Tâm trạng cô đơn lẻ bóng của người chinh phụ
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn là một áng thơ hay thuộc thể ngâm khúc, hơn hết đoạn trích còn để lại cho hậu thế một giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. đặc biệt chính là tâm trạng hiu quạnh cô đơn của người chinh phụ trong 8 câu thơ đầu tiên
Hai câu thơ đầu, Đặng Trần Côn tâm trạng của người chinh phụ đã được khắc họa qua các hình động:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Tiếng than đầy oán trách của người phụ nữ vắng bóng chồng, khi chồng phải ra chiến trận, chính cái hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước”, “rèm thưa rủ” việc miêu tả các hành động ngoại hình mà dụng ý chính của tác giả chính là miêu tả tâm trạng cô đơn trống vắng, nỗi nhớ da diết chồng của người chinh phụ. Khung cảnh là buổi chiều tối, với một hiên vắng hành động lặp đi lặp lại “gieo từng bước” đầy mệt mỏi như muốn nói lên cái chờ đợi cái trống vắng lặp đi lặp lại của người phụ nữ xa chồng. Hành động gieo từng bước như nỗi lòng nặng trĩu mong ngóng ngày người chồng trở về.
“Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen” chiếc rèm cuốn lên hạ xuống như vô thức thể hiện một trạng thái tâm lý buồn bã, chán chường. Cảm giác bất an lo lắng cho người chồng ngoài chiến trận vừa là nỗi nhớ tha thiết, cảm xúc dồn nén càng làm cho người chinh phụ trở nên buồn bã, ngóng trông nhiều hơn, nhưng:
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
Chờ đợi nhưng chẳng thấy tin? Chim “thước” là biểu tượng của điềm lành sẽ có người đi xa trở về. Thế nhưng chả thấy hình bóng của chim thước để baso tin nỗi nhớ đầy rẫy khắc khoải, ngóng chờ một tín hiệu dù chỉ là nhỏ nhoi nhưng không có càng làm người nỗi buồn người chinh phụ càng tăng lên bội phần. Nhưng trong khung cảnh đau buồn này thì chỉ có ngọn đèn leo lét làm bạn với nàng.
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Sự cô đơn đến cùng cực đã làm cho người chinh phụ phải thốt lên “Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?” Ngọn đèn có thể soi sáng nỗi lòng của nàng người phụ nữ không, có rọi sáng được sự nhớ nhung của nàng dành cho chồng, hai câu thơ tiếp theo lại càng diễn tả thêm sự ưu phiền của người chinh phụ:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”
Tác giả sử dụng điệp ngữ “Đèn biết chăng -đèn có biết” càng làm cho nỗi cô đơn của người phụ nữ kéo dài ra, triền miên ra. Hình ảnh ngọn đèn được sử dụng hai lần như thể là nỗi trút bầu tâm sự của nhân vật trữ tình, ngọn đèn là vật vô tri nó chẳng thể hiểu được nỗi lòng của người phụ nữ, nó chỉ có tác dụng là giải toả tâm trạng cho người chinh phụ mà thôi. Nhìn ngọn đèn heo hắt trong đêm tối càng làm lòng người thêm ưu phiền mà thô. Ngọn đèn sáng ấm áp thể hiện cái đối nghịch của sự cô đơn, rầu rĩ
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Câu thơ thứ tám kết lại là hình ảnh hoa đèn, như thế nỗi nhớ nhung cứ đọng lại, dồn nén lại, đỏ rực như bấc đèn nung nóng, ánh sáng lên như hoa.
Trong bóng đêm đen như mực người chinh phụ chỉ biết trút bầu tâm sự với ngọn đèn, với cái bóng của chính mình in lên tường cho vơi đi nỗi cô đơn nỗi nhớ chồng da diết mà thôi
Tám câu thơ đầu trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã cho người đọc thấy được tâm trạng của người phụ nữ, cùng khung cảnh hiu quạnh, cô đơn của người phụ nữ phải xa chồng, tất cả do chiến tranh đã khiến những cặp vợ chồng son phải xa nhau trong nhớ thương, các biện pháp tu từ đã khắc họa nên bao nỗi ưu sầu, nỗi cô đơn trống trải của những người ở lại chờ tin người đi xa