Bình giảng một bài ca dao về bông sen
Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay là những sáng tác của quần chúng... Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý (Hồ Chí Minh). Một viên ngọc quý ấy là bài ca dao về bông sen, một loài hoa đồng nội có dáng vẻ thanh nhã, màu sắc gợi cảm, hương thoang thoảng nhưng thơm lâu:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Nội dung ý nghĩa và đặc điểm nghệ thuật của bài ca dao như thế nào, hình ảnh hoa sen xuất hiện trong văn học ra sao?
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Đây là lối so sánh hơn, hơn tuyệt đối. Không gì đẹp bằng sen, nhất là vào những ngày hè rực nắng. Người nông dân thăm đồng, cậu mục đồng hát nghêu ngao trên mình trâu, khách nhàn du lững thững dạo đường làng... tất cả đều dừng lại ngắm những đoá hoa đang khoe sắc màu, toả hương thơm ngát, rồi xúc cảm:
Trong đầm gì đẹp bằng sen.
Màu xanh lá sen, màu trắng cánh hoa, màu vàng nhị hoa chen nhau:
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng.
Nhị vàng giữa những cánh hoa trắng, hoa trắng vượt lên mặt nước phủ mấy chiếc lá xanh. Xanh, trắng, vàng hoà hợp, tôn vẻ đẹp của hoa như tự nhiên mà có, lại như do một bàn tay xếp đặt. Dáng vẻ nào, màu sắc ấy: lá rộng trải trên làn nước, cánh hoa trắng che quanh đốm nhị vàng. Chỉ bằng mấy lời thơ, hình ảnh của hoa hiện lên như một bức tranh, thật là thi trung hữu họa (trong thơ có hoạ)
Nhị vàng bông trắng lá xanh.
Đây chính là ý thơ trong cặp lục bát trước, nhưng ở vị trí đảo ngữ của câu 2 và rút bớt lại hai từ lại, chen. Nhà thơ Huy Cận đã có lần phân tích: Chính nhờ sự đảo ngược hình ảnh ấy mà chúng ta như thấy hiện lên bàn tay ai đó đang lật từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng...
Nhịp thơ câu 3 trở nên dồn dập, xác định màu sắc của nhị hoa, của cánh hoa và cửa lá. Toàn thể đoá hoa như hiện ra trên lá xanh, xinh đẹp, thanh nhã, quyến rũ hơn.
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Từ mà chia câu thơ thành hai vế, gắn với hai ý đối lập bề ngoài nhưng thống nhất trong ý nghĩa: sen sống trong bùn nhưng chẳng nhuốm mùi bùn. Câu thơ khởi đầu gần bùn như bị coi thường, khinh rẻ. Nhưng phô bày không giấu giếm cái vẫn bị xem là thấp kém của bản thân cũng là một thái độ ngầm tranh luận và hàm ý tự khẳng định mình. Mà chẳng hôi tanh mùi bùn là không chấp nhận sự tầm thường trong phẩm chất. Giá trị của hoa sen được thể hiện bằng một lời phủ định chẳng hôi tanh như thẳng tay bác bỏ mọi cách nhìn hời hợt, sai lệch trong việc đánh giá và tự xác định mình là một loài hoa cao quý, đáng ca ngợi.
Bài ca dao miêu tả một loài hoa quen thuộc của ruộng đồng thôn dã. Hoa gợi liên tưởng đến con người, con người tay lấm chân bùn nhưng tâm hồn trong sáng, thanh cao. Họ chính là người nông dân thường bị bọn địa chủ khinh thường, coi là hạng người hôi tanh mùi bùn. Cho nên bài ca dao như một khúc hát ngợi ca, đồng thời cũng là một tuyên ngôn của người nông dân về bản thân mình, về tầng lớp mình. Đây còn là lời phản kháng mọi sự xúc phạm, xác định phẩm chất trong sạch của mình:
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Chẳng những hoa chẳng hôi tanh mùi bùn mà còn tỏa hương thơm ngát. Nông dân làm ra lúa gạo, nuôi sống con người, không ăn bám, không bóc lột xấu xa. Họ gắn bó với quê hương, sống theo nề nếp đạo lí truyền thống, bảo vệ và phát huy mĩ tục thuần phong của dân tộc như hoa sen cao quý.
Về mặt nghệ thuật ca dao thường được kết cấu theo các lối phú, tỉ, hứng. Nhưng hiếm có bài tổng hợp cả ba lối như trong bài này.
Bông sen hiện ra trước mắt ta (phú):
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh.
Nói về một loài hoa với một xúc động thẩm mỹ (hứng), cùng lúc sử dụng phép so sánh (tỉ):
Trong đầm gì đẹp bằng sen.
Còn 4 câu ca ngợi hoa sen cùng lúc ngụ ý ẩn dụ (tỉ) với người có phẩm chất thanh cao:
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Bài ca dao gồm bốn câu thơ lục bát. Bởi không ngụ ý nuối tiếc một duyên tình lỡ làng như Nụ tâm xuân, hoặc tỏ tình một cách ý nhị như Tát nước đầu đình, hay giãi bày một nỗi buồn mênh mang như Buồn trông, bài ca dao Bông sen chỉ miêu tả một loài hoa, nên bốn câu thơ là vừa đủ, ít hơn thì ngắn, mà nhiều hơn có thể dài chăng?
Lục bát trong bài có vần luật uyển chuyển, biến đổi trong ba câu sau. Vần cuối của câu bát (câu 2) không gieo vần cuối câu lục kế tiếp (câu 3) mà ở tiếng thứ hai:
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh.
Hay là không cần gieo vần?
Từ vần luật mà vượt lên vần luật, có thể mới đích thực là thơ. Ở đây sắc hương của hoa sen đã làm rung động lòng người, gợi cảm hứng dân tộc của người bình dân và vượt lên vần luật thông thường.
Tiết tấu của bài ca dao giàu tính nhạc. Nhịp chẵn của câu lục 2 - 2- 2, của câu 2 - 2 - 2 - 2 (câu 2) hoặc 2 - 6 (câu 4) thật giản dị nhưng không đơn điệu. Đặc biệt, số tiếng của câu 3 là rút lại từ câu 2, hay nói khác đi, câu 2 là dạng trải dài của câu 3 là rút lại từ câu 2, hay nói khác đi, câu 2 là dạng trải dài của câu 3, như láy đi láy lại âm hưởng của lời thơ. Rải ra thì chi tiết nào cũng hiện rõ, gộp lại là một loài hoa xinh đẹp, như những nốt nhạc hoà âm.
Tiết tấu của bài ca dao như âm hưởng của một dòng suối chảy êm đềm (câu 1, 2) chuyển mình qua những bậc đá (câu 3), rồi tiếp tục trôi xuôi. Mạch thơ uyển chuyển thông suốt, thanh thoát, êm đềm.
Hoa sen là loài hoa được yêu thích. Trước hết vì hoa có dáng vẻ thanh lịch, màu sắc dễ cảm, hương thoảng thơm lâu. Văn chương vốn chuộng hoa sen. Đó là một loài hoa quý.
Đời Tề (Trung Quốc) có Đông Hôn Hầu yêu dấu nàng họ Phan, cho đúc hoa sen vàng lát nền nhà để ngắm bước chân mỹ nhân bước đi, mà khen rằng:
Mỗi bước nở một đóa sen. Từ đó có điển tích sen vàng, gót sen.
Trong Truyện Kiều, sau mỗi buổi thanh minh, đêm về Kiều nghĩ ngợi vẩn vơ, mơ màng thì hồn Đạm Tiên hiện lên báo mộng:
Sương in mặt tuyết pha than
Sen vàng lãng đãng như gần như xa.
Và khi Kiều sang nhà Kim Trọng để hò hẹn, thề bồi:
Tiếng sen sẽ động giấc hòe
Bóng trăng đã xế, hoa lê lại gần.
Lý Bạch, nhà thơ nổi tiếng thời Thịnh Đường (Trung Quốc), có viết Thái liên khúc (Khúc hát hái sen) mà Tản Đà dịch rằng:
Có cô gái nhà ai
Hái sen chơi ở bên ngoài Nhược gia
Mặt hoa cười cách đóa hoa,
Cùng ai nói nói mặn mà thêm xinh
Áo quần mặc mới trắng tinh
Nắng soi đáy nước rung rinh bóng lồng
Thơm tho vạt áo gió tung
Bay lên phấp phới trong không ngọt ngào...
Thiếu nữ đẹp như cười nói với hoa sen đẹp. Hương sen ngát tỏa lên y phục tinh khiết của người thiếu nữ. sắc hoa, hương hoa hoà lẫn hương sắc giai nhân. Ca ngợi giai nhân hay ca ngợi hoa sen thanh quý thơm tho, hay ca ngợi cả hai?
Trong một bài dân ca Trị Thiên. Môi tình thuỷ chung:
Bèo dạt nhờ sen, nhờ khi sương sa ấm gốc.
Sen lại nhờ bèo, nhờ khi nắng xốc mua vui
Sen trách lòng bèo lại xin lui
Để mình sen ở lại ngậm ngùi nhớ thương...
Trong Truyện Kiều, suốt một năm dài Từ Hải ra đi lập nghiệp, Kiều ở nhà cô đơn thui thủi, lòng tràn ngập bao nỗi nhớ niềm thương: mong Từ Hải, nhớ cha mẹ già yếu, quê hương thân yêu xa cách đã mười năm..., rồi hoài tưởng cố nhân Kim Trọng:
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng.
Duyên nàng với Kim Trọng đã tan vỡ, nhưng lòng vấn vương vấn tơ tình, như ngó sen tuy gãy nhưng tơ vẫn còn liền, ngẫu đoạn nhi ti liên.
Đặc biệt, nhà thơ Nguyễn Trãi một anh hùng dân tộc có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, rồi tận lực góp sức xây dựng đất nước hoà bình, vẫn thường nặng ưu tư vì lòng người đố kị, thói đời vùi dập, nên gửi tâm sự qua câu thơ buồn:
Liên tử hữu tâm tri độc khổ (Hạt sen có tim biết nỗi đắng cay riêng mình).
Bài ca dao miêu tả hoa sen lại làm cho ta suy nghĩ bao điều về ý nghĩ nhân sinh. Đó là loại hoa tiêu biểu cho những con người có tâm hồn cao đẹp, phẩm chất thanh cao.
Hơn nữa, sen là một loài hoa dân dã nhưng vương giả, thanh khiết. Sen là loài hoa thường gắn bó với sinh hoạt, tâm tình của những người lao động. Anh trai làng tỏ tình cùng cô thôn nữ, sao mà khéo chọn nơi để quên cái áo sứt chỉ đường tà của mình:
Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Xuất thân từ ruộng đồng nhưng hoa đượm mùi vương giả sang quý. Đời Trần Anh Tôn, Mạc Đĩnh Chi thi đậu Trạng Nguyên, nhà vua thấy ông hình dạng xấu xí, không muốn lấy đỗ đầu tiến sĩ. Như một cách trần tình, Mạc Đĩnh Chi làm bài Ngọc tỉnh liên phú (Bài phú ‘hoa sen trong giếng ngọc), tự ví mình thanh cao như loài sen quý:
Phải chăng giống hoa cao mười trượng, ngó cong như thuyền, lạnh giá như băng, ngọt ngon tựa mật...
Hơn nữa, hoa sen là loài hoa thuần khiết. Đức Phật ngồi trên tòa sen. Hình ảnh này thấp thoáng trong một bài thơ cảm hoài triều đại vàng son nhà Lê đã thành vang bóng:
Mấy toà sen rớt mùi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng xem đã rộn,
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau.
(Bà huyện Thanh Quan)
Cuối cùng, sen cũng là một hình ảnh, hình tượng văn học thường được dùng tỏ bày tình cảm cho con người.