Thuyết minh về chiếc nón lá hay nhất (3 mẫu)

Thuyết minh chiếc nón á Việt Nam 1

  Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến chiếc áo dài duyên dáng, thướt tha. Và đi cùng tà áo dài đó chắc chắn không thể thiếu chiếc nón lá xinh đẹp. Chiếc nón lá đã đồng hành cùng dân tộc ta cả nghìn năm nay. Có thể coi chúng chính là chứng nhân lịch sử của dân tộc ta.

   Không ai biết chính xác, chiếc nón là ra đời từ khi nào, chỉ biết rằng từ 2500 - 3000 TCN năm trước hình ảnh chiếc nón lá đã được in trên trống đồng Đông Sơn. Như vậy, có thể thấy rằng chiếc nón lá đã ra đời từ trước đó và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đời sống nhân dân ta. Chiếc nón lá đã đồng hành cùng lịch sử dân tộc, trải qua biết bao lửa đạn và tồn tại cho đến ngày nay.

   Để làm ra một chiếc nón hoàn chỉnh, bền đẹp và chắc chắn cần phải trải qua rất nhiều công đoạn khác nhau. Ở mỗi làng nghề lại có những bí quyết riêng, tạo nên sự độc đáo, khác biệt cho làng nghề của mình. Tuy là vậy, nhưng về cơ bản có thể thấy để làm một chiếc nón cần trải qua những công đoạn sau. Khâu đầu tiên chính là lựa chọn lá để làm nón. Lựa được chiếc lá tốt, đẹp chính là bước quan trọng nhất để tạo nên chiếc nón đẹp. Nón thường được làm bằng lá nón, lá buông, rơm, tre,… nhưng chủ yếu vẫn được làm bằng lá nón. Sau khi lựa chọn lá để làm nón công đoạn tiếp theo chính là làm khung nón. Khung nón được tạo nên từ những thanh tre mảnh, nhưng rất đỗi dẻo dai, chúng được uống thành đường tròn với những kích thước khác nhau, sao cho khi xếp lại tạo thành hình chóp. Đường kính lớn nhất của vòng tròn là 50cm và nhỏ nhất là 3cm. Đây là hai khâu quan trọng nhất để tạo nên một chiếc nón.

   Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ những vật dụng trên, đôi bàn tay khéo léo và tài hoa của những người nghệ nhân sẽ dùng những chiếc kim khâu lớn và sợi cước để kết nối các phần lại với nhau. Lá nón được đan chồng lên nhau thành nhiều lớp tạo nên sự chắc chắn. Nhưng bên cạnh đó một số nơi, lá nón chỉ được xếp thành 1,2 lớp tạo nên nét thanh mảnh, rất đặc biệt. Sau khi khâu xong, lá nón sẽ được quét một lớp dầu phủ lên trên bề mặt ngoài nón để nón khó bị ngấm nước khi đi dưới trời mưa và tránh mối mọt, làm tăng độ bền cho nón. Đồng thời lớp sơn ấy cũng khiến nón bóng, đẹp hơn.

   Hiện nay những làng nghề nón nổi tiếng nhất ở Việt Nam có thể kể đến như cơ sở sản xuất nón ở Bình Định, được gọi là nón Gò Găng, chuyên dùng để đội đầu khi cưỡi ngữa. Nón quai thao một loại nón đặc trưng của vùng đất kinh Bắc,… Và rất nhiều loại nón khác trải dài trên khắp lãnh thổ nước ta.

   Trước đây, khi ta còn chưa có những vật dụng che chắn khác như ô thì nón lá chính là người bạn đồng hành thân thuộc của tất cả mọi người vào ngày mưa rào cũng như ngày nắng nóng. Những ngày hè oi ả, dùng chiếc nón quạt cũng bớt đi phần nào nóng bức. Hay những ngày mưa bão, nón cũng là công cụ đắc lực để tránh ướt. Trong cuộc sống hiện đại, dù đã có nhiều phương tiện khác nhau để che nắng, che mưa nhưng nón lá vẫn giữ nguyên giá trị nó. Nón lá trở thành biểu tượng của Việt Nam, mà mỗi khi nhắc đến ban bè quốc tế sẽ lập tức nhớ đến một Việt Nam thân thiện, xinh đẹp. Không chỉ vậy, nón lá còn khơi nguồn cảm hứng sáng tác cho các thi nhân. Chiếc nón bài thơ đã trở thành biểu tượng của xứ Huế mộng mơ với những cô nữ xinh duyên dáng, thướt tha trong tà áo dài, uyển điệu trong chiếc nón lá, rất dân tộc, thấm đẫm phong vị Việt Nam:

   Sao anh không về thăm quê em

   Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên

   Bàn tay xây lá, tay xuyên nón

   Mười sáu vành, mười sáu trăng lên

(Nguyễn Khoa Điềm)

   Dù trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, biến bao biến động dữ dội của thời đại, nhưng chiếc nón vẫn vững bền cùng con người Việt Nam kiên cường, bất khuất. Chiếc nón là là một trong những biểu tượng đẹp đẽ của dân tộc Việt. Là thế hệ trẻ chúng ta cần phải có ý thức giữ gìn và phát huy hơn nữa giá trị của nó.

Thuyết minh chiếc nón á Việt Nam 2

  “Anh gửi cho em chiếc nón bài thơ xứ Nghệ/ Mang hình bóng quê hương,/ Lợp vào đây trăm mến ngàn thương/ Nón bài thơ, em đội nón bài thơ đi đón ngày hội mới/ Nước non ta nay một giải vẹn tròn, như chiếc nón bài thơ”. Chiếc nón không chỉ là một vật dụng quen thuộc, hữu ích trong cuộc sống con người, mà từ lâu đời chiếc nón đã trở thành biểu tượng của đời sống, tâm hồn con người Việt. Chiếc nón thật quen thuộc đối với mỗi chúng ta, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu về nguồn gốc, cấu tạo,… của chiếc nón.

   Chiếc nón ra đời cách đây đã hàng nghìn năm. Trên trống đồng Ngọc Lũ, trống đồng Đông Sơn người ta đã tìm thấy hình ảnh chiếc nón lá. Nón lá đã gắn với đời sống vật chất, tinh thần của ông cha ta.

   Nón lá được cấu tạo bằng tre và các loại lá như lá cọ, lá nón, lá hồ,… Nón của ta đa phần được cấu tạo là hình chóp nhọn, một số loại nón khác có thể được làm kiểu rộng bản, mặt bên trên để phẳng, và chúng thường có đường kính rộng hơn nón chóp. Nón thường được xếp trên một khung gồm các nan tre được vót nhẵn và uốn thành hình vòng cung, sao cho thật tròn và đẹp, sau đó chúng được cố định lại bằng các sợ chỉ chắc chắn, nếu không dùng chỉ có thể dùng các sợi tơ tằm hoặc sợi cước,… miễn là có thể tạo sự chắc chắn cho khung nón.

   Một chiếc nón nhìn rất đơn giản, nhưng để tạo được một chiếc nón đẹp, chất lượng cao lại đòi hỏi tay nghề và quá trình làm hết sức công phu, cần sự tỉ mỉ và chính xác của người thợ. Trước hết, công đoạn quan trọng nhất là tạo khung nón, một chiếc khung nón tròn chịa, chắc chắn là cở sở đầu tiên để làm nên một chiếc nón bền đẹp. Khung nón sử dụng các thanh tre được vuốt mỏng, dẻo dai với đường kính khác nhau, cái to nhất đường kính khoảng 40 – 50 cm, cứ như vậy nhỏ dần cho đến cái cuối cùng chỉ còn độ 2cm. Tất cả những vòng tròn này được xếp đều trên một chiếc khuôn hình chóp. Tiếp đó chúng ta cần chuẩn bị lá nón, lá nón cần được mang về phơi khô cho trắng, để tránh bị ẩm mốc cần xếp chúng vào các túi ni lông. Khi dùng lấy lá nón kéo cho phẳng rồi lấy kéo cắt chéo đầu trên của lá, tiếp đó dưới đôi bàn tay khéo léo của các thợ thủ công chúng được khâu lại với nhau từ 24-25 chiếc lá lại với nhau tạo hình chóp, rồi xếp đều lên khuôn nón. Nhưng nếu chỉ có một lượt lá mỏng như vậy, nón khi sử dụng vào trời mưa sẽ nhanh chóng bị mục nát và hỏng, bởi vậy để tăng độ bền và sự cứng cáp cho nón, những người thợ thủ công còn xếp thêm lớp lá nón nữa vào những khe hở. Lá nón cần được xếp một cách tỉ mỉ, không quá thưa cũng không quá dày, khi đã xếp xong, cần cắt phần lá còn thừa ở đuôi. Công đoạn tiếp theo, thợ thủ công lấy dây buộc chặt lá nón được trải đều trên khung và bắt đầu khâu. Người thợ đặt lá lên sườn nón để chằm nón thành hình chóp. Chỉ khâu có thể dùng sợi cước trắng để tránh mất mĩ quan cho nón mà lại rất bền. Đôi bàn tay của người thợ thoăn thoắt khâu như đang múa, chẳng mấy chốc chiếc nón đã được khâu xong. Nhưng khâu xong chiếc nón vẫn chưa hoàn thiện, để nón được đẹp và bền hơn người ta còn quét phủ một lớp dầu bóng lên bề mặt nón. Ngoài ra để làm chiếc nón thêm phần đẹp đẽ, có thể trang trí thêm tranh ảnh, vẽ lên bề mặt nón,… Phía trong mặt nón còn có một sợ dây buộc ngang tạo thành quai nón, để khi dùng không bị bay mất. Quai nón có thể được làm bằng vải nhung, lụa, the,… với sắc màu đa dạng, phù hợp với nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng.

   Nón được phân thành nhiều loại khác nhau chủ yếu dựa trên nguyên liệu làm nón và hình dáng nón. Nón quai thao, thường chỉ có miền Bắc, mặt trên bằng, dùng để đi lễ hội; nón bài thơ ở Huế, nón lá mỏng có những bài thơ bên trong; nón rơm được làm bằng những sợi rơm đã được ép cứng; nón thúng có hình bầu giống cái thúng;… nhưng loại phổ biến nhất vẫn là nón hình chóp. Nón hiện nay chủ yếu được sản xuất ở những địa phương như: Huế, Quảng Bình, Hà Tây,…

   Chiếc nón có nhiều giá trị, ý nghĩa với con người cả trên phương diện vật chất và tinh thần. Trước hết nón có công dụng che mưa, che nắng cho con người, thời xưa nón là một vật dụng không thể thiếu trong mỗi gia đình. Trong những ngày hè nóng bức chiếc nón còn trở thành quạt, xua tan cái oi nóng của mùa hè,…

   Không chỉ vậy nón còn khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật cho con người. Đến với xứ Huế mơ mộng, trong mỗi chiếc nón lại có những bài thơ gửi gắm nỗi niềm tâm sự của người mang nó. Chiếc nón lá còn đi vào thơ ca, nhạc họa:

   “Sao anh không về thăm quê em

   Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên

   Bàn tay xây lá, tay xuyên nón

   Mười sáu vành, mười sáu trăng lên”

   Những điệu múa nón dịu dàng, uyển chuyển làm say đắm lòng người. Đối với du khách nước ngoài, họ đặc biệt yêu thích những chiếc nón lá của người Việt.

   Cuộc sống con người ngày càng phát triển, đã có nhiều phương tiện mới ra đời thay thế cho chiếc nón. Nhưng không vì thế chiếc nón mất đi vị trí ý nghĩa của mình. Nón lá là hình ảnh đẹp biểu tượng cho tâm hồn, con người Việt Nam, là một nét đẹp văn hóa của dân tộc ta cần được giữ gìn và phát huy.

Thuyết minh chiếc nón lá Việt Nam 3

Nón lá là một loại nón đội đầu truyền thống của các dân tộc Đông Á và Đông Nam Á như Nhật Bản, Lào, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam... Nón thường được đan bằng các loại lá khác nhau, có dây đeo làm bằng vải để giữ trên cổ. Nón lá thường có hình chóp nhọn hay hơi tù. Nón lá Việt Nam là một hình ảnh mà người xa quê hương lâu rồi vẫn luôn mong nhớ có ngày gặp lại. Chiếc nón đan bằng lá đơn sơ ấy có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lũ, trên tháp đồng Đào Thịnh vào khoảng 2500 - 3000 năm về trước. Từ xa xưa, nón đã hiện diện trong đời sống thường ngày của người Việt Nam, trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều chuyện kể và tiểu thuyết.

Chiếc nón lá Việt Nam là một phần cuộc sống của người Việt Nam. Nó là người bạn thủy chung của những con người lao động một nắng hai sương. Trên đường xa nắng gắt hay trong những phút nghỉ ngơi khi làm đồng, ngồi bên rặng tre, cô gái có thể dùng nón quạt cho ráo mồ hôi. Ngoài Huế chiếc nón lá được thi vị hoá thêm bằng những bài thơ ***g bên trong lớp lá. Muốn đọc ta đưa chiếc nón lá lên cao, nhìn xuyên qua ánh nắng mặt trời.

Thơ sẽ hiện ra bên trong nón...

Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện tính dịu dàng, mềm mại và kín đáo của người phụ nữ Việt Nam. Các cô nữ sinh đi học đều có chiếc nón lá theo kèm. Nó có rất nhiều công dụng đối với các cô gái ấy. Nón che nắng, che mưa. Nón che ngực, che thân những khi thẹn thùng bởi ánh mắt của các chàng trai. Rồi có lúc nón cũng dùng để đựng me, đựng mận khi các cô đi chơi vườn cây. Nón cũng được phe phẩy đem gió mát đến cho các gương mặt đang ửng hồng vì nóng.

Cùng với chiếc áo dài, nón lá là vật dụng gắn bó mật thiết với người phụ nữ Việt Nam. Từ trong thơ ca, âm nhạc, hội hoạ cho đến điện ảnh, chiếc nón đã trở thành một thứ ngôn ngữ riêng giúp biểu đạt hình tượng và cả tâm tư của người phụ nữ. Nón lá có ở 3 miền nhưng với Huế thì chiếc nón đã trở thành biểu trưng cho vẻ đẹp, sự dịu dàng, thanh mảnh, duyên dáng của người phụ nữ Huế.

Nghề nón ở Huế xuất hiện tự bao giờ, ai là tổ của nghề này... những câu hỏi ấy ngay cả các bậc cao tuổi nhất trong nghề ở Huế hiện nay cũng đều không biết. Nhưng có một điều có thể khẳng định là nghề nón ở Huế có từ rất lâu rồi, bằng chứng là chiếc nón Huế đã đi vào ca dao, tục ngữ của xứ này. Nhiều người dân Huế đã thuộc nằm lòng những câu thơ phổ biến:

"Ai ra xứ Huế mộng mơ

Mua về chiếc nón bài thơ làm quà"

Hay:

"Mát mặt anh hùng khi nắng hạ

Che đầu thôn nữ lúc mưa sa"

Nghề nón ở Huế có nhiều điều thật lạ, không có ông tổ nghề nhưng người làm nghề có ở khắp nơi; Huế cũng có những làng nghề nón nổi tiếng như làng Đồng Di - Tây Hồ - La Ỷ - Nam Phổ (huyện Phú Vang) - Phủ Cam - Đốc Sơ (thành phố Huế). Mỗi làng lại chuyên về một loại nón. Làm nón 3 lớp đẹp thì có La Ỷ, Nam Phổ, Đốc Sơ; làm nón bài thơ nổi tiếng thì có Đồng Di - Tây Hồ - Phủ Cam. Trong cấu tạo hình dáng và độ thanh mảnh thì nón Huế có những điểm khác biệt so với nón ở các vùng miền khác. Cho nên, dẫu đều là nón lá nhưng với những đặc điểm riêng của mình, dù đặt ở đâu nón Huế cũng được nhận ra ngay:

"Áo trắng hỡi thửa tìm em chẳng thấy

Nắng mênh mang mấy nhịp Trường Tiền

Nón rất Huế nhưng đời không phải thế

Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng"

Áo dài và nón Huế

So với chiếc nón lá các vùng miền khác thì nón Huế đi vào thơ ca, nhạc hoạ nhiều nhất. Hình ảnh cô gái Huế với chiếc nón bài thơ, khi che trên đầu, khi cầm trên tay, khi nghiêng nghiêng e thẹn đã tạo nên một vẻ đẹp rất Huế. Đã từ rất lâu rồi, khi nghe nhắc đến nón bài thơ, người ta liền nghĩ ngay đến Huế. Trong chiếc nón bài thơ có biểu hiện những nét đẹp của cả một vùng văn hoá. Chiếc nón bài thơ thanh mảnh, cầm trên tay nhẹ tênh, từ đường kim, cho đến vành nón tất cả đều thanh tao, nhỏ mà sắc nét. Nếu chỉ như vậy thì nón bài thơ cũng chưa có gì đặc biệt, làm sao để thổi được cái hồn Huế vào trong chiếc nón, vật dụng hàng ngày của người phụ nữ Huế. Và những vần thơ đề trên nón là một cách sáng tạo của người thợ làm nón ở Huế. Những câu thơ không phải đề bằng mực mà được cắt từ giấy, khéo léo ẩn dấu giữa hai lớp lá xanh, phải đưa nón lên dưới ánh mặt trời mới đọc được. Tâm tình của người Huế luôn kín đáo như vậy đấy. Có tình thôi chưa đủ mà phải có sự kiên trì, thử thách mới giải đáp được tâm hồn người con gái Huế. Và đó chính là điều bí mật của nón bài thơ xứ Huế. Dù chỉ là một chiếc nón bài thơ bé nhỏ nhưng người Huế cũng gửi vào đó một triết lý, một quan niệm sống sâu sắc.

Trong ký ức của những người lớn tuổi, người phụ nữ Huế khi ra đường, trang phục nhất thiết phải là chiếc áo dài và chiếc nón lá để đội đầu. Dù trời sáng sớm hay chiều mát, chiếc nón như là vật bất ly thân. Cuộc sống khép kín cùng những ảnh hưởng của lối sống cung đình kín đáo, chiếc nón đã giúp người phụ nữ Huế dấu khuôn mặt mình cùng những biểu hiện tình cảm một cách lịch sự với người lạ. Và trong sự khéo léo của chủ nhân, chiếc nón đã trở thành vật làm duyên hết sức kín đáo mà cũng đầy ý nhị, đến nỗi nhà thơ Trần Quang Long phải bồi hồi thốt lên: "Sao em biết anh nhìn mà nghiêng nón".

Khung cảnh Huế mộng mơ, những con đường im mát, những cô gái Huế trong tà áo dài tha thướt đội nón bài thơ đã trở thành một trong những hình ảnh đẹp tượng trưng của Huế. Hình ảnh ấy đã tác động đến đời sống nghệ thuật của mảnh đất này. Chiếc nón lá không chỉ xuất hiện trong thơ ca, nhạc, mà còn trong cả hội hoạ. Với vài nét phác hoạ hình chiếc dải nón hay dáng hình chóp màu trắng xa mờ, vành nón nghiêng nghiêng là người xem đều hiểu ấy là hình tượng người con gái, ấy là nón Huế. Hoạ sĩ Đặng Mậu Tựu - Phó chủ tịch Hội LHVHNT - Thừa Thiên-Huế cho biết: "Lịch sử nón việt Nam qua nhiều giai đoạn, có những biến thiên, từ nón hình tròn (nón miền Bắc xưa), nón tròn dẹt (nón quai thao) đến nón hình chóp (nón Huế). Về mặt tạo hình, hình chóp tạo khối vững vàng trong không gian, nâng hiệu quả thẩm mỹ lên cao, nón có chiều sâu nên vừa che được nắng nhiều hơn, lại vừa tạo sự gọn gàng, duyên dáng".

Càng đi sâu vào tìm hiểu càng thấy trong đời sống nghệ thuật, nón Huế đã có một sức sống mạnh mẽ, tạo những trường liên tưởng phong phú. Sự thăng hoa ấy của nón Huế được xuất phát từ một yếu tố cơ bản đó là sự gắn bó với cuộc sống. Chiếc nón có mặt khắp nơi trong đời sống, từ cung cấm cho đến chốn thôn quê, từ trường học, đường phố đến ruộng đồng; thời hiện đại bây giờ nón lá còn được xuất ngoại, có mặt ở bầu trời Âu, Mỹ, có trên các sàn diễn lớn của những cuộc thi sắc đẹp tầm quốc tế có người Việt Nam tham dự. Dù xuất hiện ở khoảng không gian nào, chiếc nón Huế vẫn mang đậm hồn quê, vẫn mang đậm hương đồng, gió nội của những làng nghề truyền thống, nơi đã sản sinh ra nó.

Chúng tôi về làng Đồng Di (Thôn Di Đông - xã Phú Hồ - huyện Phú Vang) là làng làm nón bài thơ nổi tiếng từ xưa đến nay của Huế. Những người thợ nón chân quê, chất phác này chính là những người đã góp phần gìn giữ hồn Huế xưa trong từng đường kim, màu lá. Nón bài thơ Đồng Di nổi tiếng đẹp nhờ màu lá xanh, mũi kim chằm dày mà đều tăm tắp, chiếc nón nhẹ thênh, sáng trong, thấy rõ những vần thơ, những hoạ tiết ẩn chìm trong nón. Đồng Di bây giờ vẫn còn rất nhiều hộ làm nón - có đến 80% số hộ trong làng làm nghề, không như các làng nón La Ỷ, Nam Phổ, Phủ Cam... đang báo động bởi số hộ làm nón chuyển sang làm nghề khác ngày càng nhiều. Về Đồng Di tìm hiểu, được biết có rất nhiều nhà theo nghề nón đã mấy đời. Vào mùa thì người lớn ra đồng làm lúa, trẻ em ở nhà làm nón, hết vụ mùa thì cả gia đình cùng lao vào nghề. Vào năm học, trẻ em một buổi đi học, một buổi về nhà chằm nón, tuy thu nhập thấp nhưng cũng góp phần giúp bố mẹ lo khoản sách vở cho năm học mới. Một tuần, mười ngày, nón Đồng Di được người làng đem bán tại chợ Dạ Lê. Những ngày chợ quê vẫn còn là dịp trẻ em háo hức với những món quà mẹ mua, người phụ nữ sắm vật dụng cần thiết cho gia đình. Nghề nón bao đời nay đã gắn bó với người Đồng Di như thế, không hề thay đổi. Bà Đỗ Thị Trích - 60 tuổi ở Làng Đồng Di - có gần 50 năm làm nghề nón cho biết: "Nón bài thơ Đồng Di nổi tiếng từ xưa đến nay ở Huế. Người trong làng xưa làm nón thì bây giờ cũng làm nón. Nghề làm nón cho thu nhập thấp nhưng nếu siêng năng thì cũng có tiền chợ. Nhà quê, hết vụ mùa thì biết làm chi, dù ít nhưng cũng có đồng vào, con cái trong nhà có nghề nón cũng đỡ đi chơi, hoặc nghịch. Xưa Đồng Di chỉ làm nón bài thơ, nay thì có thêm nón lá kè. Dẫu làm loại nón nào thì tay nghề của người Đồng Di vẫn giữ như xưa".

Nón Huế ngày nay không chỉ có nón bài thơ, nón 3 lớp, nón quai găng như ngày xưa mà theo thị hiếu của người tiêu dùng, nón Huế bây giờ còn có thêm nón thêu, nón lá kè. Và cũng do cuộc sống phát triển, phương tiện giao thông bằng xe gắn máy không thích hợp cho việc đội nón nên bây giờ nhiều phụ nữ trẻ Huế đã không còn cơ hội "nghiêng nón làm duyên". Nhưng hình ảnh chiếc nón lại được sử dụng nhiều trong cuộc sống. Nón lá xuất hiện như là vật trang trí duyên dáng trong các khách sạn, nhà hàng, trong các dịp lễ hội. Nghề nón được tôn vinh là một nghề mang vẻ đẹp truyền thống của Huế xưa. Tại làng hành hương Primairi Village, vị chủ nhân đã lập lại cả một gian nhà để giới thiệu với du khách về nghề nón như là một ngành nghề mang đậm nét đẹp của văn hoá làng nghề Huế.

Những vần thơ về nét đẹp nón Huế, người phụ nữ Huế vẫn mãi là những vần thơ gây xúc động trong lòng bao người. Nón Huế bây giờ, bên cạnh yếu tố cổ truyền mà các làng nghề đang gìn giữ, cũng đã bắt đầu có những phát triển để thích nghi với đời sống mới. Cuộc sống là sự vận động, nón Huế cũng đang bắt đầu bước ra khỏi không gian của Huế, của Việt Nam để đến với bạn bè quốc tế. Và cuộc giới thiệu đầy đủ nhất, chi tiết nhất về nón Huế sẽ diễn ra tại Festival thành phố Huế lần đầu tiên vào tháng 7 tới.