Dàn ý phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi hay nhất
I. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Trãi và vị trí tác phẩm đại cáo bình Ngô trong nền văn học.
– Khái quát về tư tưởng nhân nghĩa: Là tư tưởng quan trọng chủ đạo trong bài. Tư tưởng này mang tính nhân văn và có giá trị nhân đạo sâu sắc.
I.. Thân bài
1. Quan niệm về tư tưởng nhân nghĩa
– Tư tưởng nhân nghĩa xuất phát từ quan niệm Nho giáo: là mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở của tình thương và đạo lí.
– Tư tưởng nhân nghĩa trong quan niệm của Nguyễn Trãi: Chắt lọc những hạt nhân cơ bản nhất, tích cực nhất của của Nho giáo để đem đến một nội dung mới đó là:
+ Yên dân: Làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, no đủ, hạnh phúc.
+ Trừ bạo: Vì nhân mà dám đứng lên diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
→Đó là tư tưởng rất tiến bộ, tích cực và phù hợp với tinh thần của thời đại
2. Sự thể hiện của tư tưởng nhân nghĩa trong Đại cáo bình Ngô.
a. Nhân nghĩa gắn với sự khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc.
Đứng trên lập trường nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền dân tộc bằng một loạt dẫn chứng đầy thuyết phục:
– Nền văn hiến lâu đời
– Lãnh thổ, bờ cõi được phân chia rõ ràng, cụ thể
– Phong tục tập quán phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc
– Có các triều đại lịch sử sánh ngang với các triều đại Trung Hoa.
→Khẳng định độc lập dân tộc là chân lí, sự thật hiển nhiên mà không ai có thể chối cãi, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc
→Đây là tiền đề cơ sở của tư tưởng nhân nghĩa bởi chỉ khi ta xác lập được chủ quyền dân tộc thì mới có những lí lẽ để thực thi những hành động “nhân nghĩa”
b. Nhân nghĩa thể hiện ở sự cảm thông, chia sẻ với nỗi thống khổ của người dân mất nước.
Đứng trên lập trường nhân bản, tác giả liệt kê hàng loạt những tội ác dã man của giặc Minh với nhân dân ta:
– Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ,..
– Bóc lột thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật: nặng thuế khóa, nơi nơi cạm đất
– Phá hoại môi trường, sự sống: tàn hại giống côn trùng, cây cỏ,…
– Bóc lột sức lao động: Bị ép xuống biển mò ngọc, người bị đem vào núi đãi cát tìm vàng,..
– Phá hoại sản xuất: Tan tác cả nghề canh cửi,…
→Nỗi căm phẫn, uất hận của nhân dân ta trước tội ác của giặc
→Niềm cảm thông, xót xa, chia sẻ với nỗi thống khổ mà nhân dân ta phải chịu đựng
c. Nhân nghĩa là nền tảng sức mạnh để chiến thắng kẻ thù.
– Cuộc chiến của ta ban đầu gặp vô vàn khó khăn: Lương hết mấy tuần, quân không một đội
– Nhưng nghĩa quân biết dựa vào sức dân, được nhân dân đồng tình, ủng hộ đã phản công giành được thắng lợi to lớn:
+ Những thắng lợi ban đầu đã tạo thanh thế cho nghĩa quân, trở thành nỗi khiếp đảm của kẻ thù
+ Nghĩa quân liên tiếp giành thắng lợi tiêu diệt giặc ở các thành chúng chiếm đóng, tiêu diệt cả viện binh của giặc.
→Tư tưởng nhân nghĩa với những hành động nhân nghĩa đã khiến quân và dân có sự đoàn kết, đồng lòng tạo thành sức mạnh to lớn tiêu diệt kẻ thù bởi tất cả mọi người đều cùng chung một mục đích chiến đấu
d. Nhân nghĩa thể hiện ở tinh thần chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo của dân tộc.
– Sau khi tiêu diệt viện binh, quân ta đã thực thi chính sách nhân nghĩa
+ Không đuổi cùng giết tận, mở đường hiếu sinh.
+ Câp thuyền, phát ngựa cho họ trở về.
– Để quân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức
→Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo, vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, khẳng định tính chất chính nghĩa cuộc chiến của ta, thể hiện truyền thống nhân đạo, nhân văn, chuộng hòa bình của dân tộc Đại Việt
→Thể hiện tầm nhìn xa trông rộng để duy trì quan hệ ngoại giao sau chiến tranh của dân tộc ta với Trung Quốc.
I.I. Kết bài
– Khái quát, đánh giá lại vấn đề
– Liên hệ tư tưởng nhân nghĩa trong thời đại nay: vẫn còn được ngợi ca và là truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên ứng với mỗi hoàn cảnh cụ thể nó lại mang những ý nghĩa giá trị khác.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 1
“Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của nước Nam, sau bài “Nam quốc Sơn Hà” của Lý Thường Kiệt. Đọc những câu thơ hùng hồn, hào sảng, chúng ta sẽ nhận ra tư tưởng nhân nghĩa là tư tưởng xuyên suốt bài cáo. Nó làm nền cho những tư tưởng khác và làm nên sự thành công của bài cáo.
Tư tưởng nhân nghĩa không phải là tư tưởng quá lạ đối với nước Nam. Đây là tư tưởng đã được Nho giáo nhắc đến rất nhiều. Tuy nhiên với nho giáo thì nhân nghĩa chính là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người. Nhưng đến Nguyễn Trãi thì quan điểm nhân nghĩa của ông không phải bao hàm nội dung rộng như vậy. Đối với ông – nhà lãnh đạo tài ba thì nhân nghĩa chính là “yên dân”:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Với hai câu thơ trên đã khái quát được tư tưởng nhân nghĩa lớn lao của Nguyễn Trãi đối với dân với nước. Ông không suy nghĩ sâu xa, không như Khổng Tử. Đối với ông nhân nghĩa thực ra là khái niệm rất gần gũi với đời thường. Để có đất nước thống nhất hòa thuận, trước hết cần phải “yên dân”. Khi dân được yên, được sống trong ấm no hạnh phúc thì tất thảy đất nước đó sẽ phát triển như một quy luật. Đây là một tư tưởng rất hiện đại, mà sau này Hồ Chí Minh đã thừa kế và phát huy “Lấy dân làm gốc”.
Có thể thấy Nguyễn Trãi đã coi ‘dân” chính là trụ cột của một quốc gia, người chèo thuyền cũng là dân và người lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng này giản dị nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc. Trong những cuộc kháng chiến thì nhân dân đóng vai trò quan trọng đối với sự thắng bại của cuộc chiến đó. Nếu dân mạnh, lòng dân yên thì ắt hẳn sẽ đánh bay hết sự tàn bạo của quân thù.
Nguyễn Trãi xem những hành động tàn bạo, man rợ của các nước chư hầu cuối cùng sẽ bị trừng phạt thích đáng.
Nguyễn Trãi không có tư tưởng cầu hòa, nhân nhượng hay thỏa hiệp mà nhất định phải dùng lòng dân và sức dân:
Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo
Đối với ông thì việc nghĩa luôn chiến thắng việc gian ác và những kẻ xảo quyệt sẽ bị đền tội. Với giọng văn hùng hồn, quyết liệt, ông đã thuyết phục được người đọc về thuyết nhân nghĩa thời bấy giờ, còn có ảnh hưởng cho đến ngày nay.
Nếu như trước đây Lý Thường Kiệt nêu ra định nghĩa về độc lập là việc khẳng định chủ quyền thì sang Nguyễn Trãi, ông đã hùng hồn:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán ĐƯờn Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một nên
“Văn hiến” của nước Nam là do nhân dân Việt Nam xây dựng, trải qua thăng trầm, sự tàn khốc và mất mát của chiến tranh mới có được. Tư tưởng ấy rất thiết thực và phù hợp đối với hoàn cảnh của đất nước ta.
Sức mạnh của nhân nghĩa đã tạo nên những chiến thắng vang dội núi sông:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Với những chiến thắng vang dội, oanh liệt đó chính là nhờ sự đoàn kết, lấy ích địch nhiều của nhân dân ta. Không phải dân tộc nào cũng có thể làm được như vậy, dân tộc ta là dân tộc lấy dân làm gốc, mọi việc do dân và làm vì dân.
Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ được thể hiện ở ý chí cũng như sự đoàn kết của nhân dân mà còn thể hiện thái độ đối với quân Trung Quốc khi thất thủ. Quân và dân ta không giết hại mà còn dành cho “Đường hiếu sinh”. Chỉ với những hành động đó đã đủ thấy được tinh thần nhân nghĩa, không triệt đường của kẻ khác thật đáng ngưỡng mộ.
Chính tư tưởng nhân nghĩa mang đậm nhân đạo đó đã giúp cho đất nước ta được tự do, độc lập, thoát khỏi ách nô lệ 4000 năm lịch sử;
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Một lời khẳng định chắc nịch, như một hồi chuông vang lên để cho mọi người trên thế giới này biết được rằng đât nước Việt Nam đã có chủ quyền, đã thực sự hòa bình và thống nhất.
Cho đến bây giờ, khi đã trải qua bao nhiêu thăng trầm và biến cố nhưng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi vẫn còn giữ nguyên giá trị. Nó giúp cho đất nước ta có được nhiều thành tựu vang dội như hiện nay. Gấp trang sách lại nhưng còn vang vọng đâu đây tư tưởng nhân nghĩa, nhân đạo của ông.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi hay nhất 2
Nguyễn Trãi là một vị anh hùng của dân tộc, là danh nhân văn hóa của thế giới. Cuộc đời ông trải qua nhiều biến cố và oan ức nhưng ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị đồ sộ cho đời sau kể cả về chữ nôm và chữ hán. Trong đó “bình ngô đại cáo” là một trong những tác phẩm kiệt xuất của ông .
Bình ngô đại cáo là một khúc tráng ca nhằm ca ngợi cuộc khởi nghĩa chống quân Minh xâm lược của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . Hơn thế nữa, tác phẩm này đã trở thành một áng thiên cổ hùng văn bất hủ đời đời, là một bản tuyên ngôn độc lập đanh thép ,hùng hồn về nền độc lập của dân tộc ta. Điểm cốt lõi của tác phẩm được thể hiện cả hai tư cách đó là “nhân nghĩa” mà nhân dân ta ca ngợi mãi cho đến về sau.
Mở đầu cho tác phẩm thì Nguyễn Trãi đã nêu lê một nguyên li nhân nghĩa đó là “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Tư tưởng nhân nghĩa đó xuyên suốt cả bài thơ, dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi chống giặc ngoại xâm mang lại sự bình yên,ấm no và hạnh phúc cho muôn dân.
Nhân nghĩa là tinh thần chính nghĩa của nhân dân mang lại bản sắc riêng của dân tộc. Nhân nghĩa ở đây chính là để trừ bạo cho dân, nó được biểu hiện bằng những việc làm cụ thể hơn. Đó là chống quân xâm lược để giữ vững bờ cõi ,tiêu diệt các cuộc phản nghịch chống lại triều đình.“quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã xem việc an dân là mục tiêu của nhân nghĩa , đó là trừ bọn cướp nước . Dùng nhân nghĩa để đối xử với những bọn bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng là việc làm nhân nghĩa
Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc tới đó là lòng thương dân, tin tưởng và biết ơn nhân dân. Dan chúng luôn được ông nhắc tới trong chiến tranh và trong thời bình . Nhân dân sản xuất ra của cải vật chất ,sống gần dân thương dân và lúc nào cũng chỉ nghĩ đến nhân dân trước tiên. Chính vì vậy mà chúng ta thấy được rõ ngay từ đầu bài cáo chúng ta thấy nhắc được tới nhân dân đầu tiên. Trong suốt cuộc đời của sống sống gần dân và ở ngay cạnh dân cho nên ông hiểu được mong muốn của nhân dân.
Tư tưởng nhân nghĩa đó còn là sự bao dung đối với kẻ thù. Tư tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thê hiện ở trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn . Có thể nói rằng chính tư tưởng ấy cùng với tài mưu lược đã chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Tư tưởng nhân nghĩa đó còn được thể hiện ở sự khoan dung cho kẻ thù khi chúng bại trận. Nó thể hiện được đức hiếu sinh của dân tộc ta cũng như tấm lòng bao dung của Nguyễn Trãi khi đối phó với địch trong cuộc khởi nghĩa. Chúng ta đánh giặc bằng ý chí sức mạnh và sự căm thù nhưng khi chúng bại trận đầu rơi máu chảy thì chúng ta có sự khoan dung. Ta chiến đấu cũng chỉ để lấy lại lãnh thổ, lấy lại sự bình yên cho muôn dân, đó chính là mục tiêu cuối cùng.
Những việc làm của dân tộc ta đối với kẻ thù làm cho nước họ phải tôn trọng, biết ơn. Và chính việc làm này cũng khiến cho quân minh e dè không dám quay đầu lại xâm lược nước ta nữa. “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đây thật sự là một tư tưởng lớn cho con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống vang mãi cho tới muôn đời sau.
Ta cũng có thể hiểu được tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp ích cho nhân dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm người hiền tài càng nhiều thì lúc đấy xã tắc mới hưng thịnh được ,nhân dân mới ấm no hạnh phúc.
Qua tác phẩm bình ngô đại cáo cho chúng ta thấy rằng tư tưởng nhân đạo, là một minh chứng cho cuộc chiến thắng hùng hồn của nhân dân ta.
Tư tưởng nhân nghĩa trong bình ngô đại cáo không chỉ là có ý nghĩa to lớn mà còn có tầm ảnh hưởng rất nhiều đến tình hình chính trị của đất nước ở thời đại sau. Lí tưởng nhân nghĩa này luôn trường tồn mãi mãi với dân tộc ta cho đến tận bây giờ.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 3
Nhắc tới tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam, toàn dân tộc ta sẽ nhớ ngay đển bản “ Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được viết năm 1945. Bên cạnh đó, “ Bình ngô đại cáo “ của Nguyễn Trãi cũng được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước Nam. Những lời thơ hùng hồn, mạnh mẽ, khẳng định chủ quyền dân tộc là dòng chảy xuyên suốt cả bài thơ- được sáng tác thay lời Lê Lợi khẳng định sau khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng.
Tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp luôn được lưu giữ và truyền đạt qua các thế hệ con cháu từ bao đời nay. Nguyễn Trãi đã viết :
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Bài học cao cả của Nho giáo luôn dăn dạy đó chính là phải duy trì mối quan hệ tốt đẹp giữ người với người. Nhưng đến Nguyễn Trãi, quan điểm nhân nghĩa của ông cho rằng : Đối những người cầm quyền cần phải biết giữ cho quốc thái dân an. Đất nước có thể lớn mạnh, phát triển đến nhường nào thì nền tảng chính là giữ cho người dân co cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Vì thế, quân điếu phạt phải quyết tâm dẹp tan giặc thù để yên vị lòng dân, lấy dân làm gốc như lời dăn dạy của Bác.
Có thể thấy, Nguyễn Trãi được người đời tôn trọng, vinh danh không chỉ dựa vào tài bút thơ, mà còn vì tư tưởng lãnh đạo của ông, luôn coi dân là trụ cột của quốc gia. Dân là nòng cốt của lực lượng chiến đấu, lòng dân yên ổn ý chí của dân càng tăng cao thì ắt hẳn sẽ đánh bay được quân thù.
Đối với những kẻ thù địch man rợ, Nguyễn Trãi không có tư tưởng cầu hòa, lấy sức dân để đánh đổi lấy hòa bình:
“ Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Cái thiện sẽ luôn chiến thắng cái ác, bởi vậy ông tin tưởng rằng “ gieo nhân nào gặt quả ấy”, kẻ làm việc gian ác sẽ phải bị đền tội. Đó là một quan điểm , tư tưởng chính đáng suốt bao đời nay.
Trong suốt bài Cáo Bình ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi luôn hướng về lòng dân. Ông xót thương cho dân ta khi phải chịu quân cuồng Minh đàn áp:
.” Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ “
Trải qua biết bao gian khổ lầm than, sự tra tấn dã man của giặc thù , hơn ai hết Nguyễn Trãi là người hiểu rõ lòng thương cảm và căm giận sâu sắc. Phận dân đen, con đỏ thấp cổ bé họng, những người suốt đời chỉ biết bán mặt cho đất, bán lưng cho trời nhưng vẫn không thoát khỏi đòi roi mắng chửi. Sự quan tâm này thật cảm động lòng dân, khi những vị quan mấy ai có thể có được tư tưởng như ông.
Thế nhưng, đối với Nguyễn Trãi , tư tưởng nhân nghĩa không chỉ được thể hiện ở ý chí cũng như tấm lòng thương yêu nhân dân, mà còn được thể hiện thái độ đối với quân Minh khi thất thủ. Đều là phận con người, quân và dân ta không giết hại mà còn dành cho “ Đường hiếu sinh”. Những hành động đó đã đủ thấy được tinh thần nhân nghĩa, bao dung, nhân hậu thật đáng ngưỡng mộ.
Trải qua bao năm vất vả , đắm chìm trong máu và nước mắt, đến lúc đất nước được hòa bình, Ông không bao giờ quên những người dân máu đỏ da vàng đã phải đổ máu vì non sông: Than ôi,, một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm… với tấm lòng xót xa cho những gì đã mất- đó là bao nhân mạng con người.
Tâm hồn Nguyễn Trãi thật thanh cao, nhân nghĩa. Ông sống và đã cống hiến hết mình vì dân vì nước. Tư tưởng nhân nghĩa của ông vượt thời gian- qua bao thế kỉ, triều đại nhưng không ai có thể quên được đức danh của ông. Chẳng vậy mà vua Lê Thánh “tông đã nói về ông rằng” ức trai lòng sáng tựa sao khuê”.
“ Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 4
Nguyễn Trải (1380 – 1442) một trong những người đóng góp lớn lao không chỉ cho quê hương đất nước mà còn cho nền thi ca Việt Nam. Những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Trãi như Quốc Âm thi tập, Dư địa chí,.. thông qua đó, tác giả gửi gắm những tư tưởng , triết lí sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân, lí tưởng xây dựng một đất nước tươi đẹp. Bình ngô đại cáo là một trong những tác phẩm đặc sắc, thể hiện rõ triết lí nhân nghĩa của tác giả, cũng tạo nên dấu ấn sâu sắc trong lịch sử tư tưởng của Việt Nam
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi bao trùm tất cả các tác phẩm cũng như lối sống và cuộc đời của ông. Qua Bình ngô đại cáo, tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở nhiều khía cạnh, đó là thương dân, vì dân, sự khoan dung độ lương, tư tưởng “ lấy dân làm gốc” cho nên, ông đau trước nỗi đau của dân, căm thù trước nỗi căm thù của dân.
Đối với Nguyễn Trãi , tư tưởng nhân nghĩa chính là việc yên dân và trừ bạo, Chính vì dân là gốc rễ, dân là ngọn nguồn của sự an nguy của nước nhà, cho nên dân trăm họ là con của vua, là những đứa con mà cần phải bảo vệ che chở. Cho nên
“ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Như vậy nhân nghĩa ở đây chính là yêu nước , thương dân, đánh đuổi bọn xâm lược, có ý đồ xâm hại đến chủ quyền lãnh thổ của nhân dân ta. Như vậy trừ bạo để yên dân và yên dân để mạnh hơn cho việc trừ bạo. Nó vừa là đối tượng vừa là phương tiện của nhân nghĩa. Bên cạnh đó, mạng đậm tinh thần và sắc thái yêu nước của dân tộc Việt Nam, người nhân nghĩa phải đứng lên đấu tranh cho hợp tròi hợp người nên có thể “ lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều “. Có thể nói, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng an dân , đó là một niềm khát khao mãnh liệt , mà cần có dày công mới gây dựng và bảo vệ được. Dân là sức mạnh , là sự đoàn kết thống nhất, nó tạo nên một nguồn mạnh mẽ vượt qua mọi sự càn quét và hung tàn của kẻ thù. An dân cũng còn có nghĩa là làm cho cuộc sống nhân dân trở nên no đủ, nhà nhà yên ấm… Mọi thứ phải lấy dân làm gốc, phải dựa vào sức dân, tư tưởng này đã xuất hiện và xuyên suốt từ thời nhà Lí và nó trường tồn cho tới thế hệ sau này.
Tư tưởng nhân nghĩa không chỉ dừng lại đó mà còn là tư tưởng trọng dân, biết ơn công lao của nhân dân. Bằng những tiếp xúc với dân chúng, Nguyễn Trãi có cuộc sống gần gũi với dân chúng khá lâu , cho nên ông cũng hiểu được nhân dân là người tạo ra của cải vật chất, người có đóng góp nhiều ngay cả ở thời bình và thời chiến.Do đó, ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử.
Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng. Đây chính là một nét riêng biệt độc đáo trong tư tưởng nhân nghĩa của ông, xuyên suốt các tác phẩm. Nhân nghĩa gắn liền với nhiệm vụ cao cả bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, một gang một tấc cũng vô cùng quý giá. Nước Đại Việt cũng đứng ngang hàng với các nước khác, có lịch sử phát triển lâu dài “ nền văn hiến lâu đời” , đây chính là truyền thống được gìn giữ qua hàng nghìn năm dựng nước và dựng nước,tinh thần bất khuất không sọ hãi trước kẻ thù.
“ Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục bắc nam cũng khác”
Vậy nên, chủ quyền của đất nước ta là của ta, không ai được phép xâm lấn, cùng với đó là sự đặt ngang hàng vị thế của nước ta với các nước to lớn và có quyền lực khác, để càng nhấn mạnh sức mạnh của dân tộc ta không bao giờ lụi tàn.
Nhân nghĩa còn được thể hiện ở sự cảm thông, đau đáu trước nỗi khốn khổ tù đày của dân chúng. Giống như đứa con ruột của mình, mang nặng đẻ đau,chứng kiến lũ con dân bị đẩy vào tù túng, khổ sở mà lòng đau như cắt:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc
….
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng”
Đất nước ta và con người ta yêu chuộng hòa bình, trong bình ngô đại cáo – được xem như bản tuyên ngôn đọc lập thứ 2 của nước ta thì tư tưởng nhân nghĩa được thể hiện ở tinh thần yêu chuộng hòa bình, tinh thần nhân đạo cao cả, dù chúng ta bị chúng xâm chiếm, đày ải bao nhiêu. Những triết lí này của dân tộc ta được thể hiện xuyên suốt chiều dài lịch sử:
“ Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
…
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
Quay trở về với việc tha cho bọn chúng cũng vì thương dân, cũng lo sợ dân sẽ mất sức mất của ,hi sinh quá nhiều vì những cuộc chiến đẫm máu.dù làm gì thì ông vẫn nghĩ tới lợi ích lâu dài của đất nước của nhân dân. Dân lầm than nước nhà cũng chẳng được yên ổn, chỉ có tổng hợp sức mạnh mới chiến thắng tất cả
Tư tưởng nhân nghĩa là một trong những nét đặc trưng xuất hiện hầu hết ở các tác phẩm của Nguyễn Trãi đặc biệt là trong bài “ Bình Ngô đại cáo”. Qua tác phẩm cũng như những tư tưởng mà ông gửi gắm, chúng ta có thể thấy được sự khoan dung nhân đạo, cũng như tầm nhìn xa trông rộng của một vị anh tài.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi hay nhất 5
Nguyễn Trãi là một đại thi hào dân tộc Việt Nam. Ông thật xứng danh là một nhân vật lịch sử vĩ đại cho hàng ngàn thế hê sau học hỏi và noi theo. Người anh hùng ấy vừa gây dựng nên bao công lao to lớn cho đất nước vừa để lại cho nền văn học nước nhà một khối lượng lớn các tác phẩm vô cùng giá trị với tư tưởng nhân văn, nhân nghĩa sâu sắc. Trong đó, không thể không kể đến tác phẩm “Bình ngô đại cáo”.
Đây được coi như bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của đất nước. Mà ở đó ông đã khẳng định độc lập chủ quyền dân tộc, đã đưa ra những chân lý hết sức xác thực và đanh thép, rằng kẻ ác kẻ hung tàn dù có mạnh đến mấy cũng không bao giờ giành chiến thắng, rằng ranh giới bờ cõi đất Việt đã chia rõ ràng, không có kẻ nào có thể xâm chiếm được. Cùng với đó là tư tưởng nhân nghĩa – một thứ tư tưởng không thể tách rời với vận mệnh của đất nước, của nhân dân.
“Nhân” là người, “nghĩa” là nghĩa tình, nghĩa lý. Nhân nghĩa là sự đối nhân xử thế giữa người với người sao cho có ý nghĩa, có tình có lý. Trong “Đại cáo bình ngô” Nguyễn Trãi đã thể hiện tư tưởng nhân nghĩa rất rõ ràng và chí lý. Ngay trong những câu thơ mở đầu, ông đã viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Trong hai câu thơ này, Nguyễn Trãi đã khẳng định luôn việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Tức nhân dân làm chủ, người lãnh đạo phải luôn luôn đặt lợi ích của dân lên làm đầu, chớ có vì lợi ích riêng mà hãm hại dân lành. Ông cũng nhắc đến tấm gương của Thang, của Vũ đã vì dân mà đánh kẻ có tội là Kiệt, là Trụ. Họ đã thẳng thắn, không bao che cho nhau. Như thế mới là nhân nghĩa. Như vậy, việc nhân nghĩa không hề là một khái niệm trừu tượng, mà ở đây, Nguyễn Trãi đã giải thích rất rõ ràng nhân nghĩa chính là những việc làm cụ thể, xứng đáng, là những việc mà người lãnh đạo, người cầm quyền làm cho nhân dân. Nguyễn Trãi còn đưa ra nhiều chứng cứ xác thực:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyễn mỗi bên xứng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”.
Nguyễn Trãi đã liệt kê ra một loạt những nhân chứng của lịch sử nước nhà cho sự nhân nghĩa. Chính vì nhân nghĩa nên đất nước dẫu có lúc Bắc Nam hai miền hai phong tục, hay có khi mạnh khi yếu, song đời nào cũng vẫn có những vị anh hùng hào kiệt đáng ngợi ca.
Nhân nghĩa không chỉ là cách ứng xử riêng tư giữa một hai người với nhau, mà hơn thế, nhân nghĩa còn là một tư tưởng lớn của dân tộc. Cũng chính vì lòng nhân nghĩa, nên Nguyễn Trãi đã thấu hiểu hơn ai hết những nỗi đau tột cùng mà bọn giặc Minh đã gây ra cho nhân dân. Bằng nỗi căm hờn khinh ghét, Nguyễn Trãi đã thẳng tay tố cáo tội ác của bọn chúng:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Tội ác này chúng sẽ không bao giờ gột rửa được. Câu thơ bất động mà như tanh mùi máu bởi những từ ngữ gợi hình gợi cảm cùng giọng điệu ai oán xót xa mà Nguyễn Trãi đã khéo léo sử dụng. Bọn chúng còn đưa ra đủ các thứ thuế bắt nhân dân phải nộp hàng tháng, hàng năm.
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc”.
Chúng bắt dân ta phải phục tùng, phải lao động khổ sai ở những nơi nguy hiểm, tính mạng có thể mất bất cứ lúc nào. Chúng càn quét, vơ vét hết sản vật, chim trả, hươu đen… Tội ác của chúng khiến ngòi bút văn chương của ông phải ghê rợn:
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần nhân chịu được?”
Tội ác tày trời của giặc Minh không thể kết xiết được. Thù này nhất định phải trả.
Như vậy, một lần nữa, lòng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi chỉ ra bằng hành động cụ thể: nhìn nhận chính xác kẻ thù, vùng dậy đấu tranh bằng lòng quả cảm, quyết liệt, dù có phải đổ máu cũng không tiếc chi. Từ tinh thần ấy, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được nổi lên. Dù ban đầu, phía quân ta thiếu thốn đủ đường: thiếu nhân lực, thiếu lương thực, thiếu vũ khí… Nhưng, đổi lại, ta lại có những mặt lợi thế:
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông, chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh;
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Lòng nhân nghĩa đang được Nguyễn Trãi thể hiện bằng những hành động, những chiến lược quân sự cụ thể. Một lực lượng non yếu, thiếu thốn không cân sức khó mà chiến thắng được, nhưng với thế trận xuất kỳ, với các mai phục thông minh, nhất định ta sẽ giành thắng lợi. Biết mình, biết ta, trăm trận trăm thắng. Có lẽ Nguyễn Trãi cũng thấu hiểu điều đó nên đã ngày đêm tìm hiểu, nghiên cứu để tìm ra thế trận chống lại đội quân hung ác của giặc. Và đúng như những gì mong muốn, quân ta đã giành thắng lợi vẻ vang. Lũ giặc Minh gian ác đã phải trả giá với những gì mình đã gây ra cho dân Việt:
“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân…”
Bằng sự quyết tâm và ý chí chiến đấu quyết liệt theo đúng tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đã đưa ra ngay từ đầu, nhân dân ta đã toàn thắng một cách rất hào hùng, oanh liệt. Ông đã liệt kê rất nhiều kỳ tích vang dội của nhân dân:
“Đánh một trận sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”
Từ lòng nhân nghĩa, thương dân cùng với sự tương trợ nỗ lực hết mình của tất cả mọi người, cuộc khởi nghĩa đã toàn thắng vẻ vang. Ngược lại, giặc Minh thất bại thảm hại. Đã đến lúc chúng phải đền bù cho những tội ác tày trời mình đã gây ra.
“Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi
Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ”.
Những kỳ tích vang dội của quân ta giành được chính là nhờ có lòng nhân nghĩa, có sự đóng góp công sức to lớn của từng người, từng người trong đoàn quân ít ỏi với vô vàn khó khăn, thiếu thốn. Đúng như lúc đầu Nguyễn Trãi đã nói “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Đến giờ phút này tất cả đã được minh chứng bằng hành động cụ thể, bằng chiến thắng vang dội của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Sau bao gian lao vất vả, hòa bình đã lập lại, non sông Việt Nam lại đi vào công cuộc xây dựng đổi mới đất nước. Lúc này, lòng nhân nghĩa chính cũng chính là niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
“Xã tắc từ nay vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiều khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Muôn thuở đều thái bình vững chắc
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy
Thân ôi !
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay.”
Niềm vui chiến thắng hòa lẫn với hào hứng bắt tay vào công cuộc mới, công cuộc xây dựng đất nước thời bình. Nguyễn Trãi cũng không quên ghi nhớ công lao của những thế hệ trước đã ngầm giúp đỡ.
Như vậy, tư tưởng nhân nghĩa đã xuyên suốt tác phẩm, được minh chứng cụ thể bằng sự chiến thắng vẻ vang oanh liệt của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Trong cuộc khởi nghĩa ấy, một bên ngang tàng ngang sức, ác độc với lực lượng quân đội rất đông và mạnh, vũ khí tối tân hiện đại, còn một bên thiếu thốn trăm bề từ lực lượng đến lương thực… nhưng sau cùng, “đại nghĩa” đã thắng “hung tàn”. Đó cũng là một quy luật tất yếu của tự nhiên. Cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác.
Tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp trong tác phẩm khiến ta nhìn lại những gì đang diễn ra trên đất nước mình của ngày hôm nay. Một đất nước hòa bình, độc lập tự do, đầy đủ. Thế nhưng không phải ai cũng cố gắng phấn đấu xây dựng nước nhà. Ngay trong đội ngũ lãnh đạo đất nước đã có không ít kẻ lạm dụng chức quyền mà tham ô tiền của, đất đai của nhân dân. Làm vậy không những không còn lòng nhân nghĩa mà còn trở thành kẻ thù của dân.
Cuộc chiến tranh của thời bình chẳng phải chống lại ai xa lạ mà chống lại chính những kẻ không có lòng nhân nghĩa, những kẻ đã ác tâm làm hại dân lành. Ngược lại, trong thế hệ trẻ cũng có không ít những người đi vào con đường tội lỗi làm nhũng loạn xã hội. Tất cả đều cần phải nhìn nhận lại chính mình, xem xét lại lòng nhân nghĩa của mình ở đâu. Lòng nhân nghĩa xuất phát từ chính những hành động nhỏ nhất như sự cố gắng học tập, làm việc của mỗi cá nhân, sự kỷ luật nghiêm túc của mỗi tập thể…
Tác phẩm đã khép lại nhưng với giá trị như một bản Tuyên ngôn độc lập, Nguyễn Trãi đã để lại cho đời sau một bài học vô cùng sâu sắc về lòng nhân nghĩa. Giọng văn lúc hào hùng, đanh thép, lúc trầm lắng, bình thản đã đưa những câu thơ đi vào lòng người một cách rất tự nhiên. Cho đến nay, tác phẩm vẫn còn nguyên giá trị và được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của đất nước.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 6
Nguyễn Trãi đã từng viết: “Bui có một lòng trung lẫn hiếu/ Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen”, câu thơ đã cho thấy khí tiết, tấm lòng suốt một đời vì dân vì nước của ông. Nguồn gốc tạo nên tấm lòng đẹp đẽ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa là kim chỉ nam, chi phối toàn bộ sáng tác của Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại cáo được viết cũng không phải nằm ngoài vòng ấy. Tư tưởng nhân nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm này của ông.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã khẳng định:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân là khái niệm trung tâm của tư tưởng nho gia, nhân tức là yêu thương con người; nghĩa là những điều hợp lẽ phải, làm theo khuôn phép xử thế. Mạnh Tử đã kết hợp hai khái niệm này tạo thành “nhân nghĩa” là nguyên tắc ứng xử cơ bản trong quan hệ giữa con người với nhau, giữa con người phải yêu thương nhau. Đến Nguyễn Trãi, ông đã nâng tư tưởng lên một tầm cao mới, nhân nghĩa với Nguyễn Trãi không chỉ dừng ở hành xử yêu thương mà còn phải là làm cho nhân dân có cuộc sống yên ổn “yên dân” và cách thức hành động chính là “trừ bạo”. Trừ bạo ở đây chính là tiêu diệt quân Minh xâm lược, để đem lại cuộc sống an bình, hạnh phúc cho nhân dân. Cả đời ông luôn lo nghĩ cho dân, luôn mong nhân dân sống trong an ấm, no đủ: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng/ Dân giàu đủ khắp đòi phương”, ông lo cho dân bằng tất cả tấm lòng, tình yêu thương bao la. Đây là tư tưởng vô cùng tiến bộ và cho đến ngay nay nó vẫn còn giữ nguyên giá trị. Câu luận đề này chính là sợ dây đỏ để Nguyễn Trãi triển khai toàn bộ tác phẩm của mình.
Để làm nổi bật tư tưởng nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã lật mở những trang sử hào hùng trong quá khứ của dân tộc để thấy được thất bại thảm hại của những kẻ luôn mang tư tưởng xâm lược nước khác, giọng văn ở đây thật hào sảng:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Không chỉ ở quá khứ, mà ngay cả ở thời điểm hiện tại, quân Minh đã gây ra biết bao tội ác cho nhân ta: “Người bị bắt xuống biển còng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng/ Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc”… Tội ác của chúng “Bại nhân nghĩa nát cả đất trời” khiến cho “Lẽ nào trời đất dung tha/ Ai bảo thần dân chịu được?”. Đọc những câu thơ ta như cảm nhận được hết nỗi đau khổ, tủi nhục mà nhân dân đã phải chịu đựng suốt bao năm qua và càng căm tức hơn những tội ác của quân Minh đối với người dân vô tội.
Chính bởi tội ác khiến cả trời đất không dung tha như vậy nên Lê Lợi đã phất cờ, đứng lên khởi nghĩa, dành lại độc lập cho dân tộc: “Trời thử lòng trao cho mệnh lớn/ Ta gắng chí khắc phục gian lao”. Chính Lê Lợi đã hiện thực hóa tư tưởng nhân nghĩa, tiêu diệt kẻ cường bạo để đem lại cuộc sống bình yên cho muôn dân: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Sau bao năm tháng nếm mật, nằm gai, nghĩa quân trải qua biết bao thử thách, cuối cùng ngày một lớn mạnh, nhận được sử ủng hộ của muôn dân: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/ Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”. Toàn dân đoàn kết một lòng đem hết sức mạnh thể chất và tinh thần chống lại bọn cuồng Minh. Bởi đây là cuộc kháng chiến chính nghĩa nên thế và lực của ta ngày một cải thiện, từ thế bị động, yếu ớt ta chuyển sang thế chủ động, liên tục tấn công như vũ bão, giáng những đòn mạnh mẽ làm kẻ thù không kịp trở tay: “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía/ Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân”. Quân ta đi đến đâu chiến thắng đến đó, uy lực và sức mạnh không gì có thể sánh nổi: “Gươm mài đá, đá núi cùng mòn/…/Đánh hai trận tan tác chim muông”. Trái lại, kẻ thù lộ diện là những kẻ ham sống sợ chết, khi thất bại kẻ đầu hàng, kẻ dày xéo lên nhau hòng thoát thân: “lê gối dâng tờ tạ tội” “trói tay để tự xin hàng”. Nguyễn Trãi liệt kê hàng loạt thất bại thảm hại của kẻ thù với câu văn giàu hình ảnh: thây chất đầy đường, máu trôi đỏ nước, khiếp vía mà vỡ mật, xéo lên nhau chạy để thoát thân,… Biện pháp liệt kê đã tỏ ra vô cùng đắc dụng, giọng văn hào hùng, sảng khoái, Nguyễn Trãi đã lên tiếng khẳng định lại một lần nữa sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng ấy đã đem lại chiến thắng vẻ vang cho dân tộc ta.
Tư tưởng nhân nghĩa còn được thể hiện trong cách đối đãi với kẻ thù. Mặc dù giặc Minh gây ra những tội ác tày trời với nhân dân ta, nhưng khi chúng bại trận, thua thảm hại, cầu hòa, quân ta lập tức đồng ý: Họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng/ Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Đây là hành động đối xử hết sức nhân văn, nhân bản với kẻ thù, cho chúng một con đường sống, cấp vài nghìn thuyền cho chúng về nước. Cách làm này vừa khiến chúng thua trong tâm phục khẩu phục, vừa tạo điều kiện cho nhân dân ta nghỉ ngơi, dưỡng sức sau những năm dài gian lao chiến đấu, đồng thời đây cũng là cơ hội để triều đình mới xây dựng đất nước vững mạnh cả về kinh tế và quân sự. Quả là “Chẳng những mưu kế kì diệu/ Cũng là chưa thấy xưa nay”.
Chiến công oanh liệt được kết thúc bằng lời tuyên bố đầy khí thế, hào hùng: “Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh”. Tư tưởng nhân nghĩa đã đem lại sức mạnh vô biên cho quân dân ta, giúp dân ta giành được thắng lợi vẻ vang, không chỉ giành lại độc lập cho dân tộc mà còn cho thấy tư thế, tầm vóc của một dân tộc luôn sống và đề cao đạo lý nhân nghĩa.
Với ngòi bút chính luận sắc sảo, lập luận sắc bén hùng hồn, dẫn chứng phong phú thuyết phục, Nguyễn Trãi đã tạo nên một áng thiên cổ hùng văn cho muôn đời. Giá trị của áng thiên cổ ấy chính là tư tưởng nhân nghĩa sáng ngời cho đến mãi muôn đời sau.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 7
Nhà vua, nhà thơ Lê Thánh Tông từng viết:
Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo
(Ức Trai lòng sáng tựa sao Khuê)
Chẳng phải ngẫu nhiên mà bậc minh quân nhà Lê lại viết về bậc khai quốc công thần – Nguyễn Trãi như thế. Nhìn lại cuộc đời đầy vinh quang mà thảm khốc của Ức Trai, càng thấy tấm lòng ấy sáng rực cả non sông, chiếu sáng muôn đời. Từ cuộc sống trần thế đến văn chương, nhân cách, đức độ và cống hiến của ông luôn trọn vẹn. Mà một trong những điều làm nên sự toàn đức toàn tài đó chính là tư tưởng cốt lõi cả cuộc đời ông – tư tưởng nhân nghĩa. Bản Bình Ngô đại cáo, một áng văn chính luận xuất sắc của Nguyễn Trãi đã thể hiện sáng ngời tư tưởng ấy.
Xuất phát từ một quan niệm đạo đức Nho gia, nhân nghĩa được hiểu là cách ứng xử tốt đẹp giữa người với người trong xã hội. Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh tới cách hành xử thuộc về lối sống cá nhân, một trong những điểm rất nhân văn của đạo Nho. Thế nhưng trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi lại viết:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Vẫn là nhân nghĩa ấy, nhưng Ức Trai lại đưa ra cách hành xử không còn ở góc độ cá nhân nữa, mà là yên dân mang tầm quốc gia, dân tộc. Muốn thực hành nhân nghĩa tức là phải làm cho nhân dân có được cuộc sống yên ổn, bình an. Cái gốc của nhân nghĩa là ở nhân dân. Đây là điều hoàn toàn mới mẻ. Vẫn biết Nguyễn Trãi luôn hành động, cống hiến cuộc đời mình cho dân, tôn thờ dân, nhưng không nghĩ rằng ông lại việc “lấy dân làm gốc” để luận bàn về việc nhân nghĩa thông thường. Cách hành xử đơn thuần ấy qua thẩm thấu của một trái tim quảng đại, một nhân cách lớn luôn biết lo cho dân trở thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý ở đời. Điều này khiến chúng ta liên tưởng tới Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập viết ở thế kỉ XX, cũng “suy rộng ra” từ những quyền rất cơ bản của con người, thành quyền chính đáng của dân tộc. Có lẽ cả Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh đều nhìn nhận những vấn đề có tính triết lý thực ra lại bắt nguồn từ những điều yêu cầu rất đỗi bình thường. Vì vậy khi Nguyễn Trãi đưa ra quan điểm nhân nghĩa ở tác phẩm này, giá trị của tư tưởng ấy trở nên to lớn, đóng góp rất quan trọng vào sự phát triển của hệ thống lí luận tư tưởng dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đề cập tới ở đây không hề chung chung, trừu tượng mà nó là việc nhân nghĩa, tức là phải hành động để luôn luôn duy trì sự yên ổn của nhân dân. Cứ vậy thì trong hoàn cảnh đất nước bị đô hộ, sống dưới cảnh ngang tàng, bạo ngược của kẻ xâm lăng, nhân nghĩa chính là trừ bạo. Người thực thi nghĩa vụ này là quân điếu phạt, sức mạnh của quân đội mới đủ sức để đánh đuổi kẻ thù.
Ngay từ mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã hiện lên một cách rõ ràng, cụ thể. Nguyễn Trãi thể hiện trực tiếp và coi đó là mạch nguồn chi phối toàn bộ bản “tuyên ngôn”. Ông khẳng định, không có nhân nghĩa không có nước Đại Việt hôm nay. Bởi nước Nam dựng xây Tổ quốc bằng các yếu tố thiết lập trên tinh thần nhân nghĩa. Có nền văn hiến, có lãnh thổ, có phong tục, có lịch sử, có hào kiệt,… đều từ cái gốc nhân nghĩa mà ra. Dân ta gìn giữ chủ quyền, đấu tranh không mệt mỏi cũng để cho dân được hưởng độc lập, tự do. Quốc gia nào lớn bé gì có ý đồ xâm lược đều động chạm vào quyền lợi độc lập của dân, mà chưa kể lịch sử đã ghi nhận những việc, những chứng cớ đã từng như thế và những kẻ ấy đã bị trừng trị thích đáng. Nhân nghĩa là đứng lên bảo vệ dân, giữ gìn đất nước cũng được coi là hành động chính nghĩa sáng ngời. Vì thế ngay khi mở đầu bài cáo, tư tưởng nhân nghĩa đã được Nguyễn Trãi xác lập được coi như là một cơ sở đạo lý, pháp lý hùng hồn nhất. Bài cáo từ đây đã có nền móng vững trãi, sắc bén để đi đến tuyên ngôn độc lập.
Giáo sư Đinh Gia Khánh từng nhận xét: “Tư tưởng nhân nghĩa này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Đúng vậy, nếu ở phần đầu bài cáo cơ sở lí luận được soi chiếu từ tư tưởng nhân nghĩa thì đến những phần sau một quá khứ đau thương mà rất đỗi anh hùng cũng được khơi dậy từ đó. Nhân nghĩa là việc cốt lõi để dân được yên. Vậy mà thời khắc rối ren của lịch sử năm ấy, dân đâu có được yên. Mượn cớ chính sự phiền hà của nhà Hồ mà quân cuồng Minh thừa cơ gây họa. Chúng mang theo những luận điệu xảo trá, dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế suốt hai mươi năm trời để ngang nhiên tiến vào Đại Việt để vơ vét của cải, để ép buộc dân lành, đến cả côn trùng, cây cỏ cũng chẳng tha. Trong Bài 8 – Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi viết: “Mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc bạo tàn, lấn cướp nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư?”. Đứng trên lập trường của nhân dân, dưới ánh sáng của nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đầy đau đớn, phẫn uất. Trước tòa án nhân nghĩa, âm mưu và hành động của giặc Minh không thể dung tha.
Vẫn bằng điểm tựa ấy, nhà văn đã dựng lại bức tranh lịch sử đầy tráng lệ, hào hùng về quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Xuyên suốt phần tái hiện lại quá trình ấy, nhân nghĩa vẫn là tư tưởng soi đường và nó được đẩy thành:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Đại nghĩa – chí nhân được hiện thân qua hình tượng vị chủ tướng Lê Lợi – vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Cũng bởi nhân nghĩa mà Người đã vượt qua bao gian khổ, nuốt căm hờn và nung nấu ý chí đấu tranh. Để từ đó ngọn đuốc nhân nghĩa chói ngời làm nên những trận đánh liên tiếp, rung chuyển cả đất trời. Người đọc cảm nhận được khí thế hừng hực, ngút ngàn của quân ta được đặt trong thế tương phản đối lập với sự thất bại thảm hại nhục nhã, ê chề kẻ địch. Ta sĩ khí đã hăng/ quân thanh càng mạnh, càng đánh quân ta đã hăng lại càng hăng. Địch mới mấy trận đầu mà đã nghe hơi mà mất vía, nín thở cầu thoát thân thì rồi sau này có tiếp thêm quân chi viện cũng cứ thế mà nối tiếp nhau những thất bại. Cảnh thảm hại của kẻ thù trên chiến trường là minh chứng hùng hồn cho kết cục làm trái với nhân nghĩa luân thường. Chứng cớ trong quá khứ còn ghi:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Giờ đây lịch sử lặp lại, thậm chí có phần thê thảm hơn:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong,
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Đó là cái giá phải trả cho những kẻ làm việc trái với nhân nghĩa cũng chính là công lao to lớn của quân điếu phạt Lam Sơn đã thành công trong việc lo trừ bạo để cho đất nước thanh bình, dân chúng được an yên. Chiến thắng ấy là tất yếu, là chiến thắng của tinh thần nhân nghĩa, của đội quân nhân nghĩa.
Và quân đội Lam Sơn rất xứng đáng là đội quân nhân nghĩa. Bởi cách hành xử đối với kẻ thua cuộc của tướng sĩ Lam Sơn đầy tính nhân văn, là việc làm chưa từng thấy xưa nay: Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh. Vậy hóa ra nhân nghĩa đâu chỉ bởi cho dân mình yên ổn, mà còn tạo cơ hội sống cho kẻ thù khi chúng thua cuộc. Việc cấp cho chúng năm trăm chiếc thuyền, vài nghìn cỗ ngựa… khiến giặc chẳng những thua trong đau đớn, nhục nhã mà còn thêm sợ hãi, nể phục hơn. Nhân nghĩa là cao thượng, bao dung. Mãi sau này, khi giặc Mĩ thua ta cũng được cấp nơi ăn ở, máy bay để chúng trở về nước. Phải chăng nó bắt nguồn từ truyền thống sâu xa, giàu tính nhân nghĩa có từ thời Lam Sơn đại thắng?
Có thể thấy Nhân nghĩa là tư tưởng tiềm ẩn mà có người gọi là “mỏ quặng quý” phải khai thác, đào sâu, còn cái lộ thiên là lòng yêu nước, thương dân. Thật vậy, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn chặt với tư tưởng trung quân ái quốc, “dân vi bản” (lấy dân làm gốc). Lòng yêu nước thương dân là hiện thực hóa, cụ thể hóa cho tinh thần nhân nghĩa sáng ngời của Ức Trai. Bởi vậy, mới có quân điếu phạt lo cho dân yên, mới có chân lý độc lập chủ quyền để đập tan ý đồ xâm lăng của kẻ xấu, mới có một bản cáo trạng đanh thép đối với giặc Ngô đã chà đạp, tàn nhẫn với nhân dân ta và mới có một chặng đường gian nan mà vẻ vang của nhân dân bốn cõi chống lại kẻ thù. Lòng yêu nước thương dân đã mang tới một tinh thần nhân nghĩa giàu tính nhân văn, biểu hiện cao cả của chủ nghĩa nhân đạo, vốn là truyền thống đạo lý của dân tộc, cũng là một trong những nội dung quan trọng của giai đoạn sau trong văn chương trung đại.
Nguyễn Trãi – Ức Trai đã ra đi trong một nỗi oan khiên thảm khốc, đau đớn, xót xa xé lòng… đó là những cảm xúc của bất kỳ người dân Việt Nam nào khi nhớ đến ông. Chỉ có thể là tư tưởng nhân nghĩa cả đời mà ông theo đuổi, cả đời ông cống hiến, xả thân đã thấm nhuần non sông, soi tỏ biết bao thế hệ con cháu Việt Nam thì chúng ta mới có cảm xúc trào dâng nghẹn ngào đến như vậy. Và mỗi lần như thế, cũng chỉ cần đọc lại Đại cáo bình Ngô để thêm một lần thấu hiểu giá trị to lớn mà tinh thần nhân nghĩa Ức Trai để lại cho muôn đời.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi hay nhất 8
Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hóa, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Mùa xuân năm 1482, thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo Bình Ngô đại cáo.
Bình Ngô đại cáo khẳng định sức mạnh nhân nghĩa, nhân dân Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê tởm của quân “cuồng Minh”, ca ngợi những chiến công oanh liệt thuở “bình Ngô”, tuyên bố đất nước Đại Việt bước vào kỉ nguyên mới độc lập, thái bình bền vững muôn thuở.
Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và những tác phẩm khác cũa Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng “nhân nghĩa’’ trong thơ văn Nguyễn Trãi thâm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo, ông viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Việc nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là giữ “yên dân”. Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải “trừ bạo” là trừ những kẻ sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành lí tưởng xã hội, một nhiệm vụ cụ thể, nói theo Đinh Gia Khánh thì “tư tưởng này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Chính vì “nhân nghĩa”, vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ nhân dân ta như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống dân lành vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng ta phải trừng phạt. Như vậy có nghĩa là “việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì đó trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “việc” cụ thể là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các nguồn phản động chống triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tôi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp mềm yếu để chấm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải có sức mạnh của quân sự và sức mạnh của “đại nghĩa”-.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”.
Lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo. Ớ đây trong sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là hung tàn và cường bạo:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”.
Tội án “trời không dung, đất không tha” ấy của giặc Minh:
“Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi”.
Tội ác ấy phải trừng phạt. “Quân điểu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở đây là nhân dân: tập hợp thành đội quân “đại nghĩa – chí nhân” để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là, triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ “Cáo bình Ngô”, nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu lên một quan điển về quyền dân tộc, và do đó ông đã định nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học trong lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đỉnh đạc và tự hào.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng để một phương”.
Trải qua bao biến động của lịch sử, Nguyễn Trãi lặp lại quyền vương để đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử, có phong tục và nền văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu phải chi thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.
Thế mà nay bọn giặc Minh “mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn”. Nhân nghĩa mà lại thế Lí? Thế đứng của một dân tộc trong nhân nghĩa bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo “lỗi đạo”, ngạo mạn, xấc xược…
Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thắng.
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn”.
Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa kè thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông”.
Miêu tả cuộc tổng chiến công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định “vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo”.
Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo mà dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truvền thống của con người Việt Nam. ở đây, Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn nó với nhân nghĩa là chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc nên chúng ta đã đặt nhân nghĩa lên trên tất cả. Có gì quý hơn sinh mạng con người? “Người, ta là hoa của đất’’ do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho “bốn phương biển cả thanh bình”… đối với quân giặc đã bị “cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”, chúng ta đã “chẳng giết hại” mà cho chúng “đường hiếu sinh”. Chúng ta có cái thế để “xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều đó khi bọn giặc đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi dân ta được “nghỉ sức” trong thanh bình:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”.
Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ nhân dân ta tiêu diệt giặc, nhưng lại rất thông cảm với nhân dân và binh sĩ Trung Quôc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: chúng lại muốn cùng bỉnh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi chốn đồng cỏ” (Bài 28 – Quân Trung từ mệnh tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng là tác phẩm nổi bật về chủ nghĩa nhân đạo, chứng minh hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có tư tưởng tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và ước vọng “bốn phương biển cả thanh bình”. Vì yêu thương nhân dân trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép như thế, miêu tả những trang hào hùng của quân dân ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc. Bình Ngô đại cáo trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi – người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, nhà tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao kì tích, bao chiến thắng lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những phi công Mỹ ngụy. Họ đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta trên mọi miền đất nước, tàn phá đất nước ta, gây bao đau thương tang tóc cho nhân dân ta. Vậy mà khi bắt sống những kẻ ấy, ta vẫn đối xử nhân đạo và sau ngày toàn thắng 30-4-1975 trao trả lại cho Mỹ. Phải chăng đó là được nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lẩy chí nhân để thay cường bạo”.
Bình Ngô đại cáo vừa là một bản tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống giặc Minh vừa là lời tuyên ngôn độc lập, hòa bình. Đồng thời là áng “thiên cổ hùng văn” khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 9
Năm 1428, đất nước ta sạch bóng quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay lời nhà vua để viết nên Bình Ngô đại cáo đọc trong lễ tuyên bố kết thúc chiến tranh, nước Đại Việt từ nay bước sang giai đoạn bốn phương biển cả thái bình.
Điều làm nên giá trị nội dung bất hủ của tác phẩm chính là tư tưởng nhân nghĩa truyền thống đã được Nguyễn Trãi đúc kết như một chân lí ngay trong hai câu mở đầu.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Tư tưởng ẩy, chân lí ấy là nền tảng của mọi suy nghĩ, hành động, chiến lược, chiến thuật và quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược phương Bắc. Hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấm nhuần quan điểm tiến bộ của Nho giáo, coi dân là gốc (dân vi bản), ý dân là ý Trời. Ông cho rằng, bất cứ triều đại nào muôn tồn tại dài lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục đích yên dân lên hàng đầu bởi dân có yên thì nước mới thịnh.
Từ triết lí nhân nghĩa thủy chung, Nguyễn Trãi đã cụ thế hóa nó một cách rõ ràng và dễ hiểu. Yên dân là mọi đường chính sách của triều đình phải phù hợp với ý nguyện của dân, không ngoài việc làm cho dân được sống trong cảnh thanh bình, ấm no, hạnh phúc: để cho chốn hang cùng ngõ vắng không còn tiếng hờn khóc, oán sầu.
Muốn cho nhân dân có được cuộc sống tốt đẹp như vậy thì điều đương nhiên là phải lo trừ bạo, có nghĩa là diệt trừ tất cả các thế lực tham lam, bạo ngược làm tổn hại đến quyền lợi của dân lành. Yên dân, trừ bạo là hai vế có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo nên tính hoàn chỉnh của tư tưởng nhân nghĩa bao trùm và xuyên suốt cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại lúc bấy giờ.
Khi Lê Lợi phất cao cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thì tư tưởng nhân nghĩa đã được biến thành hành động cụ thể và thiết thực là đánh đuổi giặc thù ra khỏi bờ cõi để cứu dân khỏi cơn binh đao, tang tóc. Ông viện dẫn chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng những kẻ cố tình đi ngược lại đạo lí nhân nghĩa cuối cùng đều chuốc lấy tai họa:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Gần mười năm qua, quân cuồng Minh đáng khinh bỉ và ghê tởm đã gây ra biết bao tội ác trời không dung, đất không tha trên đất nước này:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi…
Có nghĩa là chúng đã ngạo ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của đất trời và lòng người. Tội ác của chúng tất sẽ bị trừng trị đích đáng và đương nhiên là chúng tự chuốc lấy thảm họa vào thân.
Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà tan, Lê Lợi – người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,
Ta gắng chí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống quân Minh được nhân lên gấp bội bởi tính chất chính nghĩa và mục đích cao cả của nó: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhăn để thay cường bạo. Tinh thần đoàn kêt son sắt tạo ra những chiến lược, chiến thuật thần kì: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, xoay chuyển tình thế từ bị động sang chủ động tiến công như vũ bão, giáng trả quân thù những đòn sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, lập nên chiến công hiển hách:
Sĩ khí đã hăng, Quân thanh càng mạnh
Thừa thẳng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về…
Quân thù bị đẩy vào tình thế khôn đốn, cùng đường:
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm…
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt…
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp…
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giúp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.
Liệt kê những chiến công vang dội liên tiếp của quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê hèn của quân xâm lược lúc thảm bại bằng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyễn Trãi vẫn nhằm mục đích khẳng định hùng hồn sức mạnh vô địch của tư tưởng nhân nghĩa và truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc Việt. Thực tế đã chứng minh điều đó bằng thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.
Kết thúc bài cáo là khúc khải hoàn ca của tư tưởng Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Một lần nữa, dân tộc Việt :.ngẩng cao đầu chiến thắng, rộng lòng tha chết cho những kẻ bạo nghịch đã : quỳ gối đầu hàng: Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu linh. Lại chu cấp cho chúng nào thuyền, nào ngựa để trở về cố quốc. Cái uy, cái dũng, cái nhân trong đạo lí truyền thống nhân nghĩa Việt Nam một lần nữa khiến kẻ thù khiếp sợ, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Lời tuyên cáo của vua Lê vẫn vang mãi ngàn năm trên đất nước này:
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiều khôn bĩ rồi lại thái.
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.
Âu cũng nhờ trời đẩt tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đã mới được như vậy
Than ôi.
Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm,
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
Chiến công oanh liệt của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại chống quân xâm lược nhà Minh đã tô đậm thêm lịch sử vẻ vang của dân tộc và cũng là dẫn chứng hùng hồn chứng minh cho sức mạnh vô biên của tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam.
Với ngòi bút chính luận sắc sảo tuyệt vời cùng tài năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, hình ảnh sinh động, giàu sức biểu cảm. Nguyễn Trãi đã viết nên một áng thiên cổ hùng văn có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà. Thông qua bài Bình Ngô đại cáo. Nguyễn Trãi khẳng định chắc chắn rằng tư tưởng nhân nghĩa chính là cội nguồn hiển hách trong lịch sử giữ nước suốt mấy ngàn năm.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 10
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là minh chứng hào hùng cho chiến thắng chống giặc Minh của nhân dân ta. Xuyên suốt tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, chủ nghĩa yêu nước được tác giả khai thác, đào sâu. Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là quan niệm tiến bộ có giá trị và ý nghĩa trong mọi thời đại. Đã hơn 6 thế kỷ trôi qua, tư tưởng nhân nghĩa của người anh hùng ấy vẫn sống mãi trong lòng dân tộc làm nên chiến công lừng lẫy.
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”.
Cuộc đời ông là tấm gương về khí tiết thanh cao và lòng yêu nước thương dân nồng nàn mà khởi nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Xuyên suốt Bình ngô đại cáo là tư tưởng nhân nghĩa, từ khi người anh hùng Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa đến khi chiến thắng, biển trời thanh bình:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nhân và nghĩa là đạo lí ở đời, đạo lý giữa con người với con người và giữa con người với cuộc đời, là tôn chỉ trong xã hội mọi thời đại. Trong Bình Ngô đại cáo nhân thể hiện bằng hành động thực tế chăm lo cuộc sống nhân dân, nhân ở đâu thật sâu rộng, tích cực; còn nghĩa là việc trừ bạo ngược để nhân dân xã tắc được bình yên.
Ta có thể hiểu rằng, xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để yên dân thì phải trừ bạo. Do đó, tư tưởng nhân nghĩa cốt nhằm mục đích là đem lại hạnh phúc cho người dân. Vì thương nhân dân mà cần dựng cờ khởi nghĩa để trừ hung bạo. Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo quy cho cùng tất cả là vì dân, vì hạnh phúc ấm no của nhân dân… xuyên suốt tác phẩm.
Tư tưởng ấy không mơ hồ, mà được tác giả nâng lên thành tư tưởng xã hội, gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước. Vì nhân nghĩa nên ông xem những hành động mang tính tội ác của giặc Minh nhứ thiêu lửa đốt, đào hố chôn sống nhân dân vô tội là những việc vô nhân đạo. Hành động nhân nghĩa không trừ tượng mà là những việc làm cụ thể: chống quân xâm lăng, tiêu diệt thế lực thù địch.
Triết lý nhân nghĩa xuất phát từ nền tảng của lòng yêu nước thương dân, đó là nền tảng của bản anh hùng ca Bình Ngô đại cáo. Tác phẩm là quan điểm về quyền dân tộc, từ đó ông định nghĩa về đất nước thật trang trọng, tự hào:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Nguyễn Trãi đã chỉ ra rằng nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng, đây là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam bao đời để tạo dựng nền văn hiến mang truyền thống của con người Việt Nam. Tư tưởng ấy là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học, chính trị của ông, vượt ra khỏi phạm vi chính trị thông thường trở thành nền tảng, là nguyên tắc trong quản lý, lãnh đạo đất nước.
Trong tác phẩm, Nguyễn Trãi đề cao nhân dân, coi trọng sự hòa hảo giữa các dân tộc, nhưng không vì sự tàn ác của giặc mà trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn, man rợ. Đó chính là tấm lòng, là trí tuệ Việt Nam sau chiến tranh.
Bình Ngô đại cáo là áng thiên cổ hùng văn của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, là văn bản tổng kết cuộc kháng chiến gian lao nhưng đầy tự hào, anh hùng của dân tộc ta hơn một thập kỷ. Toát lên tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng chủ đạo cho chính trị, ngoại giao cho xã tắc muôn đời.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 11
Mỗi khi nhìn lại lâu đài văn học cổ Việt Nam, chúng ta không thể nào quên được cây cột trụ chính của nó: Nguyễn Trãi. Cách sáu thế kỉ mà người dân Việt Nam ngày nay vẫn luôn nhớ đến ông, không chỉ vì cái án oan tru di tam tộc thảm khốc, mà còn chính vì những gì ông đã đóng góp cho nước cho dân, như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một) nhà chính trị đại tài của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Tuy gặp nhiều oan khuất và bi kịch, suốt cả cuộc đời tận tụy cống hiến của Nguyễn Trãi được bao trùm bởi một tư tưởng vĩ đại: tư tưởng nhân nghĩa, mà qua thơ văn ông, chúng ta có thể thấy điều đó. Ở đây, chúng ta chỉ xét bài Bình Ngô đại cáo, một tác phẩm quan trọng nhất của ông được viết thay lời Lê Lợi, ngay khi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng. Tư tưởng nhân nghĩa cao đẹp được thấm nhuần xuyên suốt quay từ câu đầu tiên: Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. – Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nguyễn Trãi đã viết tự đáy lòng ông, chứ không chỉ như được từng nghe suông. Chính ông đã coi việc nhân nghĩa cốt ở yên dân như mục tiêu phấn đấu cao nhất của đời mình. Cả cuộc đời ông đã dành trọn cho những công việc nhân nghĩa, ta có thể coi đó là lý tưởng của ông. Một lí tưởng cao quý. Với đạo đức nho giáo ngày xưa, nhân nghĩa là một điều mà con người ai cũng phải có, và thể hiện bằng cách xử sự đối đãi tốt đẹp với người khác. Ở Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã được nhân lên một tầm cao hơn hẳn, và mở rộng hơn nữa: đó là lo cho dân, giúp cho dân – dân ở đây nói với nghĩa bao trùm tất cả thiên hạ, ta có thể thấy lòng Nguyễn Trãi bao la và suy nghĩ của ông thật rộng lớn. Với tư cách một vị quan và trên phương diện thay lời Vua để viết lời tuyên cáo chiến thắng, Nguyễn Trãi đã khẳng định nhân nghĩa là yên dân tức là làm cho dân được yên ổn làm ăn, ấm lo hạnh phúc trong an bình. Vì thế, quân điếu phạt trước lo trừ bạo, phải dẹp tan giặc giã hung tàn để cho yên dân. Ông thương dân và lo cho dân với tất cả tấm lòng mình, không phải để ban ơn cho dân mà là đền ơn dân như ông từng nghĩ ăn lộc, đền ơn kẻ cấy cày. Đó là một suy nghĩ hết sức tiến bộ và đáng quý biết bao trong thời đại lúc bấy giờ, mà qua bao thời gian, đến ngày nay vẫn vô cùng giá trị.
Trong suốt toàn bài Cáo Bình Ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi đã tỏ rõ lòng ưu ái đối với dân. Vì thương dân, ông đã xót xa trước những thảm cảnh mà quân cuồng Minh thừa cơ gây họa do bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Chúng đã:
…Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ… …
Cũng từng là dân một thời phải trốn tránh giặc, nên Nguyễn Trãi đã hiểu rõ lòng thương cảm và căm giận thay khi những người dân đang gặp buổi lầm than. Những dân đen, con đỏ là những người ở tầng lớp khốn khổ nhất xã hội, những người chuyên đi cày cấy, đi ở, đi làm thuê (là mạnh lệ theo nguyên bản) xuất hiện dưới ngòi bút Nguyễn Trãi cùng tình cảm của ông. Sự quan tâm này thật không dễ gì có được ở những người vôn làm quan lại như ông, vì thế đây là điều rất tốt đẹp của tư tưởng Nguyễn Trãi.
Càng thương dân, ông càng căm giận quân xâm lược. Đoạn kể tội giặc của ông với những hình ảnh cụ thể trong bài Cáo Bình Ngô đầy nước mắt đồng cảm thương xót cho nhân dân, cho quê hương cho cây cỏ núi sông, đồng thời ngùn ngụt lòng căm thù, tức giận đối với kẻ ngoại xâm và bán nước.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nối rừng sâu nước độc …
Rồi: .
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Đến:
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Trước tội ác đến độ
Trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?…
Ông đã:
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã mách bảo ông rằng, đã đến lúc trừ bạo để yên dân. Tâm trạng của ông, cũng là của Lê Lợi canh cánh suốt ngày đêm nỗi lo làm sao đánh giặc, cứu dân thoát cơn nguy biến và giành lại độc lập cho giang sơn. Tư tưởng nhân nghĩa ở đây xét đến cùng là lòng yêu nước thương dân. Bài Cáo toát lên một tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc khi nhắc lại lịch sử.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu…
Và:
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương.
Lòng yêu nước, thương dân vĩ đại ấy đã khiến Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi: đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai suốt mười mấy năm trời.
Đến khi chiến thắng giặc Minh, một lần nữa, tư tưởng nhân nghĩa – tấm lòng thanh cao của Ức Trai càng cao vời vợi. Ông thương dân, mong muốn sớm yên bình cho quân dân nên ông đã lấy toàn dân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Hơn thế nữa, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên, bao trùm lên những kẻ đã gây họa cho nước Đại Việt.
Theo ông, binh đao khói lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì làm hao tổn sinh mạng, ông luôn mưu phạt tâm công để tránh đổ máu mà thu phục được lòng người. Với quân tướng bại trận của giặc, ông đã tha bổng và giúp cho về nước, không giết hại: thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh để giữ vẹn hoà hiếu. Ta thấy Nguyễn Trãi quả là một con người nhân nghĩa, với tấm lòng nhân hậu, bác ái và thanh cao tuyệt vời!
Đất nước thanh bình, ông nhắc đến cái giá phải trả và thốt lên: Than ôi, một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm… với tấm lòng xót xa cho những gì đã mất – đó là bao nhân mạng con người…
Đối với Nguyễn Trãi, cái quý nhất là con người, là dân, là nhân nghĩa. Ông đã nhận ra, sức dân mạnh như nước làm lật thuyền (lời dịch) nên đã hết lòng vì dân, quan tâm chăm lo cho dân. Nhân nghĩa theo ông luôn là điều tâm niệm, từ quan đến dân, đến tướng: Đạo hàm tướng lấy nhân nghĩa làm gốc trí dũng làm cành (theo lời ông trong một bức thư gửi tướng giặc).
Trong tác phẩm Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa dường như hòa quyện trong từng lời từng ý, tỏa ra dưới ngòi bút sắc bén của ông. Theo như câu mở đầu, việc nhân nghĩa là yên dân, là trừ bạo, bài Cáo đã cho thấy những suy nghĩ, những trằn trọc trăn trở của ông trong quá trình kháng chiến chống ngoại xâm (trừ bạo) và nỗi lo sau khi thái bình (để yên dân).
Nguyễn Trãi đã là một nhà thơ tư tưởng lớn biết chọn cho mình lí tưởng đẹp đẽ và cao quý như vậy. Ông đã nguyện dành hết tất cả tài đức, khả năng của mình cho việc nhân nghĩa, để trợ dân (trong bài Tùng). Vì thế, sau khi về ở ẩn, khi vua mời ra làm quan, ông đã sẵn sàng ra ngay không nề hà.
Tâm hồn Nguyễn Trãi đong đầy nhân nghĩa, rất thanh cao và trong sáng, có thể coi như một viên ngọc quý. Tên tuổi ông là một dấu son lớn trong trang sử danh nhân Việt Nam.
Tư tưởng nhân nghĩa của ông vượt thời gian – qua bao thế kỉ, bao triều đại, và vượt cả không gian – Vang danh trên thế giới, ý nghĩa rộng lớn không biên giới của lòng nhân nghĩa ấy để trở thành một tư tưởng vĩ đại của loài người!
Chúng ta kính trọng Nguyễn Trãi với tư tưởng nhân nghĩa quý báu đã góp phần lớn lao cho lịch sử dân tộc, lại càng thương thay cho cuộc đời lắm éo le, oan khuất của ông. Nguyên nhân cũng chính vì những kẻ xấu không chịu nổi tư tưởng của ông quá tiến bộ, con người ông quá trong sạch và tốt đẹp, vì sự chung thực của một con người nhân nghĩa – Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi đã được mọi người đời sau thương mến kính trọng vì tư tưởng và hành động (rất nhân nghĩa) của ông. Vua Lê Thánh tông đã từng đề cao: Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê và ngày nay, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã đánh giá: Nguyễn Trãi là tinh hoa của dân tộc qua bao thời đại kết hợp lại.
Chúng ta tin rằng, chúng ta sẽ thực hiện được những điều có ích cho dân, cho nước,như nguyễn Trãi – tổ tiên chúng ta đã từng theo đuổi – và sẽ có nhiều tấm gương sáng noi theo ông – ngôi sao khuê sáng mãi trên bầu trời Đại Việt.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 12
Năm 1406 quân Minh xâm lược nước ta. Ách đô hộ của giặc Minh đè nặng lên các tầng lớp nhân dân ta. Năm 1416, ở đất Lam Sơn- Thanh Hoá, Lê Lợi và 18 người cùng chí hướng đã làm lễ ăn thề ở Lũng Nhai, nguyện sống chết cùng nhau đuổi giặc cứu nước. Nguyễn Trãi- một tài năng xuất chúng, nổi bậc lên trong hàng ngũ tướng lĩnh nghĩa quân Lam Sơn. Ông đã góp công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh. Trong niềm hân hoan của cả dân tộc, tháng 2 năm 1428 Bình Định Vương Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết “ Bình Ngô đại cáo” tuyên bố cuộc đấu tranh chính nghĩa đã thắng lợi.
“Bình Ngô đại cáo” thắm đậm tư tưởng nhân nghĩa, là cội nguồn sức mạnh của cuộc kháng chiến.
Nhân nghĩa là tư tưởng của dân tộc được hình thành và phát triển xuyên suốt chiều dài lịch sử. Mục đích của nhân nghĩa đã được khẳng định là “cốt để yên dân”, là bảo vệ hạnh phúc của nhân dân. Hạnh phúc lớn nhất của dân là được sống trong môi trường hoà bình, yên ổn làm ăn, không lâm vào cảnh chết chóc ,đau thương.
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trứơc lo trừ bạo”
Nhân nghĩa là tinh thần vì dân, là chính nghĩa của nhân dân, mang bản sắc dân tộc. Nhân nghĩa ở đây không phải là lòng thương người một cách chung chung, mà nhân nghĩa là để an dân, trừ bạo ngược để cứu nước,cứu dân. Muốn yên dân thì khi có giặc ngoại xâm trước tiên phải đứng lên chống giặc “trước lo trừ bạo”.
Nhân nghĩa gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“Nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
là niềm tự hào dân tộc “…hào kiệt đời nào cũng có”, là truyền thống yêu chính trực, ghét gian tà, căm thù sâu sắc bọn giặc cướp nước, bán nước:
“Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây vạ
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ”
Nhân nghĩa còn là sự chia sẻ, cảm thông với nổi khổ của người dân mất nước:
“Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nổi rừng sâu nước độc
….
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng”
Nhân nghĩa là cội nguồn của cuộc sống. Có nhân nghĩa thì thành công , không nhân nghĩa thì thất bại. Bọn giặc Minh xâm lược đã:
“Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Gây binh, kết oán trãi hai mươi năm
Bại nhân nghĩa, nát cả đất trời”
Họ không có nhân nghĩa vì vậy cho nên phải chịu cảnh “ thây chết đầy đường” “máu trôi đỏ nước” “ nhơ để ngàn năm”
Nhân nghĩa làm nên sức mạnh, vì nhân nghĩa quân ta đã:
“Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông”
Quân ta chiến thắng vì đã:
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Nhân nghĩa còn là tinh thần yêu chuộng hoà bình, công lý, tình nhân loại , là sự hiếu sinh, hiếu hoà, sự độ lượng bao dung thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc ta, đã mở đường hiếu sinh cho kẻ thù khi chúng đã bị bại vong:
“Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông ,Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
Cuộc kháng chiến chống quân Minh diễn ra lâu dài với muôn vàn khó khăn gian khổ nhưng thể hiện tinh thần quật khởi của một dân tộc anh hùng.
Tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô đại cáo ” thể hiện tinh thần nhân bản và giá trị nhân văn sâu sắc, là kim chỉ nam cho đường lối chính trị và quân sự của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tư tưởng đó đã giúp cho Lê Lợi giương cao ngọn cờ chính nghĩa, hiệu triệu quần chúng tham gia đánh đuổi giặc Minh. Nó biến thành sức mạnh to lớn đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn
Tư tưởng nhân nghĩa – số 74
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 13
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng
(Tố Hữu)
Tuy ra đời gần sáu trăm năm, nhưng cho đến nay và muôn đời sau nữa, Bình Ngô đại cáo và những tác phẩm khác của Nguyễn Trãi mãi mãi đi sâu vào lòng người. Tư tưởng “nhân nghĩa” trong thơ văn Nguyễn Trãi thấm sâu, ngay khi mở đầu Bình Ngô đại cáo ông viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Vậy nhân nghĩa là gì? Nho giáo cho rằng: Nhân nghĩa là quan hệ tốt đẹp giữa người với người trong cộng đồng. Khái niệm này mang nội hàm rất đẹp, rất tiến bộ và cao cả. Nguyễn Trãi đã khẳng định: Điều chủ yếu của nhân nghĩa là phải giữ “yên dân’’. Vì thương yêu dân, muốn cho dân được yên ổn làm ăn nên phải “trừ bạo” là từ những kẻ sách nhiễu dân.
Từ quan hệ ứng xử mang tính cách cá nhân, Nguyễn Trãi đã nâng lên thành tư tưởng xã hội. một nhiệm vụ cụ thể, nói như Đinh Gia Khánh thì “tư tưởng nhân nghĩa này không mơ hồ, nó gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước”. Chính vì “nhân nghĩa”, vì thương dân nên Nguyễn Trãi xem những hành động man rợ của quân Minh hành hạ dân như đốt lửa thiêu sống, đào hố để chôn sống những người dân vô tội là những việc phi nhân nghĩa, là bạo ngược, do đó chúng phải bị trừng phạt. Như vậy có nghĩa là “Việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tòi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Nguyễn Trãi không mơ hồ về sự nghiệp giải phóng dân tộc có thể dùng đường lối thỏa hiệp cải lương để châm dứt can qua, hòa bình muôn thuở, mà phải có sức mạnh của lực lượng quân sự và sức mạnh của “đại nghĩa”.
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Không chỉ lấy nghĩa để thắng hung, không lấy nhân thay bạo, mà ở đây sự đối đầu lịch sử của cuộc kháng Minh này, kẻ thù là “hung tàn” là “cường bạo”. Nướng dân đen trèn ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Tội ác “trời không dung, đất không tha” ấy của giặc Minh:
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Tội ác ấy phải bị trừng phạt “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Quân ở đây là nhân dân: Tập hợp thành đội quân “đại nghĩa - chí nhân” để chống lại quân cường bạo giặc Minh. Vậy là triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi xét đến cùng là lòng yêu nước thương nhân dân. Đó chính là chủ nghĩa yêu nước. Nó làm nền cho bản hùng ca bất hủ Cáo Binh Ngô, nó là ánh sáng kì diệu để Nguyễn Trãi nêu một quan điểm về quyền dân tộc và do đó ông đã dịnh nghĩa về đất nước khá rõ ràng, hoàn chỉnh, khoa học. Trong những lời mở đầu bài cáo trang trọng, thật đĩnh đạc và tự hào.
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Trải qua bao biến động lịch sử, Nguyễn Trãi nói lại cái chữ đế đầy tinh thần độc lập tự chủ ấy. Nước Đại Việt có cương vực, có lịch sử. có phong tục và có văn hiến, nghĩa là có nhân nghĩa. Nó không cần và không thể phụ thuộc để tồn tại. Mọi mưu toan muốn biến nó thành quận huyện, thành chư hầu sẽ phải chịu thảm họa. Lịch sử đâu đã quên:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Thế mà nay bọn giặc Minh:
“Mượn tiếng điếu dân phạt tội, kì thực làm việc tàn bạo, lấn cướp đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn xóm làng không được yên ổn. Nhân nghĩa mà lại thế ư? (Bài 8 Quân Trung từ mệnh tập). Cái thế đứng của một dân tộc có và trọng nhân nghĩa ấy sẽ bằng mọi giá cho quân thù nếm cay đắng mà cha ông chúng ta phải trả giá cho sự tàn bạo “lỗi đạo”, ngạo mạn, xấc xược...
Sức mạnh nhân nghĩa của nhân dân ta “lấy yếu chống manh, lấy ít địch nhiều” đã làm nên chiến thắng.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Những trang nhật kí chiến sự thể hiện một cuộc tấn công đại quy mô, mạnh mẽ, hào hùng. Chiến thắng càng gần, thế trận càng trở nên biến hóa, kẻ thù chưa kịp trở tay đối phó thì đã lại:
Đánh hồi trống thứ nhất, sạch không kình ngạc
Đánh hồi trống thứ hai, tan tác chim muông...
Miêu tả cuộc tổng tấn công đại phá quân thù, có lẽ trong lịch sử văn học Việt Nam chưa bao giờ có những trang hào hùng sáng chói như thế. Đội quân làm nên chiến thắng ấy, chính là đội quân đã xác định “vì nhân nghĩa mà chiến đấu, vì an dân mà trừ bạo”.
Nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo dân tộc ta bao đời đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truyền thống của con người Việt Nam. Ở đây Nguyễn Trãi đã nêu cao chủ nghĩa nhân đạo ấy, gắn bó với nhân nghĩa mà chủ nghĩa yêu nước.
Coi trọng con người, quý trọng nhân dân, coi trọng tình hòa hiếu giữa các dân tộc. Chúng ta không vì sự man rợ của giặc mà trả thù bằng những hành động man rợ. Có gì quý hơn sinh mạng con người? “Người ta là hoa của đất” do đó nhân nghĩa sau chiến tranh là tấm lòng, là trí tuệ để giải quyết những hậu quả, cho “Bốn phương biển cả thanh bình,”... Đối với quân giặc đã bị “cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng”. Chúng ta đã “chẳng giết hại” mà cho chúng “đường hiếu sinh”. Chúng ta có cái thế để xử tội ác chiến tranh, có đủ sức để trừng phạt, nhưng nhân nghĩa không cho phép chúng ta làm điều dó khi bọn giặc “đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng”. Chúng ta tha tội cho chúng để chấm dứt can qua trong tương lai, để được “an dân” không phải chỉ ngày một ngày hai mà mãi mãi nhân dân được “nghĩ sức” trong thanh bình:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”
Nghĩa là triết lí nhân nghĩa, hành động nhân nghĩa của chúng ta đã toàn thắng. Ta đã đạt mục đích, không cần phải xử sự như những kẻ cuồng sát không nhân nghĩa.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện ngay cả khi cổ vũ quân dân ta tiêu diệt giặc, nhưng lại rất cảm thông với nhân dân và binh sĩ Trung Quốc bị tàn hại bởi chiến tranh. Nguyễn Trãi từng vạch tội tướng giặc với nhân dân Trung Quốc: Chúng lại muôn cùng binh độc vũ, khiến nhân dân vô tội liền năm phải thiệt mạng ở chốn gươm đao, những kẻ lưu li phải nát gan ở nơi đồng cỏ” (Bài 28 - Quân Trung từ mệnh tập).
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng thì đây là tác phẩm nổi bật về chù nghĩa nhân đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác, đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có những quan niệm tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quôc và “Bốn phương biển cả thanh bình”. Vì yêu thương dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.
Đã sáu trăm năm trôi qua, Nguyễn Trãi - người anh hùng dân tộc và là nhà thơ, nhà văn, tư tưởng chính trị, thực sự sống mãi trong lòng dân tộc khi các thế hệ con cháu mang tư tưởng nhân nghĩa của Người đã làm nên bao sự tích kì diệu, bao chiến công lẫy lừng, như trong chiến tranh chống Mĩ Chú tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư tưởng nhân nghĩa ấy mà đối xử nhân đạo với những tên giặc lái. Bọn chúng đã đem bom đạn đến giết hại nhân dân ta tàn phá đất nước ta, gây bao tang tóc đau thương cho nhân dân trên mọi miền đất nước, vậy mà khi bắt sống chúng, ta vẫn đối xử nhân đạo cho và “khách sạn Hintơn”, và sau ngày toàn thắng 30/04/1975 trao trả lại cho phía Mĩ. Phải chăng đó là được bắt nguồn từ tư tưởng Nguyễn Trãi.
“Đem đại nghĩa thẳng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 14
Nguyễn Trãi là một trong những nhà trí thức đại tài trong lịch sử Việt nam. Ông đã tham gia rất nhiều trận đánh lớn của dân tộc, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Bên cạnh những chiến công khi ông tham gia vào công cuộc chỉ huy, hoạch định chiến lược để đánh đuổi giặc thù, ông còn được người đời biết tới và ngưỡng mộ bởi những tác phẩm văn học. Bắt nguồn từ tư tưởng “ nhân nghĩa”, Nguyễn Trãi đã viết nên tác phẩm “ Bình ngô đại cáo” được vang danh đến muôn đời.
Mở đầu cho tư tưởng nhân nghĩa , tác giả đã viết:
“ Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Đối với ông,, việc nhân nghĩa trước hết là những việc làm xuất phát vì mục tiêu cho dân cho đất nước. Nhân nghĩa không phải chỉ là một định nghĩa xuông, mà ta cần thể hiện bằng những hành động thiết thực: dẹp giạc cho dân được sống cuộc sống yên lành. Muốn yên dân thì trước hết, ta cần đánh đuối những kẻ thù xâm lược, những kẻ ngày đêm rình rập cướp bóc, đánh đập dân lành. Ông tin rằng, để “ an dân” cho dân yên lòng sinh sống, làm lụng thì phải “ trừ bạo” là những kẻ ác, kẻ xấu. Người nhân nghĩa phải biết bảo vệ cái thiện, đánh đuổi cái ác thì mới hợp lòng dân, lòng trời. Bao đời nay, ông bà những người đi trước đã luôn lấy tinh thần “ nhân nghĩa” để gây dựng, bảo vệ đất nước tồn tại và phát triển. Khi dân được yên ổn, ông cũng không quên những công lao của nhân dân đã đóng góp.
Một cuộc chiến đấu chẳng thể nào có thể chiến thằng nếu chỉ có một vị tướng giỏi mà còn phải nhờ có sự đồng lòng của nhân dân. Sau khi giành được chiến thắng, đất nước giành được hòa bình, những bát cơm, hạt gạo mà ta có là nhờ có nhân dân làm nên, những nơi mà vua chúa trốn quan trường được hưởng thú, cùng đều “ là sức lao khổ của quân dân”.Bởi thế, khi những kẻ làm quan hèn nhát, sống chui lủi tại trốn quan triều được hưởng lộc, sống sung túc thì tác giả luôn nghĩ tới những người lao động cực nhọc. ông viết “ ăn lộc đền ơn kẻ cấy cầy”, cuộc sống của một vị quan thanh liêm chính là mong muốn cả đời cho nhân dân được ấm no, “ có phúc cùng hưởng có họa cùng chia”.
Chính vì thế, tư tưởng nhân nghĩa ấy cũng đã được thấm nhuần trongg phong cách sống của Nguyễn Trãi: luôn đặt lợi ích của người dân lên trước những mưu cầu, hạnh phúc của cá nhân.
“ Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Không chỉ lấy nghĩa để thắng hung, lấy nhân thay bạo mà tác giả muốn nhấn mạnh cuộc chiến đấu với giặc Minh, khi kẻ thù là những kẻ hung tàn, cường bạo thì ta càng phải chiến đấu một cách kiên cường mạnh mẽ. Những tội ác của chúng đã hằn sâu vào trong lòng mỗi người dân Việt nam, khi chúng ta càng yêu nước biết bao thì ý chí trả thù những tội ác ấy càng trở nên mạnh mẽ.Tác giả khẳng định :
“ Như nước Đại việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Từ xưa đến nay, nền văn hiến dân tộc đã được khẳng định. Chúng ta luôn tự hào với một bề dày lịch sử hào hùng, có những nét truyền thống văn hóa đa dạng, tức là ta có nhân nghĩa. Biết bao đời từ “ Triệu Đinh Lí Trần” đã thay nhau xâm lấn bờ cõi, dù có biết bao kẻ tự xưng đế xưng vương nhưng cũng chẳng thể khiến quân ta nản chí. Lịch sử vẫn mãi khắc ghi những sự kiện đáng nhớ :
“ Lưu cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch đằng giết tươi Ô Mã”
Nhờ có lòng nhân nghĩa, yêu nước thương dân đã gộp nên sức mạnh tiêu diệt biết bao giặc thù, từng địa danh trên dải đất hình chữ S đều đã chứng kiến những cảnh gục ngã của kẻ thù tại Sông Bạch Đằng, Cửa Hàm Tử.
Sức mạnh nhân nghĩa của nhan dân ta còn là “ lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều” để giành lấy chiến thắng vang dội non sống:
“ Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Những chiến thắng liên tiếp tựa như những cú giáng đòn vang dội vào khí thế của quân giặc. Kẻ thù này tàn lụi, kẻ thù khác đã không kịp trở tay với khí thế của quân ta:
“ Đánh hồi trống thứ nhất, sạch không kình ngạc
Đánh hồi trống thứ hai, tan tác chim muông”
Những tiếng trống dồn vang, vang vọng khắp đất trời như muốn thông báo, khẳng định chiến thắng của non sông.
Đối với Nguyễn Trãi, nhờ có nhân nghĩa đã tạo nên sức mạnh nền tảng cho mọi chiến thắng. Đã bao đời nay, nhân dân Việt Nam dù sống trong khó khăn, phải chịu đựng sự hành hạ, tra tấn man rợn của kẻ thù nhưng bản chất truyền thống : hiền lành, trung hậu, đảm đang vẫn mãi được vững bền, phát huy. Tinh thần ấy được sống mãi cùng với chủ nghĩa yêu nước xuyên suốt.
Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn trãi còn được biểu hiện ở lòng khoan dung đối với kẻ thù. Ông quan niệm rằng “ người ta là hoa của đất”, khi chết là sẽ chấm dứt tất cả, trở về với đất mẹ. Nếu giữ vững tư tưởng “ mạng phải đổi mạng” thì việc báo thù, cảnh đổ máu sẽ chẳng bao giờ dừng lại. Ông tin rằng, nhân nghĩa là tinh thần yêu chuộng hòa bình, công lý, giữ gìn hành phúc cho muôn dân và mở rộng sự độ lượng, bao dung với kẻ thù cũng là thể hiện tinh thần ấy. Chính vì lẽ đó, khi quân thù thất bại, ông đã chẳng đuổi giết mà chấp nhận tha tội, mở cho chúng một con đường sống cũng là để cho nhân dân được nghỉ ngơi, gạt bỏ lại những ngày phải chiến đấu gian khổ:
“Tướng giặc bị cầm tù như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền,
ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông ,Mã Anh phát cho vài nghìn cổ ngựa,
về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức”
Từ nay, đất nước của muôn dân đã được đổi mới:
“ Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”
Từ ngày hôm nay, khi đất nước sạch bóng quân thù, ta đã đạt được mục đích thống nhất đất nước, giữ vững biên cương, sẽ không cần phải để cho bàn tay của quân dân ta phải nhuốm máu. Những nỗi đau chiến tranh, tội ác của giặc sẽ được gạt bỏ. “ dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết…. không còn gì hơn thế”.
Những tư tưởng nhân nghĩa trong “ Bình Ngô Đại Cáo” thật đáng quý biết bao. Là một con người không chỉ có tài dụng văn võ, ông còn là một người biết nhìn xa trông rộng, luôn biết lo cho đời sống muôn dân. Bắt nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa ấy đẫ trở thành một truyền thống, một kim chỉ nam soi đường chỉ lối cho biết bao cuộc chiến về sau. Nó là nền tảng sức mạnh cho quân và dân ta trong công cuộc chiến đấu vì non sông gấm vóc Việt nam muôn đời.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 15
“Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng”
Hai câu thơ trên của Tố Hữu đã thể hiện được tinh thần thơ Nguyễn Trãi. Được biết đến là một trong những nhà thơ nổi tiếng của văn học Việt Nam. Tác phẩm Bình ngô đại cáo được đánh giá như bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của Việt Nam ta. Hãy cùng bài viết Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo.
Tác giả lấy việc nhân nghĩa để nói trong thời điểm hiện tại:
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”
Tác giả muốn nhấn mạnh và đề cao việc sử dụng đại nghĩa để chiến thắng sự hung tàn, lấy nhân chí chiến thắng sự cường bạo. Điều này có thể áp dụng trong bất cứ trường hợp nào. Đặc biệt khi đó đất nước ta đang trong hoàn cảnh bị giặc Minh xâm lược.
Nhà thơ cũng liệt kê rõ tội ác của giặc Minh:
“Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Tội ác của giặc Minh không gì là không thể rửa hết được tội. Vì vậy Nguyễn Trãi đã liệt kê những tội ác cho toàn bộ dân Đại Việt cùng biết. Sau đó, nhà thơ đã nhấn mạnh vào nhân nghĩa trí đức là tiền đề loại bỏ sự xâm lược của giặc Minh mà ngày đầu bài thơ đã nhấn mạnh bày tỏ niềm tự hào dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Sau đó nhà thơ đã nhắc đến những biến cố lịch sử của những người đi trước:
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Biến cố này đã để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá. Để tiếp tục phát triển tinh thần nhân nghĩa chiến thắng các cuộc chiến chống giặc xâm lược, chúng ta không chỉ có tinh thần đoàn kết mà cần có tinh thần chiến đấu, tình yêu đất nước để có được những chiến thắng:
“Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong”
Sự hào hùng, quyết chiến của dân tộc ta được thể hiện qua các câu thơ sau:
“Đánh hồi trống thứ nhất, sạch không kình ngạc
Đánh hồi trống thứ hai, tan tác chim muông…”
Nhân nghĩa chính là yếu tố quan trọng để dành được chiến thắng. “Chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo dân tộc ta bao nhiêu đời nay. Ở đây Nguyễn Trãi nêu cao chủ nghĩa nhân đạo gắn liền với chủ nghĩa yêu nước, quyết chiến, quyết thắng vì đất nước độc lập.
Sau đó, nhà thơ tiếp tục đề cao vai trò của triết lý nhân nghĩa, tinh thần nhân nghĩa. Tinh thần ấy đã giúp chiến thắng tất cả, chiến thắng trong các cuộc chiến chống giặc xâm lược. Để rồi sau những chiến thắng ấy, chúng ta tiếp tục chiến đấu xây dựng và phát triển tổ quốc:
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới”
Bình ngô đại cáo là tác phẩm nổi bật về tư tưởng nhân nghĩa. Đây được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc ta sau Nam Quốc Sơn Hà. Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải đào sâu, khai thác. Cùng với đó là chủ nghĩa yêu nước hết lòng vì dân tộc, chiến thắng quên mình để bảo vệ độc lập Tổ Quốc.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo đã thể hiện được tinh thần yêu nước của Nguyễn Trãi. Lồng ghép trong đó là tinh thần yêu nước, hy sinh thân mình để bảo vệ tổ quốc.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 16
Có thể thấy được “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi đó chính là một minh chứng hào hùng cho chiến thắng chống giặc Minh của nhân dân ta. Thật dễ có thể nhận thấy được rằng xuyên suốt tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, chủ nghĩa yêu nước được tác giả khai thác, đào sâu. Ta như có thể khẳng định được triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đúng là những quan niệm tiến bộ có giá trị và ý nghĩa trong mọi thời đại. Thực tế cho thấy đã hơn 6 thế kỷ trôi qua, tư tưởng nhân nghĩa của người anh hùng ấy đường như cứ vẫn sống mãi trong lòng dân tộc làm nên chiến công lừng lẫy.
“Đem đại nghĩa thắng hung tàn
Lấy chí nhân thay cường bạo”.
Có lẽ chính cuộc đời ông là tấm gương về khí tiết thanh cao và hơn nữa nó cũng như chính là lòng yêu nước thương dân nồng nàn mà khởi nguồn từ tư tưởng nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Ta có thể khẳng định toàn bộ bài tư tưởng nhân nghĩa chính là một sợi chỉ đỏ chạy dọc theo toàn bộ bài thơ, từ khi người anh hùng Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa đến khi chiến thắng, biển trời thanh bình biết bao nhiêu.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Ta như nhận thấy được “nhân” và “nghĩa’ dường như cũng chính là đạo lí ở đời, và ta như thấy được đạo lý giữa con người với con người và giữa con người với cuộc đời, là tôn chỉ trong xã hội mọi thời đại. Trong tuyệt tác nổi tiếng “Bình Ngô đại cáo” thì ‘nhân” đã như thể hiện bằng hành động thực tế chăm lo cuộc sống nhân dân, nhân ở đâu thật sâu rộng, tích cực. Và hơn nữa là còn nghĩa là việc trừ bạo ngược để nhân dân xã tắc được bình yên.
Ta có thể hiểu rằng, trước sự xuất phát từ tư tưởng nhân đạo để yên dân thì phải trừ bạo. Do đó mà có thể thấy được chính tư tưởng nhân nghĩa cốt nhằm mục đích là đem lại hạnh phúc cho người dân. Có lẽ cũng chính vì thương nhân dân mà cần dựng cờ khởi nghĩa để trừ hung bạo. Tư tưởng nhân nghĩa đặc sắc và sâu sắc trong “Bình Ngô đại cáo” dường như đã quy cho cùng tất cả là vì dân, vì hạnh phúc ấm no của nhân dân… xuyên suốt tác phẩm.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 17
Tư tưởng ấy dường như rõ ràng, không mơ hồ, mà được tác giả nâng lên thành tư tưởng xã hội, gắn chặt với chủ nghĩa yêu nước. Có lẽ chính vì nhân nghĩa nên ông xem những hành động mang tính tội ác của giặc Minh nhứ thiêu lửa đốt, và có những hành động như đã đào hố chôn sống nhân dân vô tội là những việc vô nhân đạo. Hành động thật nhân nghĩa không trừ tượng mà là những việc làm cụ thể đó chính là chống quân xâm lăng, tiêu diệt thế lực thù địch.
Ta như thấy được triết lý nhân nghĩa xuất phát từ nền tảng của lòng yêu nước thương dân, đó là nền tảng của bản anh hùng ca “Bình Ngô đại cáo’. Và hơn hết chính tác phẩm là quan điểm về quyền dân tộc, từ đó ông định nghĩa về đất nước thật trang trọng, tự hào biết bao nhiêu:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Nguyễn Trãi- Đại anh hùng của dân tộc dường nhưu cũng đã chỉ ra rằng nhân nghĩa là sức mạnh để chiến thắng, đây có lẽ cũng chính là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc Việt Nam bao đời để tạo dựng nền văn hiến mang truyền thống của con người Việt Nam. Ta như thấy được chính tư tưởng ấy là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học, chính trị của ông, vượt ra khỏi phạm vi chính trị thông thường trở thành nền tảng, cũng đồng thời là nguyên tắc trong quản lý, lãnh đạo đất nước.
Trong tác phẩm, ta như thấy được Nguyễn Trãi đề cao nhân dân, ông luôn luôn coi trọng sự hòa hảo giữa các dân tộc. Nhưng dường như không vì sự tàn ác của giặc mà trả thù bằng thủ đoạn tàn nhẫn, man rợ. Đó có thể chính là tấm lòng, là trí tuệ Việt Nam sau chiến tranh.
“Bình Ngô đại cáo” chính là áng thiên cổ hùng văn của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Và nó dường như cũng chính là văn bản tổng kết cuộc kháng chiến gian lao nhưng đầy tự hào, anh hùng của dân tộc ta hơn một thập kỷ. Đó chính là việc toát lên tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa, tư tưởng chủ đạo cho chính trị, ngoại giao cho xã tắc muôn đời sau.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 18
tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời ông. Bài viết đã phân tích tư tưởng nhân nghĩa trên nhiều khía cạnh: nhân nghĩa là thương dân, vì dân, an dân; nhân nghĩa là sự khoan dung, độ lượng; nhân nghĩa là lý tưởng xây dựng đất nước thái bình… Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi kế thừa quan điểm nhân nghĩa Nho giáo, nhưng đã được mở rộng, phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một trí thức lớn, một trong những lãnh tụ kiệt xuất của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược, sách lược chống quân Minh xâm lược, giải phóng dân tộc. Hơn thế, Nguyễn Trãi còn là một nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XV. Ông đã có công tổng kết, khái quát những vấn đề có tính quy luật của sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong điều kiện lịch sử – cụ thể của Việt Nam; từ đó, nâng tư duy của người Việt Nam lên một tầm cao mới. Thông qua các tác phẩm chủ yếu và tiêu biểu của ông, như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí, chúng ta thấy tư tưởng Nguyễn Trãi đã phản ánh nhiều mặt của đời sống nước ta đương thời: về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá; về vai trò của nhân dân, về lý tưởng xã hội, v.v.. Những tư tưởng ấy của Nguyễn Trãi không chỉ có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn đối với xã hội đương thời, mà còn có ảnh hưởng sâu sắc trong toàn bộ lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung.
Suốt nhiều trăm năm qua, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Trãi trên nhiều phương diện chính trị, văn hoá, văn học, nghệ thuật,… Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi vẫn còn là khá mới mẻ. Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến tư tưởng nhân nghĩa – một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời và hoạt động cống hiến của nhà tư tưởng kiệt xuất này.
Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là một tư tưởng, hơn nữa, là một phương pháp luận hết sức quan trọng. Trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi mà chúng ta còn lưu giữ được thì chữ “nhân” đã được nhắc đến 59 lần và chữ “nghĩa” – 81 lần. Tổng cộng hai chữ “nhân”, “nghĩa” được ông sử dụng đến 140 lần. Qua đó, có thể thấy, một trong những quan điểm nền tảng trong hệ thống tư tưởng của Nguyễn Trãi là “nhân nghĩa”. Tất nhiên, ở đây cần nhấn mạnh rằng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, mặc dù kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh, nhưng cũng đã có sự khác biệt rất lớn so với tư tưởng Khổng – Mạnh – nó mang ý nghĩa tích cực, mở rộng và nâng cao hơn.
Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư tưởng vì dân và an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”(1). Như vậy, nhân nghĩa chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”(2). Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”(3). Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu cao, một hoài bão lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt tới. Trước Nguyễn Trãi hàng nghìn năm, nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử triết học Trung Quốc như Mạnh Tử… đã từng nêu rõ vai trò quan trọng của dân, sức mạnh của dân, tai mắt và trí óc sáng suốt của dân. Ở Việt Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo lý vào thời Lý – Trần. Trong thời kỳ đó, những tư tưởng về thân dân, khoan dân, huệ dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp phần tích cực vào việc làm cho thời đại Lý – Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi, quan điểm về an dân đã được ông tiếp thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kỳ hoạt động của mình. An dân có nghĩa là chấm dứt, là loại trừ những hành động tàn ác, bạo ngược đối với dân. An dân còn là sự bảo đảm cho nhân dân có được một cuộc sống yên bình. An dân là không được nhũng nhiễu “phiền hà” dân. Với tư tưởng an dân, Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an dân”, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến, có tính trường tồn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Có một khía cạnh rất đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. “Dân chúng” vẫn luôn được ông nhắc tới và chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã thành công, đất nước đã giành được độc lập và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Nguyễn Trãi nhận thức được rằng lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là do ở nhân dân; rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà có: “thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân”(4). Chính xuất phát từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong triều đình, được hưởng lộc của vua ban, Nguyễn Trãi đã nghĩ ngay đến nhân dân, những người dãi nắng dầm mưa, những người lao động cực nhọc. Ông viết: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Trong suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi đã có cuộc sống gần gũi, gắn bó với nhân dân, hoà mình vào nhân dân. Do đó, ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử.
Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù. Có thể nói, đây là nét độc đáo riêng có trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Chiến lược “tâm công” Nguyễn Trãi đã thực hiện trong kháng chiến chống Minh chính là sự thể hiện nét độc đáo riêng có ấy. “Tâm công” – đánh vào lòng người – sách lược đã được Nguyễn Trãi dày công suy xét, thu tóm cái tinh hoa trong các sách về binh pháp xưa và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam đương thời. “Tâm công” tức là dùng lý lẽ tác động vào tinh thần, vào ý thức kẻ địch, nói rõ điều hơn lẽ thiệt, thuyết phục, cảm hoá chúng, từ đó đập tan tinh thần chiến đấu của chúng, làm cho chúng nhụt ý chí xâm lược, rã rời hàng ngũ, tiến tới chấp nhận con đường hoà giải, rút quân về nước. Tất nhiên, chiến lược “tâm công” ấy luôn được nghĩa quân Lam Sơn kết hợp chiến đấu bằng vũ khí, quân sự, ngoại giao; và thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, chiến lược đó là hoàn toàn đúng đắn.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn nổi bật ở quan điểm về cách đối xử với kẻ thù khi chúng đã bại trận, đầu hàng. Nó thể hiện đức “hiếu sinh”, sự “khoan dung” của dân tộc Việt Nam nói chung, cũng như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nói riêng. Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi, trong chính sách đối với hàng binh, đã chủ trương không giết để hả giận tức thời, mà còn tạo điều kiện cần thiết cho chúng rút về nước một cách an toàn và không mất thể diện. Trong thư gửi Vương Thông, ông viết: “Cầu đường sửa xong, thuyền xe sắm đủ, hai đường thuỷ lục, tuỳ theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần”(5). Theo Nguyễn Trãi: “Trả thù báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người là bản tâm của người nhân”. Để dân yên vui, nước hoà bình, đó là khát vọng cháy bỏng của Nguyễn Trãi. Bởi thế, ông nói: “Dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết. Để cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh trả lại đất đai cho ta, đó là điều ta cần không gì hơn thế nữa”(6). “Tuyệt mối chiến tranh”, “bảo toàn cả nước là trên hết” đã thể hiện lập trường chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Có thể nói, đó là một tinh thần nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh sâu sắc.
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình muôn thuở” bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại hoà hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”(7). Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống “vang đến muôn đời”.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn tiến xa hơn một bước nữa, đó là ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền, bên dưới không còn tiếng giận oán sầu: “thánh tâm dục dữ dân hưu túc, văn trị chung tu chí thái bình” (lòng vua chỉ muốn dân yên nghỉ, xếp võ theo văn, nước trị bình) (8); “vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền”(9). Như vậy, theo Nguyễn Trãi, một đất nước thái bình sẽ là đất nước có cuộc sống phồn vinh, tươi đẹp; đồng thời, có sự hoà thuận, yên vui với các nước khác. Có thể nói, lý tưởng chính trị – xã hội của Nguyễn Trãi phù hợp với nguyện vọng, ước mơ của dân tộc, nhân dân; đạt tới tầm cao nhất và rộng nhất trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ cho phép. Quan niệm của Nguyễn Trãi, vì thế, là một quan niệm tích cực và đầy tinh thần nhân bản.
Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để phát huy hết được những yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức mạnh của nhân dân thì yếu tố nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã chỉ ra, đó là yếu tố nhân tài. Trong Chiếu cầu hiền tài, ông cho rằng: “người tài ở đời vốn không ít”, nên triều đình phải cầu hiền bằng nhiều đường, nhiều cách như học hành thi cử; hoặc tiến cử “văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã, bất cứ là đã xuất sĩ hay chưa, nếu có tài văn võ, có thể trị dân coi quân, thì… tùy tài trao chức”; hoặc ứng cử “người có tài ở hàng kinh luân bị khuất ở hàng quân nhỏ”, “người hào kiệt náu ởnơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính” phải tự mình đề đạt để gánh vác việc dân, việc nước. Như vậy, rõ ràng rằng, Nguyễn Trãi đã rất chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân tài vào việc trị quốc, an dân. Có thể nói, chiến lược con người của Nguyễn Trãi, cho đến nay, vẫn mang đậm tính thời sự đối với chúng ta.
Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia.
Không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, một mặt, tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam; mặt khác, còn có ảnh hưởng sâu rộng đến thực tiễn chính trị của đất nước trong những thời đại sau này.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 19
Có thể thấy, tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi thể hiện qua nhiều phương diện, cụ thể như quan niệm nhân nghĩa, mục đích của cuộc chiến đấu….
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo đã được Nguyễn Trãi sử dụng để mở đầu cho tác phẩm và cũng là luận đề chính nghĩa đầu tiên:
“Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Tư tưởng nhân nghĩa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. – Tư tưởng nhân nghĩa làm cơ sở lí luận cho cuộc kháng chiến. Đây là một tư tưởng được nhiều nước phương đông mặc nhiên thừa nhận. Nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trên cơ sở tình thương và đạo lý.
Trên cơ sở quan điểm nhân nghĩa của Nho giáo và tình hình dân tộc, Nguyễn Trãi đã xác định mục đích và nội dung của tư tưởng nhân nghĩa là “yên dân”, “trừ bạo”. “Yên dân” là khiến cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, “dân giàu đủ khắp đòi phương”. Đây là lý tưởng lớn khát khao mà suốt đời Nguyễn Trãi theo đuổi. Bởi ông hiểu chỉ có cuộc sống nhân dân ấm no thì xã hội mới có thể thái bình thịnh trị. Bởi dân là gốc, sức dân là sức nước, nước có thể đẩy thuyền cũng có thể lật thuyền.
“Trừ bạo” chính là diệt trừ những điều bạo ngược – những điều khiến cho cuộc sống nhân dân lầm than. Khi tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, ta thấy đặt trong hoàn cảnh đất nước bấy giờ, “bạo” ở đây chính là giặc Minh xâm lược. Vì thương nhân dân mà đứng lên khởi nghĩa, “điếu dân phạt tội” là mang nét nghĩa ấy. Từ những phạm trù đạo đức thẩm mỹ cao siêu của Nho giáo, Nguyễn Trãi đã đưa nhân nghĩa trở nên gần gũi và phù hợp với tình hình thực tiễn của nước ta – nhân nghĩa là yêu nước chống ngoại xâm.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo theo quan niệm của Nguyễn Trãi mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Ông thực thi, đề cao và tuyên truyền nhân nghĩa để giành quyền lợi cho nhân dân, đoạt lại quyền sống, độc lập, tự do, trả lại cho nhân dân cuộc sống bình yên. Cuộc chiến đấu của nhân dân ta không phải xuất phát từ mục đích quân sự hay tham vọng bá chủ một phương mà xuất phát từ “yên dân” trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa.
Bởi lẽ đó, cuộc kháng chiến của chúng ta là một cuộc kháng chiến vì chính nghĩa. Điều này giúp ta hiểu thêm về nhân cách và con người Nguyễn Trãi – một người trung hiếu với nước với dân.
Nhân nghĩa là mục đích chiến đấu cao đẹp của nghĩa quân
Sau khi nêu tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, tác giả nêu chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt. Đây là cơ sở, làm chỗ dựa để Nguyễn Trãi triển khai nội dung bài cáo. Tuy Nguyễn Trãi chưa đề cập đến quyền con người nhưng quyền dân tộc thì rất rõ. Chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt có cơ sở vững chắc từ thực tế lịch sử, cũng phù hợp với luận đề chính nghĩa.
Chính vì nước ta là một nước độc lập nên việc xâm lược của giặc Minh là một điều phi nghĩa. Tác giả liệt kê các phương diện để xác định một quốc gia độc lập. Đây là yếu tố giúp cho Bình Ngô đại cáo được xem như bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đến một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau”
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Những phương diện được nêu ra bao gồm: nền văn hiến riêng, chủ quyền lãnh thổ, phong tục tập quán khác biệt giữa ta và phương Bắc, lịch sử triều đại của dân tộc Đại Việt, anh hùng hào kiệt. Khi phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, ta thấy những phương diện ấy đều được căn cứ vào lịch sử khách quan không thể nào chối cãi.
Văn hiến là những giá trị truyền thống văn hóa lâu đời, thiên về những giá trị tinh thần thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rõ nét. Nước ta có một nền văn hiến lâu đời mang đậm tinh thần dân tộc. Và nền văn hiến ấy được hình thành trong chiều dài lịch sử, không kém cạnh Trung Hoa. Bờ cõi đất nước cũng đã được phân định xưa nay. Lãnh thổ ấy được bảo vệ bằng biết bao xương máu của bao thế hệ đã ngã xuống vì độc lập quê hương. Vì thế nên ta phải tiếp tục chiến đấu để giữ vững nền độc lập.
Câu thơ này gợi nhắc đến khi thế hào hùng mà ta từng bắt gặp trong Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt. Tác giả đã liệt kê những triều đại của ta “Triệu, Đinh, Lí, Trần” sánh đôi cùng các triều đại của Trung Hoa “Hán, Đường, Tống, Nguyên”. Cách nói sóng đôi ấy cho thấy ta và Trung Hoa bình đẳng với nhau nên việc xâm lược là một điều phi nghĩa.
Việc sử dụng từ “đế” lại một lần nữa khẳng định sự bình đẳng của ta và Trung Hoa. Bởi ngày xưa chỉ có vua của Trung Hoa mới được xưng đế, các nước khác chỉ có thể xưng là chư hầu. Khi tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, người đọc cũng nhận thấy việc xưng đế cho thấy được sự ngang hàng bình đẳng giữa các quốc gia. Yếu tố cuối cùng được Nguyễn Trãi đề cập đến là nhân tài, hào kiệt. Bởi nhân tài mang ý nghĩa quan trọng quyết định sự hưng thịnh của cả một quốc gia. Như Thân Nhân Trung từng nhận xét “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.
Nước ta có biết anh hùng hào kiệt từ những người hữu danh đến những người vô danh nhưng điểm chung của họ là đều dốc hết sức mình cho sự phát triển của đất nước. Nếu trong Nam quốc sơn hà căn cứ vào “thiên thư” để xác định chủ quyền sự độc lập thì Nguyễn Trãi đã căn cứ vào lịch sử.
Những phương diện của một đất nước độc lập cũng được Nguyễn Trãi liệt đầy đủ, bao quát hơn. Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn được thể hiện ở việc tác giả đề cập các dân tộc có quyền lợi như nhau, bình đẳng với nhau. Những chứng cứ lịch sử được nêu ra là bằng chứng hùng hồn nhất giàu sức thuyết phục không thể chối bỏ. Việc sử dụng biện pháp liệt kê kết hợp các từ ngữ mang tính khẳng định “từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác, bao đời đời nào cũng có”, đoạn văn đã khẳng định sự tồn tại độc lập của nước Đại Việt là điều hiển nhiên, lâu đời.
Điều đó chứng tỏ ta và Bắc Triều bình đẳng với nhau nên việc xâm phạm chủ quyền dân tộc là điều phi nghĩa không thể chấp nhận được. Ta phải đứng lên để bảo vệ lấy nền độc lập, bảo vệ lấy cuộc sống bình yên của con dân Đại Việt. Điều này góp phần khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn thể hiện ở lập luận cuối cùng được Nguyễn Trãi đưa ra để khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chính là những chứng cứ về sự thất bại của giặc.
“Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”
Nguyễn Trãi đã liệt kê những tên người, tên địa danh gắn liền với thất bại nhục nhã của giặc. Đó là Lưu Cung, là Triệu Tiết với mục đích xâm chiếm phi nghĩa – khát vọng quyền lực, danh vọng “tham công”, “thích lớn”. Đó là Toa Đô, là Ô Mã. Kết cuộc đều là “thất bại”, “tiêu vong”, “giết tươi”, “bắt sống”. Tác giả chỉ nhắc đến thất bại của giặc nhưng qua đó đã gợi ra chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta.
Tác giả gợi nhắc đến quá khứ nhục nhã của quân giặc để khẳng định một chân lý: trận chiến vì mục đích phi nghĩa thì không thể thắng lợi. Đồng thời, gợi nhắc quá khứ cũng nhằm mục đích khẳng định hiện tại và gợi mở tương lai. Những chứng cứ lịch sử về sự thất bại thảm hại của quân giặc càng làm sáng tỏ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến, thể hiện niềm tự hào dân tộc.
Khi tìm hiểu về tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo, ta thấy thông qua hệ thống lý lẽ chặt chẽ cùng dẫn chứng thuyết phục, Nguyễn Trãi đã khẳng định cuộc kháng chiến của ta là cuộc chiến chính nghĩa nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập truyền thống văn hiến lâu đời của dân tộc. Nguyễn Trãi đã bóc trần bộ mặt giả dối của quân giặc khi chúng lợi dụng tình hình rối ren của nước ta để cất binh xâm lược.
“Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh”
Giặc Minh lấy cớ “phục lại nước bị diệt nối lại dòng bị tuyệt”, “phù Trần diệt Hồ giúp An Nam” để sang xâm lược nước ta. Liên hệ với thực tiễn lịch sử, ta nhận thấy đây chỉ là luận điệu xảo trá của quân giặc để xâm chiếm nước ta. Lợi dụng tình trạng hỗn loạn của đất nước, không được lòng dân của nhà Hồ mà bọn phong kiến phương Bắc đã “ngư ông đắc lợi”.Tác giả đã bóc trần âm mưu ấy qua các từ ngữ “nhân”, “thừa cơ”.
Việc làm rõ mục đích xâm lược của quân giặc là một căn cứ quan trọng làm rõ sự phi nghĩa của giặc và sự chính nghĩa của ta – đây cũng là một khía cạnh cho thấy tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo. Lật tẩy mục đích xâm lược nước ta không phải vì chính nghĩa như cách quân Minh biện minh, tác giả đã cho thấy bộ mặt thật của quân ngoại xâm. Để từ đó làm rõ sự tàn ác của quân giặc. Nguyễn Trãi không chỉ vạch trần bộ mặt gian ác của những kẻ ngoại xâm mà còn làm rõ sự xảo trá bất trung của những kẻ phản nước, không giữ vững lập trường.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn thể hiện ở mục đích xâm lược phi nghĩa của giặc còn dẫn đến những hành động bạo tàn không thể chấp nhận được. Những tội ác man rợ được thể hiện qua những hình ảnh giàu sức gợi đầy ám ảnh day dứt
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Chính sách cai trị thâm độc tàn bạo của giặc mà nạn nhân trực tiếp là những người dân nghèo khổ đáng thương.
“Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
Người bị bắt xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc
Vét sản vật, bắt chim trả chốn chốn lưới giăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ”
Hay:
“Nay xây nhà mai đắp đất chân tay nào phục dịch cho vừa
Nặng nề những nỗi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi”
Ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi chưa đề cập đến một âm mưu tội ác vô cùng thâm độc của giặc Minh là chủ trương đồng hóa, Hán hóa người Việt trên nhiều lĩnh vực khác nhau như bắt người tài mang về Trung Quốc, thu gom trống đồng, bắt trang phục và theo phong tục người Hán,… nhưng tác giả đã đi sâu tố cáo những chủ trương cai trị phản nhân đạo, vô cùng hà khắc của giặc Minh như: hủy hoại cuộc sống con người bằng hành động diệt chủng, tàn sát người dân vô tội. Tội ác ấy khiến cho người dân vô tội lâm vào cảnh khốn cùng. Đây là hành vi phi nghĩa, cần phải diệt trừ. Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân dân để thấu hiểu cho hoàn cảnh khốn khó bế tắc thấu tận trời xanh của “dân đen”, “con đỏ”.
“Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi”
Những tội ác ấy khiến đất trời phẫn nộ. Tội ác giặc chồng chất không sao kể hết. Bao đau thương oán hận chồng chất. Để phục vụ cho mục đích phi nghĩa để thỏa mãn đam mê quyền lực mà quân giặc đã gieo rắc bao đau thương, kinh hãi cho nhân dân gây ra cảnh kẻ tóc bạc tiễn kẻ đầu xanh, mẹ xa con vợ mất chồng không nơi nương tựa. Nỗi oán hận ấy của những người dân thấp cổ bé họng kêu trời không thấu kêu đất không nghe ấy ngút cả đất trời.
Đứng trên lập trường nhân dân, ta không khỏi cảm thấy xót thương, đau đớn. Và càng xót thương đau đớn bao nhiêu thì càng căm thù giặc bấy nhiêu. Có thể thấy, tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo thể hiện sâu sắc qua việc tác giả vạch trần bộ mặt “dạ sói” tàn ác của quân giặc.
Nhân nghĩa là kim chỉ nam soi đường chiến đấu
Như đã nói, chính vì những hành động bất nghĩa của giặc đối với nhân dân đất nước mà nghĩa quân phải dựng cờ khởi nghĩa cất binh đánh dẹp. Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo không chỉ được thể hiện trong mục đích chiến đấu mà còn được thể hiện rõ nét trong xuyên suốt quá trình kháng chiến. Trước khi đi vào giai đoạn kháng chiến khốc liệt, tác giả lại một lần nữa nhắc lại tư tưởng nhân nghĩa:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Nhân nghĩa cũng chính là nguồn cội sức mạnh của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta. Cuộc chiến với quân Minh là một cuộc chiến có sự tương quan chênh lệch lực lượng rất lớn. Nhưng điều đó không làm quân ta nhục chí. Bởi trước sự “hung tàn”, “cường bạo” của giặc, ta đã có “đại nghĩa” và “chí nhân”.
Đó chính là sợi dây nối kết hàng ngàn trái tim con dân Đại Việt hòa chung một nhịp đập hướng về đất nước – Điều này thể hiện rõ nét ở tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo. Sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc đến từ điều ấy. Ta chiến đấu vì nhân nghĩa và nhân nghĩa đã tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc để từ đó tạo nên những chiến thắng vang dội.
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm”
Trận đánh được miêu tả theo trình tự thời gian. Tác giả lần lượt điểm qua các trận đánh mang tính bước ngoặt của cuộc kháng chiến. Đó là trận đánh mở màn Bồ Đằng, Trà Lân. Các trận đánh giai đoạn giữa Tây Kinh, Ninh Kiều, Tốt Động, Đông Đô cũng được điểm qua với thất bại nặng nề thảm thương của giặc. Và hai trận đánh cuối là Chi Lăng, Mã Yên. Những chiến công của ta được liệt kê theo chiều tăng dần, dồn dập. Đối lập với khí thế hào hùng của quân dân ta là sự thất bại nhục nhã của giặc.
“Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.“
Giặc thua bởi lẽ một chân lý bất diệt
“Những người bất nghĩa tiêu vong
Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh”
(Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu)
Kẻ thù xâm lược nước ta chỉ nhằm thỏa mãn sự tham lam, khát vọng quyền lực mà không để tâm những hành động phi nghĩa ấy đã gây ra bao đau thương mất mát không chỉ về tài sản và còn cả về tình mạng của những người dân nước Nam vô tội.
Tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo còn được thể hiện sâu sắc qua triết lý đó là một cuộc chiến phi nghĩa nên tất yếu là sẽ thất bại. Phép liệt kê những tên bại tướng của giặc trong cuộc chiến này càng tô đậm thêm sự bất ổn của quân giặc dự báo trước sự thất bại là điều tất yếu. Thế nhưng khi chiến thắng, nghĩa quân Lam Sơn vẫn giương cao ngọn cờ nhân nghĩa
“Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.”
Ta không chỉ tha tội chết cho quân giặc đầu hàng mà còn cấp ngựa, cấp thuyền, lương ăn cho quân bại trận. Điều ấy là một hành động bao dung cao thượng của nghĩa quân. Đó cũng là một hành động phù hợp với mục đích chiến đấu – vì nhân dân. Đó chính là nhân văn, là tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo.
Ta không đuổi cùng giết tận bởi ta hiểu chiến tranh gây ra biết bao cảnh lầm than và hơn hết ta chiến đấu để bảo vệ chính nghĩa. Qua hành động bao dung dành cho kẻ địch bại trận, ta đã thể hiện lòng nhân đạo, chính nghĩa đúng với tư tưởng nhân nghĩa đã được nêu ra. Đồng thời đây cũng là sách lược để tính kế lâu dài, bền vững cho non sông. Chính vì điều đó đã tạo ra tiền đề cho tương lai của đất nước.
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc“
Đó cũng chính là lời khẳng định dứt khoát, mạnh mẽ giang sơn từ đây độc lập, thái bình. Chiến thắng của ta, sự bền vững của giang sơn chính là một trong những minh chứng lịch sử sống động nhất cho tư tưởng nhân nghĩa. Tác phẩm khép lại một thời kỳ đấu tranh gian khổ nhưng hào hùng để mở ra một thời đại mới độc lập tự do.
Nhận xét khi phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo
Nguyễn Trãi đã kết hợp nhuần nhị giữa giọng văn hùng hồn đanh thép cùng cách nói hình ảnh giàu sức gợi đã cho thấy được tinh thần nhân nghĩa của ông nói riêng của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược nói chung. Nhân dân chính là những nạn nhân trực tiếp đáng thương. Cuộc sống nhân dân vốn đã khốn khó nay càng khốn khó hơn gấp bội lần, lầm than bế tắc không lối thoát.
Và đó cũng là nguyên nhân chính là động lực thúc đẩy mạnh mẽ cho nghĩa quân đứng lên dựng cờ khởi nghĩa – để bảo vệ nhân dân. Đó cũng là lý do ta dành được chiến thắng, nhận được sự ủng hộ đồng lòng của cả đất trời cả dân tộc.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 20
Nguyễn Trãi là điển hình của vị hiền tài suốt đời đem tài trí phục vụ nhân dân. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong "Bình ngô đại cáo" nêu ước nguyện muốn cứu dân khỏi vòng tai họa, mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân. "Bình ngô đại cáo" gói trọn tấm lòng của Nguyễn Trãi, thể hiện tư tưởng nhân đạo của ông theo cách hiểu sâu sắc, không dừng lại cụ thể ở một người nào, một giai cấp, tầng lớp nào mà nhân rộng ra là muôn dân.
Đất nước đại thắng vào tháng 11/1428, Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết bài cáo để tuyên bố quân ta đại thắng, nước ta bước vào kỉ nguyên mới, phục hưng dân tộc. "Bình ngô đại cáo" là áng thiên cổ hùng văn được viết theo thể văn biền ngẫu, với giọng văn hùng hồn đã tuyên bố nền độc lập chủ quyền của nước nhà.
Lời tuyên ngôn độc lập của "Bình ngô đại cáo" hoàn thiện hơn bản tuyên ngôn trước đó là "Sông núi nước Nam" tương truyền của Lý Thường Kiệt, bởi Nguyễn Trãi đã khảng khái đặt các triều đại Việt Nam ngang hàng với các triều đại Trung Quốc và bổ sung thêm các phương diện quan trọng khác để khẳng định độc lập, chủ quyền của một quốc gia.
Kèm theo đó, ông đã nêu tiền đề nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Từ một quan niệm sống, cách cư xử tốt đẹp giữa người với người, "nhân nghĩa" theo Nguyễn Trãi là phải biết hành động "yên dân", "trừ bạo". Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi bắt nguồn từ tấm lòng yêu nước, thương dân, vì dân, bởi vua là thuyền, dân chúng là nước, nước nâng thuyền, nước cũng có thể lật thuyền.
Khác với Nguyễn Du- một danh nhân văn hóa thế giới- đại thi hào dân tộc, tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du là yêu thương con người, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của họ, lên án những chế độ, giai cấp chà đạp nhân phẩm của họ. Cái nhìn nhân đạo của Nguyễn Du hướng về con người bé nhỏ trong xã hội, cụ thể là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.
Riêng Nguyễn Trãi-bậc hiền tài- một danh nhân văn hóa thế giới khác lại hướng tư tưởng nhân đạo của mình rộng ra khắp muôn dân. Theo Nguyễn Trãi, nhân đạo là yêu nước, thương dân, quan tâm đến khát vọng, ý nguyện của dân, vì dân trừ bạo, mang đến cuộc sống ấm no cho dân.
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
Tư tưởng vì dân đã soi sáng, dẫn lối cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Chiến thắng giặc Minh là việc làm chính nghĩa hợp với lòng dân. Khi đem quân xâm lược nước ta, bọn chúng gây ra nhiều tội ác khiến lòng người căm phẫn: hủy hoại cuộc sống con người, hủy hoại môi trường sống, đẩy người dân vào hoàn cảnh bi đát, cùng cực.
"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi."
Nguyễn Trãi là người có tấm lòng yêu nước, thương dân nên ông không thể trơ mắt nhìn muôn dân lầm than, cơ cực. Tư tưởng nhân đạo đã chi phối Nguyễn Trãi có những hành động cụ thể: góp công sức vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi giặc Minh. Ông vạch trần âm mưu xâm lược của chúng, nêu lên khối căm thù chất chứa trong lòng người dân bằng giọng văn khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết.
"Bình ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù xâm lược đồng thời thể hiện niềm tự hào về một dân tộc tự cường, không chịu khuất phục, dũng cảm tranh đấu cho nền độc lập nước nhà. Cái nhìn nhân đạo hướng về nhân dân giúp Nguyễn Trãi phát hiện ra bản chất tốt đẹp của dân ta, luôn kiên cường trong mọi hoàn cảnh. Cảm thương cho họ, Nguyễn Trãi đã lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù và khẳng định lòng căm thù sâu sắc.
"Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống"
Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mang tính chất chính nghĩa, nhân đạo vì mục đích của cuộc khởi nghĩa là hướng đến nền độc lập cho muôn dân an hưởng thái bình, ấm no. Kẻ thù sau khi thua trận được tha tội và được tạo điều kiện để về nước là hành động thể hiện tư tưởng nhân đạo của dân ta. Lời văn cô đọng, hàm súc, chứng cứ rõ ràng, lập luận chặt chẽ đầy thuyết phục đã khẳng định được tài năng và tấm lòng của Nguyễn Trãi. Ông tuyên bố độc lập và bày tỏ niềm tin vào thái bình vững chắc của đất nước.
"Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới"
Nguyễn Trãi luôn hướng đến một tương lai tươi sáng, trên dưới vua tôi đồng lòng góp sức mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn dân. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi là tư tưởng lớn, nêu bật nhân cách cao cả của ông.Cao quý thay tấm lòng trung quân, ái quốc, hết lòng phụng sự vì dân của Nguyễn Trãi! Ông là một nhân cách lớn dành cả đời hành động theo lẽ sống lớn.
Tư tưởng nhân đạo đọng lại trong "Bình ngô đại cáo" như một lời kí gửi đến mai sau, nhắc nhở nghĩa vụ của mỗi người đối với quê hương, đất nước. Hãy học tập và rèn luyện không chỉ mang lại cuộc sống tốt đẹp cho bản thân mà còn cho mọi người trong xã hội.
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi 21
Nguyễn Trãi là một đại anh hùng của dân tộc là danh nhân văn hóa của thế giới cũng là một nhân vật toàn tài chịu nhiều oan khuất trong lịch sử xã hội Việt Nam. Ông cũng được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất của dân tộc ta. Nguyễn Trãi là một tác giả sất sắc về nhiều thể loại văn học kể cả chữ Nôm và chữ Hán. Ông để lại một khối lượng tác phẩm có giá trị cao và quy mô lớn.
Trong số đó tác phẩm “Bình ngô đại cáo”là một tác phẩm kiệt xuất của ông. Bìa thơ là khúc tráng ca ca ngợi cuộc khởi nghĩa chóng quan Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn. Hơn thế, tác phẩm đã trở thành áng “Thiên cổ hùng văn” muôn đời bất hủ, là bản tuyên ngôn đanh thép, hùng hồn về nền độc lập và vị thế dân tộc. Và điểm cốt lõi mà “Bình Ngô đại cáo” thể hiện ở cả hai tư cách ấy chính là lý tưởng “nhân nghĩa” mà nhân dân ta mãi mãi ngợi ca và hướng tới.
Mở đầu tác phẩm Nguyễn Trãi nêu lên một luận điểm về nguyên lí nhân nghĩa: “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”Tư tưởng về nhân nghĩa của Nguyễn Trãi trước hết chính là “yên dân”. Dùng nhân dân với cái nhân nghĩa để đi đánh giặc ngoại xâm đem lại bình yên ấm no hạn phúc cho nhân dân. Dùng quân nhân nghĩa để đánh quân xâm lược trước hết là để an dân để yên dân, Nhân nghĩa là tinh thần vì dân yên dân là chính nghĩa của nhân dân mang bản sắc dân tộc.
Nhân nghĩa ở đây chính là để cứu dân để trừ bạo. Như vậy có nghĩa là “Việc nhân nghĩa”, hành động nhân nghĩa không phải một cái gì trừu tượng, chung chung, mà nó biểu hiện bằng “Việc” cụ thể, là chống quân xâm lược để giữ yên bờ cõi, tiêu diệt các cuộc phản nghịch chông triều đình để xây dựng xã hội “vua sáng, tòi hiền”. Việc ấy phải được giao phó cho quân đội. Câu thơ tiếp theo làm tô đậm khẳng định thêm ý câu thơ trước đó: “quân điếu phạt trước lo trừ bạo” Nguyễn Trãi đã coi việc an dân yên dân là mục tiêu của nhân nghĩa còn “trừ bạo là đối tượng phương tiện của nhân nghĩa.
Như vậy người nhân nghĩa phải lo trừ bạo tức là lo dẹp quân cướp nước. Dùng nhân nghĩa để đối xử với kẻ bại trận xoa dịu hận thù để không gây hậu quả về sau cũng chính là nhân nghĩa đối với nhân dân. Có thể nới tư tưởng ấy vừa cụ thể lại chỉ ra điểm cốt lõi điểm cơ bản nhất. Ta nhìn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì có lẽ tư tưởng nhân nghĩa ấy được đề cao hơn bao giờ hết:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy chí nhân để thay cường bạo”
Người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”. Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của các thánh nhân trước đây và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được nhắc đến là lòng thương dân tin tưởng nhân dân biết ơn nhân dân. Dân chúng luân được ông nhắc đến trong chiến tranh và trong thời kì hòa bình đất nước độc lập.
Ông nhận thức rất rõ mọi sản phẩm mà mình đang dùng đều được lấy từ nhân dân. Nhân dân sản xuất ra mọi của cải vật chất , nhân dân làm ra lúc gạo quần áo làm ra cung điện nguy nga và nhân dân đã nuôi sống ông. Sống gần dân thương dân thương dân, lúc nào ông cũng chỉ nghĩ cho nhân dân trước tiên tất cả là vì nhân dân vài cuộc ống yên ổn của nhân dân dân.
Chính vì thế mà ta thấy ngay từ câu đầu tiên của bài cáo ông đã nhắc đến nhân dân. Bởi mọi hoạt động lớn nhở của quốc gai cũng chỉ nhằm một mục đích duy nhất đó là đem lại cuộc sống an nhàn cho nhan dân. Suốt cuộc đời ông sống gần dân nên ông đã thấy được những đức tính cao đẹp của nhân dân và hiểu được những mong muốn của nhân dân.Tư tưởng nhân nghĩa ấy như đã được nói ở trân đó còn là lòng bao dung với kẻ thù.
Tư tưởng ấy đã được Nguyễn Trãi thể hiện trong khởi nghĩa Lam Sơn và có thể nới chính tư tưởng ấy cùng với tài mưu lược quyết đoán của ông chính là nguyên nhân dẫn tới chiến thắng quân Minh của nhân dân ta. Ta kết hợp giữa sức mạnh của quân đội với những lí lẽ thu phục quân giặc làm hạn chế máu rơi và thiệt hại về quân sĩ. Đó chính là nhân nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa ấy còn được thể hiện ở sẹ khoan dung khi kẻ thù đã bại trận.
Nó thể hiện đức hiếu sinh của dân tộc Việt Nam nói chung cũng chính là tấm lòng bao dung của Nguyễn Trãi trong khi đối phó với quân địch trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ta đánh địch bằng sức mạnh bằng ý chí sự căm thù quân giặc khi đã đem quân sang định cướp nước ta. Nhưng khi giặc đã bại trận ta cũng không nên trút sự căm giận đó thể tàn sát khiến cảnh máu chảy đầu rơi xảy ra. Ta chiến đấu cốt chỉ để lấy lại đất đai để toàn vẹn lãnh thổ đó chính là mục tiêu cuối cùng.
Vậy cho nên khi đã thắng trận ta cũng không tàn sát mà để cho bọn chúng một con đường lui để chúng được quay về đoàn tụ với gia đình người thân. Điều đó cũng sẽ khiến cho dân tộc ta được tôn trọng được coi trọng và biết ơn. Việc làm này cũng khiến cho quân Minh e dè mà không dám quay lại nước ta tấn công nữa.
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình muôn thuở” bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh.
Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”. Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống “vang đến muôn đời”.Ta cũng có thể nói thêm về tài chiến lược của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở chỗ cầu người hiền tài giúp nước giúp dân. Nguyễn Trãi đã quan niệm rằng người hiền tài càng nhiều thì xã tắc mới càng được hưng thịnh nhân dân mới dược âm no hạnh phúc mới có thể đánh đuổi quân giặc không dám quay lại chiến đánh trên đất nước ta thêm một lần nào nữa.
Bình Ngô đại cáo xét về mặt tư tưởng thì đây là tác phẩm nổi bật về chù nghĩa nhân đạo, minh chứng hùng hồn cho cuộc chiến thắng của nhân dân ta chống giặc Minh. Triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi tiềm ẩn như mỏ quặng quý mà ta phải khai thác, đào sâu, nhưng nổi lên bề mặt lộ thiên của nó chính là chủ nghĩa yêu nước, là tình cảm thương dân. Vì yêu nước thương dân mà Nguyễn Trãi có những quan niệm tiến bộ về bản chất và mục đích của đội quân nhân nghĩa, về Tổ quốc và “Bốn phương biển cả thanh bình”.
Vì yêu thương dân mà trong Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi tố cáo tội ác quân Minh đanh thép trong cuộc chiến tranh vệ quốc trở thành một tác phẩm còn lại mãi với thời gian.Tư tưởng nhân nghĩa trong “bình ngô đại cáo không chỉ có ý nghĩa to lớn xét về mặt nhân nghĩa mà còn có tầm ảnh hưởng tới toàn thống chính trị của đất nước trong những thời đại sau này nữa. Lí tưởng nhân nghĩa ấy sẽ còn mãi trường tồn với dân tộc với đất nước Việt Nam cho đến tận bây giờ.