờ đây nguyễn trãi đã khẳng định nước ta có chủ quyền như 1 lời xỉ vả vào mặt quân thù. Tuy lúc yếu, lúc mạnh nhưng hào kiệt đất nam không thiếu, nào là đinh bộ lĩnh, lý thường kiệt và xa hơn nữa là ngooq uyền với chiến thắng bạch đằng năm 938 ở ra kỷ nguyên độc lập cho đất nước

Trong phần 1 bài cáo, nguyễn trãi không chỉ nêu lên triết lý nhân nghĩa 1 cách sâu sắc mà ông còn định nghĩa về đất nước với 1 niềm tự hào dân tộc. đứng trên lập trường của dân tộc, ông khẳng định về đất nước về 1 niềm tự dân tộc, ông đã khẳng định nước ta có truyền thống nhân nghĩa vì thế mà tồn tại được và đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù

Mỗi lần đọc bình ngô địa cáo, trong em lại hừng hực niềm tự hào mình là người việt, là hậu thế của nguyễn trãi. Và nghĩ về đời người anh hùng dân tộc, không khỏi nhói lên trong em nỗi lòng xót thương nguyễn trãi. Và rồi chúng ta có thể cất cao giọng ca ngợi tổ quốc việt nam muôn năm

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 26

Được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn của dân tộc, là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 sau Nam quốc sơn hà, Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm xuất sắc mà ở đó ta có thể thấy được tinh thần dân tộc của Nguyễn Trãi, đó là tấm lòng yêu nước, thương dân tha thiết, lòng căm thù quân giặc sâu sắc. Dựa trên việc khẳng định chân lý chủ quyền dân tộc cùng với tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ, "việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", tác phẩm đã mang đến cho người đọc những nhận thức chân thực về cuộc chiến chống quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi chia bài cáo làm 4 phần với 4 nội dung chính, trong đó có một phần phản ánh sự tàn ác của giặc Minh những năm tháng đô hộ hộ nước ta là phần có vai trò quan trọng trong bài cáo, cần lưu tâm để càng thấm thía hơn nỗi đau mất nước những năm tháng đã qua.

Bọn giặc Minh cướp nước, ấp ủ âm mưu xâm lược bấy lâu, nhưng lại còn ra vẻ sợ người đời dị nghị thế nên mới nghĩ ra cái cớ "phù Trần diệt Hồ" để bịp bợm thiên hạ, lừa lọc nhân dân ta, từ đó có cớ dẫn quân sang xâm lược. Quả thật bọn bất nhân, bất nghĩa thì chẳng chuyện gì mà không vẽ ra được. Đã thế trong nước thì lòng dân oán hận ngập trời, "Bọn gian tà bán nước cầu vinh", bán cả tự tôn dân tộc để tham chút lợi nhỏ bé, mở đường cho giặc vào tàn sát người mình, ôi chẳng có thứ người nào lại nhẫn tâm đến vậy.

Từ ngày giặc Minh tràn vào, nhân dân ta chẳng có một ngày được sống yên ổn, chúng ra sức tàn sát, âm mưu diệt chủng những kẻ kháng cự, không nghe lời bằng những phương thức hết sức dã man, rùng rợn, tựa bọn quỷ sa tăng hút máu. Nào là "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn", "Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ". Đã thế còn liên tiếp bịp bợm "Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế", gieo rắc thù oán hết gần 20 năm trời đằng đẵng. Kẻ chết đã chết, nhưng người sống chúng cũng phải tìm mọi cách mà bóc lột mà hành hạ, biến nhân dân ta thành nô lệ, thành những công cụ biết nói, ép nhân dân ta phải tự đi vơ vét tài nguyên của đất nước mà cung phụng cho chúng.

"Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt."

Nhưng những thứ quý hiếm ấy có phải đâu dễ tìm, người xuống biển sâu chết không thấy xác, kẻ lên rừng, vào núi thì hùm beo rình rập. Đã thế chúng còn bắt nhân dân ta phải tìm cả những thứ cực quý như chim trả, hươu đen, phải giăng lưới, đặt bẫy có khi chẳng bắt được mà còn đi nhầm cả vào bẫy thú vật. Ôi thật xót xa cho cảnh khốn khổ tột cùng! Hậu quả để lại là môi trường liên tiếp bị hủy hoại tàn phá, chim muông cây cỏ cũng chẳng còn chỗ nương thân, phụ nữ bỗng trở thành kẻ góa bụa, gia đình đang yên ổn canh cửi nay cũng thuận đà tan tác cả, còn đâu chốn làng quê yên bình, đẹp đẽ, còn đâu tiếng người cười nói dẫn nhau ra đồng, mất hết rồi.

Đối lập với khung cảnh khốn khổ, tiêu điều cùng cực ấy thì giặc Minh lại hiện lên với một hình ảnh hoàn toàn đối lập "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán", quân giặc thì no nê phè phỡn, đúng cảnh kẻ thì ăn không hết người thì lần chẳng ra. Phu phen tạp dịch cứ áp lên người nông dân cơ cực, nào thì xây nhà, đắp đất chẳng bao giờ hết việc, còn bọn chúng thì nghênh ngang ra sức đòn roi mà quất, mà sai bảo chẳng thương tiếc. Sự độc ác, tàn bạo của giặc Minh được Nguyễn Trãi dùng những cái vô cùng, vô tận của thiên nhiên mà so sánh, trúc Nam Sơn biết bao nhiêu cây chẳng đếm được, ấy thế mà cũng không đủ để chép tội quân Minh, biển Đông Hải bao la rộng lớn cũng nào đủ để rửa sạch mùi tàn ác, dơ bẩn của chúng. Tội ác của quân Minh nhiều không kể xiết là như vậy, đến muôn ngàn đời đi nữa vẫn còn lưu trong sử sách chẳng phai mờ. Nguyễn Trãi đã phải thốt lên bằng một giọng đầy đau đớn và căm phẫn: "Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?", ông tin vào thiên mệnh, vào trời đất, tin rằng tất có người trừng trị được kẻ thủ ác, bởi trời đất vốn có mắt, rồi quân Minh sẽ chẳng thoát khỏi sự trừng phạt đích đáng cho những tội lỗi mà chúng gây ra trên đất Đại Việt. Câu hỏi chính là lời cảnh báo đầy bi thương và căm thù dành cho quân Minh để kết thúc phần hai của bài cáo.

Với một giọng văn đầy đau xót, bi thương tột cùng, Nguyễn Trãi vừa vạch trần âm mưu xâm lược nước ta vừa phản ánh được sự tàn ác, man rợ của chúng đối với dân tộc Đại Việt. Đồng thời ông cũng thể hiện được tư tưởng nhân nghĩa của mình khi trở thành người đứng về phía nhân dân, lên án tội ác của giặc, có tình cảm xót thương sâu sắc khi quyền sống của nhân dân bị chà đạp bị coi thường bởi quân thù. Phần hai có ý nghĩa như là lời buộc tội đầy đanh thép của quan tòa dành cho kẻ phạm tội và nguyên nhân trực tiếp diễn ra cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau này.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 27

Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn kiện nhằm tuyên ngôn nền độc lập của Đại Việt, tuyên ngôn về quyền quyền sống của con người mà nó còn là khúc thiên anh hùng ca về cuộc kháng chiến của quân dân ta trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh xâm lược. Ở đó, ta thấy hiện lên thật chân thực và hào hùng những trận đánh đi vào lịch sử, những trận đánh khiến địch máu chảy đầu rơi cả trăm năm sau vẫn còn kinh hãi, cũng thấy được cái tinh thần nhân nghĩa, nhân đạo của chủ, tướng nhà Lê.

Trong Bình Ngô đại cáo, trước hết phải nhắc đến nhân tố quan trọng hàng đầu trong cuộc khởi nghĩa đó là chủ soái Lê Lợi. Nguyễn Trãi miêu tả ông là người anh hùng có lòng yêu nước thương dân, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc, thế nên ông căm ghét giặc Minh vô cùng "Ngẫm thù lớn há đội trời chung/Căm giặc nước thề không cùng sống", ghét đến độ phải một mất một còn, ta và địch buộc một bên phải tiêu vong. Đó chính là nguyên nhân, là tiền đề đầu tiên để vị lãnh tụ Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chốn Lam Sơn, lấy nơi hoang dã làm căn cứ nương mình, chờ thời cơ diệt giặc. Hơn thế nữa, Lê Lợi còn hội tụ rất nhiều yếu tố khác để trở thành vị lãnh tụ đáng kính bao gồm lòng kiên trì bền bỉ "Nếm mật nằm gai/chốc đà mười mấy năm trời" để xây dựng lực lượng, có khả năng thu phục quần hùng, biết coi trọng nhân tài "cỗ xe cầu hiền thường chăm chăm còn dành phía tả" và quan trọng nhất đó là lòng quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm dù có bao nhiêu gian khó "Tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về phía đông", tiến về mặt trời, về một tương lai tươi sáng rực rỡ cho dân tộc.

Thế nhưng dù có chủ soái giỏi, nhưng nghĩa quân ta lúc bấy giờ còn yếu kém về mọi mặt so với quân địch "Vừa lúc cờ nghĩa dấy lên/Chính là lúc quân thù đương mạnh", về sĩ khí ta áp đảo quân thù, nhưng về mặt vật chất quân số rõ ràng ta nằm ở thế yếu, mọi khó khăn chồng chất cứ đổ dồn trong buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa khiến Lê Lợi phải "đau đầu nhức óc". Thứ nhất là ta thiếu người hiền tài đứng ra giúp nước "Tuấn kiệt như sao buổi sớm/Nhân tài như lá mùa thu", thiếu cả binh sĩ tham gia khởi nghĩa giết giặc "Trông người người lại càng vắng bóng, mịt mù như chốn bể khơi". Trong khi đó, quân giặc vẫn ngày đêm tàn sát nhân dân, vơ vét của cải, không chuyện ác nào không làm, nước đã mất đến nơi, đến độ khiến Lê Lợi lo lắng, mất ăn mất ngủ "vội vã như cứu người chết đuối". Lương thực thì cạn kiệt, quân đội thì thưa thớt, giặc vẫn hoành hành ngang dọc rêu rao làm việc "hung đồ ngang dọc", phải nói khó khăn chồng chất khó khăn.

Nhưng bằng lòng quyết tâm cứu nước, bằng lòng căm thù giặc sâu sắc nghĩa quân ta bằng mọi cách để khắc phục khó khăn ban đầu. Hội tụ nghĩa quân, nêu cao tấm lòng chính nghĩa, đoàn kết "nhân dân bốn bể một nhà", "tướng sĩ một lòng phụ tử". Vận dụng mưu lược trong chiến đấu "dùng quân mai phục", tinh thần anh dũng hy sinh "lấy ít địch nhiều", "lấy yếu chống mạnh", khiến cho mỗi trận đánh của quân dân ta đều sĩ khí bừng bừng, thu được nhiều chiến công vang dội. Nguyên nhân xuất phát bởi tấm lòng nhân nghĩa, chính nghĩa của nghĩa quân "Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/Lấy chí nhân thay cường bạo", chứng minh một chân lý không thể dời đổi, chính nghĩa ắt phải thắng gian tà. Những trận đầu tiên mở ra trường kỳ thắng lợi thật vang dội "Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay", Nguyễn Trãi sử dụng những hình ảnh thiên hùng vĩ, tạo nên sức gợi về sự mạnh mẽ, oanh tạc hùng dũng trong từng trận chiến của nghĩa quân. Trái với hình ảnh oai hùng của nghĩa quân thì quân thù lại trông thật thảm hại, kẻ "nghe hơi mà mất vía", kẻ thì "nín thở cầu thoát thân" thật hài hước, nực cười, cái bọn trước đây hung hăng ngang tàn là thế mà nay chẳng khác nào loài chuột lấm lem, chui lủi. Thừa thắng xông lên, vừa hành quân tiến đánh vừa tuyển binh, quân ta liên tiếp giành lại những cứ điểm quan trọng như Đông Đô, Tây Kinh. Giặc thất bại liên tiếp khiến "Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm/ Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm", những hình ảnh có phần ghê rợn, nhưng diễn tả một cách thật chân thực những trận đánh lịch sử, chiến tranh ắt phải đổ máu là vậy. Máu của ta và máu của địch cùng đổ xuống, nhưng ta thắng ở tấm lòng kiên cường, anh dũng hy sinh, thề sống chết với giặc. Quân giặc trước thế khí hùng dũng của nghĩa quân ta thì khí thế tan tác, kẻ chịu "bêu đầu", kẻ "đành bỏ mạng", tên Vương Thông muốn gỡ thế nguy khốn nhưng "lửa cháy lại càng cháy".

Quân ta hăng lại càng hăng, giặc chỉ còn đường "Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt", bởi con đường phản luân thường đạo lý chẳng bao giờ có thể đi xa. "Chẳng đánh mà người chịu khuất ta đây mưu phạt tâm công", trên tinh thần nhân nghĩa vốn ta đã định cho giặc một đường lui cuối cùng, xin hàng mà rút lui về nước thế nhưng chúng lại âm mưu cầu cứu viện nhằm cứu vãn tình hình, thật ngoan cố không thôi. Chẳng thế lũ nhãi nhép chuột bọ Liễu Thăng, Tuyên Đức, Mộc Thạnh lại vấy vá, nhăm nhe tiến sang nước ta lần nữa nhằm lật ngược thế cờ đã sắp đến hồi kết. Nhưng nào đâu có dễ thế, bởi "Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong/ Ta sau lại đưa tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực", để xem lũ giặc Minh còn huênh hoang, vênh váo được đến bao giờ. Cái âm mưu hèn mọn của chúng dẫn đến những hậu quả là "Liễu Thăng cụt đầu/Lương Minh bại trận tử vong/Lí Khánh cùng kế tự vẫn" thế có phải là tự rước họa chỉ vì cái lòng tham dơ bẩn của mình không. Địch càng tổn thấy, mất mát bao nhiêu, thì sĩ khí quân ta lại càng tăng, nghĩa quân tràn đầy nhiệt huyết chiến đấu, hứng chí bừng bừng tựa như tiếng ngựa phi, tiếng chân chạy rầm rập vang động cả núi rừng, "Thuận đà ta đưa lưỡi đao tung phá", khiến quân giặc tan tác, "bí nước quay mũi giáo đánh nhau", đúng là chó cùng rứt giậu. Nghĩa quân ta trên đà lớn mạnh.

"Sĩ tốt kén người hùng hổ

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn

Voi uống nước, nước sông phải cạn"

Tất cả là chuẩn bị cho trận chiến cuối cùng, quét sạch bóng quân thù, thế nên:

"Đánh một trận, sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông.

Cơn gió to trút sạch lá khô,

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ."

Quân giặc phải hốt hoảng mà xin hàng kẻo không kịp, khắp nơi đâu đâu cũng là xác giặc bỏ mạng "thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước", những hình ảnh có tính phóng đại, thể hiện được sự tàn khốc của cuộc chiến, đồng thời là cái hào hùng trong lịch sử phân tranh của dân tộc. Cái chất hào hùng, bi tráng ấy Nguyễn Trãi phải lấy thiên nhiên ra mới có thể diễn tả hết được: "Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi/ Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ". Có thể thấy cái chết nào cũng đều đáng tiếc, trận đổ máu nào cũng buồn thảm và đau đớn, âu cũng là sinh linh cả, một chốc mấy ngàn mạng bỏ, thì trời đất cũng phải tối tăm vì đâu ai muốn cảnh "thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen". Cảnh quân giặc rối rít xin hàng, giẫm đạp lên nhau mà bỏ trốn thật thảm hại, tan tác, xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa "đánh kẻ chạy đi không ai đánh người chạy lại" nên nghĩa quân ta đã cho giặc con đường về nước "mở đường hiếu sinh", cấp thuyền, cấp ngựa, cấp lương thực cho chúng. Vừa khiến giặc phải nể nang, kính sợ, vừa để quân ta dưỡng sức, tránh đổ máu nhiều hơn nữa, bắt tay vào xây dựng đất nước. Nếu đuổi cùng giết tận chắc chắn để lại mối thù lớn trong lòng giặc, sớm muộn cũng có ngày chúng sang trả thù thêm, lúc ấy ắt ta phải chịu thiệt thòi, nên là lùi một bước cũng nên, kế sách hòa hoãn của cha ông ta muôn đời luôn sáng suốt là vậy.

Phần ba của Bình Ngô đại cáo đã tái hiện lại một cách chân thực, sinh động quá trình khởi nghĩa, đánh đuổi quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Bằng giọng văn rất đỗi hào hùng, bi tráng, tiết tấu nhanh, dồn dập, những hình ảnh thiên nhiên giàu sức gợi, mang tính biểu tượng cao như mặt trời, mặt trăng, sông, núi hùng vĩ. Những hình ảnh đầy nhiệt huyết, sĩ khí bừng bừng của nghĩa quân được miêu tả bằng những cụm tính từ ở sắc thái cao nhất, đem so sánh với hình ảnh thiên nhiên to lớn, bao la. Luận điệu thuyết phục, dẫn chứng có thực trong lịch sử càng làm tăng sức lôi cuốn, đem đến một thiên anh hùng ca, một khúc tráng ca bất tận, vang động cả một thời, khẳng định sức mạnh và chân lý của dân tộc, đất nước.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 28

Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, một nhân vật toàn tài hiếm có nhưng lại là người phải chịu những oan khiên tàn khốc dưới thời phong kiến. Ông là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất có những tác phẩm vô cùng nổi tiếng như Ức Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Lam Sơn thực lục… trong số đó tác phẩm tôi thích nhất là Bình Ngô Đại Cáo. Bài Cáo có ý nghĩa trọng đại như một bản tuyên ngôn, tố cáo kẻ thù xâm lược và ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Cáo là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết.

Bài Cáo của nhà thơ Nguyễn Trãi gồm bốn phần. Phần một tác tác giả đã khẳng định tư tưởng, nhân nghĩa và chân lí độc lập dân tộc của Đại Việt. Đoạn hai, tố cáo, lên án tội ác của giặc Minh. Đoạn ba, kể diễn biến của các cuộc chiến từ lúc mở đầu đến thắng lợi hoàn toàn, đề cao sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa và sức mạnh của lòng yêu nước kết tinh thành cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đoạn bốn, lời tuyên bố độc lập và rút ra bài học lịch sử.

Mở đầu bài Cáo tác giả không chỉ đưa ra một chân lí về chính nghĩa và còn nêu ra chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền chắc chắn từ lịch sử:

“ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”

“Nhân nghĩa” là mối quan hệ giữa người với người trên quan hệ tình thương và đạo lý. Nhân nghĩa là yên dân trừ bạo, “yên dân” dân sống yên lành, hạnh phúc trong một Đất nước độc lập, “trừ bạo” diệt trừ kẻ tàn bạo xâm lược đất nước và bọn tham tàn trong nước. Vậy cái cốt lõi của tư tưởng nhân nghĩa chính là lấy dân làm gốc, vì dân mà diệt trừ tham tàn bạo ngược, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân. Vì vậy nhân dân ta chiến đấu chống quân xâm lược là nhân nghĩa, là phù hợp với nguyên lí chính nghĩa. Những yếu tố đã được Nguyễn Trãi đưa ra để xác định độc lập chủ quyền của dân tộc bao gồm: tên nước, nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ, danh giới, phong tục tập quán, lịch sử các triều đại Triệu, Đinh, Lí,Trần, truyền thống anh hùng. Tất cả đều là những căn cứ chắc chắn trong thực tế lịch sử không thể trối cãi. Để khẳng định quyền tự do, độc lập, tác giả đã dùng những lời lẽ lập luận đầy tính chất tự nhiên, vốn có “ từ trước, vốn xưng, đã lâu, đã chia, cũng khác”, thể hiện niềm tự hào về tư cách độc lập, tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc. Tiếp theo đó tác giả đưa ra các dẫn chứng về thực tế lịch sử:

“ Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong…

Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã là những tướng giặc cầm quân xâm lược nước ta, đều bị thất bại nhục nhã. Qua đó, càng khẳng định sức mạnh chính nghĩa của dân tộc, càng tự hào hơn về dân tộc anh hùng.

Không thể tha thứ cho tội ác của giặc:

“ Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,…

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,”


Tác giả đã tố cáo những âm mưu, tội ác của giặc Minh. Lợi dụng cớ nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, để mang quân vào xâm lược nước ta, khiến lòng dân oán hận vô cùng:

“ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ,…

Ai bảo thần dân chịu được”

Chúng tàn sát, giết hại người vô tội, hủy hoại con người bằng hành động diệt chủng, bóc lột nhân dân, vơ vét của cải “ nặng thuế khóa sạch không đầm núi”, hủy hoại cả môi trường, tội ác của chúng không sách vở nào có thể ghi hết. Giọng văn khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết, tác giả đã đứng về quyền sống của nhân dân vô tội để tố cáo, lên án tội ác của giặc Minh, bảo vệ quyền sống cho nhân dân.

Đất nước ta quân thù xâm lược, dân chúng oán hận lầm than, anh hùng đứng lên khởi nghĩa:


“ Núi Lam Sơn dấy nghĩa,…

Chính lúc quân thù đương mạnh.”

Tác giả đã khắc họa hình ảnh Lê Lợi vì nước, vì dân, “ ngẫm, căm giặc nước, đau lòng nhức óc, quên ăn, trằn trọc, băn khoăn… người lãnh tụ nghĩa quân căm thù giặc sâu sắc, nung nấu hoài bão lớn tiêu diệt kẻ thù để cứu nước, cứu dân. Nhưng có nhiều khó khăn đang chờ, thiếu lương thực, thiếu quân, thiếu nhân tài, khó khăn càng chồng chất khó khăn, làm sao để đấu lại kẻ thù hung hăng tàn bạo. Nhưng không vì thế mà anh hùng bỏ cuộc, gắng sức khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cõi một nhà, cùng đoàn kết lại chống giặc, giơ cần trúc làm cờ, tướng sĩ một lòng đánh giặc, thế trận xuất kì, sử dụng chiến thuật lấy yếu chống mạnh, đánh bất ngờ, nhanh gọn tiêu diệt giặc. Qua hình tượng Lê Lợi, tác giả đã khắc họa được ý chí quyết tâm chống ngoại xâm, tinh thần đoàn kết đồng lòng vượt qua khó khăn của dân tộc trong thời đại chống ngoại xâm. Ta dùng nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy ý trí để thắng cường bạo, đã làm bọn giặc khiếp sợ, “ nghe hơi mà mất vía”,” nín thở cầu thoát thân” kết cục bi thảm của những tướng giặc ham sống sợ chết, tất cả đều hèn nhát, đều thất bại thảm hại, càng làm bật lên khí thế hào hùng và thắng lợi vẻ vang và bản chất nhân đạo của cuộc khởi nghĩa.

Quân ta càng hăn tiến quân ra Bắc: trận Tây Kinh, Đông Đô, Ning Kiều, Tốt Động. Diệt chi viện: trận Chi Lăng, Mã Yên, Xương Giang làm kẻ thù tan tác.

Trong đoạn cuối giọng văn chuyển sang trầm lắng, tự hào, bởi đó là những lời tổng kết lịch sử mang đậm suy tư, tuyên bố chấm dứt chiến tranh khẳng định nền độc lập thái bình. Trong lời tuyên bố được lập lại, tác giả đồng thời rút ra bài học lịch sử, đó là quy luật của trời đất, quy luật suy vong hưng thịnh của mỗi quốc gia. Vì thế sự vững bền khi đã được xây dựng trên cơ sở phục hưng dân tộc, thì vĩnh viễn cảnh đất nước chắc chắn sẽ tươi sáng, huy hoàng. Trong lời tuyên ngôn độc lập, cảm hứng về độc lập dân tộc và tương lai đất nước đã hòa quyện với cảm hứng về vũ trụ khi “ bĩ” khi “ hối” nhưng quy luật là hướng tới sự tươi sáng, phát triển, càng phác họa sâu đậm niềm tin và quyết tâm xây dựng lại đất nước của nhân dân ta.

Bố cục chặt chẽ, cân đối, câu văn, giọng văn linh hoạt, hình tượng phong phú. Bài cáo đã khái quát được quá trình chiến tranh gian lao nhưng vô cùng anh dũng của dân tộc, tác giả đề cao sức mạnh của lòng yêu nước và tư tưởng nhân nghĩa, ca ngợi cuộc kháng chiến anh hùng của dân tộc, và lòng tự hào dân tộc sâu sắc.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 29

Người ta chọn Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ và Cáo bình Ngô là 3 dấu mốc đánh dấu những chặng đường phát triển của chủ nghĩa yêu nước trong văn học thượng kỳ trung đại. Ðặc biệt, phải đến cáo bình Ngô, ý thức độc lập chủ quyền, quan hệ gắn bó giữa nước và dân, vấn đề nhân nghĩa,.. mới thực sự phát triển rực rỡ.

Bình Ngô đại cáo là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc ta sau Nam quốc sơn hà. Nhưng nó là bản Tuyên ngôn độc lập hùng tráng nhất thời kì trung đại. Nguyễn Trãi viết Bình ngô đại cáo vào giữa lúc niềm vui của cá nhân hoà chung niềm vui lớn của dân tộc. Vì thế mà tác phẩm oai hùng đậm chất sử thi.

Mở đầu bài cáo, tác giả đã nêu cao luận đề chính nghĩa của dân tộc, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho bản tuyên ngôn.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng trên cơ sở của tình thương yêu và đạo lí làm người. "Nhân nghĩa" với Nguyễn Trãi là "yên dân" và "trừ bạo". Có xuất xứ từ một quan niệm của Nho gia, song đến Việt Nam, Nguyễn Trãi đã biến nó thành một khái niệm đậm tính dân tộc. Từ quyền lợi của giai cấp quí tộc, Nguyễn Trãi đã biến thành quyền sống của dân tộc, của con người.

-Sau khi nêu nguyên lí "nhân nghĩa", Nguyễn Trãi viết những câu văn thật hào hùng, sang sảng, chất chứa lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Đoạn văn nêu ra hàng loạt những chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập của một lãnh thổ, một quốc gia. Đó là một đất nước được xây dựng lên từ lịch sử dân tộc có một nền văn hoá lâu đời :

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Tất cả đều mặc nhiên "vốn có" : từ núi sông vốn đã phân định rạch ròi đến "phong tục Bắc Nam cũng khác". Rõ ràng ta có đủ chủ quyền đất nước bởi từ cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán đến nền văn hoá, rồi lịch sử, rồi chế độ ta đều độc lập đứng trên một cái thế đối vững vàng cùng với nền văn minh phương Bắc. So với Nam quốc sơn hà thì Bình Ngô đại cáo thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm về quốc gia, về dân tộc. Không có minh chứng nào thuyết phục hơn cho nguyên lí nhân nghĩa bằng chính "chứng cứ còn ghi" trong lịch sử. Sự thất bại của Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã làm tiêu vong những thế lực phi nghĩa. Cũng đồng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng về những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi thật hoàn thiện và cũng đầy sắc sảo.

Giặc Minh đã chà đạp lên chủ quyền của dân tộc Đại Việt, gây nhiều tội ác dã man bất chấp nhân nghĩa.Cũng như đoạn văn trên, đoạn kể tội quân thù cũng ngắn nhưng sắc sảo. Một bản cáo trạng đanh thép được viết lên từ một lòng căm thù sục sôi. Bài cáo đã sử dụng lí lẽ đanh thép, dẫn chứng xác thực để bóc trần bản chất phản nhân nghĩa của giặc Minh, vạch trần những hành động vô nhân, bất nghĩa, phản bội lại cha ông (học thuyết nhân nghĩa) của chúng, đập tan am mưu xảo trá của chúng.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,

Nguyễn Trãi đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc. Lợi dụng việc Hồ Quý Li cướp ngôi nhà Trần, giặc Minh đã "thừa cơ gây hoạ". Núp dưới bóng cờ "phù Trần diệt Hồ", giặc đã giả nhân giả nghĩa để thực hiện bài "mượn gió bẻ măng".

Âm mưu xâm lược của quân giặc gian xảo bao nhiêu thì chính sách cai trị của chúng càng thâm độc bấy nhiêu. Vẫn là những chính sách cũ nhưng thâm độc hơn nhiều : chúng không chỉ bóc lột vơ vét hết mọi sản vật, sức người, sức của của dân ta mà chúng còn huỷ hoại cả môi trường sống (tàn hại giống côn trùng cây cỏ) và tàn sát con người không biết ghê tay.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Hai cau thơ như được viết ra bằng máu và nước mắt của người anh hùng suốt đời một lòng vì dân vì nước. Vơ vét sản vật, tiêu diệt con người, tội ác của giặc không giấy bút nào tả xiết : Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,<br>Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi. Nguyễn Trãi chọn cái vô cùng (trúc Nam Sơn, nước Đông Hải) để nói đến tội ác của một loài quỷ dữ (thằng há miệng, đứa nhe răng).

Hai câu cuối kết án vô cùng đanh thép :

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần nhân chịu được ?

Tội ác của giặc Minh đã vượt qua cái giới hạn của lẽ trời. Hành động nhơ bẩn của chúng khiến cả thần và người đều không thể tha thứ. Đứng trên lập trường nhân nghĩa, đoạn văn là máu, là nước mắt, thể hiện sự căm hận sục sôi của Nguyễn Trãi đối với kẻ thù.

Căm thù giặc sâu sắc, để yên dân trừ bạo, bảo vệ nhân nghĩa, ta đã dấy binh ở Lam Sơn chiến đấu và chiến thắng, thu giang sơn về một mối. Tác giả tái hiện hình tượng người anh hùng Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu gian khó :

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình

Nhưng cái lớn ở Lê Lợi chính là lòng căm thù giặc sâu sắc. Từ đó mà cái chí của người anh hùng là "tấm lòng cứu nước" như con thuyền lúc nào cũng "đăm đăm muốn tiến về Đông". Cái chí khí ấy lại được rèn đúc qua những tháng ngày "quên ăn vì giận" để rồi ngay cả trong cơn mộng mị vẫn băn khoăn một nỗi niềm cứu nước. Hình ảnh Lê Lợi vì thế mà đã trở thành biểu tượng tập trung của lòng yêu nước, căm thù giặc "thề không cùng sống".

Viết về Lê Lợi, Nguyễn Trãi chú trọng gợi lại những ngày tháng mà vị chủ tướng phải "nếm mật nằm gai", "đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời". Trong cảm nhận của người đọc, người chủ tướng Lam Sơn vừa vĩ đại lại vừa rất đời thường, gần gũi, tàng ẩn đằng sau sự miêu tả là một triết lí nhân sinh sâu sắc : mỗi người dân đều có thể hoá những anh hùng.

Đã có người dựng cờ khởi nghĩa nhưng những ngày đầu, nghĩa quân còn phải đối diện với biết bao gian khổ : thiếu nhân tài, thiếu binh lính, thiếu quân lương. Nhưng khi "tấm lòng cứu nước" trở thành lời giục gọi thì đội quân "manh lệ chi đồ" mà "phụ tử chi binh" đã "gắng chí khắc phục gian nan" để đến được những thắng lợi cuối cùng. Có lẽ trong việc dùng binh xưa, Lê Lợi là người nhìn ra sớm nhất và cũng đồng thời đánh giá cao nhất vai trò, sức mạnh của những người dân ở tầng lớp đáy cùng (những người manh lệ).

Đoạn văn như bản trường ca hào hùng về khí thế quyết chiến, quyết thắng của nghĩa quân. Một lần nữa, Nguyễn Trãi nhắc lại để khắc sâu nguyên lí nhân nghĩa :

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Lời văn dịch chưa thật sát ý. Trong nguyên bản, Nguyễn Trãi đề : "Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo". Dưới ngọn cờ đại nghĩa, đội quân của nhà Lê lấy cái chí nhân để làm cho cường bạo phải đổi thay về bản chất chứ không phải cuộc khởi nghĩa chỉ làm một việc giản đơn (lấy chí nhân mà thay vào cường bạo). Câu văn trong nguyên tác thật sâu xa. Cái ác phải bị đổi thay và cái thiện, cái chính nghĩa phải làm cho cái ác phải đổi thay tận gốc.

Đoạn văn được viết sau nguyên lí nhân nghĩa là một đoạn hả hê, sảng khoái. Tiết tấu, âm điệu câu văn dồn dập, ồn ào như tiếng thác. Sự thay đổi đột ngột đó phù hợp với cái khí thế của quân ta đang lên như gió bão. Đoạn văn gợi hình dung toàn cảnh về những ngày tháng cả dân tộc sống trong không khí của sử thi. Những chiến thắng của nghĩa quân liên tiếp như "sấm vang chớp giật", như "trúc chẻ tro bay"… Theo đó thì sự thất bại của quân thù là tất yếu : "máu chảy thành sông tanh trôi vạn dặm", "thây chất đầy nội ; nhơ để ngàn năm". Hàng loạt những động từ mạnh kết hợp với nhạc điệu dồn dập, nhịp văn gấp gáp, hối hả gợi đầy đủ cái khí thế ào ào như vũ bão. Chính nghĩa lướt qua gian tà để cuốn phăng ra bể tất cả những tàn bạo, nhuốc nhơ.

Những mốc thời gian :

Ngày mười tám…

Ngày hai mươi…

Ngày hăm lăm…

Ngày hăm tám…

những cái "danh" không thể giấu nổi sự hèn nhát và nhục nhã : Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính, Vương Thông, Mã Anh… Tất cả làm nên một khung cảnh chiến trường tuy hỗn độn nhưng thế chủ động hoàn toàn đã thuộc về phe chính nghĩa. Quân giặc nhốn nháo, hãi hùng, mỗi tên mỗi vẻ vô cùng thảm hại. Nhưng nhân dân ta vốn ưa hoà bình, không thích cảnh binh đao :

Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng ;

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Quân giặc đã "tham sống sợ chết", ta cũng chẳng cạn tình. Quan điểm "dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo" của Nguyễn Trãi chính được biểu hiện ở đây. Hành động nhân ái của ta càng tô thêm cái chính nghĩa và lòng nhân đạo sáng ngời của dân tộc Việt.

Kết thúc bài cáo, Nguyễn Trãi trịnh trọng, vui mừng thay mặt Lê Lợi tuyên bố với nhân dân cả nước thắng lợi vừa qua. Từ đây dân tộc bước vào một thời đại mới. Độc lập, tự do và sự yên bình lại trở về trên mỗi miền quê. Đoạn văn dựa vào những quy luật tất yếu của tự nhiên mà khái quát thành những điều tất yếu trong xã hội. Xã hội phải đối diện với "những sự đổi thay" nhưng cũng như càn khôn "bĩ rồi lại thái", như nhật nguyệt "hối rồi lại minh". Và dường như cũng chỉ có như vậy ta mới thấu hết được cái ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian lao, và mới hiểu thế nào là "muôn thuở nền thái bình vững chắc". Đất nước đã thanh bình, hình ảnh đất nước trong tương lai vững vàng và tươi sáng : Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”.

Bình Ngô đại cáo là một áng "thiên cổ hùng văn" kết hợp hài hoà cái tinh tuý cá nhân và thời đại. Bằng một bút lực tuyệt vời, Nguyễn Trãi đã tự bất tử hoá tác phẩm của mình, biến nó thành một tác phẩm "vô tiền khoáng hậu"  mãi mãi là bài ca giáo dục truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 30

Cuộc kháng chiến chống giặc Minh của quân ta đã hoàn toàn thắng lợi, tiêu diệt mười lăm vạn tinh binh của giặc Minh, đồng thời đã chấm dứt hơn hai mươi năm thảm khốc dưới ách đô hộ và mở ra một kỉ nguyên mới, hòa bình lâu dài cho dân tộc. Nguyễn Trãi đã theo lệnh của Lê Lợi, viết “Đại cáo Bình Ngô”, nhằm tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại và báo cáo cho toàn dân được biết. Đây được coi là “bản tuyên ngôn độc lập tứ hai” sau “Nam Quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt, cũng xứng đáng là “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử văn chương của nước ta.

Mở đầu bài cáo là đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng tư tưởng thần dân mà Nguyễn Trãi rất coi trọng:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.

Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân nghĩa từ chính thực tiễn của lịch sử, theo ông yên dân là phải trừ bạo để cho dân sống yên lành và hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hòa bình. Tư tưởng nhân nghĩa đã không còn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà trở thành một lí tưởng xã hội, đường lối chính trị lấy dân làm gốc, chính vì thế phải quan tâm và chăm lo cho dân trước tiên. Đồng thời tác giả gắn nhân nghĩa với sự nghiệp chống quân xâm lược, phân định rạch ròi rằng ta là chính nghĩa còn quân xâm lược là phi nghĩa. Tiếp theo, Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng tự hào và tự tôn dân tộc về một đất nước có nền văn hiến lâu đời:

“Như nước Đại Việt ta từ trước…

Song hào kiệt đời nào cũng có”.

Tác giả đã khẳng định sự thật lịch sử rằng Đại Việt là một đất nước có ranh giới rõ ràng, đã tồn tại song song với các quốc gia phương Bắc từ lâu đời. Các phong tục cũng khác hẳn so với phương Bắc, các triều đại vua xứng đế, hùng cứ ở một phương chứ không phải là chư hầu. Với truyền thống văn hiến từ ngàn năm cùng với hào kiệt mà đời nào cũng có đã khẳng định nước Đại Việt là quốc gia có chủ quyền, độc lập và tự do, khẳng định chủ quyền đó là một chân lí tất nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nôi. Tác giả đã đưa ra chứng cứ để chứng minh đạo lí nhân nghĩa ấy như:

 “Lưu Cung tham công nên thất bại…

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.

Tác giả đã thông qua những chứng cứ, nhấn mạnh rằng những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, khẳng định chiến thắng chỉ thuộc về bên đấu tranh cho chính nghĩa. Đây là một cách lập luận thật hùng hồn và sắc sảo.

Hiện lên trong bài cáo là thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh, cả đất nước chỗ nào thịt da cũng rướm máu, khắp trời vang lên tiếng căm phẫn, oán than. Tác giả Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đầy đanh thép, vừa kết tội bọn bán nước vừa tố cáo quân cướp nước. Tác giả đã vạch trần âm mưu xâm lược rồi lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối cùng tố cáo mạnh mẽ hành động và tội ác của giặc Minh:

“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà…

Bọn gian tà bán nước cầu vinh”.

Tác giả cho thấy âm mưa của giặc Minh đã có từ lâu đời, từ “nhân” có nghĩa là nhân dịp, “thừa cơ” đã phơi bày được luận điệu giả tạo, giả nhân giả nghĩa của chúng.

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.

Hai hình ảnh rất ấn tượng là “nướng dân đen và “vùi con đỏ” đã vừa diễn tả cụ thể tội ác man rợ kiểu trung cổ của lũ giặc, lại vừa như khắc vào bia căm thù để muôn đời người dân nước Việt không quên quân xâm lược bạo tàn. Người dân Đại Việt đã sống trong tình cảnh bi đát đến cùng cực, cái chết chờ đợi họ trong rừng, dưới biển. Ngược lại, hình ảnh kẻ thù xâm lược hung hãn, man rợ đã khắc họa bộ mặt quỷ khát máu của quân xâm lược:

“Dối lừa dân đủ muôn nghìn kế…

Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khôn cùng”.

Cuối cùng là hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn – Lê Lợi và những khó khăn trong buổi đầu lập nghiệp. Trong hình tượng của Lê Lợi có sự thống nhất hài hòa giữa một con người bình thường và một thủ lĩnh nghĩa quân. Lê Lợi có lòng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm cao độ thực hiện lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:

“Ngẫm thù lớn há đội trời chung…

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hổi”.

Qua chính hình tượng của vị chủ tướng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã nói lên tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nghĩa quân có muôn vàn khó khăn, nhưng nhờ tướng sĩ một lòng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh, phản công và thắng lợi.

Như vậy qua bài “Đại cáo bình Ngô” chúng ta đã nhận thức được những sức mạnh làm nên chiến thắng thần thánh của nghĩa quân Lam Sơn năm ấy. Thứ nhất là sức mạnh của tu tưởng nhân nghĩa, ý thức tự tôn dân tộc và mục đích chính nghĩa bảo vệ nền độc lập, văn hiến nghìn đời của Đại Việt. Thứ hai chính là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của tướng Lê Lợi, một lòng vì nước vì dân, tự nguyện đặt vận mệnh của dân tộc lên đôi vai mình.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 31

Nguyễn Trãi là một vị anh hùng của dân tộc, một nhà văn hóa kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến. Nguyễn Trãi tên hiệu ức Trai, sinh năm 1380, quê gốc ở xã Chi Ngại (Hải Dương) sau dời đến làng Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước, tự hào dân tộc. Nguyễn Trãi là một tài năng lỗi lạc, văn võ song toàn. Ông đã để lại cho đời sau một di sản to lớn về quân, văn hóa, lịch sử, địa lí, ngoại giao… đặc biệt là sự nghiệp văn học. Trong đó tiêu biểu là tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo. Tác phẩm này được coi là Áng thiên cổ hùng văn.

Vì tác phẩm có nội dung về tình yêu nước mãnh liệt của nhân dân ta. Đồng thời thể hiện sức mạnh quyết liệt, khí thế hào hùng lòng căm thù giặc. tác phẩm này đã ghi lại cuộc chiến đấu đau thương của nhân dân ta trong thời kì chống quân Minh. Trong bài Cáo còn chỉ rõ những âm mưu và chiến lược đánh giặc đúng đắn khiến quân thù khiếp sợ.

Tác giả đã đã sử dụng những lời văn biền ngẫu hùng tráng, từ ngữ sắc bén như những mũi dao nhọn đâm vào quân xâm lược khiến chúng phải khiếp sợ. Từ đó bài Cáo đã trở thành âm vang hào hùng của non sông Việt Nam ghi lại ý chí, khát vọng hòa bình và tinh thần dũng cảm chống giặc ngoại xâm. Đó là tư tưởng nhân nghĩa khẳng định đạo lí ở đời của nhân dân ta.

Vào mùa xuân năm 1428, cuộc kháng chiến chống quân Minh giành thắng lợi hoàn toàn, nguyễn Trãi thay Lê Lợi viết “ Bình Ngô đại cáo” để khẳng định chiến thắng oanh liệt và nước Đại Việt chuẩn bị bước sang một kỉ nguyên mới.

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.

“ Nhân nghĩa” ở đây là đề cao đạo đức tình nhân ái của con người biết làm những việc tốt để giúp người khác mà rộng hơn là giúp cho vận mệnh của cả một đất nước. Theo Nguyễn Trãi nhân nghĩa là yêu nước thương dân nên phải chiến đấu để đánh đuổi giặc giành là hòa bình cho nhân dân. Trong nhiều bức thư gửi tướng tá giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường nhân dân và dân tộc, nêu cao nhân nghĩa, vạch trần tội ác và bộ mặt giả nhân giả nghĩa của bè lũ chúng: “Nước này nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng là “điếu dân phạt lội”, kì thực làm việc bạo tàn, ăn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được sống yên. Nhân nghĩa mà lại thế ư?”.

Thông qua đó tác giả khẳng định nền văn hoá Việt Nam và con người Việt Nam, một dân tộc văn minh, anh hùng. Và thời kì giữ nước và dựng nước của nhân dân ta:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời gây nên độc lập,

Cùng Hán. Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có”.

Tác giả khẳng định nước Việt Nam là một nước có nền văn hiến rất lâu đời và có những phong tục văn hóa riêng của dân tộc dù quân Minh có áp bức như thế nào đi chăng nữa thì con người Việt nam vẫn mãi không quên những phong tục tập quán ở mỗi miền tổ quốc trên đất nước mình. Tác giả còn nêu lên những thắng lợi vẻ vang của dân tộc ở nhiều đời khác nhau: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời gây nên độc lập” dù kẻ thù có mạnh có nhiều nhưng dân ta một lòng đoàn kết để chiến đấu chống giặc ngoại xâm mang lại hòa bình cho đất nước mình. Tinh thần yêu nước của nhân dân là một truyền thống đẹp và vẻ vang tạo nên sức mạnh lớn trong các cuộc kháng chiến.

Năm 1407 nhà minh sai Trương Phụ Mộc thanh mang quân sang xâm lược nước ta với cớ “ phù Trần diệt Hồ” nhưng thực chất là chia cắt đất nước ta thành hai miền để chúng cai trị cho dễ và thực hiện những chính sách đàn áp dã man:

“Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa.

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh”.

Đồng thời tác giả nêu lên tội ác dã man của chúng:

“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.

Chúng thật sự không đáng làm con người mà độc ác và tàn nhẫn. khiến nhân dân ta đau đớn xót xa căm phẫn mà nhẫn nhục.

“Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi

Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng,

Nhiều nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ.

Nheo nhóc thay ké goá bụa khốn cùng…”

Chúng đẩy nhân dân ta vào bước đường cùng thi hành những chính sách cai trị bóc lột dã man “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”. Chúng lấy hết đi những tài nguyên của dân tộc đã đành đây chúng còn ép người quá đáng. Điều này càng đẩy lòng thù hận của nhân dân lên đến tột đỉnh. Tội ác của chúng không để đâu hết tội và không có cách nào rửa sạch được những tội ác dã man mà chúng đã gây ra cho nhân dân ta.

“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội.

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi!”.

Tác giả đã phải lấy trúc Lam Sơn, nước Đông Hải những cái vô hạn để nói về tội ác của chúng. Thật đáng ghê sợ lũ quân Minh. Chính vì vậy mà khiến Lê Lợi tuyên bố sống không đợi trời chung với giặc:

“Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh.

Ngẫm trước đến nay: lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”.

Như vậy ta thấy được Lê lợi là một vị anh hùng kiệt xuất với lòng đôn đáo chiến thắng quân thù mang cái độc lập về cho nhân dân. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn không quá 2000 người, quân thì ít mà vật dụng chiến đấu thì thô sơ thế lực giữa ta và định có độ chênh lệch lớn đến đáng sợ. Nhưng điều đáng sợ ở đây là thiếu nhân tài còn khủng khiếp hơn. Chính vì thế mà nhân dân ta đoàn kết một lòng chống giặc ngoại xâm:

“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”.

Cùng với đó là những chiến thuật quân sự đúng đắn tài ba:

Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh.

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều

Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo”.

Qua đây tác giả muốn khẳng định rằng muốn thắng được quân thù trước hết phải có niềm tin và ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm. Ở hiền sẽ gặp lành vì thế bọn xấu xa đàn áp bóc lột nước ta nhất định thu và phải bị trừng trị thích đáng.

“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm,

Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm

Lọng Giang,Lạng Sơn thây chất đầy đường,

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng”.

Điều này chứng tỏ cuộc khởi nghĩa diễn ra thật quyết liệt và gay go. Nhưng cuối cùng quân ta cũng giành được thắng lợi.

Kết thúc bài Cáo là khúc ca khải hoàn vang lên:

“Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ mà lại thái

Nhật nguyệt hối mà lại minh

Muôn thuở nền thái bình vững chắc”.

Như vậy qua bài Cáo ta thấy được Nguyễn Trãi là một người cực kì giỏi giang và có những lời văn thật đanh thép. Bài Cáo của ông đã nói lên hết tội ác của quân Minh đàn áp nhân dân ta đến tận xương máu. Đặc biệt qua bài này tác giả muốn khẳng định truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc đoàn kết tương trợ lẫn nhau cùng những chiến thuật quân sự tài ba của người anh hùng Lê Lợi. Bài cáo này như một âm vang của đất trời đưa nước ta bước vào một kỉ nguyên mới tươi sáng hơn.

Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo 32

Sinh thời Nguyễn Trãi được biết đến là một trong những nhà nho yêu nước lỗi lạc, một vị quân sư đã góp phần không nhỏ làm nên chiến thắng vang dội của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nhắc đến ông là nhắc đến một danh nhân văn hóa thế giới đã để lại cho đời cả một kho tàng văn học đồ sộ, trong đó dáng chú ý nhất phải kể đến “Đại Cáo Bình Ngô”. Được so sánh như một áng thiên cổ hùng văn một bản tuyên ngôn độc lập khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mở ra một triều đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc.

Nguyễn Trãi sinh năm 1380 mất năm 1442 hiệu là Ức Trai quê tại làng Chi Ngại ( Chí Linh - Hải Dương) sau dời về Nhị Khê nay thuộc Thường Tín - Hà Tây cũ. Thân sinh ra ông là cụ Nguyễn Ứng Long một nhà nho nghèo hiếu học đã từng đỗ tiến sĩ. Còn mẹ của nhà thơ là Trần Thị Thái - con quan tư đồ. Tuổi thơ của ông trải qua rất nhiều tai ương và đau thương tuy nhiên ông vẫn vươn lên trở thành một trong những nhà yêu nước lỗi lạc. Đó cũng chính là truyền thống của gia đình ông. Sau này khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra do Lê Lợi đứng đầu, ông đã một lòng phò tá Lê Lợi dành chiến thắng vẻ vang cho dân tộc. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng ông đã thừa lệnh Lê Lợi soạn nên bản Đại Cáo Bình Ngô. Đây được xem như một áng thiên cổ hùng văn không chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà nó còn được ví như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc.

Đại cáo Bình NGô được Nguyễn Trãi sáng tác vào cuối năm 1427 đầu năm 1428 để tổng kết về cuộc kháng chiến chống quân Minh. Đồng thời cũng tuyên bố kết thúc 20 năm đô hộ của giặc Minh và 10 năm diệt thù của ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã kết thúc thắng lợi. Nó mở ra cho dân tộc ta một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập tự do và hòa bình.

Cáo là một thể loại văn nghị luận có từ thời cổ đại Trung Quốc thường được vua chúa hay dùng để trình bày chủ trương, tuyên ngôn cho mọi người cùng biết. Nó mang dấu ấn của một sự kiện trọng đại có tính chất quốc gia. Chính vì thế Bình Ngô Đại Cáo được xem như một văn bản mang tính chất như một bản tuyên ngôn độc lập thể hiện luận điểm chính nghĩa là tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà cốt lõi là tình yêu thương con người.

Mở đầu đoạn cáo Nguyễn Trãi đã đưa ra một lí lẽ đanh thép, một triết lí nhân sinh được đúc kết từ bao đời:

“Từng nghe việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.

Nguyễn Trãi đề cao giá trị của tình người. Một nền chính trị để được lâu bền thì không có cách nào khác là nó phải phục vụ mục đích cảo cả đó là vì nhân dân. Bởi “dễ trăm lần không dân cũng khó/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Cái tài tình của Nguyễn Trãi ở đây đó chính là dùng biện pháp so sáng và câu văn biền ngẫu sóng đôi thể hiện được tư duy cực nhạy bén của một nhà lãnh đạo tài ba.

Sau khi đưa ra một quan điểm triết lí nhân sinh nhà thơ đã lột trần tội ác của quân giặc:

“ Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ...”

Chỉ bằng ngần ấy câu chữ nhà thơ đã phần nào cho thấy hết được tội ác thiên cổ mà quân giặc mang đến cho người dân nước Nam. Bằng lối nghệ thuật phóng đại lấy cái vô hạn của tự nhiên để nhấn mạnh cái vô hạn của tội ác nhà thơ đã vô cùng thành công khi đưa ra phần thực quá xuất sắc.

Và như một lẽ thường “áp bức có đấu tranh” khi tội ác đã quá giới hạn và sức chịu đựng thì khởi nghĩa ắt sẽ nổ ra. Hình ảnh Lê Lợi một con người vô cùng bình thường mang trong mình hoài bão lớn lao cùng với tình đoàn kết một lòng của nhân dân đã làm nên một cuộc chiến vĩ đại cho cả dân tộc. Giọng văn mang tính chất nhanh, dồn dập kết hợp với những động từ mạnh, câu văn dài ngắn linh hoạt.... phần nào thể hiện ý chí căm thù giặc sâu sắc và tinh thần quả cảm của cả dân tộc.

Chiến tranh kết thúc cũng là lúc một kỉ nguyên mới được mở ra cho dân tộc. Giọng văn mang âm điệu nhẹ nhàng thư thái, hả hê và tuyên bố nền độc lập mà ta dành được là hoàn toàn xứng đáng. Nhà thơ rút ra một bài học kinh nghiệm lớn lao cho nhân dân cũng đồng thời là một lời “dạy dỗ” cho quân giặc. Chủ quyền Đại Việt là không bao giờ bị lung lay và không ai có thể xâm lấn.

Có thể nói Đại Cáo Bình Ngô chính là một áng thiên cổ hùng văn đại diện cho cả dân tộc. Dù trải qua bao nhiêu biến động lịch sử, bao nhiêu thế kỉ trôi qua nó vẫn giữ nguyên giá trị là một áng văn chính luận mẫu mực. Thể hiện một sự tài hoa, lỗi lạc của Nguyễn Trãi - danh nhân văn hóa của thế giới.