Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên hay nhất (24 mẫu)

Dàn ý phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên

I. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều: Vị trí của tác giả trong nền văn học và giá trị của Truyện Kiều.

- Giới thiệu đoạn trích Trao duyên và 8 câu thơ cuối của đoạn trích: Vị trí, nội dung của đoạn trích và nội dung, giá trị của 8 câu thơ cuối.

II. Thân bài

1. Mạch cảm xúc của bài

- Sau khi thuyết phục Thúy Vân, trao duyên trao kỉ vật và dặn dò em, Thúy Kiều như quên hẳn em đang ở bên cạnh mình nàng đau xót khi nghĩ về thực tại nhớ tới Kim Trọng

- Những lời Kiều nói thực chất là những lời độc thoại nội tâm, trong 8 câu thơ có tới 5 câu cảm thán là những tiếng kêu xé lòng của một trái tim tan nát.

2. Thực cảnh đau xót của Kiều.

- Sử dụng một loạt các thành ngữ.

   + “Trâm gẫy gương tan”: Chỉ sự đổ vỡ

   + “Tơ duyên ngắn ngủi”: Tình duyên mong manh, dễ vỡ, dễ đổ nát

   + “Phận bạc như vôi”: Số phận hẩm hiu, bạc bẽo

   + “Nước chảy hoa trôi lỡ làng”: Sự lênh đênh, trôi nổi, lỡ làng

Hình nh gi t s phn đầy đau kh, d dang, bc bo, lênh đênh trôi ni.

- Nguyễn Du đã mở ra hai chiều thời gian hiện tại và quá khứ. Quá khứ thì “muôn vàn ái ân” đầy hạnh phúc trong khi ấy hiện tại thì đầy đau khổ, lỡ làng và bạc bẽo.

S đối lp nhn mnh, khc sâu bi kch, ni đau ca Kiu, càng nui tiếc quá kh đẹp đẽ bao nhiêu thì thc ti càng b bàng, ht hng by nhiêu.

- Các hành động

   + Nhận mình là "người phụ bạc"

   + Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt, khác với cái lạy hàm ơn ban đầu.

Kiu quên đi ni đau ca mình mà nghĩ nhiu đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý.

Thc ti cuc đời đầy nhit ngã đầy đau đớn, ti hn ca Thúy Kiu. Chính Kiu là người nhn thc được rõ nht v cuc đời mình, vì thế ni đau càng thêm xót xa.

Th hin nim thương cm, xót xa ca Nguyn Du đối vi s phn ca Kiu.

3. Tiếng gọi chàng Kim

- Nhịp thơ 3/3, 2/4/2: vừa da diết vừa nghẹn ngào như những tiếng nấc

- Thán từ “Ôi, hỡi”: Là tiếng kêu đau đớn, tuyệt vọng của Kiều.

- Hai lần nhắc tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.

S đau đớn tt cùng, đỉnh đim ca Kiu vì ph tình Kim Trng

Tình cm ln át lí trí.

4. Nghệ thuật

- Khắc họa thành công tâm trạng nhân vật.

- Sử dụng các từ ngữ tinh tế, đắt giá, các thành ngữ giàu sức gợi

- Thủ pháp ẩn dụ, so sánh, liệt kê, đối lập

III. Kết bài

- Khái quát nội dung và nghệ thuật của 8 câu thơ

- Trình bày ấn tượng của bản thân về 8 câu thơ: Những câu thơ đem lại nhiều xúc cảm, sự xúc động, nghẹn ngào, đồng cảm nơi người đọc.

26.

MB: Dẫn dắt, nêu vấn đề cần nghị luận, trích dẫn đoạn thơ.
TB:
- Hoàn cảnh của Kiều trước đó: gia đình gặp tai biến, Kiều quyết định bán mình chuộc cha và em.
- Kiều đã trao duyên lại cho Thúy Vân. Tâm trạng Kiều đã chảy từ lí trí về với trái tim. Tâm trạng Kiều diễn biến hết sức phức tạp, đến khi có thể xem cuộc trao duyên tạm hoàn tất, Kiều chỉ biết đến Kim Trọng.
- Đau khổ lên đến đỉnh điểm, trao duyên nhưng không hề thanh thản, Kiều thấy mang tội phụ tình với người yêu->bộc bạch nỗi lòng như Kim Trọng đang ở trước mặt.
+ Hướng về tình yêu: đau đớn bởi sự nghiệt ngã giữa quá khứ ( muôn vàn ái ân ) và hiện tại (trâm gãy gương tan, tơ duyên ngắn ngủi).
+ Than thở thân phận mình ( phận bạc như vôi, nước chảy hoa trôi lỡ làng).
+ Tự nhận mình là kẻ mang tội phụ bạc:
● Lạy tình quân (nên so sánh với cái lạy với Thúy Vân), cái lạy tạ lỗi…
● Đau đớn, dằn vật tột cùng vì không giữ được lời thề, tình duyên đã chia đôi…rơi vào bi kịch.
-> mong nhận sự đồng cảm.
- Nội dung và nghệ thuật như hai mặt của một tờ giấy, HS nên lồng ghép trong phần nội dung.
+ Cách dùng từ (bây giờ, lạy, tình quân, đã đành, Kim lang…), vận dụng thành ngữ, so sánh, ẩn dụ.
+ Cách ngắt nhịp (2 câu cuối), lặp từ, câu cảm thán, từ láy; giọng điệu…
KB: Cảm nhận chung về giá trị của đoạn thơ, thành công của tác giả Nguễn Du.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 1

Dù chỉ là một trích đoạn ngắn từ “Truyện Kiều” nhưng “Trao duyên” đã góp phần thể hiện thành công những vẻ đẹp của nhân vật Thúy Kiều và tài năng sáng tác của thiên tài Nguyễn Du. Đoạn trích là tiếng lòng tha thiết của Kiều về hoàn cảnh bi đát của gia đình, của phận mình và của tình yêu đầu đời đẹp đẽ. Đặc biệt, khi thể hiện nỗi xót xa của nàng Kiều cho duyên phận với chàng Kim, Nguyễn Du đã gây được ấn tượng trong tám câu thơ cuối đoạn trích:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trong việc cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên nói riêng hay toàn bộ đoạn trích nói chung, người đọc cần nắm được những nét chính về tác giả và tác phẩm.

Nguyễn Du (sinh năm 1765 – mất năm 1820) còn được người đời biết đến với tên chữ là Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Thể hiện sự tự hào về Nguyễn Du, độc giả từ bao đời vẫn không ngớt lời ca ngợi vì đại thi hào đã có rất nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà.

Là người con của vùng đất Hà Tĩnh – vùng đất sản sinh biết bao nhân kiệt cho đất nước, Nguyễn Du nổi danh với các tác phẩm được sáng tác ở cả chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán, ông có những tập thơ nổi tiếng như: “Thanh Hiên tiền hậu tập”, “Nam trung tạp ngâm”, “Bắc hành tạp lục”. Còn về chữ Nôm, có thể kể đến một số tác phẩm như: “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh”, “Thác lời trai phường nón”…

Sở dĩ gặt hái được nhiều thành công trong sự nghiệp sáng tác là do Nguyễn Du đã dùng vốn sống của mình để phản ánh trong tác phẩm hiện thực cuộc đời, không chỉ vậy nhà thơ còn bộc lộ tấm lòng nhân đạo rất vĩ đại của ông. Thực chất những tác phẩm chữ Hán của ông là những dòng tự sự về cuộc đời đầy sóng gió, bi kịch của chính ông: những biến động dữ dội của một thời đại lịch sử trong giai đoạn từ cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX đã khiến gia đình sống đời lưu lạc, tan tác.

Sống trong xã hội đó, Nguyễn Du được tận mắt chứng kiến những ái ố của cuộc đời thông qua hình ảnh của những thân phận nhỏ bé phải chịu cảnh chèn ép tàn nhẫn, độc ác của các thế lực đen tối trong xã hội. Một cách tổng thể, người đọc có thể cảm nhận được không chỉ ở những tác phẩm chữ Hán mà trong toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du đều hiển hiện rõ rệt tấm lòng chân thành của Nguyễn Du với cuộc đời.

Ông phản ánh hiện thực nhưng cốt là để bày tỏ sự cảm thông, chia sẻ với những kiếp người sống trong đau khổ triền miên. Trong những phận người mà Nguyễn Du thường viết về họ, ông rất quan tâm đến những người phụ nữ sống kiếp cầm ca, phải đem tài sắc làm thú vui cho người đời. Và một thành công lớn mà Nguyễn Du đã làm được ở những sáng tác của mình mà chúng ta không thể không nhắc tới là ông đã vượt lên một cách ngoạn mục những định kiến của xã hội phong kiến để nỗ lực khẳng định giá trị cao đẹp của con người.

Là một đoạn được trích từ “Truyện Kiều”, “Trao duyên” gồm 34 câu thơ. Đây là những câu thơ nằm ở vị trí từ câu 723 đến câu 756 trong kiệt tác tác phẩm. Đoạn trích hướng người đọc đến nhân vật trung tâm là Thúy Kiều trong một hoàn cảnh rất đỗi đặc biệt: Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh để chuộc cha sau khi gia đình bị vu oan.

Trong đêm trước ngày phải xa gia đình để theo phường buôn phấn bán hương, Kiều đã nhờ em gái của mình là Thúy Vân thay Kiều trả nghĩa cho Kim Trọng; phần còn lại của đoạn trích là những dòng viết về tâm tư nỗi niềm của Thúy Kiều khi nghĩ về cuộc đời mình và khi nhớ đến Kim Trọng.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy đây là những dòng tâm trạng đau khổ cùng cực của nàng Kiều sau khi Trao duyên

Sau khi đã nói hết nỗi lòng của mình với em gái, Kiều đã nhìn lại cuộc đời mình rồi đau đớn nhận ra sự thật phũ phàng là so với quá khứ thì hiện tại có một sự đối lập đến xót xa:

“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy trong câu thơ trên, việc Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” đã mang lại sự biểu đạt rất hiệu quả. Thông qua hình ảnh ấy, tác giả đã cho thấy sự nhận thức sâu sắc của nàng Kiều về bi kịch hiện tại. Kiều bàng hoàng chua xót khi so với thời quá khứ – những năm tháng Kiều đã thật hạnh phúc với mối tình đầu đời như hoa như mộng, bây giờ còn lại chỉ là những đau đớn tủi phận khi biết bao nhiêu hẹn ước tươi đẹp trở thành hư vô.

“Trâm” và “gương” vốn tượng trưng cho những hình ảnh đẹp đẽ của người con gái đến tuổi để ý đến dung nhan của bản thân khi tình yêu gõ cửa trái tim. Nhưng những gì Kiều trân trọng, nâng niu để mong đến một ngày có thể cùng Trọng mãi mãi kề bên (để có thể hiện thực hóa những gì mà nàng và người yêu đã từng thề nguyền hẹn ước từ thời khắc “Kể từ khi gặp chàng Kim” – “Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”) bỗng chốc chỉ trong phút giây, tai ương ập đến, tất cả những mong ước vỡ tan thành mây thành khói.

“Muôn vàn ái ân” không thể cân đo đong đếm ở miền ký ức thơ mộng có sự hiện diện của Thúy Kiều và Kim Trọng mà nàng nhắc đến ở câu thơ tiếp theo như càng làm tăng thêm sự đối lập so với những đau khổ mà nàng vừa nhắc đến ở câu thơ trước đó. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy nhìn vào tình cảnh của Kiều để thấy những gì mà nàng phải chịu đựng ở độ tuổi xuân sắc lẽ ra vốn vẫn còn được sống trong vòng tay yêu thương, bảo bọc của mẹ cha mới thấy thương, thấy xót hơn cho nàng.

Không chỉ bản thân Kiều mà ngay cả người đọc cũng không khỏi lo lắng, hoang mang cho những tháng ngày sắp tới mà Kiều phải vượt qua. Đối chiếu giữa thực tại và một thời đã xa, đau khổ có dâng trào thành từng dòng nước mắt thì Kiều cũng không thể làm nó trở về trạng thái bình yên xưa cũ, thế nên nàng chỉ còn có thể ngậm ngùi để tìm cách an ủi, động viên chính mình và người yêu:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”

Nói ra những lời ấy, Kiều thật mong Trọng cũng chấp nhận cho duyên tình giữa chàng và Kiều chỉ là những ký ức ngắn ngủi dù tươi đẹp biết bao. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng khi cậy nhờ em “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà giúp nàng giữ duyên, Kiều cũng đã rất thành khẩn khi bảo em “ngồi lên” để mình “lạy”, giờ đây, lại thêm một lần thành khẩn, nhưng Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến một người rất quan trọng với nàng là chàng Kim. Từng lời nói, từng hành động của Kiều được thể hiện trong thơ đã giúp hiện hữu ở trang viết của Nguyễn Du hình ảnh người con gái mang nặng nghĩa tình với mối tình dang dở nhưng không có cách nào cứu vãn nó.

Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên trong hai câu thơ tiếp theo, dường như Nguyễn Du đã tạo cơ hội đã Kiều có thể trút hết nỗi lòng mà khóc nức nở cho thân phận của mình:

“Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Có lẽ từ đầu buổi “trao duyên” đến thời điểm thổn thức trong tiếng khóc nàng, Kiều đã rất cố gắng để kìm giữ hết sức có thể để bình tĩnh nói cho trọn vẹn điều nàng mong muốn. Đến khi nhận mong muốn em gái thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng có lẽ đã được chấp thuận, rồi nàng cẩn thận dặn dò Thúy Vân, Thúy Kiều mới cho phép bản thân mình có thể thương xót cho nàng một cách thành thật nhất, tự nhiên nhất.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy Kiều tự ý thức được một điều là số phận của nàng không khác gì màu vôi bạc. Trước đây, khi Kiều được sống êm đềm trong mái ấm gia đình, Kiều có thể chưa bao giờ tưởng tượng ra được viễn cảnh ê chề giống như ngày hôm nay Kiều chứng kiến. Nhưng thật lòng mà nói, chắc ngay cả tưởng tượng, Kiều cũng không hẳn tưởng ra những đau khổ phũ phàng lại ập đến cuộc đời mình nhanh vội như vậy, nhanh đến mức Kiều còn chưa kịp trải đời để có thể ứng phó.

Thế nên Kiều phải đối diện với nó trong bàng hoàng và sự hoang mang tột độ. Rồi nỗi đau cứ thế mà tăng lên thêm mãi khi Kiều còn nhận thấy một tương lai mù mịt, tăm tối không biết sẽ như thế nào. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng Kiều cảm nhận được đó là một tương lai “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tháng ngày sắp tới mờ mịt và có lẽ với Kiều, những gì còn lại sau những đau thương đầu đời có lẽ chỉ là những hình ảnh thân thương, quý giá về gia đình, người yêu mà Kiều lưu lại trong trí.

Cuối cùng, nỗi đau khổ, tuyệt vọng cứ tuôn trào mạnh mẽ thành tiếng gọi người yêu đầy tha thiết nhưng lại đau đến xé lòng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Mỗi một thanh âm về tiếng gọi người yêu mà Kiều thốt lên chắc hẳn cũng là ngần ấy lần nàng quặn thắt tâm can mà đau đớn xót xa. Những từ diễn tả sự xót xa tủi phận cứ liên tiếp xuất hiện và được xâu lại thành chuỗi: “ngắn ngủi”, “lỡ làng”, “thôi thôi”, “Kim lang”, “phận sao phận” đã tạo thành những cơn sóng của đau thương ồ ạt bủa vây lấy người con gái đáng thương mà nàng đã gắng hết sức không để cho nó quật ngã.

Thế nhưng, có lẽ sức người có hạn, gắng gượng bao nhiêu nàng cũng không thể che giấu đi những tổn thương mà nàng đang gánh chịu. Vậy nên cố gắng cuối cùng của sự gắng gượng chính là tiếng gọi Kim Trọng để rồi sau đó, nàng nhận lỗi và nói lời tạ từ với Trọng, đó cũng là lời tự trách bản thân mình trong day dứt, dằn vặt.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, người đọc cũng thấy tiếng kêu thốt lên ấy đã hòa trong tiếng nấc thể hiện Kiều thương mình nhưng nhiều hơn cả là sự xót xa dành cho chàng Kim. Trong sự tan vỡ của tình yêu của hai người, Kiều nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về mình và tự gán cho mình là kẻ phụ bạc. Việc Kiều lấy hết can đảm để thốt lên lời thú nhận đó đã làm hiện lên ở nàng những vẻ đẹp đáng trân trọng.

Đó là vẻ đẹp của người con gái rất đỗi cao thượng trong tình yêu, dẫu bị hoàn cảnh xô đẩy, dồn đuổi đến cùng đường để đưa ra quyết định tưởng chừng không thể đau xót hơn nữa – quyết định bán mình. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy Kiều vẫn xem mình là người đáng phê phán vì đã phụ bạc một tình yêu tuy mới chớm nở nhưng đã rất đậm sâu. Đó chính là phẩm chất đáng quý nơi Kiều khiến ta mỗi lúc mỗi yêu quý nàng hơn.

Nhìn tổng thể khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy Nguyễn Du đã nêu bật lên sự tha thiết, trân trọng của Thúy Kiều đối với tình yêu thông qua hành động “trao duyên”. Cũng bằng cách thể hiện đó, Nguyễn Du đã bộc lộ rõ những vẻ đẹp ở phẩm chất của người con gái đầu lòng họ Vương: vừa là một mẫu người nêu gương đạo đức khi lấy chữ hiếu làm đầu, vừa là một hình ảnh nữ nhân lý tưởng khi có ý thức và nỗ lực hết mình để thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu dành cho tình yêu đích thực của mình.

Bên cạnh những nội dung đã điểm qua ở trên, điều làm nên sự thành công trong việc chuyển tải những thông điệp mà tác giả gửi gắm còn nằm ở nghệ thuật của đoạn trích. Trong đoạn trích này, Nguyễn Du đã vận dụng thật hiệu quả nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật để làm nổi bật ở nhân vật những phẩm chất đáng trọng. Bên cạnh đó, khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc lựa chọn hình thức độc thoại nội tâm để bộc bạch những tâm tư cùng với nỗi niềm chất chứa trong lòng của nàng Kiều.

Như vậy, với những ý nghĩa về nội dung và giá trị về nghệ thuật nói trên, đoạn trích “Trao duyên” nói chung và tám câu thơ cuối đoạn trích nói riêng đã giúp cho người đọc có thể phần nào đồng cảm và thấu hiểu cho nỗi lòng của nhân vật Thúy Kiều. Đó cũng là tình cảm dành cho những kiếp nữ nhân tài hoa nhưng bị sự cay nghiệt của số phận dồn ép đến tận cùng. Tuy nhiên, phải thừa nhận một điều rằng dù cho tình cảnh có ngang trái, éo le đến nhường nào, ở họ vẫn toát lên những vẻ đẹp đáng quý.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 2

Trao duyên cho em, nỗi đau này ai có thể thấu cho nàng Kiều. Sau giây phút vô cùng đau đớn, Kiều rơi vào nỗi đau khổ và tuyệt vọng đến cùng cực, nàng nghĩ về Kim Trọng và càng đau xót hơn, nỗi đau đó được thể hiện trong tám câu thơ cuối trong đoạn trích: “Trao duyên”.

Trong tột cùng nỗi đau khổ và tuyệt vọng, Kiều nghĩ về Kim Trọng. Với nàng Kim Trọng là tất cả, là niềm tin, hy vọng, là niềm an ủi, chia sẻ với nàng mọi điều. Tuy nhiên, Kim Trọng lại đang ở cách nàng rất xa, bởi thế cuộc đối thoại này với Kim Trọng chỉ là trong tưởng tượng. Nàng cất lên lời than vô cùng chua xót, đau đớn trước thực tại phũ phàng:

Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

Thành ngữ “Trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ của tình yêu, cũng là sự tan nát trong trái tim Thúy Kiều. Tình yêu với của nàng với Kim Trọng ngày một nâng lên, ngày càng tha thiết thì nỗi đau, sự dằn vặt trong trái tim nàng càng mạnh mẽ, càng đớn đau hơn. Lời nàng tạ tội của nàng thật thương tâm: “Trăm nghìn gửi lạy tình quân/ Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”. Kiều cất lên lời oán trách số phận, trách sự vô tình, khắc nghiệt của cuộc đời, than thở cho số phận éo le, mỏng manh, bạc bẽo của bản thân.

Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Dường như lúc này đây tình cảm của nàng đã lấn át cả lý trí. “Phận bạc” ở đây được sử dụng như một lời nói lên án cả xã hội phong kiến. Nhưng dù như vậy nàng cũng đành bất lực “đã đành” như một lời thở than, cam chịu số phận đớn đau. Số phận nàng ta cũng bắt gặp trong rất nhiều tác phẩm như nàng Vũ Nương bất hạnh bị chồng ruồng rẫy phải tự vẫn để minh oan, hay những người con gái được phản ánh trong các câu ca dao:

“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Câu thơ cho thấy thân phận nhỏ bé hơn bao giờ hết của nàng Kiều. Hơn thế nữa, câu thơ cũng là lời dự cảm, một lời lo lắng cho tương lai đầy bất trắc phía trước. Hình ảnh “hoa” vốn là biểu trưng cho người con gái đẹp, ở đây không ai khác chính là nàng Kiều nhưng những bông hoa ấy lại trôi lỡ làng, vô định, không biết cuộc đời sẽ ra sao và đi đâu về đâu. Nỗi đau trào dâng, bao nhiêu tình cảm dồn nén choán đầy cả tâm trí. Bởi vậy, nàng thốt lên lời xin lỗi đầy đau đớn với Kim Trọng:

Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Có lẽ rằng đây là lần cuối cùng nàng có thể gọi Kim Trọng là “Kim Lang” tha thiết như thế. Thúy Kiều gọi Kim Trọng hai lần dường như bao nhiêu tình cảm chất chứa đều được thốt lên qua tiếng gọi người yêu đầy tha thiết của nàng. Kiều vẫn nhận mình là người phụ bạc, khiến nỗi đau như đang dấy lên không ngớt trong lòng nàng. Sau đoạn đối thoại với Kim Trọng nỗi đau về tình yêu tan vỡ trào dâng trong trái tim Kiều. Sau cả một đêm thức trắng không thể tiếp tục chịu đựng hơn được nữa, Kiều đã ngất đi:

Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng

Kết thúc đoạn trích “Trao duyên”, duyên thì được trao, nhưng tình thì lại không thể. Mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí trong trái tim Kiều vì thế chưa được giải quyết hoàn toàn. Mặc cảm vì mình là người phụ tình, nỗi đau ấy sẽ còn dày xé nàng trong suốt mười lăm năm lưu lạc.

Đoạn trích là sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình, ngôn ngữ độc thoại đã cho thấy nỗi đau đớn đến tột cùng của Thúy Kiều. Nhưng đồng thời qua những câu thơ ngắn ngủi đã cho thấy tình cảm và nhân cách đẹp đẽ của nàng, dù rơi vào đau khổ tuyệt vọng đến cùng cực nhưng nàng vẫn luôn lo nghĩ cho người khác mà quên đi nỗi đau của bản thân.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 3

Kết thúc đoạn thơ, bi kịch càng được đẩy lên cao. Mâu thuẫn này nối tiếp mâu thuẫn khác, Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng trở về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi và tương lai mờ mịt.

Dù có quay về quá khứ hãy hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn là con người sống với thực tại của mình:

"Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vài ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"

Hàng loạt những thành ngữ được liệt kê hàm chứa bao bi kịch người con gái. Đó là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bọt bèo, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng sâu sắc khi trước hiện tại nàng vẫn không thôi khao khát tình yêu hạnh phúc. Những từ ngữ có tính chất vô hạn định như "muôn vàn, trăm nghìn" thể hiện sâu sắc khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh.

Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lý của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:

"Ôi Kim lang hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"

Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Tố Hữu đã nói thay bao người, bao thế hệ! Chỉ một câu thơ và tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Những thán từ "ôi, hỡi" khiến câu thơ vang lên như một lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối cuối cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. Kiều đã rất ân cần với chàng Kim thế mà giờ đây nàng tự nhận mình là người phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà tự nhận hết trách nhiệm về mình. Nàng đâu còn nghĩ đến nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo lắng lại dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn chính bản thân mình.

Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc những diễn biến phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du chính là một bậc thầy về ngôn ngữ.

Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim người đọc từ hàng thế hệ nay. Đoạn trích "Trao duyên" đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, nhưng ánh lên rực rỡ một nàng Kiều đẹp đẽ, sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 4

Trong giây phút ấy, Vân bỗng bị “hồn” Kiều quên đi. Kiều đang sống mà cảm thấy như mình đã chết, đang nói với em mình mà không biết đang nói với ai, lúc này, Kiều rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm. Nỗi bất hạnh hiện lên thật trọn vẹn, hiện lên trong hình dung nhưng rất cụ thể khiến Kiều vô cùng tuyệt vọng:

Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể là sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Lời đối thoại có sự chuyển hướng: Đang nói với em Vân, Kiều dường như quay sang nói với chàng Kim hay nói khác hơn, trước mắt Kiều, Thuý Vân trở thành chàng Kim. Cho nên bao nhiêu tình thương nỗi nhớ, nỗi thương yêu ấp ủ, nỗi đau khổ thống thiết cho mối tình đầu tan vỡ bỗng tuôn tràn ra. Nhìn lại cái “bây giờ” của Kiều chỉ thấy mất mát. “Trâm” và “gương” là biểu tượng của tình duyên ngày xưa. Thế nhưng giờ “Trâm” đã “gãy” còn “gương” cũng đã vỡ “tan” cả. Hình tượng “Trâm gãy gương tan” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ. Kiều đã nhận của chàng Kim “muôn vàn ái ân” đến nỗi “kể làm sao xiết” mà giờ đây Kiều lại phản bội, thất hứa, làm “tơ duyên ngắn ngủi”, “trâm gãy gương tan”. Nghẹn ngào, cay đắng, xót xa – bấy nhiêu tâm trạng đối diện với Kiều.

Tuy trao duyên cho em Vân, nhờ em “thay lời nước non” với chàng Kim, Kiều vẫn thấy mình chịu muôn vàn tội lỗi nên nàng đã gửi lại “trăm nghìn cái lạy” cho “tình quân”-người đã cùng nàng trải qua bao kỷ niệm tình yêu nồng nàn, say đắm, đã cùng nàng thề nguyền trăm năm bên nhau mà cuối cùng lại bị nàng phản bội-mà vẫn cảm thấy chưa đủ. Trước đây ít phút, nàng đã “lạy” em Vân của mình để cầu xin em nối duyên với chàng. Khác hẳn với cái lạy “mang ơn”, cái “lạy” này là cái lạy tạ tội vô cùng thống thiết. Trong tình cảnh này, Kiều vẫn không thể làm gì hơn ngoài sự tạ tội. Và cái lạy đó đối với Kiều đã kết thúc mối tình đầu ngắn ngủi, đầy tiếc nuối. Câu “Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” Kiều thốt lên sao mà thấm đượm vị chua chát, cay đắng của sự chia ly lứa đôi. Đến đây, Kiều mới thấm thía nỗi cô đơn và số phận của mình giữa cõi đời bất công:

Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Đó là lời oán trách, lời than oán số phận “bạc như vôi” của mình.Lời than oán của Kiều không ai có thể trả lời được, đó là một lời than oán cay đắng, tuyệt vọng, kêu lên chỉ để oán trách trời mà thôi! Rồi đây số phận của Kiều sẽ trôi dạt như bông hoa đẹp đẽ đã “đành trôi” trên dòng nước dơ bẩn, nhơ nhớp chảy cuốn xiết, lỡ làng, không thể nào cứu vãn được nữa. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, nghĩa là tuổi thanh xuân trinh trắng và đẹp đẽ của Kiều đã chấm dứt từ đây. Và lúc đó, trong những giây phút cuối cùng của cuộc trao duyên, Kiều cất tiếng gọi người yêu:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

“Thôi thôi” là tiếng than tiếc rẻ, dằn vặt. “Thôi thôi” cũng là tiếng xác nhận sự phụ bạc của mình.Tiếng gọi của nàng như một tiếng kêu chới với và tuyệt vọng bởi vì không có hồi âm.Kiều đã gắng gượng đến phút cuối cùng, lấy hết sức mình để thốt lên những tiếng kêu cuối cùng – tiếng kêu than oán, kêu cứu của một người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh” trong xã hội phong kiến.Sau tiếng kêu não lòng ấy, Kiều ngất đi, kết thúc cuộc trao duyên đầy chất trữ tình:”Cạn lời hồn ngất máu sau-Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng”

Đoạn thơ “Trao Duyên” đúng là Kiều đã nói hết lời (“cạn lời”). Lời trao duyên như nói một lời trăn trối, vĩnh biệt. Trước lời trao duyên, tình yêu thật mặn nồng, say đắm, hạnh phúc, sau lời trao duyên mình đã trắng tay, đôi lứa chia ly, tình yêu tan vỡ. Trước khi trao duyên mình là người sống, sau khi trao duyên mình là hồn oan nơi chín suối. Bằng tài năng tuyệt vời của mình, Nguyễn Du hình dung rất rõ và thể hiện rất thành công số phận bi kịch, nội tâm rối bời, tâm trạng đau khổ, dằng dặc, cay đắng, xót xa và tuyệt vọng trong cuộc trao duyên của Kiều với việc sử dụng một cách khéo léo, tinh tế, sắc sảo từ ngữ, nhiều biện pháp nghệ thuật thích hợp, kết hợp linh động lời kể với lời tự tình, lời độc thoại, ……, làm cho đoạn “Trao duyên” trở thành đoạn thơ lâm li nhất trong Truyện Kiều. Và đó cũng là lý do vì sao Truyện Kiều trở thành bất hủ!

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 5

Truyện Kiều - một thi phẩm bất hủ của tác giả Nguyễn Du, được viết dựa vào một tác phẩm cổ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả sống vào đời nhà Thanh, Trung Quốc. Truyện kể về cuộc đời đầy đau thương mất mát của Thuý Kiều, trải qua muôn vàn sóng gió, khổ hạnh, chết đi sống lại,… cuối cùng hạnh phúc cũng mỉm cười với nàng. 8 câu cuối bài thơ đã thể hiện được tất cả nỗi lòng của Kiều.

Thuý Kiều một người con hiếu hạnh, tài đức vẹn toàn.

Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền.

Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”.

Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về:

Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền. Nỗi day dứt ấy chị vẫn mang theo xuống cửu tuyền. Hôm nay chị trở về thì đã "âm dương cách biệt đôi đường" không thể nói được gì, chỉ xin rảy cho chén nước để oan hồn chị được siêu thoát. Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong có một cuộc sống( bình yên, êm ấm, mong những đứa con của chị được ăn no, muốn được thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ.

Nhìn lại thực tại, nghĩ đến tình quân nàng nhắn nhủ đôi lời tâm sự, giãi bày:

Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Giờ đây mọi chuyện đã tan vỡ, lỡ làng, nói làm sao hết những tình cảm tha thiết, da diết, những kỉ niệm ngọt ngào ân ái ngày xưa đã trao nhau. Thôi thì thiếp đành cam chấp nhận số phận, tơ duyên ngắn ngủi, hạnh phúc quá mong manh, kiếp này đã lỡ phu thê, thiếp xin bái biệt đi về cõi âm. Lời nhắn nhủ vừa mang nỗi tiếc nuối, vừa cam chịu chỉ "có ngần ấy thôi" ít ỏi quá chàng ơi, nhưng không thể nào kéo dài thêm được nữa. Khát vọng, nhu cầu của con người và thực tế cuộc sống mà con người phải đối mặt: người đàn bà trong câu chuyện chỉ mong có một cuộc sống( bình yên, êm ấm, mong những đứa con của chị được ăn no, muốn được thấy cảnh vợ chồng con cái quây quần bên nhau để có những giờ phút vui vẻ. Thế nhưng, chị lại phải đối mặt với một bi kịch gia đình: luôn bị người chồng đánh đập, hành hạ một cách tàn nhẫn. Và dù rất thương con, muốn bảo vệ các con, tránh cho chúng khỏi bị tổn thương thì chị vẫn khiến những đứa con đầu lòng, bị tổn thương vì phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Tình cảm đạo đức và hành vi trái đạo đức: thằng Phác vì thương mẹ, muôn bênh vực mẹ nhưng do còn non nớt trong nhận thức và bồng bột trong cách ứng xử nên đã có một hành động dại dột là xông vào đánh bố, thậm chí cầm dao định đâm bố. Nếu hành động này không được ngăn cản sẽ khiếm bi kịch chồng chất nên bi kịch vốn đã rất nặng nề căng thẳng trong cuộc sống của gia đình ấy. Với những hành động này, Phác vốn là đứa con thương mẹ, là chỗ dựa, niềm an ủi cho người mẹ lại trở thành một mũi dao đâm thẳng vào lòng mẹ nó để làm nhỏ xuống những giọt nước mắt.

Câu thơ chứa chan tình cảm, xót xa đau cho kiếp số phũ phàng, chua chát - lời thơ như hờn oán, trách móc than thân trách phận:

Phân sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Lời thơ uất nghẹn, phận gì? mà bạc như vôi? Phận trâu ngựa, kiếp chó mèo chứ không phải là phận người, kiếp người nữa. Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền. Cuộc đời quá cay đắng, bạc bẽo hay xã hội quá bất công, tàn nhẫn với con người tài sắc vẹn toàn như Thuý Kiều. Đành rằng cuộc đời “nước chảy hoa trôi” nhưng cũng có giới hạn thôi chứ sao mà quá bi đát, quá phũ phàng đến vậy. Quay về với thực tại Thuý Kiều như bừng tỉnh, thốt lên:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Việc “trao duyên” đã thành, việc bán mình cũng đã xong, thì bi kịch của Thuý Kiều cũng đến. "Ôi", "Hỡi" Kim Lang, Thuý Kiều gọi tên tình nhân lần sau cuối trong nước mắt nhạt nhoà, nàng ôm nỗi đau giằng xé tâm can khi biết chắc chắn rằng từ đây nàng đã mất chàng Kim mãi mãi. Vì phải cứu gia đình, nàng đành phải bán mình chuộc cha. Nhưng làm vậy thì nàng đã phản bội lời thề nguyền thuỷ chung, son sắc với tình lang Kim Trọng. Tình thế ép buộc nàng đành nhờ cậy em ruột là Thuý Vân, xem như chị trao duyên lại cho em, nhờ em thực hiện lời thề của mình với Kim Trọng dù rằng Thuý Kiều rất đau đớn, day dứt tâm can và nhắn nhủ với em mình như thể rằng chị sắp đi xa vĩnh viễn “một đi không trở lại”. Bốn câu thơ tưởng chừng như Thuý Kiều đang trăn trối nói về ngày sau khi mình chết đi. Mai sau em “đốt lò hương”, nhìn thấy trời “hiu hiu gió” thì hồn chị đã về: Hồn chị đã về đây, mang nặng nỗi thống khổ của một kẻ phụ tình. Trước khi thát oan, nàng chấp nhận cho thân nát để đền cho người bạn tình chung thuỷ vì tội đã phản bội lại lời thề nguyền.

Sự thật ấy làm cho Thuý Kiều kêu lên thống thiết “thôi thôi” một cách vật vã, đớn đau “đứt từng đoạn ruột”. Điều đó cho ta thấy được tình cảm của Thuý Kiều dành cho Kim Trọng vô cùng lớn, vô cùng sâu đậm, chung thuỷ sắc son.

Sự “hi sinh” của Thuý Kiều làm cho người đời cảm phục, tình cảm của Thuý Kiều làm cho chúng ta trân quý yêu thương. Đó là điểm sáng chói ngời trong phẩm giá con người Thúy Kiều, khiến cho nàng sống mãi trong lòng người đọc.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 6

Trao Duyên là một trong những đoạn trích cảm động, đau thương nhất trong Truyện Kiều, ở đó Nguyễn Du đã thể hiện khả năng nắm bắt tâm lí nhân vật tài tình, đồng thời thấy được bi kịch tình yêu, bi kịch nỗi đau tâm hồn đầy giằng xé của Thúy Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Đặc biệt là 8 câu thơ cuối.

“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”

Sự thức tỉnh của Thúy Kiều về nỗi đau của đời mình, để thấm thía hơn hiện thực mối tình đẹp đẽ sâu nặng tha thiết với chàng Kim giờ chỉ đành bỏ ngỏ, không thể tái hồi, dẫu có ghép lại thì cũng không còn được như xưa. “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, đối lập giữa cái bây giờ và cái bao giờ. Cái bây giờ là hiện tại đớn đau, cái bao giờ là mảnh tình một thuở muôn vàn ái ân. Hạnh phúc với Kiều lúc này chỉ là một tương lai mờ mịt xa xăm chỉ có thể cảm thấy mà không nhìn thấy.

“Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng"

“hồng nhan bạc mệnh”, câu nói ấy dường như ám cả vào nàng, vào cuộc đời nàng, suốt đời ôm lấy kiếp long đong. Chính xã hội phong kiến kim tiền giả dối, thối nát và tàn ác đã đẩy Kiểu đến bước đường cùng đầy đau đớn này, nhưng dù như vậy phận nữ nhi thường tình, nàng còn có thể làm gì hơn được nữa, nàng cũng đành bất lực “đã đành” như một lời thở than, cam chịu số phận đớn đau. Câu thơ như lời đối thoại, mà cũng như lời độc thoại đớn đau đến tột cùng, Kiều than cho số kiệp bạc bẽo, thân phận bèo bọt của mình, cũng giống như biết bao nhiêu kiếp hồng nhan bạc mệnh khác bị cuống vào guồng quay oan nghiệt của xã hội phong kiến. Câu thơ vang lên nặng nề, ai oán như một lời nghi vấn nghìn năm thiên cổ, như thay cho tiếng nói của biết bao số kiếp bạc mệnh khác.

Nhưng trong đỉnh điểm của nỗi đau riêng lắng của mình, Kiều lại nghĩ đến chàng Kim. Tên Kim Trọng vang lên lúc này, như một tiếng kêu thương của một người đang chới với trước bờ vực thẳm của đời mình:

"Ơi Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"

Sự thực là có một Thúy Kiều đã chết, đó là cái chết trong tâm hồn,cái chết của mối tình đầu chưa trọn vẹn suốt 15 năm lưu lạc mãi vẫn tan nát cõi lòng. Rõ ràng trong đau đớn Kiều vẫn hướng về Kim Trọng, vẫn một lòng thủy chung son sắt với chàng, thế nhưng nàng vẫn nhận mình là người phụ bạc, khiến nỗi đau như đang dấy lên không ngớt trong lòng nàng. Sau những dòng tâm tư quằn quại, nỗi đau về tình yêu tan vỡ trào dâng trong trái tim Kiều. Sau cả một đêm thức trắng, thể xác mệt nhọc, tâm hồn, trái tim tan nát, Kiều dường như không thể trụ vững được nữa:

“Cạn lời hồn ngất máu say
Một hơi lạnh ngắt, đôi tay giá đồng"

Trong tột cùng của nỗi đau, ta vẫn thấy tỏa sáng một tình yêu cao đẹp, đẹp đến đau thương, bi thương cho số kiếp nàng Kiều , “hồn ngất máu say”, “hơi lạnh ngắt”, tất cả những cách diễn đạt như ghim những khắc khoải vào lòng người đó, đã trở thành niềm đau đáu tâm can, làm cồn lên những dày xé bất tận trong lòng người đọc về cái kết quá đỗi bi thương, cũng vì một trái tim yêu quá sâu nặng, tha thiết đến quặn thắt của Kiều. Với nàng, tình yêu cho chàng Kim là lẽ sống, bây giờ lẽ sống ấy đã không còn, sự thực chẳng khác nào, sống không bằng chết.

Nếu không có một trái tim đồng cảm với nàng kiều, sao Nguyễn Du có thể viết những câu thơ như rỉ máu đầu ngọn bút như thế, trang văn, từng nhịp thơ, lời thơ như tiếng lòng gào thét, cũng đầy uất nghẹn, bế tắc của Thúy Kiều. Đó thực sự là sự đồng điệu đến từng điệu hồn tế vi nhất của tác giả và nhân vật.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 7

8 câu thơ trên được trích trong bào 'Trao duyên: làm cuộc độc thoại, đối thoại với Kim Trọng của Thúy Kiều. Ở hai câu là Thúy Kiều tự độc thoại, Thúy Kiều đã ý thức được hiện thực phũ phàng. Tình yêu của nàng với Kim Trọng đã tan vỡ như trâm gãy với gương ta không thể lành lại được.

Những nỗi đau, mỗi buồn, những kỉ niệm đẹp của Kiều 'kể làm sao xiết', nàng tự thương cho số phận mình. Từ 'lạy' ở đây khác với từ 'lạy' ở đoạn đầu. 'Lạy' là để Thúy Kiều tạ lỗi với Kim Trọng, để hối lỗi, để vĩnh biệt. Nàng tự cảm thấy được số phận mình là số phận mệnh bạc. Nàng tự thương cho chính mình và đây cũng là nỗi đồng cảm của tác giả với Thúy Kiều.
Ở câu lục cuối cùng với nhịp thơi 3/3, Thúy Kiều đã gọi kim Trọng là ' kim lang' vởi trong sâu thẳm lòng Kiều Kim Trọng là phu quân. Điều đó thể hiện tình yêu Kiều với Kim Trọng rất sâu nặng. Nhưng do hoàn cảnh, Kiều đành phải phụ Kim Trọng, đành phải vứt bỏ mối tình đẹp của mình.

Tóm lại tám câu thơ ta có thể hiểu thêm về Kiều hay cũng chính là hiểu thêm về người phụ nữ thời phong kiến.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 8

Khi nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du – một niềm tự hào của dân tộc thì ta không thể không nhắc đến tuyệt tác của ông: Truyện Kiều - một tác phẩm mang giá trị nhân đạo, giá trị nhân văn sâu sắc, đồng thời "Truyện Kiều" phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, một xã hội mục nát bất công, nhẫn tâm dồn ép nhân dân vào bước đường cùng. Song tác phẩm này còn thành công ở giá trị nghệ thuật, nghệ thuật trong thơ đã lên đến đỉnh cao. Đặc biệt là nghệ thuật dẫn diễn tả tâm trạng nhân vật. Một trong những đoạn trích đặc sắc nhất về cuộc độc thoại nội tâm là "Trao duyên".
Duyên phận là của trời cho, không được cưỡng cầu và càng không nên ép buộc, nhờ vả. Thế nhưng Thúy Kiều trong đoạn trích "Trao duyên" đã cho mình cái đặc quyền đị "nhờ", "cậy" duyên như vậy. Tác giả đã phân tích tâm trạng chua xót, đầy đơn đau của Thúy Kiều khi phải trao mối duyên đầu của mình cho em gái là Thúy Vân để có thể trả nghĩa cho Kim Trọng. Một nghịch cảnh trớ trêu, bất hạnh.
Nguyễn Du đã chua xót khi khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều lúc này:
"Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa."
Chỉ với hai câu thơ nhưng biết bao chua xót và dằn vặt, biết bao nước mắt và đau đớn. Từ "cậy" được đặt lên đầu câu diễn tả hoàn cảnh ngặt nghèo, khó thưa, khó gửi của Thúy Kiều. Thúy Kiều nhờ cậy Thúy Vân giúp với tất cả niềm tin, hy vọng của mình. Cùng với từ "chịu", nó bao hàm luôn cả một sự miễn cưỡng, khiến cho Thúy Vân khó thể từ chối được. Vốn dĩ Thúy Kiều là chị nên thuở đời nào lại có chuyện chị đi "lạy" "thưa" em mình bao giờ? Nhưng trong hoàn cảnh này, nàng đã phải làm những việc tưởng chừng như nghịch lý như vậy.Mối duyên với chàng Kim là mối duyên trời cho, nhưng số phận của Thúy Kiều giờ nổi trôi, bấp bênh, nàng không muốn phụ chàng, nên đã muốn cậy nhờ em gái nối tiếp mối duyên dở dang ấy. Câu thơ như cứa vào lòng người đọc nỗi chua xót cùng cực. Từ "cậy" là điểm nhấn, là sự thành công về mặt ngôn ngữ của Nguyễn Du.
Trao duyên cho em đâu nào là để trút đi gánh nặng? Bao nhiêu kỉ niệm đẹp về mối tình đầu cứ liên tục ùa về. Nỗi đau khổ vì không giữ trọn lời đính ước với chàng Kim đã buộc Thúy Kiều phải nói thật, nói hết với em, phải giãi bày tất cả ể mong có thể nhận được một phần sự thông cảm từ Thúy Vân:
"Giữa đường dứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề."
Thành ngữ "đứt gánh tương tư" có ý chỉ tình yêu dang dở. Tình cảm của Kiều với Kim Trọng chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới, đành phải dở dang, Kiều đau khổ biết mấy, nhưng đành ngậm ngùi trao lại cho em. Nàng dùng điển tích về "keo loan" để thể hiện ý định muốn Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng. Không những thế, nàng cũng bày tỏ sự ray rứt đối với em, đem "mối tơ" sâu đậm của nàng giờ đây biến thành một mối "tơ thừa" giao phó cho Thúy Vân, "mặc" cho Thúy Vân muốn chấp nối thế nào cũng được.
Từ "khi" được lặp lại ba lần diễn tả những khoảng thời gian khác nhau: " khi gặp – khi ngày – khi đêm" nhấn mạnh mối duyên tình sâu đậm vì có cả những vật minh chứng cho tình yêu "chiếc quạt - chén rượu thề". Với nghệ thuật liệt kê "ngày quạt ước", "đêm chén thề" những kỉ niệm đẹp đẽ ấy trở nên sống động hơn trong lòng Kiều.gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến những kỉ niệm đẹp của hai người. Mối tình giữa Kim Trọng và Thúy Kiều là một mối tình trong sáng và đẹp đẽ nhất. "Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương", lời thề nguyện thiêng liêng ấylàm sao có thể dễ dàng chia lìa, xa cách như thế được. Vậy nên Thúy Kiều đã rất đau khổ, rất xót xa khi phải trao duyên cho Thúy Vân. Đây là nỗi đau đớn dằn vặt, đau đớn cho cuộc tình tan vỡ đồng thời cũng là nỗi xót xa, xót xa cho thân phận của chính mình.
"Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."
Đến đây thì người đọc đã thực sự hiểu hết ý nghĩa của từ "cậy", nó không còn là nhờ nữa mà mang tính chất ép buôc, bắt buộc phải làm. Bởi sự "sóng gió" đó đã làm "đứt gánh tương tư". Thúy Kiều hiểu được hoàn cảnh, hiểu được nỗi đau của bản thân mình. Nàng cũng đã từng đem cân chữ "hiếu" và chữ "tình", liệu rằng: "bên tình, bên hiếu, bên nào nặng hơn" và nàng đã chọn chữ hiếu để rồi phải phụ chàng Kim, chứ không thể phụ cha mẹ. Một người con gái yếu đuối, mỏng mang nhưng rất mực hiếu thảo. Thế là nàng đã gánh chữ hiếu thay cho chữ tình vậy thì ai sẽ thay nàng gánh chữ "tình" sâu nặng ấy? Nàng chẳng biết phải nhờ ai ngoài đứa em gái của mình, chhỉ có Vân mới là người có thể hiểu được hoàn cảnh của mình lúc này. Sợ chưa thuyết phục được em, Kiều đã dùng hết lý lẽ, sự tỉnh táo nhất của lí trí để trải lòng cùng em:
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."
Thúy Kiều và Thúy vân đều đang "đến tuổi cập kề' nhưng nàng lại nhắn nhủ với Thúy Vân "ngày xuân em còn dài", có thể gánh tiếp mối duyên với chàng Kim, với người mà Kiều yêu thương. Để thêm thuyết phục, Kiều đã đem "tình máu mủ" ra để van xin em "thay lời nước non" cùng chàng, bởi "máu chảy ruột mềm" còn gì thiêng liêng hơn tình chị em gắng bó, ruột thịt. Khoảng thời gian tươi đẹp giữa nàng và Kim Trọng giờ chỉ còn là những kỉ niệm. Một sự chua xót đến đau lòng khi Kiều nhắc đến cái chết, một dự liệu chẳng lành hay là một cuộc đời sẽ chẳng bình an mà nàng sắp phải mang. Thúy Vân có thể giúp đỡ thì dù mai này có chết Kiều vẫn có thể "ngậm cười chín suối", yên lòng mà ra đi. Qua đây chúng ta thấy được tấm lòng, sự lương thiện, sống và yêu hết lòng mình của nàng Kiều.
Với thể thơ lục bát được sử dụng một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ dân gian và kết hợp tài tình ngôn ngữ bác học với ngôn ngư bình dân, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tâm trạng dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều, khiến hình tượng của nàng trở nên đẹp đẽ hơn trong lòng người đọc. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho nhân vật của mình. Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em, "Trao duyên" mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền làm băng hoại đạo đức, bị chính đồng tiền dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát.

"Đau đớn thay phận đàn bà,
Hỡi ôi thân ấy biết là mấy thân."
Kết thúc đoạn thơ, bi kịch càng được đẩy lên cao, Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng để trở về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi, tương lai mờ mịt. Tiếng khóc than nghe sao não ruột, bao nhiêu ngậm ngùi trào dâng trong tâm trí Kiều. Giờ đây nàng mới thấm thía nỗi đau, mất mát, Kiều đã nhận ra được khoảng trống đáng sợ nhất là hạnh phúc mà nàng chỉ mới vừa có được.
"Bây giờ trâm gãy xương tan
Kể làm sao hết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!"
Lời đối thoại đã có sự chuyển hướng, Nàng quay sang nói với Kim Trọng, hay chỉ là bóng của Kim Trọng. Nguyễn Du đã dùng hình ảnh ước lệ thể hiện nỗi đau đột ngột, cái hạnh phúc của con người bỗng chốc đã bị tan vỡ, càng nhấn mạnh được cuộc đời bi kịch của nàng. Câu thơ giống như tiếng than xé lòng, một tiếng than não ruột về thân phận chính mình. Đối với người phụ nữ, đặc biệt là với Kiều, hạnh phúc quá mong manh, Kiều chưa kịp hưởng trọn hạnh phúc thì nó đã vụt mất. Nàng chưa kịp có một gia đình bên người mình yêu thì tai họa đã đến. "Trâm" và "gương" là biểu tượng của tình duyên ngày xưa, thế mà giờ "trâm" đã "gẫy" còn "gương" cũng đã vỡ "tan". Bao nhiêu kỉ niệm đẹp "muôn vàn ái ân" của Kim trọng dành cho nàng kể bao nhiêu cũng không hết mà giờ đây nàng đành phải phản bội khiến cho "sợi tơ duyên" ấy trở nên ngắn ngủi. Tuy trao duyên cho Thúy Vân nhưng Kiều vẫn cảm thấy có lỗi nên nàng lại gửi "trăm nghìn cái lạy" cho "tình quân" – người đã cùng nàng trải qua biết bao nhiêu kỉ niệm nồng say. "Ngần ấy thôi!" đã cho ta cảm nhận được nỗi tái tê, sự bế tắc, chua chát trong lòng Kiều. Bất giác nàng cất lên một câu hỏi như một lời oán trách:
"Phận sao phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng."
Trước nỗi đau đớn xót xa này, nàng chỉ trách thân phận "bạc như vôi". Lời than oán của Kiều không ai có thể trả lời được, có hỏi "trời trời không tỏ", có hỏi "đất đất không hay". Số phận của Kiều sẽ trôi dạt như những bông hoa đẹp thế mà những đành phải chịu "trôi" bị dập dùi trong dòng nước dơ bẩn, nhơ nhớp chảy xiết. "Nước chảy hoa trôi" hình ảnh ẩn dụ cho một mùa xuân đã qua, hoa rụng, tuyết tan, nghĩa là tuổi xuân đã chấm dứt. Những hình ảnh đó làm động lòng thương đến hết thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã "phụ chàng". Chính tâm lí mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết chất trong tiếng kêu thương thấu trời:
"Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"
Chỉ một câu thơ mà tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Nhưng với thán từ "ôi, hỡi" đã khiến cho câu thơ như tự vang lên tiếng khóc than, nghẹn ngào, mang theo lời "trăn trối" cuối cùng gửi đến Kim Trọng thay cho nàng Kiều. "Thôi thôi" là tiếng than tiếc rẻ, dằn vặt và cũng là tiếng nói xác nhận sự phụ bạc của mình. Câu thơ là một tiếng khóc nấc, một tiếng kêu xé lòng của Kiều trước nỗi mất mát quá lớn. Tuổi xuân vừa chóm, tình yêu vừa đượm men nồng thế mà giờ đây Kiều phải đối diện với một thực tế đau lòng. Tâm tư Kiều như bị dằn xé thành nghìn mảnh cùng với lời kêu cứu tuyệt vọng không lời đáp. Đoạn trích này là một bi kịch đầu tiên trong cuộc đời Kiều "từ đây "một lần nữa đánh dấu mốc thời gian cay đắng của cuộc đời Kiều. Ta như xót xa thay tấm lòng của nàng. Câu thơ như vỡ òa trong nước mắt cay đắng của cuộc đời Kiều. Tuy đoạn thơ đã kết thúc trong tiếng gọi của Kiều với Kim Trọng vẫn còn nồng nàn, tha thiết.
Lời thơ đã dứt mà lời thơ vẫn còn âm vang đâu đây. Những giọt lệ của Kiều hòa chung với những giọt lệ của Nguyễn Du. Với tài miêu tả tâm lí bậc thầy và bằng ngòi bút điêu luyện của đại thi hào Nguyễn Du, ông đã phán ánh rõ nên một xã hội phong kiến thối nát đã đẩy đưa số phận con người lâm phải vào bức đường cùng. Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim người đọc từ hàng thế hệ nay. Đoạn trích: "Trao duyên" đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Kiều nhưng cũng ánh lên rực rỡ một nàng Kiều với một nhân cách cao đẹp.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 9

Kết thúc đoạn thơ, bi kịch càng được đẩy lên cao. Mâu thuẩn này nối tiếp mâu thuẫn khác, Kiều đã hoàn toàn bất lực trước mong muốn níu kéo, cố gắng trở về với tình yêu. Nhưng tất cả chỉ là quá khứ xa xôi và tương lai mờ mịt.
Dù có quay về quá khứ hay hướng tới tương lai, cuối cùng Kiều vẫn là con người sống với thực tại của mình :

« Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vài ái ân !
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !
Phận sao phận bạc như vôi !
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng »Hàng lọat những thành ngữ được liệt kê hàm chứa bao bi kịch người con gái. Đó là sự vỡ tan, dở dang của tình yêu và bọt bèo, trôi nổi của đời Kiều. Bi kịch càng sâu sắc khi trước hiện tại nàng vẫn không thôi khao khát tình yêu hạnh phúc. Những từ ngữ có tính chất vô hạn định như « muôn vàn, trăm nghìn » thể hiện sâu sắc káht vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh.

Nàng gọi Kim Trọng là tình quân, nàng xót xa cho duyên phận của mình tơ duyên ngắn ngủi, nàng tự coi mình là người phụ bạc. Thật đau khổ biết bao: trao duyên rồi, đã nhờ em trả nghĩa cho chàng Kim rồi mà nỗi buồn thương vẫn chất chứa trong lòng nàng Kiều. Phải chăng, một lần nữa Nguyễn Du đã thể hiện đúng quy luật tâm lí của con người: cái gì đong mà lắc thì vơi, nhưng: sầu đong càng lắc càng đầy là như thế! Tình duyên dẫu có cố tình dứt bỏ vẫn còn vương tơ lòng là như vậy. Cuối đoạn thơ, mặc dù Kiều đã giãi bày hết nỗi khổ tâm riêng của mình với em, đã nhờ em trả nghĩa cho Kim Trọng nhưng những đau khổ vì tình duyên tan vỡ trong tâm trí nàng vẫn không nguôi. Vẫn còn mang nặng nợ tình với Kim Trọng, vẫn biết mình phận bạc, Thúy Kiều vẫn phải thốt lên đau đớn:

« Ôi Kim lang hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây »

Phải chăng đây là tiếng thơ kêu xé lòng mà sau này nhà thơ Nguyễn Du đã nói thay bao người, bao thế hệ! Chỉ một câu thơ và tên Kim Trọng được gọi đến hai lần. Những thán từ « ôi, hỡi » khiến câu thơ vang lên như một lời than, tiếng gọi thảng thốt, nghẹn ngào, mang theo lời trăn trối cuối cùng gửi đến chàng Kim trước lúc đi xa. Kiều đã rất ân cần với chàng Kim thế mà giờ đây nàng tự nhận mình là người phụ bạc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh mà tự nhận hết trách nhiệm về mình. Nàng đâu còn nghĩ đến nỗi đau của riêng mình. Tất cả tấm lòng, sự lo lắng lại dành cho hạnh phúc của người mình yêu. Kiều thương chàng Kim hơn chính bản thân mình. Ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc những diến biến phức tạp của nhân vật. Với hệ thống ngôn từ được sử dụng một cách điêu luyện và độc đáo, Nguyễn Du chính là một bậc thầy về ngôn ngữ.

Tác phẩm đã làm rung động biết bao trái tim người đọc từ hàng thế hệ nay. Đoạn trích « Trao duyên » đã phác họa thành công bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, nhưng ánh lên rực rỡ một nàng Kiều đẹp đẽ, sống động với nhân cách cao cả. Càng hiểu nàng bao nhiêu, ta càng thương nàng bấy nhiêu, cảm phục nàng bấy nhiêu. Bởi vì người ta có thể hi sinh mọi thứ vì tình yêu, còn nàng thì lại hi sinh tình yêu vì chữ hiếu. Điều đó chẳng đáng cảm phục lắm sao?

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 10

Mối tình Kim - Kiều buổi ban đầu ngỡ sẽ nên duyên đẹp, nhưng số phận đưa đẩy, để cứu cha và em mình, Kiều buộc phải bán thân. Lời hẹn thề cùng vật đính ước, Kiều đánh ngậm ngùi gửi trao cho em gái Thúy Vân. Tình cảm và lý trí mâu thuẫn, Kiểu vừa đau, vừa xót, vừa thương. Đoạn trích Trao duyên đã thể hiện rất rõ tâm trạng ấy của nàng Kiều, đặc biệt, đọc 8 câu cuối đoạn trích ta khóc khỏi xót xa trước những lời thấu tâm can của Kiều:

"Bây giờ trâm gãy gương tan
Kế làm sao xiết muôn vàn ái ân.
...
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây."

Lời thề nguyền đêm xưa con đó, vậy mà bây giờ đây tình đôi ta vụn vỡ, chia lìa "trâm gãy, gương tan". Tình yêu đẹp biết bao vậy mà phải chia đôi ai khiến lòng người đau đớn, xót xa. Hơn thế nữa, Kiều là phận gái, lại là người nặng tình nghĩa, thủy chung, nàng càng đau gấp bội. Buộc phải trao duyên cho em là lựa chọn cuối cùng của Kiều dù lòng chẳng đặng, thực tại phũ phàng quá, trái tim nàng, cõi lòng nàng tan nát. Mỗi lời thốt ra như một lời ai oán khóc thương cho phận mình, cho cuộc tình mình:

"Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng"

Những thành ngữ "phận bạc như vôi" "nước chảy hoa trôi" được tác giả vận dụng vào thơ để đặc tả thân phận bạc bẽo, chìm nổi, lênh đênh của nàng Kiều. Xã hội bất công, lòng người gian dối đã đọa đày nàng vào chỗ tối tăm, đây tình yêu nàng vào cuộc tơ duyên "ngắn ngủi". Trước sự phũ phàng của số phận, nàng dù rất muốn nhưng chẳng thể nào đấu tranh, đành ngậm ngùi chấp nhận "Đã đánh nước chảy hoa trôi lỡ làng".

Thương biết bao số phận lênh đênh của người phụ nữ phong kiến, cuộc đời may rủi không do mình chọn lựa:

"Thân em như trái bần trôi
Gió dập, sóng dồi biết tấp vào đâu".

Thúy Kiều ví mình như hoa giữa dòng, vô định, nhỏ bé, mong lung giữa mênh mông sóng nước. Hoa "lỡ làng" mối duyên đẹp rồi sẽ đi về đâu, có đến được bến bờ hay mãi lênh đênh giữa dòng nước lớn.

Càng nghĩ càng đau đớn, tâm can nàng Kiều nặng trĩu, nàng thương mình một mà thương Kim Trong mười. Nàng thấy bản thân đã phụ lòng kẻ tri âm, Kiều thốt lên lời xin lỗi đẫm nước mắt:

"Ơi !Kim Lang! Hỡi Kim Lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây"

Các thán từ ơi, hỡi, kết hợp với hai tiếng Kim Lang nặng lòng tha thiết, dường như bao nhiêu tình cảm dành cho Kim, Kiều đã dồn hết vào trong hai tiếng gọi ấy. Kiều tự nhận lỗi về mình, tự nhận mình là kẻ phụ bạc tấm lòng chàng Kim để rồi đau đớn, cay đắng trào dâng, cồn cào trong trái tim nàng:

"Thôi thôi thiệp đã phủ chàng từ đây"

Lời xin lỗi cuối cùng đau xót đến nghẹn ngào của Kiều khiến ai cũng phải xót thương. Trước chàng Kim, Kiều không đổ lỗi cho số phận hay hoàn cảnh mà nàng tự nhận lỗi về mình. Điều đó cho thấy được tâm tư và tấm lòng của nàng. Nàng không còn nghĩ đến nỗi đau của mình nữa mà mọi lắng lo đều hướng đến chàng Kim - người nàng vốn vẫn hết mực thương yêu.

8 câu thơ cuối bài là một nốt nhạc trầm sâu lắng của đoạn trích. Kiều thương Kim Trọng bao nhiêu thì người đọc càng thương Kiều bấy nhiêu. Và trên hết, con là sự cảm phục một người con gái có cốt cách cao cả, trọng nghĩa, trọng tình.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 11

Truyện Kiều đỉnh cao trong đời thơ Nguyễn Du cũng là đỉnh cao của văn học Việt Nam, tác phẩm để lại những giá trị sâu sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Cuộc đời nàng Kiều trải qua biết bao truân chuyên, biến cố, phải trải qua biết bao khoảnh khắc đau lòng mà có lẽ đau lòng nhất chính là khoảnh khắc trao duyên cho em. Toàn bộ suy nghĩ tâm trạng của nàng được tái hiện chân thực, đầy đủ qua đoạn trích: Trao duyên.

     Trao duyên được trích trong phần gia biến và lưu lạc, sau khi gia đình gặp cơn tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá vàng ngoài bốn trăm để lo cho cha và em thoát nạn. Đêm cuối cùng trước khi phải đi cùng Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã trò chuyện với em là Thúy Vân vào trao duyên mình cho em với Kim Trọng.

     Để thuyết phục em đồng ý thay mình trả nghĩa cho chàng Kim, Thúy Kiều nhờ cậy hết sức chân thành: Cậy em em có chịu lời/ Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Thúy Kiều đã sử dụng ngôn từ hết sức tinh tế, hết sức cẩn trọng để đạt được hiệu quả cao nhất. Ngoài ra, nàng cũng rất hiểu cho tình thế của Thúy Vân, đây là câu chuyện rất đột ngột với Thúy Vân, đó là chuyện không phải dễ dàng có thể chấp nhận. Là cậy chứ không phải bất từ ngữ nào khác, cậy gửi gắm sự tin tưởng, sự trông mong tha thiết của Kiều với em. Chịu lời – nhận làm một việc với thái độ miễn cưỡng, nàng hiểu cho tình cảm của Thúy Vân khi phải nghe những điều mình chuẩn bị giãi bày. Cặp từ lạy, thưa thoạt nhìn có vẻ phi lí trong lễ giáo phong kiến vì chị làm sao có thể lạy, thưa với em. Nhưng nó lại là hợp lý trong tư thế người cậy nhờ và kẻ được nhờ cậy. Cách dùng từ của Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình thế khó có thể từ chối trước những điều éo le, nghịch cảnh sắp nói.

     Để thuyết phục em, Kiều đã đưa ra lí lẽ về tình thế éo le của bản thân: “Kể từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề/ Sự đâu sóng gió bất kì/ Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Nhắc lại chuyện tình cảm của mình và Kim Trọng hẳn lòng Kiều cũng nhói đau, hàng loạt hình ảnh thể hiện hình ảnh tình yêu đôi lứa được nói đến: quạt ước – tặng quạt để ngỏ ý hẹn ước trăm năm, chén thề – uống rượu thề nguyền trung thủy. Những lời hẹn thề sắt son, những tưởng cả hai sẽ được hưởng hạnh phúc mãi mãi nào ngờ gia đình gặp biến cố khiến tình duyên lỡ dở. Hai câu thơ sau đã chỉ rõ nguyên nhân khiến Thúy Kiều phải bội ước. Gia đình gặp biến cố lớn, là chị cả trong gia đình, Thúy Kiều lúc này bị đặt giữa mâu thuẫn: chuyện gia đình và chuyện tình cảm, chọn chữ hiếu thì nàng bội nghĩa tình, lời hẹn thề với Kim Trọng, nhưng nếu trọn chữ tình thì lại trở thành kẻ đại bất hiếu. Và cuối cùng nàng đã quyết định: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”.

     Trong đau đớn, dằn vặt nàng vẫn hết sức bản lĩnh, bình tĩnh để đưa ra cách giải quyết phù hợp nhất: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Keo loan được làm từ máu của con chim loan, dùng keo loan để chắp vá cho mối duyên của em và Kim Trọng. Hai chữ “tơ thừa” như nhấn mạnh vào nỗi đau đớn của Thúy Kiều nhưng đồng thời cho thấy sự tội nghiệp của nàng Vân. Biết bao đau đớn, biết bao tủi hơn trong chuyện tình duyên này. Kiều luôn tỏ ra là người rất am hiểu tâm lí và tình thế của Thúy Vân, nếu ở trên là mặc em, gần như giao phó, thì câu thơ dưới lại như một lời mong mỏi, tha thiết: “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ thay lời nước non”. Thúy Kiều mong Vân vì tình chị em ruột thịt mà em có thể trả nghĩa cho Kim Trọng thay mình, nếu vậy: “Chị dù thịt nát xương mòm/ Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”. Trong nàng bao giờ cũng vậy, luôn có dự cảm không lành cho tương lai của chính mình. Đồng thời với lập luận như vậy kiến Vân không nỡ từ chối lời đề nghị của mình. Bằng lối lập luận chặt chẽ, sắc sảo vừa cho thấy sự thông minh của Thúy Kiều, vừa thực hiện được mục đích khiến Vân trả nghĩa cho Kim Trong cho nàng.

     Sau lời nhờ cậy em, Thúy Kiều bắt đầu trao kỉ vật cho Thúy Vân và dặn dò chuyện tương lai. Từng kỉ vật khi xưa của nàng và Kim Trọng đều được nâng niu, giữ gìn, mỗi kỉ vật gắn liền với một niềm hạnh phúc mà cả cuộc đời này nàng sẽ không bao giờ quên. Là chiếc vành mà Kim Trọng đã trao cho Thúy Kiều, là bức tờ mây – thư từ với những lời yêu thương họ dành cho nhau. Nhưng đó đâu phải đã hết họ còn có chung những kỉ niệm “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” và giờ đây Thúy Kiều trao lại hết cho em, nàng trao kỉ vật cũng đồng nghĩa với việc trao duyên. Nhưng khi nàng trao kỉ vật vẫn có sự mâu thuẫn, giằng xé giữa lí trí và tình cảm: lí trí thì nàng muốn trao hết cho em, nhưng tình cảm dường như không muốn: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”, nàng vừa muốn trao, vừa muốn giữ, giữ lại một chút gì đó cho bản thân. Tâm lí này cũng thật dễ hiểu, bởi trong tình yêu nhu cầu sở hữu rất cao, mấy ai có đủ dũng khí để trao duyên, vậy mà, Kiều đã phải làm, nên hành động muốn giữ lại một chút của chung cho mình là hoàn toàn dễ hiểu và hợp quy luật tâm lí. Đồng thời nàng cũng mong họ có cuộc sống êm đềm, hạnh phúc nhưng lại cũng muôn họ không bao giờ quên mình: “Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên”. Thúy Kiều rõ ràng có sự ích kỉ, mềm yếu nhưng chính trong đó lại thấy tình cảm nàng dành cho Kim Trọng rất sâu nặng và trong giây phút trao duyên này nàng rất đau đớn, mất mát, hụt hẫng.

     Trao kỉ vật đau đớn, xót xa bao nhiêu thì những lời dặn dò chuyện mai sau càng quặn thắt bấy nhiêu: “Mai sau dù có bao giờ/ Đốt lò hương ấy so tơ phím này”. Sau này, mỗi khi đốt hương, đánh đàn, linh hồn của nàng sẽ trở về, khi đó nàng chỉ mong Thúy Vân hãy rưới giọt nước để giải oan cho chị “rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Ta thấy rằng ở bất cứ đâu trong Kiều cũng luôn mang khao khát hạnh phúc, sum họp: Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân bồ liễu, đền ghì trúc mai. Dù nàng có bị vùi dập thịt nát xương mòn nhưng lòng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng. Bởi vậy khi Kim Trọng và Thúy Vân được hưởng hạnh phúc thì Thúy Kiều cũng sẽ trở về để chung hưởng hạnh phúc ấy. Mâu thuẫn này đã cho thấy sự tiếc nuối và đau khổ của nàng Kiều đồng thời cho thấy tình cảm sâu nặng nàng dành cho Kim Trọng.

     Tám câu thơ cuối, nàng Kiều trở về với thực tại đau đớn, xót xa: tình yêu dang dở, tan vỡ, mãi mãi không thể hàn gắn. “Bây giờ trâm gãy gương tan/ Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”, thành ngữ “trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ trong tình yêu cũng là sự tan nát trong cõi lòng Thúy Kiều. Nàng thức tỉnh nỗi đau thân phận: “Phận sao phận bạc như vôi/ Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng/ Ôi Kim lang, hỡi Kim lang/ Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”. Hai từ ôi, hỡi trong câu thơ sáu chữ đã cho thấy lời gọi tha thiết, khắc khoải và nỗi đau đến tột cùng của Kiều. Câu kết là lời nhận tội, tự trách của Thúy Kiều “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

     Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, sự phối hợp linh hoạt các hình thức ngôn ngữ đã diễn đạt tâm trạng, cảm xúc của Thúy Kiều khi trao duyên cho em. Đoạn trích cho thấy bi kịch tình yêu và bi kịch thân phận của người phụ nữ hồng nhan, bạch mệnh trong xã hội phong kiến. Đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của Thúy Kiều.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 12

 Đoạn Trao duyên có một vị trí đặc biệt trong kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Về phương diên cốt truyện, đoạn thơ đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc đời nhân vật chính – Thúy Kiều mở đầu cuộc đời lưu lạc, đau khổ. Về phương diện chủ đề, đoạn thở thể hiện sâu sắc chủ đề bị kich tình yêu tan vỡ. Về phương diện nghệ thuật, đoạn thơ chứng minh tài nghệ tuyệt cời của Nguyễn Du trong miêu tả nội tâm nhân vật.

   Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn Trao duyên diễn biến qua ba chặng như ba nấc thang tâm lí.

   Mở đầu là những lời yêu câu khẩn thiết của Kiều đối với Vân:

    Cậy em em có chịu lời

    Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

   Hai câu thơ cho thấy Kièu vừa khẩn khoản, vừa thiết tha vừa như đặt cả niềm tin và hi vọng vào Vân. Trong bao từ biểu đạt sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,… Nguyễn Du chọn từ cậy. Phải chăng vì chỉ từ cậy mới hàm chứa nội dung thông báo nhờ và tin? Lại nữa tại sao là chịu lời mà không phải là nhận lời, tại sao “chịu lời” trước rồi mới “thưa” sau? Nếu Kiều trình bày sự việc trước thì chắc gì Vân đã chịu lời. Nói “nhận lời” là đã có ý kiến của người nhận, là có sự tự nguyện của Vân. Nhưng Vân nào đã biết chuỵện gì mà tự nguyện hay không. Do vậy phải “chịu lời” vì đây là việc Kiều chủ động nài ép Vân, đưa Vân vào hòan cảnh không nhận không được. Ở đây, Kiều hiểu hoàn cảnh khó xử của mình và càng hiểu hoàn cảnh khó xử của em gái. Cũng qua đây cho thấy Nguyễn Du là thi sĩ thật”sâu sắc nước đời”

   Thúy Kiều đã không quá dài lời về hoàn cảnh của mình. Những việc vừa xảy ra ai chẳng rõ. Những bất hạnh của Kiều thì chỉ Vân mới là người thấu hiểu. Bởi chính Vân là người chứng kiến cả hai biến cố của đời Kiều “Khi gặp chàng Kim” và khi “sóng gió bất kì”. Các mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều lúc này không phải là giữa hiếu và tình. Giải quyết mâu thuẫn giữa hiếu và tình. Kiều đã làm xong, tuy khó khăn nhưng dứt khoát và có phần thanh thản: “làm con trước phải đền ơn sinh thành” Vả lại, nếu là chuyện chữ hiếu thì Kiều đâu phải”cậy, “lạy”, phải “thưa” với cô em gái của mình; việc gả duyên với Vân là trách nhiệm và nghĩa vụ.

   Mâu thuẫn chính được thể hiện qua đoạn trích là mâu thuẫn giữa tình yêu lứa đôi và hạnh phúc bị tan vỡ. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” ta đã từng gặp trong ca dao. Thì ra, những đau khổ của Thúy Kiều nào có xa lạ với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều vẫn là đau đớn hơn bất cứ thiên tình sử nào trong văn học trước đó.

   Sau tám câu mở đầu Kiều nói với Vân về nỗi bất hạnh của mình, về sự thấu hiểu hoàn cảnh khó xử của em, Kiều vẫn thuyết phục Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều nói với Vân bằng những lời tâm sự biểu hiện qua các câu thơ mang phong cách thành ngữ:”tình máu mủ”. “lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chính suối” Những lời tâm sự có tác dụng thuyết phục. Kiều ràng buộc Vân bằng tình máu mủ lại khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn chút thơm lây vì đức hi sinh cao đẹp của em:

    Chị dù thịt nát xương mòn,

    Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

   Vừa thuyết phục vừa ràng buộc , nhưng vẫn khẩn cầu. Kiều đã được mục đích nhờ Vân thay mình trả nghĩa Kim Trọng.

Nhưng chính lúc này mục đích đạt được là lúc bi kịch tình yêu của Kiều lên tới đỉnh cao, Kiều biết Thúy Vân lấy Kim Trọng là để trả nghĩa, là do “xót tình máu mủ” chứ không phải là vì”lời nước non” cho nên Kièu chỉ có thể trao duyên cho Vân, còn tình yêu nàng đâu có dễ trao. Nàng tìm cách trở về với tình yêu bằng hai con đường: để lại kỉ vật linh hồn bất tử.

   Kiều đã trao lại cho Vân những kỉ vật. Nàng những mong bằng kỉ vật này nàng sẽ hiện diện trong tình yêu. Những kỉ vật thiêng liêng và đẹp đẽ.”Chiếc thoa với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền”. Kỉ vật đẹp đẽ bởi nó gắn liền với những ngày đẹp nhất của đời Kiều. Kỉ vật thiêng liêng bởi nó là riêng – chỉ riêng cho Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao cho người thứ ba, dù đó là em mình. Bao xót xa trong một từ “của chung”. “Duyên này thì giữ, vật này của chung” Bao đớn đau trong một từ”ngày xưa” :”Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” Hiện thực đẹp đẽ, rực rỡ vừa mới đây thôi nay đã trở thành quá vãng. Thời gian khách thế bị phá vỡ, nhường chỗ cho thời gian của tâm trạng. Kỉ vật còn đó mà đối với tình yêu, Kiều không hiện diện.

   Kiều tìm đến con đường thứ hai, con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Kiều những mong bằng sư trở về ấy nàng có thể trả nghĩa Kim Trọng, nàng sẽ nhận được sự trở về ấy nàng có thể trả nghĩa Kim Trọng, nàng sẽ nhận được sự đồng cảm của người thương “Rảy xin chén nước cho người thác oan”. Thế nhưng như có người đã nói, nếu trong thiên tình sử xưa, giọt lê Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn Trương Chi được giải tỏa thì trong Đoạn trường tam thanh, giọt lê của chàng Kim không thể làm tan mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ.

   Kết thúc đoạn thơ, yếu tố bi kịch không những không giảm mà còn được đẩy lên mức cao hơn. Ấy là lúc sự trở về bằng linh hồn, sự trở về siêu hình bất lực trước những cảm nhận thực tế của người con gái họ Vương Kiều ý thức rất rõ về cái hiện sinh cái “bây giờ” :”trâm gãy bình tan” , “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”

   Kiều ý thức về cái hiện hữu, cái bây giờ và Kiều càng thương mình. Ai nỡ trách nàng sau khi thương người, vì người, nàng đã tự thương mình. Nàng có một chút vì mình cũng không phải là vị kỉ mà vẫn là rất mực vì tha: “Vì người thì hoàn toàn không chút bóng dáng của đau thương cá nhâ. Chỉ khi mọi sự “đối với người” đều xong xuôi, bây giờ mới nhìn lại tấm lòng mình, tình cảnh mình. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao

   Tâm trạng bi kịch của Kiều càng sâu sắc khi trước sự chà đạp của số phận của nàng vẫn không thôi khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, “trăn nghìn gửi lạy tình quân”. Sự hiện hữu của tình yêu làm Kiều quên đi sự hiện hữu của người em gái. Đang từ đối thoại với Vân, Kiều trở về với độc thoại nội tâm và rồi nằng như hướng tất cả về Kim Trọng.

    Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

    Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

   Trong một câu thơ tên Kim Trọng được gọi đến hai lần, kềm theo là những thán từ chỉ sự đớn đau, tuyệt vọng “ôi”, “hỡi” Câu thơ trên gắt nhịp 3/3 đọc lên như tiếng nấc, để rồi đến câu thơ dưới nhịp thơ dài ra như một lời than.

   Lời trao duyên kết thúc bằng một lời than, bằng tiếng kêu đơn đau, tuyệt vọng. Tuy nhiên, tình yêu tan vỡ nhưng khát vọng tình yêu được khẳng định. Đó là nét đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn bền vững của Truyện Kiều. Đoạn thơ có bi kịch, đau thương nhưng không thê lương, đen tối, trái lại vẫn ngời lên ấnh sáng niềm tin vào tình yêu, vào con người

   Đoạn thơ cho ta thấy “sức cảm thông lạ lùng” của đại thi hào dân tộc đối với những khổ đau và khát vọng tình yêu của con người. Qua Trao duyên ta còn thấy bút pháp miêu tả nội tâm đặc sắc của tác giả Truyện Kiều

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 13

Sau thời điểm đã nói hết nỗi lòng của mình với em gái, Kiều đã nhìn lại cuộc đời mình rồi đau đớn nhận ra sự thật phũ phàng là so với quá khứ thì hiện tại có một sự đối lập đến xót xa:

“Hiện nay trâm gãy gương tan

Kể làm thế nào xiết muôn vàn ân ái!”

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy trong câu thơ trên, việc Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan” đã mang lại sự biểu đạt rất hiệu quả. Thông qua hình ảnh ấy, tác giả đã cho thấy sự nhận thức thâm thúy của nàng Kiều về thảm kịch hiện tại. Kiều sững sờ chua xót khi so với thời quá khứ – trong khoảng time tháng Kiều đã thật niềm sung sướng với mối tình đầu đời như hoa như mộng, hiện giờ còn sót lại chỉ là những đau đớn tủi phận lúc biết bao nhiêu hẹn ước tươi đẹp trở thành hư vô.

“Trâm” và “gương” vốn tượng trưng cho những hình ảnh đẹp đẽ của người con gái đến tuổi để ý đến dung nhan của mình khi tình yêu gõ cửa trái tim. Nhưng những gì Kiều trân trọng, nâng niu để mong đến một ngày có thể cùng Trọng mãi mãi kề bên (để sở hữu thể hiện thực hóa những gì mà nàng và người yêu đã từng thề nguyền hẹn ước từ thời khắc “Kể từ lúc gặp chàng Kim” – “Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề”) bỗng chốc chỉ trong phút giây, tai ương ùa đến, tất cả những mong ước vỡ tan thành mây thành khói.

“Muôn vàn ân ái” không thể cân đo đong đếm ở miền kí ức thơ mộng có sự hiện hữu của Thúy Kiều và Kim Trọng mà nàng nhắc đến ở câu thơ tiếp theo như càng làm tăng thêm sự đối lập so với những đau khổ mà nàng vừa nhắc đến ở câu thơ trước đó. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy nhìn vào tình cảnh của Kiều để thấy những gì mà nàng phải chịu đựng ở độ tuổi xuân sắc lẽ ra vốn vẫn còn được sống trong vòng tay yêu thương, bảo bọc của mẹ cha mới thấy thương, thấy xót hơn cho nàng.

Không chỉ bản thân Kiều mà ngay từ đầu đến chân đọc cũng không khỏi lo lắng, hoang mang cho những tháng ngày sắp tới mà Kiều phải vượt qua. So sánh giữa thực tại và một thời đã xa, đau khổ có dâng trào thành từng làn nước mắt thì Kiều cũng không thể làm nó trở về trạng thái bình yên xưa cũ, thế nên nàng chỉ với có thể ngậm ngùi để tìm cách yên ủi, động viên chính mình và người yêu:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”

Nói ra những lời ấy, Kiều thật mong Trọng cũng đồng ý cho duyên tình giữa chàng và Kiều chỉ là những kí ức ngắn ngủi dù tươi đẹp biết bao. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng khi cậy nhờ em “xót tình máu mủ thay lời nước non” mà giúp nàng giữ duyên, Kiều đã và đang rất thành khẩn khi bảo em “ngồi lên” để mình “lạy”, giờ đây, lại thêm một lần thành khẩn, nhưng Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến một người rất quan trọng với nàng là chàng Kim. Từng lời nói, từng hành động của Kiều được thể hiện trong thơ đã hỗ trợ hiện hữu ở trang viết của Nguyễn Du hình ảnh người con gái mang nặng nghĩa tình với mối tình dang dở nhưng không có cách nào cứu vãn nó.

trong hai câu thơ tiếp theo, dường như Nguyễn Du đã tạo cơ hội đã Kiều có thể trút hết nỗi lòng mà khóc nức nở cho thân phận của mình:

“Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Có lẽ từ trên đầu buổi “trao duyên” đến thời điểm thổn thức trong tiếng khóc này, Kiều đã rất nỗ lực cố gắng để kìm giữ hết sức có thể để bình tĩnh nói cho trọn vẹn điều nàng mong muốn. Đến khi nhận mong muốn em gái thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng có lẽ đã được chấp thuận, rồi nàng cẩn thận dặn dò Thúy Vân, Thúy Kiều mới được chấp nhận bản thân mình có thể thương xót cho nàng một cách thành thật nhất, tự nhiên nhất.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy Kiều tự ý thức được một điều là số phận của nàng không khác gì màu vôi bạc. Trước đó, khi Kiều được sống êm đềm trong mái ấm gia đình, Kiều có thể chưa bao giờ tưởng tượng ra được viễn cảnh ê chề giống như ngày hôm nay Kiều tận mắt chứng kiến. Nhưng thật lòng mà nói, chắc trong cả tưởng tượng, Kiều cũng không hẳn tưởng ra những đau khổ phũ phàng lại ùa đến cuộc đời mình nhanh vội như vậy, nhanh đến mức Kiều còn còn chưa kịp trải đời để sở hữu thể ứng phó.

Thế nên Kiều phải đối mặt với nó trong sững sờ và sự hoang mang tột độ. Rồi nỗi đau cứ thế mà tăng lên thêm mãi khi Kiều còn nhận thấy một tương lai mù mịt, tăm tối không biết sẽ ra sao. Cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta cũng thấy rằng Kiều cảm nhận được đó là một tương lai “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Tháng ngày sắp tới mờ mịt và có lẽ với Kiều, những gì còn sót lại sau những đau thương đầu đời có lẽ chỉ là những hình ảnh thân thương, quý giá về gia đình, người yêu mà Kiều lưu lại trong trí.

Cuối cùng, nỗi đau khổ, tuyệt vọng cứ tuôn trào mạnh mẽ thành tiếng gọi người yêu đầy tha thiết nhưng lại đau đến xé lòng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Mỗi một thanh âm về tiếng gọi người yêu mà Kiều thốt lên chắc hẳn cũng là ngần ấy lần nàng quặn thắt tâm can mà đau đớn xót xa. Những từ diễn tả sự xót xa tủi phận cứ liên tiếp xuất hiện và được xâu lại thành chuỗi: “ngắn ngủi”, “lỡ làng”, “thôi thôi”, “Kim lang”, “phận sao phận” đã tạo thành những cơn sóng của đau thương ồ ạt bủa vây lấy người con gái đáng thương mà nàng đã gắng hết sức không để cho nó quật ngã.

Thế nhưng, có lẽ sức người dân có hạn, gắng gượng bao nhiêu nàng cũng không thể che giấu đi những tổn thương mà nàng đang gánh chịu. Vậy nên nỗ lực cố gắng cuối cùng của sự việc gắng gượng đây là tiếng gọi Kim Trọng để rồi sau đó, nàng nhận lỗi và nói lời tạ từ với Trọng, đó cũng là lời tự trách bản thân mình trong day dứt, dằn vặt.

Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, người đọc cũng thấy tiếng kêu thốt lên ấy đã hòa trong tiếng nấc thể hiện Kiều thương mình nhưng nhiều hơn hết là sự việc xót xa giành cho chàng Kim. Trong sự tan vỡ của tình yêu của hai người, Kiều nhận hết trách nhiệm, lỗi lầm về tay và tự gán cho mình là người phụ bạc. Việc Kiều lấy hết can đảm để thốt lên lời thú nhận này đã làm hiện lên ở nàng những vẻ đẹp đáng trân trọng.

Đó là vẻ đẹp của người con gái rất đỗi hùng vĩ trong tình yêu, dẫu bị hoàn cảnh xô đẩy, dồn đuổi đến cùng đường để quyết định tưởng chừng không thể đau xót hơn nữa – quyết định bán mình. Khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy Kiều vẫn xem mình là người đáng phê phán vì đã phụ bạc một tình yêu tuy mới chớm nở nhưng đã rất đậm sâu. Đó đây là phẩm chất đáng quý nơi Kiều khiến ta mỗi lúc mỗi yêu quý nàng hơn.

Nhìn tổng thể khi cảm nhận 8 câu cuối bài Trao duyên, ta thấy Nguyễn Du đã nêu bật lên sự tha thiết, trân trọng của Thúy Kiều khi đối chiếu với tình yêu thông qua hành động “trao duyên”. Cũng bằng phương pháp thể hiện đó, Nguyễn Du đã bộc lộ rõ những vẻ đẹp ở phẩm chất của người con gái đầu lòng họ Vương: vừa là một mẫu người nêu gương đạo đức khi lấy chữ hiếu làm đầu, vừa là một hình ảnh nữ nhân lí tưởng khi có ý thức và nỗ lực hết mình để thể hiện thái độ trân trọng, nâng niu giành cho tình yêu đích thực của mình.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 14

Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Trong thời kì văn học trung đại, Nguyễn Du cùng với những tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,... tạo thành những tượng đài thơ ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm "Đoạn trường tân thanh" hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên "Truyện Kiều". Đoạn trích "Trao duyên" là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.

Truyện Kiều là một tác phẩm được coi như kiệt tác văn chương của nhân loại, được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề được biết đến cho tới khi Nguyễn Du khai thác cốt truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích "Trao duyên" từ câu 723 đến câu 756 trong phần "Gia biến và lưu lạc", tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu.

Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề hẹn. Tâm sự với em, Thúy Kiều cũng không quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng tha thiết:

Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng

Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Tâm sự với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình, vì người nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại. Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố "gương gãy", "trâm tan", những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Xét đến cùng, mục đích của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. "Muôn vàn ái ân" nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn "tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!".Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận của mình.

Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn "bạc như vôi", "nước chảy, hoa trôi lỡ làng", sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định . Tiếng gọi xé lòng " Hỡi Kim Lang!" thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi "lang" là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Có thể, người đọc cảm thấy một chút phi lý trong câu nói của Kiều, rằng tại sao đã trao duyên với em rồi nhưng vẫn gọi Kim Trọng là "lang", là chồng, Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, nhưng cảm giác tội lỗi của mình với chàng Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 15

Thiên “Truyện Kiều” của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du quả thực là một kiệt tác văn chương của nhân loại, tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn dưới dạng các trích đoạn tiêu biểu. Một trong những đoạn trích tiêu biểu cho hoàn cảnh éo le, dang dở tình duyên của Thúy Kiều chính là “Trao duyên”. Tác giả đã rất thành công trong việc khắc họa một cách chân thực, rõ nét tâm trạng nhân vật Thúy Kiều trong từng phân cảnh, để lại trong lòng người đọc những cảm nhận sâu sắc.

Nhan đề “Trao duyên” của đoạn trích phần nào gây ấn tượng với người đọc bởi sự lạ lẫm, khác đời và khác người; duyên là duyên phận, là sự an bài và sắp đặt của ông trời, sao có thể đem ra nói trao đi đổi lại cho nhau dễ dàng như thế. Chính cái lạ lẫm của nhan đề đã gợi ra những dự cảm về nghịch cảnh cũng như tính éo le trong đoạn trích này.

Kiều đã tuyệt vọng hết sức, chẳng còn hy vọng nào cho tình yêu và số phận của mình, rồi đây cuộc đời nàng sẽ đi về đâu, sống chết ra sao nàng không thể biết được, chỉ mong có chết đi rồi người trên dương thế sẽ hiểu cho tấm lòng và đồng cảm với mình. Giờ đây những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào với chàng Kim lại trở thành những nhát dao cứa sâu vào nỗi đau khổ của nàng:

“Bây giờ trâm gãy bình tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”

Tất cả tình duyên đã tan vỡ, dở dang, nàng Kiều vô cùng đau đớn khi phụ chàng Kim, nàng gửi trăm nghìn cái lạy đến người “tình quân” mong chàng sau này sẽ hiểu cho hoàn cảnh và nỗi khổ của nàng, phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bất hạnh của mình, nàng không thể kháng cự lại mà đành tự thương xót cho chính mình.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Tình nghĩa sâu nặng coi nhau như vợ chồng nhưng giờ đây nàng chỉ còn có thể gọi tên chàng Kim trong sự tuyệt vọng, tiếng gọi chan chứa nỗi niềm đắng cay và xót xa, chàng Kim nơi xa xôi kia chưa hề biết chuyện gì, nàng nơi quê nhà đã phải vì hoàn cảnh mà phụ tấm lòng của chàng. Có trách cũng chỉ biết trách số nàng “hồng nhan bạc phận” mất đi mối tình, mất đi cả tương lai hạnh phúc.

Có thể nói, trích đoạn “Trao duyên” là một trong những trích đoạn hay và gây xúc động mạnh nhất trong “Truyện Kiều”, rất nhiều thành ngữ được sử dụng kết hợp với những từ ngữ mang giá trị gợi cảm cao đã khắc họa tâm trạng Thúy Kiều trong lúc trao duyên vô cùng rõ nét. Người đọc cảm nhận được nỗi đau khổ của Kiều, tiếc thương cho mối tình trời ban đồng thời cũng thương cảm với số phận bạc mệnh của Kiều.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 16

Nhắc đến Nguyễn Du - đại thi hào của dân tộc Việt Nam, người ta sẽ nhớ ngay đến “Truyện Kiều” - kiệt tác văn chương của nhân loại. Những tác phẩm của Nguyễn Du nói chung và thiên “Truyện Kiều” nói riêng đã đóng góp một phần quan trọng đối với nền văn học, văn hóa nước nhà. Đoạn trích “Trao duyên” được trích trong tác phẩm từ câu thơ 723 đến câu 756, nói về bối cảnh Thúy Kiều trao duyên lại cho Thúy Vân, nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Đây là một trích đoạn đầy nghịch cảnh éo le và bi kịch, gây sự xúc động mạnh trong lòng người đọc.

Trong đoạn trích, cái duyên ở đây chính là mối duyên tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng, thế nhưng vì hoàn cảnh gia đình rơi vào bi kịch, Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha và em, không còn có thể giữ mối duyên đó với chàng Kim được nữa. Thúy Kiều đành đem duyên đó của mình trao lại cho em gái là Thúy Vân, ngưỡng mong em sẽ chấp nhận và thay mình trả mối nghĩa tình cho chàng Kim.

Kiều nhiều lần nhắc đến cái chết trong những lời của mình, một phần muốn chắc chắn rằng Thúy Vân đã nhận lời, nàng khi đã bán mình chuộc cha và em cũng khó có thể biết được số phận trôi dạt về đâu, sống chết không rõ ra sao. Kiều dù chết đi vẫn mong người ở lại hãy nhớ đến mình, mong muốn có được sự đồng cảm của mọi người, và đến khi chết nàng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng.

“Bây giờ trâm gãy bình tan…

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Kiều quay về thực tại, chẳng còn kỉ niệm tình yêu ngọt ngào nữa, giờ đây là hiện thực dở dang, lỡ làng, tan vỡ, bây giờ tình duyên của nàng đã mất, cuộc đời cũng sắp phải giao cho người khác, số phận nàng “bạc như vôi”. Nàng gọi tên chàng Kim trong nỗi thổn thức, xót xa và như một lời từ biệt cuối cùng: “Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang”, nàng đã phụ tấm lòng chàng Kim, nàng tuyệt vọng dưới sự đày đọa của hoàn cảnh và số phận.

Thông qua việc phân tích bài trao duyên, ta không chỉ thấu hiểu được bi kịch tình yêu và số phận của Thúy Kiều mà còn thấy được ở đó hiện lên nhân cách cao đẹp của nàng, một người con gái tài sắc vẹn toàn, giàu đức hy sinh và giàu lòng vị tha. Qua nhân vật Thúy Kiều, nhà thơ Nguyễn Du cũng bày tỏ sự cảm thông, xót xa trước những bất hạnh và hiện thực bất công của cuộc đời Kiều.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 17

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với các thế hệ bạn đọc. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của thiên kiệt tác này. Nhận xét về “Trao duyên”, Tản Đà từng viết: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới biết hết tình sự”.

“Trao duyên” là đoạn thơ bắt đầu từ câu 723 đến câu 756 của “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khắc họa những tâm trạng đớn đau, giằng xé của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để làm trọn chữ “tình”. Ngay từ nhan đề, đoạn trích đã gây nên sự tò mò cho bạn đọc. Chúng ta thường trao lại cho người khác vàng bạc, châu báu hay những thứ vật chất dễ nhìn thấy, dễ cầm nắm chứ mấy ai lại trao cho người khác thứ khó xác định, khó hình dung như trao duyên? “Duyên” là thứ con người khó có thể lí giải một cách thỏa đáng và nó rất khó để định hình. Vậy mà Thúy Kiều lại có hành động trao duyên, phải chăng có điều gì khó nói, uẩn khúc ở đây?

Đó là lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” mà cho dù Thúy Kiều có phải “nát thân bồ liễu” cũng mong trả được nghĩa cho chàng Kim, dù tấm thân nữ nhi yếu đuối, mỏng manh không còn sống trên cõi đời thì nàng vẫn muốn mình giữ trọn lời thề của tình yêu đôi lứa. Do trần gian và cõi âm phủ “cách mặt”, “khuất lời” nên Thúy Kiều cũng chỉ xin em “rảy” giọt nước cho linh hồn oan khuất, đáng thương của mình. Thông thường, người ta thường “rảy” cả một chén nước nhưng nàng chỉ xin một giọt nước ít ỏi để rửa oan. Tình yêu tan vỡ, Thúy Kiều đau đớn tự độc thoại với chính mình:

“Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng

Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

Hơn ai hết, nàng ý thức rất rõ về thực tại của mình. “Trâm gãy gương tan” là biểu hiện cho sự tan vỡ của tình yêu. Mọi việc xảy đến bất ngờ, đột ngột quá nên “muôn vàn ái ân” với Kim Trọng làm sao nàng có thể kể xiết. Ân tình với chàng Kim càng lớn thì nàng cảm thấy có lỗi bởi đã phụ lòng chàng. Tơ duyên chỉ ngắn ngủi có ngần ấy, số phận thì bạc bẽo như vôi, tình yêu thì dở dang, lỡ làng đã khiến Thúy Kiều có những dằn vặt, giằng xé trong nội tâm. Nàng chỉ có thể gửi đến người yêu của mình trăm nghìn cái lạy. Đó là cái lạy từ biệt nhưng cũng là cái lạy tạ lỗi với người “tình quân” vì nàng đã tự coi mình là kẻ phụ bạc đã phá đi lời thề nguyền trước đây. Nàng Kiều đâu có lỗi gì trong chuyện này, có trách thì hãy trách xã hội đồng tiền đầy rẫy những bất công, đẩy con người rơi vào bi bịch. Tiếng gọi “Kim lang” vang lên hai lần nghe mới tha thiết làm sao. Nàng là người nặng tình nghĩa đã nhận hết lỗi lầm về mình và luôn mong cho người mình yêu được hạnh phúc. Đức hi sinh của nàng thật đáng quý!

Sau khi phân tích bài Trao duyên, chúng ta có thể thấy được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến đỉnh cao của Nguyễn Du. Ông đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, những thành ngữ dân gian cùng sự kết hợp ngôn ngữ bác học trang trọng và ngôn ngữ dân gian để diễn tả những tâm trạng đau khổ, xót xa của Thúy Kiều khi trao duyên lại cho Thúy Vân. Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại được sử dụng một cách linh hoạt. Bên cạnh đó, thể thơ lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng cũng góp một phần không nhỏ vào sự thành công của đoạn trích. “Trao duyên” đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận những người phụ nữ. Chẳng vậy mà ông đã viết:

“Thương thay cũng một kiếp người

Hại thay mang lấy sắc tài làm chi

Những là oan khổ lưu li

Chờ cho hết kiếp còn gì là thân”.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 18

Nguyễn Du - một trong những nhà thơ xuất sắc của nền văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Tác phẩm “Truyện Kiều” đã khẳng định và ghi dấu tên tuổi Nguyễn Du trên văn đàn nghệ thuật nước nhà và thế giới. “Trao duyên” là đoạn trích đặc sắc trong Truyện Kiều nói về tình yêu sâu nặng cũng như bi kịch số phận của Kiều trước biến cố cuộc đời.

Đoạn trích nói về hoàn cảnh của gia đình Kiều dẫn đến việc Kiều phải “trao duyên”. Bọn sai nha gây ra vụ án oan sai đối với gia đình Kiều, khiến nàng phải bán mình lấy để chuộc cha. Bán mình đi tức là nàng đã bán đi quyền lựa chọn đối với cuộc đời mình, nàng đành hy sinh mối tình với Kim Trọng, đành phụ chàng. Thế nhưng vì tình sâu nghĩa nặng, Kiều không thể cứ thế mà phụ chàng Kim, nàng đã trao duyên cho Thúy Vân là em gái mình, mong rằng em có thể thay mình trả nghĩa cho chàng Kim.

Sau những lời thuyết phục đầy lí lẽ của Kiều, khó có thể cho Vân đường chối từ, biết em sẽ thấu hiểu cho mình mà chấp nhận nên Kiều đem những kỉ vật tình yêu ngày xưa trao cho Vân. Tay trao kỉ vật nhưng lòng nàng nặng trĩu, đau xót như mất đi những điều quý giá nhất, giờ đây kỉ vật đã là của chung của ba người, chỉ còn tình yêu và duyên ước nàng giữ cho riêng mình. Nàng dặn dò Thúy Vân mai này có nên vợ nên chồng với chàng Kim hãy nhớ đến người mệnh bạc như nàng. Thúy Kiều nhắc đến cái chết qua những câu thành ngữ, tục ngữ hay từ ngữ như: “hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài”, nàng như đã dự cảm chẳng lành về số phận của mình, bi kịch lớn nhất là cái chết, thế nhưng dù có chết nàng cũng không quên lời thề với Kim Trọng, chỉ mong Kim Trọng sau này khi trở về sẽ thấu hiểu và cảm thông cho hoàn cảnh éo le của nàng.

“Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”

Lời độc thoại của Thúy Kiều dày đặc các từ: “trâm gãy”, “gương tan”, “nước chảy”, “hoa trôi” ám chỉ sự tan vỡ, đứt gánh giữa đường của mối duyên tình. Tình yêu sâu đậm, nồng nàn và chung thủy là thế, nhưng giờ đây nàng cũng đành phụ tình, hoàn cảnh đã đẩy số phận nàng vào bước đường cùng, chẳng còn lựa chọn nào khác cho Kiều. Dù có đau xót than oán nàng cũng đành cam chịu, tiếng gọi tha thiết dành cho Kim Trọng như một lời xin lỗi từ đáy lòng Kiều:

Ôi Kim lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

“Ôi” và “hỡi” vừa là tiếng gọi tha thiết yêu thương lại vừa là lời than thân trách phận của Kiều, nàng cảm thấy có lỗi với chàng Kim và xót xa cho Kim Trọng khi nơi xa xôi vẫn luôn tin tưởng, chờ mong người đã phụ bạc như nàng. Cái lạy của nàng dành cho người tình quân như là tạ tội và vĩnh biệt chàng Kim. Có thể nói, tình yêu của Kiều dành cho Kim Trọng rất sâu đậm và tha thiết, thế nhưng, nàng đã hy sinh vì gia đình, quên đi nỗi đau của mình hướng đến nỗi đau của cha mẹ và hai em.

Qua việc phân tích bài trao duyên, chúng ta có thể thấy được bi kịch tình yêu và thân phận bất hạnh của Thúy Kiều một cách sâu sắc. Đây cũng là một trong những trích đoạn tiêu biểu cho tài năng miêu tả nội tâm nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 19

Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc, một vị danh nhân văn hóa thế giới, tài năng của ông được khẳng định qua nhiều tác phẩm văn học xuất sắc. Trong đó nổi bật và được biết đến nhiều nhất là Truyện Kiều, một truyện thơ được xếp vào hàng kiệt tác của nền văn học trung đại cũng như toàn nền văn học của Việt Nam. Truyện Kiều là một tác phẩm văn học có tầm ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân ta từ hàng trăm năm nay, từ Truyện Kiều lại phát sinh ra vịnh Kiều, bói Kiều, tranh Kiều, lẩy Kiều,… là nguồn cảm hứng cho hàng loạt các loại hình sân khấu, âm nhạc, hội họa,… thậm chí nó còn vươn xa ra ngoài thế giới với hơn 20 bản dịch của các quốc gia khác nhau. Có thể nói rằng khó có thể có tác phẩm nào trong nền văn học Việt Nam có thể vượt qua cái bóng của Truyện Kiều. Đoạn trích Trao duyên là một đoạn trích đặc sắc và khá tiêu biểu cho cuốn truyện thơ này, kể về nỗi bất hạnh đớn đau đầu tiên trong cuộc đời 15 năm sóng gió lưu lạc của Thúy Kiều, cô gái tài hoa nhưng mệnh bạc.

Sở dĩ có cảnh trao duyên bởi trước đó khi gia đình gặp biến cố, cha và em của Kiều bị bắt bớ và đánh đập vô cùng dã man, phải có một món tiền lớn để chuộc thì mới thoát tội chết. Kiều vốn là con cả thế nên phải gánh trách nhiệm này, cách duy nhất Kiều có thể nghĩ đến ấy là bán thân làm vợ lẽ cho người ta để kiếm tiền. Thế nhưng đau đớn thay, Kiều lại chót thề nguyền đính ước với chàng Kim Trọng, hứa đợi chàng trở về, nay ra nông nỗi này lòng Kiều vô cùng rối rắm. Thế rồi, sau bao nhiêu trằn trọc suy nghĩ, chữ hiếu vẫn đặt lên trên chữ tình, Kiều đành có lỗi với tình cảm của chàng Kim, để trọn hiếu với phụ mẫu. Nhưng Kiều vẫn muốn vẹn toàn đôi bên, nên đã nhờ em là Thúy Vân nối tiếp tình duyên với Kim Trọng coi như là trả hết nghĩa cho chàng.

Kiều trao duyên xong thì lại dặn dò Thúy Vân chuyện mai sau, mỗi khi đốt hương đánh đàn thì Thúy Kiều sẽ về, lúc ấy Thúy Vân hãy nhỏ giọt nước làm phép để giải oan cho mình. Lần nữa lại có sự mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm, một bên mong Thúy Vân và Kim Trọng sẽ có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và êm đềm, một bên lại mong rằng mình được sum họp trong những giây phút hạnh phúc bên cạnh Kim và Vân. Như vậy, Thúy Kiều hiện lên trong đoạn trích không chỉ là một tấm gương đạo lý đơn thuần, mà còn là một con người trần thế sống động có tình cảm yêu thương, đau đớn.

“Bây giờ trâm gãy bình tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.

Phận sao phận bạc như vôi?

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trở lạị với hiện thực, Thúy Kiều thức tỉnh chỉ để đớn đau, sau những cố gắng níu kéo không khả thi, nàng buộc phải quay về đối mặt và chấp nhận nghịch cảnh, tình yêu tan vỡ không thể hàn gắn, bản thân nàng phải gả cho người xa lạ làm vợ lẽ, cuộc đời mịt mù trôi dạt chẳng biết về nơi nao. Kiều thức tỉnh trước nỗi đau thân phận bẽ bàng “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”, gợi ra nỗi đau cùng cực của Thúy Kiều. Kiều đã đối thoại với Kim Trọng trong tâm tưởng, lời gọi như khóc, như than, nghe não nề, đứt ruột, câu thơ kết là lời tự trách, lời thú tội phụ bạc tình yêu với Kim Trọng. Nếu trên góc nhìn của người đọc thì Kiều không hề có lỗi, bởi sự phản bội của Kiều là do khách quan, đồng thời nàng đã nhờ Thúy Vân trả nợ duyên cho mình, thế nhưng nếu là Kim Trọng, thì Kiều hoàn toàn có lỗi, nợ lại mối tình với chàng, không cách nào trả được. Nhận thấy được tình cảm Kiều dành cho Kim Trọng rất sâu nặng, vẻ đẹp của lòng vị tha và đức hy sinh cao cả.

Qua đoạn trích "trao duyên", Nguyễn Du đã thể hiện lòng thông cảm, xót thương với bi kịch tình yêu, với thân phận bất hạnh của Thúy Kiều, điển hình của một kiếp hồng nhan bạc mệnh trong xã hội phong kiến, đồng thời trân trọng ngợi ca nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Trong đoạn trích bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc, tác giả đã miêu tả một cách tinh tế tâm trạng của nhân vật trong cảnh trao duyên, bằng cách sử dụng nhiều hình thái ngôn ngữ, đối thoại, độc thoại, nửa trực tiếp.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 20

Truyện Kiều đỉnh cao trong đời thơ Nguyễn Du cũng là đỉnh cao của văn học Việt Nam, tác phẩm để lại những giá trị sâu sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Cuộc đời nàng Kiều trải qua biết bao truân chuyên, biến cố, phải trải qua biết bao khoảnh khắc đau lòng mà có lẽ đau lòng nhất chính là khoảnh khắc trao duyên cho em. Toàn bộ suy nghĩ tâm trạng của nàng được tái hiện chân thực, đầy đủ qua đoạn trích Trao duyên.

Trao duyên được trích trong phần gia biến và lưu lạc, sau khi gia đình gặp cơn tai biến, Kiều phải bán mình cho Mã Giám Sinh với giá vàng ngoài bốn trăm để lo cho cha và em thoát nạn. Đêm cuối cùng trước khi phải đi cùng Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã trò chuyện với em là Thúy Vân vào trao duyên mình cho em với Kim Trọng.

Ta thấy rằng ở bất cứ đâu trong Kiều cũng luôn mang khao khát hạnh phúc, sum họp: Hồn còn mang nặng lời thề/ Nát thân bồ liễu, đền ghì trúc mai. Dù nàng có bị vùi dập thịt nát xương mòn nhưng lòng vẫn nặng lời thề với Kim Trọng. Bởi vậy khi Kim Trọng và Thúy Vân được hưởng hạnh phúc thì Thúy Kiều cũng sẽ trở về để chung hưởng hạnh phúc ấy. Mâu thuẫn này đã cho thấy sự tiếc nuối và đau khổ của nàng Kiều đồng thời cho thấy tình cảm sâu nặng nàng dành cho Kim Trọng. Tám câu thơ cuối, nàng Kiều trở về với thực tại đau đớn, xót xa: tình yêu dang dở, tan vỡ, mãi mãi không thể hàn gắn.

“Bây giờ trâm gãy gương tan

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi”

Thành ngữ “trâm gãy gương tan” là sự tan vỡ trong tình yêu cũng là sự tan nát trong cõi lòng Thúy Kiều. Nàng thức tỉnh nỗi đau thân phận:

“Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng

Ôi Kim lang, hỡi Kim lang

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”

Hai từ ôi, hỡi trong câu thơ sáu chữ đã cho thấy lời gọi tha thiết, khắc khoải và nỗi đau đến tột cùng của Kiều. Câu kết là lời nhận tội, tự trách của Thúy Kiều “Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

Bằng nghệ thuật miêu tả nội tâm đặc sắc, sự phối hợp linh hoạt các hình thức ngôn ngữ đã diễn đạt tâm trạng, cảm xúc của Thúy Kiều khi trao duyên cho em. Đoạn trích cho thấy bi kịch tình yêu và bi kịch thân phận của người phụ nữ hồng nhan, bạc mệnh trong xã hội phong kiến, đồng thời trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của Thúy Kiều.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 21

Con người khi đứng trước sự lựa chọn của bên nghĩa bên tình thì rất khó lựa chọn. Tuy nhiên thì công đức sinh thành bao giờ cũng cao cả vậy cho nên nếu là một người con hiếu thảo yêu thương cha mẹ của mình thì dẫu cho tình yêu kia có đẹp đến mấy thì vẫn quyết định chọn chữ nghĩa để trả ơn bố mẹ. Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã chọn chữ "nghĩa" lớn lao ấy. Thế nhưng nàng vẫn muốn bù đắp cho tình cảm kia của mình. Vì thế nàng quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Đoạn trích Trao duyên thể hiện được tất cả những tâm trạng của Thúy Kiều khi trao duyên của mình cho nàng Thúy Vân.

Duyên là một thứ để cho con người ta gặp gỡ, để mà yêu nhau và nếu có phận thì sẽ có thể bên nhau đến trọn đời. Và đặc biệt cái duyên cái nợ là do ông Tơ bà Nguyệt se tơ kết tóc nối duyên. Thế nhưng ở đây Thúy Kiều đã như đoạt lấy cái quyền hành ấy mà để nối duyên của mình cho em. Nàng có duyên với chàng Kim Trọng nhưng lại không có phận vì thế cho nên nàng muốn nối duyên cho em. Vì trong thâm tâm nàng đó như một cái để nàng đền đáp những ân tình của chàng Kim mà chàng đã trao cho nàng. Trao duyên đi lòng nàng không khỏi đau xót vì tình yêu duy nhất và đầu tiên của nàng đã không thành.

Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma, lời lẽ huyền hồ. Bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu "thịt nát xương mòn" thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với "ngọn cỏ lá cây", với "hiu hiu gió...". Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ. Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt mình là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

"Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng."

Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau đớn xót xa này, nàng chỉ trách mình là "phận bạc", là "hoa trôi", những hình ảnh đó làm động lòng thương đến hết thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã "phụ chàng". Chính tâm lý mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết ngất trong tiếng kêu thương thấu trời:

"Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!"

Đoạn "Trao duyên" trong "Truyện Kiều" là một khúc "đoạn trường" trong thiên "Đoạn trường tân thanh". Với con mắt tinh đời, Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong truyện của Thanh Tâm Tải Nhân là một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật tuyệt vời, ông đã dựng lại đoạn "Trao duyên" hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường. Trong sự kiện "sóng gió bất kì" này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên (cũng đừng vội chê trách Thúy Vân. Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây), còn Thúy Kiều thì lại càng đau đớn hơn.

Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lý, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn. Chỉ qua đoạn "Trao duyên", chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường Chủ nhân là khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo?

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 22

Trong suốt chiều dài lịch sử văn học, có rất nhiều những thành tựu văn học rực rỡ thời kì trung đại của những nhà tác giả lớn như: Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Bỉnh Khiêm… Đóng góp vào trong dòng chảy văn học ấy ta không thể không nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du. Ông không những là một nhân cách lớn mà đồng thời còn là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại. Những sáng tác của Nguyễn Du bao gồm cả sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm nhưng tiêu biểu nhất là tác phẩm Đoạn trường tân thanh hay còn được biết nhiều hơn dưới tên Truyện Kiều. Đoạn trích Trao duyên là một trong những đoạn trích tiêu biểu thể hiện được tài năng cũng như tư tưởng nhân đạo của tác giả.

Truyện Kiều của Nguyễn Du được viết bằng chữ Nôm dựa trên cốt truyện có sẵn của Thanh Tâm Tài Nhân là Kim Vân Kiều truyện. Thế nhưng, điều đáng nói là bằng sự sáng tạo của người nghệ sĩ, Nguyễn Du đã biến một cốt truyện bình thường trở thành một kiệt tác. Nếu như Kim Vân Kiều truyện là một câu chuyện “tình khổ” thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại là một khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, nới lên những điều trông thấy trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động.

Kiều tự nhận mình là người mệnh bạc, coi mình như đã chết. Những hình ảnh trong câu thơ gợi ra một Thúy Kiều đang ở trong một thế giới khác, không thể trở lại hòa nhập với cuộc sống và số phận của nàng vô cùng mong manh. Ngay cả khi ở thế giới bên kia thì Kiều cũng không thể thanh thản mà còn nặng lòng với tình duyên, cuộc sống và nàng coi mình là người thác oan, nỗi đau tức tưởi nhưng đồng thời cũng vô cùng bất lực. Trong tận cùng đau khổ, Kiều hướng về Kim Trọng với những tâm sự tha thiết:

Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.

Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sao phận bạc như vôi

Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng

Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.

Thúy Kiều tâm sự với chàng Kim nhưng Kim Trọng đang ở phương xa và thực chất đây là những lời độc thoại, thể hiện sự tự ý thức sâu sắc của Thúy Kiều về nỗi đau thân phận mình. “Gương gãy”, “trâm tan” là những hình ảnh diễn tả một cách cảm động và xót xa về bi kịch của Thúy Kiều. Đằng sau đó ta thấy một Thúy Kiều nặng tình nặng nghĩa với chàng Kim. Đi liền với nỗi đau về tình yêu còn là nỗi đau về thân phận bạc bẽo. Thành ngữ “bạc như vôi” như có gì đó oán trách, đi liền với nó là tâm trạng gần như bất lực “Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng”. Kết thúc đoạn thơ, Thúy Kiều cất lên tiếng gọi Kim Trọng tha thiết khiến cho lời than như một tiếng nấc được thốt ra nghẹn ngào.

Trong lời than ấy, Kiều đã gọi Kim Trọng là Kim lang, coi Kim Trọng giống như chồng của mình. Điều này tưởng như phi lí bởi Kiều đã trao duyên cho em nhưng lại rất có lí bởi Kiều đã thể hiện tình cảm chân thật của mình mà quên đi tất cả mọi thứ xung quanh. Nàng mắc phải một mặc cảm là mình đã phụ tình Kim Trọng. Người đau khổ nhất lúc này đó chính là Thúy Kiều nhưng nàng đã quên đi những đau khổ ấy để chỉ nghĩ về Kim Trọng. Thúy Kiều không chỉ nặng tình mà còn nặng nghĩa. Những câu thơ cuối là những câu cảm thán khiến cho đoạn thơ như những tiếng than đứt ruột. Bi kịch, đau khổ và cả tình yêu nồng nàn của Thúy Kiều được đẩy lên đến đỉnh điểm, qua đó bộc lộ được những nét đẹp trong tâm hồn của nàng.

Đoạn trích Trao duyên đã khái quát lên bi kịch đau khổ của Thúy Kiều đó là bi kịch về tình yêu tan vỡ và bi kịch cuộc đời mỏng manh. Qua đó tác giả đã làm bật lên được vẻ đẹp của Thúy Kiều: thủy chung da diết nhưng cũng sắc sảo mặn mà. Nguyễn Du đã một lần nữa khẳng định được tài năng miêu tả tâm lí nhân vật vô cùng sống động, chân thực và phong phú. Nguyễn Du như hóa thân vào nhân vật để nhân vật tự thốt lên từ tận đáy lòng. Qua đoạn trích, nội tâm nhân vật Thúy Kiều được khám phá một cách toàn diện.

Tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát kết hợp với ngôn ngữ uyển chuyển, mềm mại, tinh tế để có thể miêu tả được những rung động, đau khổ trong lòng nhân vật. Đằng sau tất cả những điều đó là một tấm lòng nhân hậu, tinh thần nhân đạo và con mắt nhìn thấu sáu cõi của Nguyễn Du.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 23

Mộng Liên đường chủ nhân từng ca ngợi Nguyễn Du có: “Con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. Còn Hoài Thanh thì tôn vinh: “một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn”. Nếu “Truyện Kiều” là một cung đàn bạc mệnh thì đoạn trích “Trao duyên” là một cung gió thảm mưa sầu. Tấm lòng nhân đạo đã thôi thúc Nguyễn Du đồng cảm với tình yêu và nỗi đau của Thúy Kiều và đặc biệt là qua tám câu cuối cùng của đoạn trích “Trao duyên” với nghệ thuật diễn tả tâm lí nhân vật.

Đoạn trích “Trao duyên” nằm trong phần “Gia biến và lưu lạc”, từ câu 723 đến 756 của Truyện Kiều. Gia đình gặp nạn, Kiều quyết định bán mình để cứu cha và em. Chữ “hiếu” đã tròn nhưng chữ “tình” chưa vẹn. Đêm cuối cùng trước khi phải ra đi theo Mã Giám Sinh, nàng thao thức trắng đêm về việc trả nợ tình cho Kim Trọng. Giữa lúc Kiều đang “dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn” thì Vân chợt tỉnh giấc xuân ghé đến ân cần hỏi han chị. Kiều tâm sự với em nỗi lòng mình và cậy nhờ Vân thay mình nối duyên gá nghĩa với Kim Trọng. Đoạn trích này là lời trao duyên và tâm trạng của Kiều đêm ấy. “Trao duyên” là nhan đề do người biên soạn đặt đã khái quát đầy đủ tinh thần và nội dung của trích đoạn. Xưa nay, người ta chỉ trao đồ, trao vật, trao tình chứ mấy ai trao duyên đôi lứa. “Trao duyên” là hành động trả nghĩa chàng Kim của Thúy Kiều thể hiện một nét đẹp trong đạo sống của người xưa: Tình thường gắn liền với nghĩa. Quan niệm truyền thống về tình yêu khiến Kiều không thôi day dứt muốn chu toàn phần nghĩa nặng sâu khi khối tình đã dang dở. “Truyện Kiều” nói chung và “Trao duyên” nói riêng được viết dựa trên cốt truyện của “Kim Vân Kiều truyện” – một tác phẩm văn xuôi cỡ vừa của nhà văn Trung Hoa Thanh Tâm tài nhân. Bằng thể thơ lục bát dân tộc Nguyễn Du đã ghi lại “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” làm rung động muôn triệu trái tim người Việt Nam.

Quả thật, đúng như vậy, tám câu cuối của trích đoạn “Trao duyên” đã khắc họa tình yêu và nỗi đau của Thúy Kiều. Tình yêu là một trong những tình cảm đẹp nhất, nhân văn nhất của con người trong đó có tình yêu đôi lứa được coi là nhụy hoa của bông hoa cuộc đời. Tám câu cuối “Trao duyên” đã cho ta thấy tình yêu sâu nặng , khắc cốt ghi tâm của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng. Nhưng chính tình yêu sâu nặng ấy khi đổ vỡ, chia lìa lại tạo nên nỗi đau xé lòng k thể nguôi ngoai trong trái tim Thúy Kiều. Ngoài nỗi đau tình yêu tan vỡ, nhân vật còn cảm nhận sâu sắc nỗi đau thân phận của chính mình. Tình yêu và nỗi đau của Thúy Kiều đã được ngòi bút miêu tả tâm lí tài tình của Nguyễn Du diễn tả thật thấm thía, xúc động. Hãy cùng tìm hiểu tám câu cuối của trích đoạn “Trao duyên” để một lần nữa sống cùng nhân vật trong cả tình yêu và nỗi đau.

Hồi tưởng lại quá khứ nhưng quá khứ một đi không trở lại, hướng đến tương lai song tương lai mịt mờ, bế tắc, Kiều quay trở lại thực tại đầy phũ phàng, nghiệt ngã thấm thía sâu sắc nỗi đau tình yêu tan vỡ trong khi tình yêu dành cho Kim Trọng vẫn còn rất sâu nặng:

“Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”

Nỗi đau đọng lại trong thành ngữ “trâm gãy gương tan”. “Trâm”, “gương” thường là kỉ vật của đôi lứa trao khi đính ước, nói lời hẹn thề mà giờ đây “gãy”, “tan”. Thành ngữ quen thuộc giàu sắc thái biểu cảm đã nói lên tình cảnh đổ vỡ chia lìa không thể nào cứu vãn, chẳng thể nào xoay chuyển. Nỗi đau ấy càng xé ruột, xé gan khi đôi lứa từng có những ngày tháng “muôn vàn ái ân”, ngọt ngào say đắm.

Dư vị của tình yêu đầu đời trong sáng, ngọt ngào vẫn còn đó tương phản gay gắt với nỗi đau đổ vỡ chia lìa:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”

Cách gọi “tình quân” mang theo bao yêu thương, lưu luyến chẳng nỡ xa rời. Cái lạy của Kiều với Kim Trọng khác hẳn hành động “lạy thưa” Van ở đầu đoạn trích. Nếu hành động “lạy thưa” với Thúy Vân là lạy xin, lạy nhờ một việc thiêng liêng, hệ trọng trong tâm thế của người mang ơn mắc nợ thì cái lạy dành cho Kim Trọng vừa là tạ lỗi, vừa là tạ từ trong vị thế của người mang mặc cảm có lỗi vì chưa trọn tình vẹn nghĩa. Thành ngữ “tơ duyên ngắn ngủi” ẩn chứa niềm xót xa khôn cùng. Đã có duyên gặp gỡ, đã có tình nặng sâu mà tiếc thay duyên ấy thì ngắn, tình ấy phải tan. Nỗi đau về tình yêu tan vỡ của Thúy Kiều được Nguyễn Du đồng cảm thương xót diễn tả tài tình qua những câu thơ như có “máu chảy trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên trang giấy”(Mộng Liên đường chủ nhân).

Nỗi đau về tình yêu tan vỡ chưa nguôi trái tim Kiều lại phải chịu những nhát cứa của nỗi đau thân phận:

“Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Thân phận bạc bẽo, lỡ làng của Kiều được thể hiện qua những thành ngữ hàm súc, cô đọng. “Phận bạc như vôi” hình thức cảm thán “phận sao” đầy chua chát đi cùng với thành ngữ có tính chất so sánh chứa đầy cảm giác ngán ngẩm, tự thương tự đau. Bên cạnh đó, thành ngữ “nước chảy hoa trôi” đã diễn tả thấm thía cảnh ngộ trái ngang, bi kịch của nàng Kiều. Người con gái tài sắc là thế giờ chẳng khác nào bông hoa dập dềnh trên dòng nước chỉ biết phó mặc cho “nước chảy hoa trôi”. “Lỡ làng” một tình duyên với Thúy Kiều cũng là sự lỡ dở một đời người. Dự cảm có phần oan nghiệt đó đã được chứng thực ở phần sau của Truyện Kiều”. Nào ai ngờ bông hoa phong nhụy năm xưa đã trở thành đóa hoa giữa đường tan tác.

Hai câu cuối cũng được đẩy lên đến đỉnh điểm, tình yêu tột cùng hòa trong nỗi đau tột độ:

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Nhịp thơ ngắt 3/3 “Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!” như tiếng nấc nghẹn ngào, như tiếng khóc đau đớn. Các thán từ “Ôi”, “Hỡi” tạo ra sắc thái thống thiết cho lời hô gọi. Kiều gọi tên Kim Trọng hai lần dồn dập, thiết tha trong sự đau đớn đến hoảng loạn. Cách gọi “Kim Lang” chứa đựng tình sâu ý nặng. Từ “thôi thôi” có gì như tuyệt vọng, bế tắc. Trong nỗi đau vỡ òa, Kiều nhận mình đã “phụ” chàng Kim. Qua chữ “phụ” Kiều bộc lộ sự sám hối, đau đớn, lời tạ tội thống thiết với người yêu. Kiều đã nhận hết tất cả phần đáng trách, phần thiệt thòi về mình bằng tấm lòng vị tha, hi sinh cao cả. Cô Kiều của Nguyễn Du đáng trân trọng là thế. Trong hoàn cảnh phải bán mình cứu cha và em vẫn tìm cách cậy nhờ Thúy Vân nối duyên với Kim Trọng, vẫn thấy nợ tình, nợ nghĩa chàng Kim. Cùng với nỗi đau tình yêu và nỗi đau thân phận, vẻ đẹp nhân cách đáng trân trọng của Kiều hẳn cũng là điều khiến người đọc thương mến. Con người ấy bao giờ cũng sống cho người khác hơn là sống cho chính mình. Tuy Thúy Kiều tự nhận mình đã phụ tình chàng Kim nhưng chắc chắn cả Kim Trọng và người đọc đều thấy nàng đáng thương chứ không hề đáng trách. Kiều đã làm tròn đạo hiếu của một người con, đã vì nghĩa quên thân. Chưa một phút giây nào người con gái ấy không nghĩ tới người thân, người thương. Nỗi niềm của Thúy Kiều được Kim Trọng thấu hiểu nên mười lăm năm sau vào ngày tái ngộ Kim – Kiều chàng vẫn trân trọng  khẳng định:

“Như nàng lấy hiếu làm trinh

Bụi nào cho đục được mình ấy vay”

Và tỏ nguyện ước thiết tha muốn được nối lại tình cầm sắt với Thúy Kiều.

Đoạn trích “Trao duyên” đã bộc lộ tư tưởng nhân đạo của nhà nhân đạo chủ nghĩa Nguyễn Du với những dòng thơ “Mực muốn múa mà bút muốn bay, văn hay phô mà chữ hay nói”, “khiến người khóc, khiến người vui, khiến người buồn”.. Nguyễn Du đã bộc lộ sự thương cảm sâu sắc cho nỗi đau tình yêu, nỗi đau thân phận của Thúy Kiều, nhất là trong tám câu thơ cuối. Đồng thời, đại thi hào còn bày tỏ sự trân trọng ngợi ca nhân cách cao thượng, phẩm giá đẹp đẽ của Thúy Kiều. Nét mới của chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du là ở chỗ nhà thơ đã hướng trọng tâm chú ý đến con người cá nhân – một phạm trù còn khá xa lạ chưa được quan tâm đúng mức trong văn học Trung Đại. Thời kì này, tinh thần phi ngã, vô ngã đề cao cái ta trách nhiệm, bổn phận vẫn đang chiếm ưu thế. Sự thức tỉnh của con người cá nhân với niềm vui và nỗi đau, với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc trên trang thơ Nguyễn Du đã đưa chủ nghĩa nhân đạo Việt Nam lên một tầm cao mới. “Truyện Kiều” nói chung và đoạn trích “Trao duyên” nói riêng xứng đáng là khúc “Nam âm tuyệt xướng”( Đào Nguyên Phổ) nhờ ngôn ngữ chọn lọc, trau chuốt và ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy. Những đoạn độc thoại nội tâm tinh tế đã hé mở chiều sâu nỗi niềm nhân vật.

“Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, Truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn của ta”, đó là câu nói của Phạm Quỳnh khi nhận xét về “Truyện Kiều”, lời ấy tưởng chừng không có gì là quá. Với những giá trị về nội dung và nghệ thuật xuất sắc, thời gian đã tôn vinh tác phẩm ấy xứng danh với tên “Tập đại thành của thơ ca Tiếng Việt.” Tóm lại, tám câu thơ cuối không chỉ cho ta thấy tình yêu và nỗi đau của Thúy Kiều mà còn làm toát lên vẻ đẹp nhân cách của nàng, dù rơi vào đau khổ tuyệt vọng đến cùng cực nhưng nàng vẫn luôn lo nghĩ cho người khác mà quên đi nỗi đau của bản thân.

Phân tích 8 câu cuối đoạn trích Trao duyên 24

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, ông đã từng sống gian khổ ở nhiều vùng quê khác nhau nên đã chứng kiến những bất công ngang trái của cuộc đời đặc biệt là người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Sau khi đi sứ Trung Quốc, Nguyễn Du đã sáng tạo nên kiệt tác ''Truyện Kiều''. Đoạn trích "Trao Duyên" trong Truyện kiều là một đoạn trích thể hiện bi kịch tan vỡ, dang dở tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng. Trong cơn gia biến, nàng đã bán mình chuộc cha. Nàng k đành lòng vs tình cảnh dang dở vs KT nên cuối cùng đành nhờ em là TV thay mình đền đáp mối tình vs chàng. Khi đã ''trao duyên'' cho TV, tức là quyết định dứt tình với KT, Kiều rơi vào trạng thái độc thoại nội tâm với nỗi đau đớn và tuyệt vọng

   Trước, nàng đau khổ vì người. Nay, lo cho người đã xong, nàng mới nghĩ đến mình và thấy mình mệnh bạc, thấy mình sẽ mất tất cả. Trong tâm trạng đau đớn tột đỉnh, Kiều trở lại với thực tại, trở lại với 9 mình. Nỗi bất hạnh hiện lên thật trọn vẹn, hiện lên trong hình dung nhưng rất cụ thể, lời lẽ của nàng bỗng chốc chuyển sang thương thân:

''Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng''

  Hàng lọat những thành ngữ được liệt kê hàm chứa chỉ sự tan vỡ, dở dang của bi kịch người con gái. Nghĩ đến tương lai mù mịt, vô định, Kiều hoang mang, tuyệt vọng. Đó là tiếng khóc nức nở thương cho số phận bất hạnh, là tiếng kêu đứt ruột cho ty dang dở của TK. Từ chỗ nói với em, nàng chuyển sang ns vs mình, ns vs ny, từ giọng đau đớn chuyển thành tiếng khóc than. TK bị giằng xé giữa 1 bên là nỗi đau của sự đổ vỡ mất mát k thể vãn hồi ''trâm gãy gương tan'', ''tơ duyên ngắn ngủi''... và 1 bên là kỉ niệm ty tràn dâng ''Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!''. Các câu cảm thán trong đoạn chỉ sự tình yêu mãnh liệt đối lập với sự chia biệt vĩnh viễn. Oan nghiệt thay, khát vọng ấy cũng chính là hiện thực không gì cứu vãn nổi. Bi kịch tình yêu dâng lên tột đỉnh. Điều ấy thể hiện sự chuyển biến liên tục của tâm trạng TK mà nỗi đau đớn, tuyệt vọng cứ tăng lên mãi, đau đớn cho phận sao ''phận bạc như vôi''. Những lời độc thoại của 1 tâm hồn khổ đau cùng cực. Những câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, có j như oán trách thân phận, có j đó như đau tủi ngậm ngùi. Chữ ''phận'' 2 lần gặp lại khiến sự hờn giận như đc nhân lên. Hai chữ ''đã đành'' gợi lên sự buông xuôi, cam chịu liên tưởng đến h/ả ''nước chảy hoa trôi'' thật TN và gợi cảm. TK buộc phải chấp nhận cảnh ''nước chảy hoa trôi lỡ làng'' mà trái tim như đang tan ra từng mảnh. Nàng đành đắc tội, gửi lời tạ lỗi vs chàng Kim và có cả sự vĩnh biệt chàng ''trăm nghìn cái lạy tình quân''

   Càng khóc than cho số phận, nỗi đau của TK càng chồng chất thêm. Cuối cùng, h/ả người tình hiện ra trong tâm tưởng và choáng ngợp cả tâm hồn của người cgái đau đớn vì lỡ mất tình yêu này. Nàng chết ngất đi trong tiếng kêu thương tưởng thấu đến tận trời:

''Ôi Kim lang! hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.''

Tiếng nấc nghẹn ngào ấy khẳng định 1 lần nữa mặc cảm có tội của Kiều. Nghĩa là nàng đã phủ nhận all những gì đã ns vs Vân, n~ j đã sắp xếp, lo lắng cho KT, phủ nhận nỗi yên tâm của mình trong khoảnh khắc lúc trao duyên. Nghĩa là nàng đang rất đau cho mình nhưng trc hết vẫn 1 mực đau cho người, vì người. Nỗi đau k giảm mà tăng lên gấp bội. Nàng gọi tên chàng Kim như trong cơn mê sảng. Với nhịp thơ 3/3, dấu ''!'', tên chàng Kim vang lên 2 lần trong 1 câu thơ thật nồng nàn, thật trang trọng, như tiếng nấc tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn của TK. Câu thơ cuối cùng là lời than mà cũng là lời tự trách mình. Là 1 con người giàu lòng vị tha, TK lúc nào cũng ân cần và chu đáo đối với chàng Kim. Nàng yêu chàng Kim hơn chính cả bản thân mình. Bởi vậy, có người cho rằng chỉ 1 chữ ''phụ'' thôi mà đã làm sáng lên vẻ đẹp nhân cách cao thượng giàu lòng vị tha của Thúy Kiều

Nguyễn Du đã thể hiện năng lực thấu hiểu con người qua việc miêu tả tâm lí, sd thành công lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Khắc họa sinh động, sâu sắc và đầy xúc cảm tâm trạng của TK khi ty tan vỡ. Dưới ngòi bút tài hoa sắc sảo đó, chúng ta thấy hiện lên rõ mồn một h/ả 1 TK nhạy cảm, giàu lòng yêu thương, rất vị tha và chu tất, 1 TK đau khổ và cao quý.

8 câu cuối là lời độc thoại nội tâm đau đớn của TK sau khi ''Trao duyên''. Nhà thơ đã miêu tả 1 cơn khủng hoảng, 1 trận sóng gió tơi bời trong lòng người cgai tội nghiệp TK. Nàng đau khổ đâu phải vì bản thân mình? All trái tim yêu thương nàng dành cho ny... Tấm lòng vị tha ấy thật cao đẹp biết chừng nào! Thương ny, mong muốn cho ny đc hp, còn mình thì chấp nhận thiệt thòi, cam chịu hy sinh, tấm lòng ấy đã gây xúc động trong lòng người đọc mấy trăm năm qua. Qa đó thấy đc nỗi cảm thông của Nguyễn Du đối vs những đau khổ và khát vọng hp ty của con người.