Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai hay nhất (20 mẫu)

Dàn ý Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 1

A. Mở bài

- Nói đôi nét về than phận người phụ nữ xưa trong xã hội phong kiến cũ (Họ là những con người tài năng và xinh đẹp nhưng lại phải chịu những bất hạnh, đau đớn hơn là không có quyền được là chủ cuộc đời của chính mình).

- Giới thiệu về câu ca dao (Trích nguyên câu ca dao cần được phân tích)

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Người phụ nữ xưa kia dường như đã ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân và phẩm chất cao quý của mình nên tự so sánh ‘Thân em như tấm lụa đào…’ Tuy vậy, số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ thật chông chênh, không có gì đảm bảo: Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

B. Thân bài

- Giải thích

+ Tấm lụa đào được xem là một trong những thứ hàng xa xỉ thời trước. Nó đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa đào hay những loại lụa nói chung đều có đặc điểm là nhẹ, mềm và rất mát. Và khi mặc vào thì người đẹp hẳn lên, cha ông ta cũng từng đúc kết "Người đẹp vì lụa”.

+ Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn “trăm người bán, vạn người mua”, đủ loại người có người sang kẻ hèn, người tốt và có cả những kẻ xấu, không biết sẽ vào tay ai?

+ Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, nhưng hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại gợi như có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp.

>>> Dường như nỗi đau xót của nhân vật trữ tình trong lời than thân trên chính là ở chỗ khi người con gái bước vào cái tuổi đẹp nhất, hạnh phúc nhất của đời mình thì nỗi băn khoăn lo lắng về thân phận lại ập đến ngay với họ. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết định số phận cả một đời người. Sự đối lập giữa hai dòng thơ đã khiến ta thấm thía nỗi đau đó.

- Bài ca dao không chỉ nói lên thân phận bị phụ thuộc của người phụ nữ mà còn là tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của họ.

- Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến xưa dường như đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh.

>>> Những người phụ nữ trong xã hội cũ tủi nhục, khổ và cam chịu đó thường than thân trách phận qua những lời ca tiếng hát của mình “Thân em” là các mở đầu quen thuộc trong ca dao xưa là bởi vậy. “Thân em” như đã nói, gợi mở về thân phận nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội cũ, và họ so sánh họ với rất nhiều hình ảnh và các sắc thái khác nhau. Và hình ảnh:

+ Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như thân phận người phụ nữ vậy.

+ Hai từ “Thân em” như khắc khoải đến nghẹn lời, từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuối. Người con gái khi được tự giới thiệu về chính mình cũng rụt rè, khiêm nhường thốt lên hai tiếng “thân em”.

- Dải lụa đào mang một dáng vẻ đẹp, nó nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ vậy. Hơn nữa lụa đào lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho người hay khung ảnh. Và phải chăng cũng giống như chính người phụ nữ trong cuộc đời vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công.

>>> Dải lụa đào là một hình ảnh mà tác giả dân gian lựa chọn so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thê câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành.

- Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán người mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đời mình sẽ vào tay ai.

>>> Câu hỏi được người phụ nữ buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi người con gái.

>>> Toàn bộ câu ca dao có thể dễ nhận thấy đó là một lời than

Với cách so sánh, ví von thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc.

C. Kết bài

- Khẳng định lại một lần nữa bài ca dao như gói ghém lại được những tâm trạng phức tạp của người phụ nữ trong xã hội trước.

+ Họ là những người có tài sắc nhưng lại không định đoạn được số phận của mình

- Tác giả dân gian thật tinh tế lựa chọn một hình ảnh đẹp ví von để diễn tả tâm trạng của người phụ nữ xưa.

Dàn ý Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 2

I. Mở bài

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài

1. Mô típ “thân em”.

- Là mô típ quen thuộc được sử dụng để nói về tiếng khóc than của người phụ nữ không được làm chủ số phận của cuộc đời mình

- “Thân em” thường được so sánh với hai đối tượng:

+ Những vật nhỏ nhoi, tầm thường không đáng được quan tâm: Thân em như giếng giữa đàng, thân em như quả cau khô, thân em như trái bần trôi,...

+ Những thứ tốt đẹp nhưng không được coi trọng: Thân em như tấm lụa đào, thân em như cánh hoa hồng, thân em như đóa hoa rơi,...

=> Cách so sánh gợi lên thân phận nhỏ bé, bất hạnh của người phụ nữ.

=> Hai tiếng “thân em” thốt lên gợi cảm giác mềm mỏng, yếu đuối, rụt rè, khiêm nhường. Người phụ nữ tự than cho số phận mình

2. Người phụ nữ tự ý thức về vẻ đẹp của mình

- Hình ảnh so sánh “tấm lụa đào”

+ Nghĩa đen: Tấm lụa đào là một mảnh vải đẹp, mềm mại, có giá trị. Tấm lụa đào là món đồ trang sức trang trí cho con người hoặc đồ vật.

+ Nghĩa bóng: Tấm lụa đào gợi liên tưởng đến vẻ đẹp của người phụ nữ, mềm mại nuột nà. Trong cuộc sống, người phụ nữ cũng âm thầm, lặng lẽ chịu đựng nhiều bất công.

=> Đây là hình ảnh so sánh rất đẹp, rất thanh cao.

- So sánh với bài thơ “Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương” để thấy sự đồng cảm của đời sau “Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

=> Người phụ nữ tự ý thức được vẻ đẹp hình thức và nội tâm của mình

- Từ láy “phất phơ”:

+ Miêu tả trạng thái của tấm lụa đào khi đứng trong gió

+ Nói đến sự vô định, nổi trôi, không tự làm chủ được số phận của người phụ nữ.

- Hình ảnh “chợ”

+ Nơi để trao đổi, giao lưu buôn bán, rất phức tạp.

+ Sự hiện diện của một xã hội phức tạp với đủ các loại người.

- Câu hỏi tu từ “biết vào tay ai”: Thể hiện sự chua xót, bất lực, vô vọng của người phụ nữ trước số phận.

=> Người phụ nữ nhỏ bé, bất hạnh không được làm chủ cuốc đời mình, ngay cả giá trị, phẩm hạnh cũng phụ thuộc vào người khác.

3. Nghệ thuật

- Sử dụng các hình ảnh so sánh, ẩn dụ gợi liên tưởng độc đáo.

- Sử dụng các từ láy, câu hỏi tu từ

- Giọng điệu xót thương, ngợi ca.

4. Ý nghĩa của bài ca dao

- Thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ

- Nói nên niềm cảm thông, chia sẻ với số phận bấp bênh của người phụ nữ.

- Tố cáo xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của người phụ nữ

III. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

Dàn ý Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 3

I. Mở bài: 

Giới thiệu câu ca dao " Thân em như tấm lụa đào...". Có thể dẫn dât từ đề tài người phụ nữ Việt Nam trong văn học cổ kim

Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Như nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình, như Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Họ chỉ còn biết gửi gắm nỗi đau của mình trong những câu ca dao "Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"
II. Thân bài:
1. Câu thứ nhất "Thân em như tấm lụa đào":

Cách mở đầu bài ca dao bằng cụm từ "Thân em" là cách mở đầu quen thuộc trong chùm ca dao than thân của người phụ nữ trong xã hội xưa "Thân em như trái bần trôi..", " Thân em như giếng giữa đàng"

Cách xưng hô "em" chứ không phải "tôi" hay "cô" và nói "thân em" thể hiện sự nhún nhường, yếu đuối và nhỏ bé của người phụ nữ

Họ là những người bị coi thường, bị rẻ rúng, họ phải hạ thấp mình trước những hủ tục của xã hội xưa mà không được cất tiếng đòi quyền lợi của chính mình

Hình ảnh so sánh "như tấm lụa đào" là một hình ảnh so sánh giàu ý nghĩa

"Tấm lụa" là một sản phẩm rất đối quen thuộc trong đời sống sinh hoạt, sản xuất của người nông dân Việt

Hình ảnh " tấm lụa đào " cũng thể hiện vẻ đẹp của người phụ nữ. Lụa mang vẻ đẹp của sự mềm mại, tinh tế, là một chất liệu làm nên những chiếc áo, chiếc khăn đẹp

Tuy nhiên đây lại là một chất liệu mỏng manh giống như sự yếu đuối mỏng manh của người phụ nữ, đứng trước những vùi dập của cuộc đời, của xã hội, họ dễ bị chà đạp mà không có khả năng phản kháng hay chống trả

Qua hình ảnh tấm lụa không chỉ hiện lên vẻ đẹp thanh khiết, dịu dàng của người phụ nữ trong xã hội xưa mà còn như dự đoán được số phận của họ

2. Câu thứ hai " Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai " 

Không gian: giữa chợ

Đây là không gian gợi ra sự xô bồ, tấp nập đông đúc với đủ các thể loại người mua kẻ bán, họ tranh giành nhau nâng lên đặt xuống những món hàng

Tấm lụa bây giờ trở thành một món hàng tùy người bán mua, thậm chí còn tùy ý người ta mặc cả, trả giá

Gợi nhớ đến thân phận nàng Kiều "tài hoa bạc mệnh" bị người ta trả giá, số phận bị quyết định bởi đồng tiền

Động từ "phất phơ" thể hiện hoàn cảnh mà người phụ nữ hiện phải đối mặt, đối mặt với dòng đời xô đẩy, tùy cho gió thổi, cho người tranh giành 

Câu hỏi tu từ "biết vào tay ai" gợi ra thân phận long đong, vô định không có nơi chốn dung thân giống như hình ảnh " trái bần trôi" " gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu" hay hình ảnh "hoa trôi màn mác biết là về đâu" trong những câu Kiều của Nguyễn Du

Câu hỏi cất lên như một tiếng kêu than da diết bi ai, ấy vậy mà không một ai có thể cứu giúp

Người phụ nữ không còn quyền tự quyết định hạnh phúc của đời mình, trở thành kẻ thụ động lệ thuộc và người khác mà không hề biết mình sẽ đi đâu vê đâu

Họ không thể quyết định được cuộc đời của mình không phải vì họ là người vô trách nhiệm với chính cuộc đời mình hay không có khát khao được giải phóng mà chính những hủ tục, những sự coi thường rẻ rúng của xã hội đương thời đã đẩy họ vào tình cảnh đó

3. Ý nghĩa thông điệp của bài ca dao

Ngợi ca trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội xưa

Bày tỏ sự thương xót đối với thân phận bị rẻ rúng, lên thuộc không thể tự quyết định đời mình của họ

Phê phán xã hội đương thời với những hủ tục trọng nam khinh nữ, coi thường, chà đạp người phụ nữ, cướp mất quyền làm chủ cuộc sống của những người phụ nữ

Cất tiếng kêu than, kêu gọi những người phụ nữ đứng lên giành lại quyền lợi của chính mình, để rồi sau đó, ta thấy những nữ sĩ mạnh mẽ dũng cảm và đầy tài hoa như Hồ Xuân Hương cất lên tiếng thơ đòi quyền lợi cho người phụ nữ trong xã hội cũ

III. Kết bài :

Nêu cảm nhận chung và khẳng định giá trị thông điệp của bài ca dao, liên hệ đến thân phận của người phụ nữ trong văn học trung đại và hiện đại

Bài ca dao là lời than về số phận bấp bênh của người phụ nữ trong xã hội xưa, là sự băn khoăn cho lắng cho về số phận tương lai mà không được mình định đoạt. Không chỉ là lời thổn thức tiếng lòng mà còn khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Trong cuộc sống ngày nay, người phụ nữ đã nhận được những quyền lợi và giá trị xứng đáng. Đó là thành quả của cả một quá trình đấu tranh kiên cường mà mỗi chúng ta đều phải trân trọng.


Dàn ý Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 4

I MỞ BÀI:
Dẫn dắt và giới thiệu về bài ca dao

II THÂN BÀI
Giới thiệu khát quát về ca dao “thân em như tấm lụa đào…”
Thân em: mô tuýp quen thuộc khi nói về người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Biện pháp so sánh “thân em” với “tấm lụa đào” ngợi ca vẻ đẹp và phẩm chất của người phụ nữ
Tấm lụa đào mỏng manh đẹp đẽ lại bị “phất phơ giữa chợ”: số phận khổ đau của người phụ nữ
“biết vào tay ai” nỗi lo lắng cho tương lai mờ mịt

III KẾT BÀI:
Tóm lại ý ngfhĩa bài ca dao và nêu lên bài học nhận thức

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 1

Tấm lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán người mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đời mình sẽ vào tay ai.

Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Một Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Còn phụ nữ, họ không có khả năng chống chọi nữa hay là sức phản kháng của họ đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời cáo buộc trở thành một lời than thân buồn tủi:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như sợi khói tỏa vào không gian, như thân phận người phụ nữ vậy.

Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác giả dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng: Thán em. Từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuối; Người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thốt lên hai tiếng "thân em". Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nguyễn Du thương xót thốt lên: đau đớn thay phận đàn bà và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: lặn lội thân cò khi quãng vắng. Còn ca dao lại nói về đời người con gái qua hình ảnh liên tưởng như tấm lụa đào. Biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Tấm lụa đào mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ, lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho người hay khung ảnh. Và phải chăng người phụ nữ trong cuộc đời cũ cũng vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Tấm lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thế câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Tấm lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán người mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đời mình sẽ vào tay ai. Một gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biết có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn trong nhà và quanh quẩn với việc thờ chồng, thờ cha, theo con. Tấm lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Cầu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đời người con gái.

Toàn bộ câu ca dao là một lời than. Nó được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thời phong kiến. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tác câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lời từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu người, là tiếng than của bao nhiêu thân phận!

Với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những người phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của tấm lựa đào đang phất phới giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu... Vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giới nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho số phận của mình. Lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Người phụ nữ thời phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Số phận của họ như tấm lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trong đề là lời than thân yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng từng ao ước: Ví đây đổi phận làm trai được. Những ước muốn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất lực?

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 2

Chế độ phong kiến hà khắc, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã từng bước dồn ép người phụ nữ vào con đường không lối thoát, họ phải sống trong sự áp đặt, bị vùi dập bị coi thường, nhưng không thể phản kháng bởi họ không có cái quyền đó. Trong khi người ta đề cao vai trò của người đàn ông bao nhiêu thì người phụ nữ lại càng trở nên rẻ rúng bấy nhiêu. Đã có biết bao người phụ nữ phải đau khổ, ngậm đắng nuốt cay, không khỏi than vãn cho cuộc đời mình, xưa có nàng Kiều bạc mệnh, có bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, dù tài sắc vẹn toàn nhưng đời cũng lắm truân chuyên. Để rồi nhiều cay đắng tủi nhục quá, người phụ nữ đã có những câu hát, câu ca dao than thân ví von thật sâu sắc, cũng thật bi ai.

"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai."

Từ "em" là chỉ người phụ nữ thời xưa, họ tự ví mình như "tấm lụa đào", ở đây có đến tận hai nghĩa. Thứ nhất là phiếm chỉ vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam khi xưa, đã là lụa, lại còn là lụa đào, một màu đỏ hồng phơn phớt tựa như đôi má đào của người con gái còn son trẻ. Vẻ đẹp ấy không chỉ là sự mềm mại, uyển chuyển, kinh diễm mà còn là những nét đẹp từ sâu trong tâm hồn người phụ nữ, là lòng thủy chung son sắt, đức hy sinh cao cả, công dung ngôn hạnh, tam tòng tứ đức thời phong kiến ấy phụ nữ nào mà không có đủ. Một nghĩa khác, "tấm lụa đào" ấy tuy đẹp nhưng lại vô cùng mỏng manh, yếu đuối, dễ bị tổn thương, khiến ta dễ liên tưởng đến số phận long đong, nhẹ tựa lông hồng của người phụ nữ. Đó là một thân phận mà tiếng nói không có giá trị, thân phận không có giá trị, bị người ta xem nhẹ, nhiều lúc những tưởng chẳng khác gì một món đồ đẹp mà nhẹ bẫng, bỏ chút tiền đã có được. Thân phận "tấm lụa đào" là như vậy.

Câu "Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai" càng nói lên nỗi đau đớn, xót xa cho thân phận của người phụ nữ. Tại sao nhẹ nhàng đẹp đẽ, bay bổng đến thế mà lại chẳng thể quyết định số phận của mình. "Phất phơ giữa chợ", người phụ nữ tự ví mình không khác gì món hàng đem đặt giữa chợ cho người đời chọn lựa, nâng lên đặt xuống, kì kèo mặc cả, chẳng may nếu không "bán" được thì lại chịu số phận bị bỏ đi hay sao. Mấy chữ "biết vào tay ai", càng làm người ta hiểu được cái số lênh đênh của kiếp hồng nhan xưa, sống mà không được lựa chọn hạnh phúc cho riêng mình. Đến cả người vốn tài sắc và bản lĩnh như nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng chẳng thoát khỏi kiếp đong đưa. Bà bất hạnh có hai đời chồng, rồi cả hai lần đều chịu kiếp làm lẽ, đêm ngày sống trong cay đắng, thiếu thốn tình cảm, phải thốt lên rằng "chém cha cái kiếp chồng chung", thì hẳn bà đã phải căm giận đến mức độ nào. Không chỉ riêng mình Hồ Xuân Hương mà có lẽ cả vạn kiếp phụ nữ thời ấy đều có chung một nỗi đớn đau, hờn tủi như vậy. Khi mà chế độ phong kiến, lệnh cha mẹ là lệnh trời, cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đó, không có quyền phản kháng lựa chọn, biết là gặp được người chung tình, biết làm ăn, yêu thương vợ con hay gặp phải kẻ sở khanh, ăn chơi trác táng, làm khổ vợ con. Ôi, kiếp hồng nhan khi ấy chỉ trông vào mỗi sự may mắn của số phận, tựa hạt mưa sa, trời thương thì vào lầu son gác tía, trời không thương thì chịu lạc ra ruộng cày chẳng biết.

Toàn bộ câu ca dao nghe thì phong tình, phong nhã đấy nhưng đọc thật kỹ, để suy tư nghiền ngẫm thì mới thấy được lời than oán thật tinh tế mà người xưa gửi gắm. Thân phận phụ nữ là tấm lụa mượt mà, quý giá nhưng lại chẳng ai chịu hiểu cho vẻ đẹp tiềm ẩn ấy. Đó là lời than, lời oán trách thật nhẹ nhàng, nhưng rất đỗi ngậm ngùi xót xa, đại biểu cho tiếng nói, sự phản kháng yếu ớt và tế nhị của người phụ nữ khi xưa đối với những bất công ngang trái mà họ phải gánh chịu. Làm thân con gái đã thiệt thòi, lại phải chịu nhiều đắng cay, tủi nhục thì sao có thể không xót xa, không hờn giận cho cam.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 3

 Ca dao dân ca là tấm gương phản ánh đời sống tâm hồn, tư tưởng, tình cảm của nhân dân lao động. Ca dao đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc sống, một trong những khía cạnh đó chính là lời than thân ai oán, xót xa của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Một trong những bài ca dao tiêu biểu thể hiện lời than thân ấy chính là bài:

    Thân em như tấm lụa đào

    Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

     Cuộc đời của người phụ nữ xưa phải chịu vô vàn tủi cực, đắng cay bất hạnh, nó đã được phản ánh trong rất nhiều bài ca dao khác nhau như:

    Chàng ơi phụ thiếp làm chi

    Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng

     Hay:

    Thân em như lá đài bi,

    Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương

    Ngày ngày hai bữa cơm đèn

    Lấy gì mà phấn răng đen hỡi chàng.

     Bài ca dao cũng nói về thân phận, số phận bất hạnh của người phụ nữ, song ở bài ca dao này vẫn có những điểm riêng biệt. Đây là một trong số ít bài ca dao mà người phụ nữ ý thức sâu sắc về vẻ đẹp của bản thân: “Tấm lụa đào”. Tấm lụa mang vẻ đẹp mềm mại, óng ả, nổi bật về màu sắc. Không chỉ vậy tấm lụa đào còn tượng trưng cho tuổi trẻ, tuổi thanh xuân đẹp đẽ, giàu sức sống, đây là giai đoạn đẹp nhất với mỗi người con gái. Và nhân vật trữ tình – người con gái cũng ý thức rất rõ về vẻ đẹp của bản thân.

     Nếu trong câu thơ thứ nhất lời thơ vui vẻ, khẳng định bản thân bao nhiêu thì câu thơ thứ hai lại ngậm ngùi, chua xót bấy nhiêu: “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. “Tấm lụa đào” vừa đẹp về hình thức, vừa giàu giá trị nhưng lại “phất phơ giữa chợ” – nơi kẻ qua người lại buôn bán trao đổi hàng hóa, vật dụng. Ở nơi đó mọi vật đều có thể mua bán bằng tiền. Bởi vậy “tấm lụa đạo” đã trở thành một món hàng hóa, có thể mua bán và trở thành vật sở hữu của bất cứ đối tượng nào. Tấm lụa không được lựa chọn, không được tự quyết định số phận của mình. Hình ảnh ẩn dụ kết hợp với câu hỏi tu từ “biết vào tay ai” chứa đựng biết bao lo lắng về thân phận phụ thuộc, mong manh của người phụ nữ xưa. Đó cũng là lời than, ai oán của biết bao người phụ nữ:

    Thân em như giếng giữa đàng

    Người thanh rửa mặt, người phàm rửa chân.

     Nghệ thuật của bài cũng là một nét đặc sắc không thể không kể đến. Trước hết sử dụng motip quen thuộc “thân em”. Motip này thường kết hợp với các sự vật, hiện tượng giản dị, gần gũi với con người: “tấm lụa” “miếng cau” “hạt mưa sa” “củ ấu gai”,… kết hợp với biện pháp so sánh, cho thấy rõ nét vẻ đẹp, cũng như số phận bất hạnh của người phụ nữ. Ngôn ngữ bài ca dao có sự chọn lọc kĩ lưỡng, giàu giá trị biểu cảm nhưng lại vô cùng giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Bài ca dao ngắn, chỉ có hai câu, sử dụng thể thơ lục bát với nhịp chẵn 2/2/2 dịu dàng, êm ái với cách gieo vần chân đã diễn tả một cách chính xác tâm trạng của nhân vật trữ tình. Tất cả những yếu tố nghệ thuật đó, kết hợp hài hòa với nhau tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

     Bằng thứ ngôn ngữ giản dị, giàu giá trị biểu cảm bài ca dao đã cho thấy vẻ đẹp và thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều bất công, không được quyền quyết định cuộc đời, lựa chọn hạnh phúc cho bản thân. Bài ca dao giúp ta thấu hiểu sâu sắc hơn nỗi khổ của cuộc đời người phụ nữ xưa, và trân trọng cuộc sống bình đẳng hiện nay.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 4

Trong kho tàng ca dao truyền thống của ta, bộ phận nói về chủ đề than thân của người phụ nữ chiếm một tỉ lệ rất lớn và trong đó, đáng chú ý nhất là loại bài ngắn (hai câu lục bát hoặc bốn câu). Đó là một trong những mảng ca dao hay nhất, giàu ý nghĩa xã hội và cũng giàu chất ca dao nhất. Chúng thường được mớ đầu bằng những mô típ truyền thống quen thuộc: "Em như..." hoặc "Thân em...". Đọc qua hoặc nghe qua thì thấy chúng có dáng dấp bề ngoài hao hao giống nhau, nhưng đi sâu vào từng bài cụ thể thì sẽ thấy mỗi câu, mỗi bài đều có những nét riêng không lặp lại về nội dung cũng như về nghệ thuật:

"Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?"

Đây là niềm băn khoăn của cô con gái mới lớn, bước vào tuổi lấy chồng. Hình ảnh tấm lụa đào lộng lẫy tượng trưng cho nhan sắc và tuổi xuân phơi phới của người con gái đến tuổi dậy thì, chứng tỏ người con gái ý thức được rất rõ giá trị của mình. Nhưng đây không phải là tấm lụa đào cất trong rương, vắt trong nhà mà đem bán giữa chợ: phất phơ giữa chợ. Cô gái thấy mình đến tuổi gả bán. Trong điều kiện chưa có hôn nhân tự do, mà do mai mối đưa đường, người con gái cảm thấy như là đang ở giữa chợ. "Biết vào tay ai" là một băn khoăn, không phải sợ ế, sợ rẻ, mà chỉ sợ người chủ tương lai của đời mình sẽ thế nào.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 5

Những bài ca dao quen thuộc về những người phụ nữ xa xưa trong chế độ phong kiến cũ thường được bắt đầu bằng mô típ “ thân em” . Có thể là lời than trách hoặc là sự khao khát tự do. Có thể lấy ví dụ như:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Thay vì ví von như củ ấu gai hay hạt mưa sa. “Thân em” – người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được so sánh như tấm lụa đào. Tấm lụa đào óng ả, mềm mượt cũng như người con gái nhẹ nhàng đẹp đẽ. Người ta cảm nhận được sự giá trị của người con gái hơn, có lẽ đây là biện pháp tu từ thanh thoát và dễ đi vào lòng người. Thế nhưng, trong đó còn ẩn đâu đó một nỗi niềm sâu xa. Tấm lụa đào cũng vốn dĩ chỉ là một tấm vải để con người may mặc lên người hay trang trí lên các vật dụng. Tấm lụa âm thầm chịu đựng theo sự sắp đặt của chủ nhân phải chăng cũng giống như người phụ nữ phải luôn chịu ấm ức áp đặt. Một dáng vẻ đẹp đẽ, thanh tao nhưng âm thầm làm con người ta phải suy nghĩ. Dù tấm lụa rất đẹp nhưng vẫn không thể thoát khỏi số phận mong manh.

Với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những người phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu... Vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giói nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho số phận của mình. Lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Người phụ nữ thòi phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Số phận của họ như vải lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trong đề là lời than thân yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:

Ví đây đôi phận làm trai được.

Những ước muôn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất lực.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 6

Trong xã hội xưa người phụ nữ luôn là những người bé cổ thấp họng phải chịu nhiều thiệt thòi. Họ không dám cất lên tiếng nói đòi quyền sống, quyền đấu tranh. Thân phận người phụ nữ đã đi vào văn học dân gian xưa qua những bài ca dao quen thuộc :

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác giả dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ. Bài ca dao mở đầu bằng công thứ quen thuộc “thân em” tựa như những khúc tự hát buồn. Ta còn bắt gặp ở trong rất nhiều bài ca dao khác, trở thành tiếng nói thân phận chung của người phụ nữ xuất hiên trong xã hội xưa. Bài ca dao là sự tự ý thức về thân phận mình giữa cuộc đời người phụ nữ tự ví mình với những vật nhỏ bé “ tấm lụa đào” gợi vẻ dịu dàng, duyên dáng. Lụa là thứ vải quý qua đó cho thấy vẻ đẹp duyên dáng, trẻ trung nữ tính của người phụ nữ. Người phụ nữ rất có ý thức về giá trị của mình, tự khẳng định bản thân. Hai câu ca dao tưởng đây là lời ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, tuy nhiên dải lụa đào đẹp. sang trọng, kiêu hãnh như thế lại bị đặt vào giữa chợ, trở thành đối tượng sở hữu của nhiều người có nhu cầu mua bán. Hình ảnh khiến người đọc thấm thía số phận lệ thuộc, bị định đoạt, nổi trôi, mong manh của người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nguyễn Du thương xót thốt lên: “ Đau đớn thay phận đàn bà” và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: “ Lặn lội thân cò khi quãng vắng.”

Đặc biệt câu hỏi tu từ “ biết vào tay ai” đã diễn tả nỗi xót xa, lo âu về số phận không thể định đoạt. Người phụ nữ không chỉ khổ về cái nghèo, cơ cực mà còn khổ về những dày vò trong tâm hồn. Chính xã hội phong kiến với hủ tục hà khắc ràng buộc lễ nghi đã đẩy họ chìm vào nỗi khổ không thể thoát ra. Và cùng là nỗi đau xót nhất là nhân vật trữ tình trong lời than thân khi người con gái ở trong lứa tuổi đẹp nhất của cuộc đời thì nỗi lo âu về thân phận lại ập ngay đến với họ. Sự đối lập giữa hai dòng thơ cho ta thấm thía nỗi lo và nỗi đau về thân phận người phụ nữ giữa cuộc đời. Câu hỏi mà cũng là lời than, lời mong trước cuộc đời đầy bất trắc là biểu hiện của trạng thái sống lo âu, bị động xét đến cùng là tiếng than thân. Câu hỏi như tiếng vọng bi ai, vang mãi đến thời đại sau này, khiến ta thương cảm xót xa trước sự cam chịu của người phụ nữ, những giọt nước mắt chảy vào trong đúc kết lại thành bài ca dao lưu giữ muôn đời.

Bài ca dao với việc sử dụng khéo léo những hình ảnh so sánh, ví von ẩn dụ từ nhguwx sự vật quen thuộc hàng ngày đãtruyền tải sâu sắc thấm thía nỗi niềm của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 7

Thân phận người phụ nữ trong chếđộ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điên hình về sự bất hạnh đó. Một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuôt cay khóc thầm cho cuộc đời minh. Một Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Còn phụ nữ, họ không có khá năng chông chọi nữa hay là sức phàn kháng của họ đã yêu dần, yêu dần cho đến khi lời cáo buộc trơ thành một lời than thân buồn tủi:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mành như sợi khói tỏa vào không gian, như thân phận người phụ nữ vậy.

Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phô biến, đúc kết trong đó nhiểu tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác già dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mờ đầu ca dao là một lời xưng hô nhò nhẹ, mềm mỏng: Thân em.Từ thângợi nên một cảm giác nhò nhoi, yêu đuối. Người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thốt lên hai tiếng thân em.Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đổng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn.Nguyễn Du thương xót thốt lên: đau đớn thay phận đàn bàvà Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: lặn lội thân cò khi quãng vắng.Còn ca dao lại nói về đời người con gái qua hình ảnh liên tường như tâm lụa đào.Biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Tấm lụa đào mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ, lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng đểmay mặc, trang trí thêm cho người hay khung ảnh. Và phải chăng trong cuộc đời người phụ nữ xưa cũng vậy, họ là một món đổ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Tấm lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thế câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khố vắt ra mà thành:

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Câu thứ hai có vẻ đã làm rõ ý đổ của tác giả hơn. Từ phất phơvà giữa chợlàm nên ấn tượng với người đọc. có thể liên tường đếnThúy Kiều - người con gái được mang ra trao đổi thương lượng như một món đổ. Số phận người phụ nữ xưa cũng vậy. Phất phơ giữa chợ có nghĩa là phận nữ nhi không lạc lôi giữa xã hội phong kiến, không có quyền nắm bắt tương lai của ban thân. Câu hỏi tu từ biet vào tay aithật tinh tế nhưng cũng phàng phát nỗi buồn của târn lòng của người con gái. Họ sẽ sống ra sao giữa cuộc đời vô định này.

Bài ca dao là lời than vãn về số phận bấp bênh của người phụ nữ lứa tuổi đôi mươi. Là sự băn khoăn lo lắng về số phận tương lai mà không được mình định đoạt. Không chi là lời thổn thức tiếng lòng mà còn khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ xưa.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 8

Người phụ nữ xưa ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân và phẩm chất cao quý của mình nên tự so sánh : Thân em như tấm lụa đào… Tuy vậy, số phận của họ thật chông chênh, không có gì đảm bảo: Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

Tấm lụa đào đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa nhẹ, mềm và rất mát, mặc vào thì người đẹp hẳn lên. Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn “trăm người bán, vạn người mua”, đủ loại người sang kẻ hèn, người thanh kẻ tục, không biết sẽ vào tay ai? Lụa tuy đẹp thật nhưng chắc gì đã có người biết đánh giá đúng giá trị của nó! Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, những hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp.

Nỗi đau xót của nhân vật trữ tình trong lời than thân chính là ở chỗ khi người con gái bước vào cái tuổi đẹp nhất, hạnh phúc nhất của đời mình thì nỗi băn khoăn lo lắng về thân phận lại ập đến ngay với họ. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết định số phận cả một đời người. Sự đối lập giữa hai dòng thơ đã khiến ta thấm thía nỗi đau đó.

Bài ca dao không chỉ nói lên thân phận bị phụ thuộc của người phụ nữ mà còn là tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của họ.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 9

Việt Nam ngày trước với chế độ phong kiến cổ hủ, “trọng nam khinh nữ” trở thành định kiến khó có thể lay chuyển nổi. Chính vì thế mà số phận người phụ nữ trong xã hội ấy rất đau khổ và bi thương. Thân phận người phụ nữ đã đi vào văn học dân gian xưa qua những bài ca dao quen thuộc trong đó có bài cao dao với bao lời than thân tủi nhục:

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Ca dao xưa là hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính tập thể rất phổ biến, phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của con người trong xã hội phong kiến với nhiều lễ giáo. Chính những phong tục cổ hủ và lễ giáo phong kiến ấy đã đè ép biết bao nhiều số phận người phụ nữ, khiến họ bất hạnh, bị dồn vào đường cùng., Bài ca dao trên mở đầu với mô tuýp “thân em” quen thuộc. Nghe hai từ “thân em” thật đỗi dịu dàng khiến ta liên tưởng đến người con gái nhỏ bé, yếu ớt. “Em” chứ không phải “tôi” , “cô”, xưng “em” ta cảm nhận được sự nhún nhường yếu đuối của người phụ nữ. Lời than thân nghe mà chan chứa nước mắt nhẹ bẫng trong không gian mà nặng trĩu trong lòng người. Với biện pháp so sánh “thân em” với “tấm lụa đào”, câu ca dao đã ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ. Tấm lụa đào là một mảnh vải lụa mỏng manh, mềm mại nhẹ nhàng dùng để may những chiếc áo, như chính người phụ nữ thời xưa . Họ mang vẻ đẹp tâm hồn cao quý nhưng chỉ là cái bóng lặng lẽ, thậm chí là vô hình, cứ vậy mà sống với đầy rẫy những bất công bởi nền tảng phong kiến cố hữu. Tấm lụa đào tuy đẹp đẽ là thế nhưng cuối cùng chúng chỉ là những thứ được bày bán ở chợ đông người:
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Không gian ở đây là nơi chợ đông đúc, xô bồ với đủ thể loại người kẻ mua, người bán với các loại mặt hàng khác nhau đa dạng phong phú thì đâu đó “tấm lụa đào” đẹp đẽ mỏng manh đang bay “phất phới”. Một từ láy diễn tả hết thảy hoàn cảnh người phụ nữ đang phải đối mặt. Họ trở thành đồ trang trí được bày bán giữa chợ, làm thứ để người ta tùy ý nâng lên đặt xuống, hay tuy ý bay trong gió sương. Liệu có ai giữa nơi đông kịt ấy nhận ra giá trị của tấm lụa đào, hay nó cứ mãi phất phơ trước gió, mất định hướng mặc cho đẩy đưa giữa giông gió “hoa trôi mang mác biết là về đâu” .Những người phụ nữ yếu mềm ấy làm sao đủ sức, chủ động đối mặt với khó khăn,cũng không định hướng nổi cho cuộc đời mình rồi sẽ ra sao. Câu hỏi tu từ vang lên không chỉ để hỏi mà đó là tiếng kêu , tiếng than da diết đầy bi ai. Chẳng thế đoán định nổi tương lai họ sẽ gặp một càng Kim Trọng thư sinh phong nhã hay gặp kẻ như Mã Giám Sinh lừa lọc gian xảo, một Trương Sinh ích kỉ hẹp hòi. Cứ hoài nghi tương lai khiến người phụ nữ ngày ngày sống trong hy vọng rồi lại lo lắng canh cánh một nỗi sợ trong lòng. Họ hoàn toàn thụ động, trở thành những “kẻ yếu” trong xã hội cũ như Thúy Kiều trong Đoạn trường tân thanh vậy. Không còn khả năng chống lại hay phản kháng, phó mặc số phận cho đời rồi chìm mình vào những nỗi khổ đau bất hạnh không lối thoát. Câu hỏi như tiếng vọng bi ai, vang mãi đến thời đại sau này, khiến ta thương cảm xót xa trước sự cam chịu của người phụ nữ, những giọt nước mắt chảy vào trong đúc kết lại thành bài ca dao lưu giữ muôn đời.

Như vậy, bài ca dao là một thời than, một câu hỏi dài vang lên những bi thương của người phụ nữ trong xã hội cũ. Qua đó ta nhận ra giá trị ,vẻ đẹp tâm hồn của họ, đồng cảm và xót thương cho “thân em” đồng thơi ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời xưa.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 10

Người phụ nữ xưa kia dường như đã ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân và phẩm chất cao quý của mình nên tự so sánh ‘Thân em như tấm lụa đào..." Tuy vậy, số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ thật chông chênh, không có gì đảm bảo: Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

Tấm lụa đào được xem là một trong những thứ hàng xa xỉ thời trước. Nó đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa đào hay những loại lụa nói chung đều có đặc điểm là nhẹ, mềm và rất mát. Và khi mặc vào thì người đẹp hẳn lên, cha ông ta cũng từng đúc kết ‘Người đẹp vì lụa”. Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn “trăm người bán, vạn người mua”, đủ loại người có người sang kẻ hèn, người tốt và có cả những kẻ xấu, không biết sẽ vào tay ai? Lụa tuy đẹp thật đấy, nhưng chắc gì đã có người biết đánh giá đúng giá trị của nó! Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, nhưng hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại gợi như có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp.

Dường như nỗi đau xót của nhân vật trữ tình trong lời than thân trên chính là ở chỗ khi người con gái bước vào cái tuổi đẹp nhất, hạnh phúc nhất của đời mình thì nỗi băn khoăn lo lắng về thân phận lại ập đến ngay với họ. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết định số phận cả một đời người. Sự đối lập giữa hai dòng thơ đã khiến ta thấm thía nỗi đau đó.

Bài ca dao không chỉ nói lên thân phận bị phụ thuộc của người phụ nữ mà còn là tiếng nói khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của họ.

Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến xưa dường như đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Ta đã biết đến một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Hay cả một nàng Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn rất nhiều không biết bao nhiêu chuyện về thân phận người phụ nữ được biết và không biết nữa nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Và những người phụ nữ họ không thể nào mà thoát ra được cái lối mòn đó, học đành cam chịu cho số phận xô đẩy. Và họ thường than thân trách phận qua những lời ca tiếng hát của mình “Thân em” là các mở đầu quen thuộc trong ca dao xưa là bởi vậy. “Thân em” như đã nói, gợi mở về thân phận nhỏ bé của người phụ nữ trong xã hội cũ, và họ so sánh họ với rất nhiều hình ảnh và các sắc thái khác nhau. Và hình ảnh:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như khói tỏa vào không gian, như thân phận ngưòi phụ nữ vậy.

Ca dao được xem là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác gia dân gian dường như có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng. Hai từ “Thân em” như khắc khoải đến nghẹn lời, từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuôi. Người con gái khi được tự giới thiệu về chính mình cũng rụt rè, khiêm nhường thôt lên hai tiếng “thân em”. Thân phận hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn qua thi phẩm “Bánh trôi nước”. Nguyễn Du thương xót cũng đã phải thốt lên: đau đớn thay phận đàn bà và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: lặn lội thân cò khi quãng vắng. Còn ca dao thì sao? Ca dao lại nói về đời người con gái, người phụ nữ trong xã hội xưa qua bình ảnh liên tưởng như dải lụa đào. Biện pháp so sánh ở đây được tác giả dân gian sử dụng một cách thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa đào mang một dáng vẻ đẹp, nó nhẹ nhàng như chính tâm hồn, phẩm chất ngưòi phụ nữ vậy. Hơn nữa lụa đào lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho ngưòi hay khung ảnh. Và phải chăng cũng giống như chính người phụ nữ trong cuộc đời vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Dải lụa đào là một hình ảnh mà tác giả dân gian lựa chọn so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thê câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán ngưòi mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cố định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ vào tay ai. Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biêt có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, dường như người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng, thờ cha, theo con phải chịu sự áp đặt của lễ giáo trong xã hội cũ. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi được người phụ nữ buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi ngưòi con gái.

Toàn bộ câu ca dao có thể dễ nhận thấy đó là một lời than. Nó như được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thời phong kiến, học ó tài nhưng lại phải chịu những đau khổ tủi hờn nhất vì không được làm chủ cuộc đời mình. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tảc câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lòi từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu ngưòi, là tiếng than của bao nhiêu thân phận!

Với cách so sánh, ví von thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những ngưòi phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu… Vì thế câu ca dao dường như đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giói nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho sô” phận của mình. Lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng và có sức lan tỏa chảy từ ngưòi này sang người khác, từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Ngưòi phụ nữ thòi phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Số phận của họ như vải lụa bay trong cơn gió mải miết kia không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trong đề là lời than thân yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:

“Ví đây đôi phận làm trai được”.

Những ước muốn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất lực?

1. Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

2. Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen

Ai ơi, nếm thử mà xem!

Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.

Ca dao là sản phẩm tinh thần của tập thể nhân dân, là tấm gương phản chiếu tâm hồn người lao động một cách sâu sắc. Tính chất đồng sáng tạo đó đã tạo ra trong ca dao tiếng nói riêng, trong văn học dân gian nói chung các công thức truyền thống mang tính thẩm mĩ cộng đồng trong sáng tạo nghệ thuật. Khi tìm hiểu ca dao cần đặt bài ca dao đó trong hệ thống công thức nghệ thuật truyền thống để chúng có thể âm vang trong nguồn mạch chung và thể hiện được sắc thái chung độc đáo. Trong ca dao có niềm vui và nỗi buồn, có tiếng ca nghĩa tình và tiếng hát than thân. Khi nghĩ về thân phận của mình, người nông dân xưa kia thường cất lên tiếng ca chất chứa nỗi buồn tủi, đắng cay. Trong dòng mạch đó nổi lên rõ nhất là tiếng hát than thân về cuộc đời người phụ nữ mà hai bài ca dao mở đầu bằng hai tiếng “Thân em” là minh chứng.

Cuộc đời người phụ nữ xưa kia có rất nhiều nỗi khổ cực, đắng cay. Nỗi khổ về vật chất, phải thức khuya dậy sớm dãi gió, dầm sương:

Thân em như lá đài bi,

Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầm sương,

Ngày ngày hai bữa cơm đèn,

Lấy gì má phấn răng đen hỡi chàng.

Nhưng nỗi khổ lớn nhất của họ vẫn là nỗi khổ tinh thần. Xã hội phong kiến xưa kia với những quan điểm bất công như “tam tòng” (ở nhà phải theo cha, lấy chồng phải theo chồng, chồng chết phải theo con) đã gây ra bao nỗi khổ cực cho người phụ nữ trong suốt cả cuộc đời. Họ không có quyền định đoạt hạnh phúc cũng như cuộc đời mình. Chính vì thế, khi nghĩ về thân phận của mình, người phụ nữ thường cất lên tiếng hát than thân chứa chất nỗi buồn tủi, đắng cay. Nếu thống kê, ta sẽ thấy số bài ca dao mở đầu bằng cụm từ “Thân em như” chiếm số lượng khá lớn. Nỗi khổ về thân phận bị phụ thuộc ấy được thể hiện rõ nét qua biện pháp nghệ thuật so sánh quen thuộc của ca dao.

Hai bài ca dao mang nét chung trong biện pháp nghệ thuật và nội dung ý nghĩa. Hai bài ca dao đều sử dụng cụm từ mở đầu “Thân em như”. Sự giống nhau ở cấu trúc mở đầu là đặc điểm của một số bài ca dao tạo nên một hệ thống lối nói khắc sâu ấn tượng chung về “thân phận” con người.

Hai bài ca dao đều sử dụng biện pháp so sánh trực tiếp. Hai vế so sánh được nối bởi từ “như” tạo nên sự đối chiếu những nét tương đồng giữa hai đối tượng khác loại, giúp người nghe hiểu đặc điểm của sự vật và cảm thông với tâm sự của nhân vật trữ tình.

Thân phận con người có ý nghĩa vô cùng lớn lao lại được tác giả dân gian so sánh với những vật , những đối tượng mong manh, nhỏ bé, bị phụ thuộc, chỉ được xem xét, đánh giá ở giá trị sử dụng, bị “đồ vật hóa”:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Đây là một trong số ít bài ca mà người phụ nữ thể hiện rõ sự tự ý thức về vẻ đẹp hình thức của mình. Tấm lụa mềm mại, óng ả nổi bật về màu sắc. “Tấm lụa đào” là biểu tượng của tuổi thanh xuân tươi đẹp mà người phụ nữ đã ý thức được một cách rõ ràng. Câu thơ thứ nhất nêu lên hình ảnh so sánh một cách khái quát, còn câu thơ thứ hai mang tính chất bổ sung, làm rõ nghĩa cho câu trên. “Tấm lụa đào” là tấm lụa đẹp về hình thức và có giá trị nhưng lại “phất phơ giữa chợ”. Chợ là nơi kẻ qua, người lại, nơi người đời mua bán, trao đổi hàng hóa, vật dụng. Người ta có thể bán, có thể mua. “Tấm lụa đào” trở thành đối tượng sở hữu của bất kì người nào có nhu cầu mua bán, nó không có quyền lựa chọn, định đoạt số phận mình. Hình ảnh ẩn dụ và câu hỏi tu từ “biết vào tay ai” chứa đựng biết bao lo lắng về thân phận phụ thuộc, nổi trôi, mong manh của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen

Ai ơi, nếm thử mà xem!

Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.

Đây là bài ca dao có nét chung với bài ca dao 1 như trên đã phân tích nhưng lại có sắc thái riêng độc đáo. Nếu ở bài 1, người phụ nữ ý thức được về vẻ đẹp hình thức thì ở bài 2 này, người phụ nữ muốn khẳng định về vẻ đẹp nội dung, phẩm chất bên trong dẫu bề ngoài không tương xứng. Củ ấu gai có vẻ đen đúa, xấu xí, gai góc nhưng ẩn chứa sau vẻ ngoài xấu xí ấy là ruột ấu trắng thơm, ngọt bùi. Ai đã một lần ăn chắc sẽ nhớ và càng nhớ hơn bài học tự rút ra về cách đánh giá sự vật trong cuộc đời. Bài ca sử dụng phương pháp đối lập ngay trong một dòng thơ (tiểu đối) với các cặp tương phản: trong – ngoài, trắng – đen “Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen”. Lời mời mọc, nhắn gửi của người phụ nữ với người đời vừa là sự tự khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của mình song nghe cũng thật tủi hờn, xót xa:

Ai ơi, nếm thử mà xem!

Nếm ra, mới biết rằng em ngọt bùi.

Với người con gái, sự mời mọc tha thiết và tự khẳng định ấy là sự “vạn bất đắc dĩ” bởi vì vẻ đẹp bên trong – giá trị thực của họ chẳng được ai biết đến. Bài ca dao có sự lựa chọn hình ảnh so sánh rất chính xác, vừa cụ thể vừa biểu cảm, chắc chắn đây phải là người phụ nữ lao động gắn bó với ruộng đồng mới có cái nhìn so sánh giản dị, tự nhiên như vậy. Hình ảnh so sánh đã cụ thể hóa tâm trạng tủi hờn của người phụ nữ. Bài ca có ý nghĩa nhân văn và ý nghĩa ngầm phê phán những ai không coi trọng giá trị đích thực của con người.

Hai bài ca dao trên bổ sung cho nhau, là sự tự khẳng định một vẻ đẹp bên ngoài, một vẻ đẹp bên trong nhưng bao trùm là cảm hứng ngậm ngùi, xót xa về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó là giá trị tố cáo và giá trị nhân đạo sâu sắc trong tiếng hát than thân ướt đầm nước mắt của người phụ nữ.

Các bài ca dao có cùng công thức mở đầu gần gũi nhau bởi nét tương đồng trong nội dung, ý nghĩa và cùng sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh. Bên cạnh đó, mỗi bài có nét riêng trong việc lựa chọn đối tượng miêu tả và biểu hiện. Cũng để diễn đạt thân phận chìm nổi của người phụ nữ mà có một loạt hình ảnh khác nhau để so sánh khiến biện pháp nghệ thuật và nội dung diễn đạt càng đa dạng, phong phú, tránh được sự đơn điệu, nhàm chán. So sánh là sự khắc họa một cách cụ thể, làm sáng rõ hơn những khái niệm trừu tượng: “Thân em” là khái niệm trừu tượng được thể hiện thông qua những hình ảnh giản dị, gần gũi với cuộc sống con người: “tấm lụa đào”, “giếng nước giữa đàng”, “miếng cau khô”, “hạt mưa sa”,… Những vật thể rất khác nhau ấy được xích lại gần nhau nhờ những nét tương đồng bởi sự lựa chọn của biện pháp so sánh. Điều này giúp việc khắc họa sâu hơn đặc điểm đối tượng được đem ra so sánh mà vẫn giàu giá trị biểu cảm. Ta có thể thấy như có tiếng thở dài cam chịu, giọt nước mắt đắng cay của bao kiếp người phụ nữ xưa kia.

Trong ca dao còn rất nhiều bài khác cũng sử dụng biện pháp nghệ thuật này để thể hiện nội dung tương tự. Bởi vì ca dao là sáng tác của nhân dân lao động, được diễn xướng trong lao động, trong hát đối đáp nơi hội hè, đình đám. Từ đời này qua đời khác, ca dao được lưu truyền, khắc họa thêm tâm tình người lao động:

- Thân em như cái quả xoài trên cây

Gió đông gió tây, gió nam gió bắc

Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành.

- Thân em như chổi đầu hè

Phòng khi mưa gió đi về chùi chân.

- Thân em như giếng nước trong

Để cho bèo tấm, bèo ong lọt vào.

- Thân em như giếng giữa đàng

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

- Chàng ơi phụ thiếp làm chi

Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.

Tiếp mạch cảm xúc chung về thân phận phụ thuộc, mỏng manh, nổi nênh của người phụ nữ trong ca dao, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã khắc họa rõ nét hơn trong tiếng thơ đầy bản sắc của bà tạo nên một tiếng nói chung, một mạch tiếp nối giữa văn học dân gian và văn học viết:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Những bài ca dao trên cho ta hiểu hơn về nỗi khổ của cuộc đời người phụ nữ xưa, giúp ta thêm yêu cuộc sống hiện nay. Người phụ nữ hiện đại vẫn giữ những nét dịu dàng, khiêm nhường của người phụ nữ truyền thống nhưng họ không còn phải cam chịu cuộc sống phụ thuộc mà đã ý thức được về vị thế xã hội của mình, chủ động và xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn:

Một buổi sớm mai trớm bước chân mình trên cát

Người mẹ cho ra đời những Phù Đổng Thiên Vương

Dẫu là nguyên thủ quốc gia hay là những anh hùng

Là bác học hay là ai đi nữa

Cũng là con của người phụ nữ

Người đàn bà rất bình thường không ai biết tuổi tên.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 11

Thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến đã chịu rất nhiều thiệt thòi và bất hạnh. Đã có nhiều điển hình về sự bất hạnh đó. Một nàng Kiều gian truân, ngậm đắng nuốt cay khóc thầm cho cuộc đời mình. Một Vũ Nương chịu hàm oan phải nuốt nước mắt tìm đến cái chết. Và còn bao nhiêu, bao nhiêu được biết và không biết nữa. Đến nỗi chuyện người phụ nữ bị bạc đãi đã trở thành thông lệ. Còn phụ nữ, họ không có khả năng chống chọi nữa hay là sức phản kháng của họ đã yếu dần, yếu dần cho đến khi lời cáo buộc trở thành một lòi than thân buồn tủi:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

   Lời than thân đó nghe chứa chan nước mắt và mỏng mảnh như  khói tỏa vào không gian, như thân phận người phụ nữ vậy.

   Ca dao là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian rất phổ biến, đúc kết trong đó nhiều tình cảm và cũng là lời than thân trách phận. Các tác gia dân gian có lẽ đã thấu suốt được nỗi đau đó, thông cảm với thân phận người phụ nữ nên mở đầu ca dao là một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng; Thân em, từ thân gợi nên một cảm giác nhỏ nhoi, yếu đuôi. Người con gái khi tự giới thiệu mình cũng rụt rè, khiêm nhường thốt lên hai tiếng "thân em". Thân phận của người phụ nữ đã được văn học thành văn nhắc đến. Hồ Xuân Hương thì đồng cảm với phận bảy nổi ba chìm của thân em vừa trắng lại vừa tròn. Nguyễn Du thương xót thốt lên: đau đớn thay phận đàn bà và Tú Xương cũng thổn thức khi viết về bà Tú: lặn lội thân cò khi quãng vắng. Còn ca dao lại nói về đời người con gái qua bình ảnh liên tưởng như dải lụa đào. Biện pháp so sánh ở đây thật nhẹ nhàng và thanh thoát, thấm vào lòng người đọc, người nghe. Dải lụa đào mang dáng vẻ đẹp, nhẹ nhàng như chính tâm hồn và phẩm chất người phụ nữ, lại là một thứ vật liệu mềm mỏng dùng để may mặc, trang trí thêm cho người hay khung ảnh. Và phải chăng người phụ nữ trong cuộc đời cũ cũng vậy, họ là một món đồ trang sức, là chiếc bóng lặng lẽ, âm thầm trước những bất công. Dải lụa đào là một hình ảnh so sánh thật thanh cao, thật mềm mại nhưng quấn trong đó một nỗi niềm nặng trĩu. Vì thê câu tiếp theo là tất cả tâm trạng đau khổ vắt ra mà thành:

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

   Dải lụa đào lại ở giữa chợ, giữa cảnh xô bồ kẻ bán người mua. Liệu ai có con mắt xanh để biết giá trị của tấm lụa đào. Từ phất phơ không có hướng cồ' định cũng như hoa trôi man mác biết là về đâu. Bị số phận đưa đẩy đến như vậy mà nữ nhi lại không đủ sức, không thể chủ động định được một hướng đi cho mình để rồi đêm ngày tự hỏi cuộc đòi mình sẽ vào tay ai. Một Gã Giám Sinh buôn sắc bán hương. Một Trương Sinh đa nghi, ích kỉ hay là một Kim Trọng hào hoa phong nhã? Họ hoàn toàn biết về số phận của mình cũng như mảnh lụa mềm nhẹ kia không biết có được một người tri kỉ chọn lựa hay không? Trong suốt cuộc đời mình, người phụ nữ xưa bị đẩy vào trạng thái thụ động, chỉ quanh quẩn 'trong nhà và quanh quẩn vói việc thờ chồng, thờ cha, theo con. Dải lụa bay nhè nhẹ trong gió, phó mặc ngọn gió đưa mình đến một bàn tay thô bạo. Bay vào đôi mắt hữu tình, phong nhã. Câu hỏi buông ra biết vào tay ai thật tinh tế và khéo léo, nó tạo cho người đọc một cảm giác xót xa. Câu hỏi đó có lẽ đã bám suốt cuộc đòi người con gái.

   Toàn bộ câu ca dao là một lời than. Nó được sinh ra từ số phận cam chịu của người phụ nữ thòi phong kiến. Không một ai trong số những tác giả vô danh sáng tác câu ca dao trên lại có thể thanh thản khi nghĩ về đứa con tinh thần của mình. Câu ca dao là sản phẩm quá trình đông tụ những giọt nước mắt ngược vào lòng. Từng lòi từng chữ trong câu ca toát lên ý ngậm ngùi. Nước mắt đã chảy. Câu ca dao là tiếng lòng của bao nhiêu người, là tiếng than của bao nhiêu thân phận!

   Với cách so sánh thật linh động và cũng rất gần với đời thường, câu ca dao đã tạo ra một hình ảnh gây nhiều cảm xúc. Tưởng chừng như những đám mây đang quấn lấy cảm xúc của con người, ôm trọn trong lòng nó tâm trạng của những người phụ nữ để rồi dần dần len lỏi vào từng ngóc ngách của dải lụa đào đang phất phơ giữa chợ. Bao nhiêu câu hát than thân của người phụ nữ được sáng tác và lan truyền nhưng câu nào cũng có
sự liên hệ, liên tưởng đến những thứ nhỏ bé mỏng manh như: nước, hạt mưa, miếng cau, trái bầu... Vì thế câu ca dao đã lột tả được tâm trạng của hầu hết giói nữ: người thiếu nữ vừa tới tuổi trâm cài lược giắt đã lo âu cho sô" phận của mình. Lo ngại cho hạnh phúc hẩm hiu của mình. Tất cả tạo nên một dòng cảm xúc buồn thương không ngừng chảy từ người này sang người khác, từ đời này sang đời khác vào không gian một tiếng vang vọng mãi. Người phụ nữ thòi phong kiến đã chịu nhiều đau khổ, chấp nhận làm đẹp cho những người xung quanh. Sô" phận của họ như vải lụa bay trong gió không biết sẽ về đâu. Câu ca dao trong đề là lời than thân yếu ớt. Phải chăng người phụ nữ xưa cũng từng ao ước:

Ví đây đôi phận làm trai được.

   Những ước muôn đó tồn tại được bao lâu hay là lại phải quay trở về với những câu than thân bất lực?

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 12

Ca dao – dân ca từ bấy lâu đã đi sâu vào văn hóa của người Việt, nó như một món ăn tinh thần không thể thiếu cảu người dân, đặc biệt là người dân lao động. Ca dao – dân ca được truyền từ đời này qua đời khác và nó được lưu giữ như một báu vật tinh thần không thể thiếu. Chính vì vậy mà những người dân lao động đã gửi gắm tiếng nói, tình cảm của mình vào ca dao với đầu đủ cung bậc cảm xúc, buồn, vui, tha thiết, nhớ nhung, giận hờn. Mỗi câu ca dao có thể giống nhau về nội dung hình thức, nhưng lại mang một vẻ đẹp riêng, với cảm xúc riêng. Nổi bật là những bài ca dao về thân phận của người phụ nữ. Chẳng vì thế mà một loạt câu ca dao về thân em được ra đời, để thể hiện số phận của những người phụ nữ khác nhau. Không ngẫu nhiên đâu, khi những ví von về người phụ nữ lại bắt đầu với từ “thân em”. Ta sẽ lần lượt phân tích từng câu ca dao để thấy cái hay, cái đẹp ẩn ý trong mỗi câu chữ.

“Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

Thân em như con hạc đầu đình,

Muốn bay không cất nổi mình mà bay.”

Người phụ nữ xưa gắn với hình ảnh “tấm lụa đào” gợi cảm, vừa mềm mại dịu dàng như bản tính cố hữu của người phụ nữ, vừa tươi tắn sắc đào tươi như sức sống mãnh liệt của tâm hồn.

“Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”.

Hình ảnh ví von thật đẹp thật tròn trịa, vừa nhẹ nhàng vừa sâu lắng mà lại lột tả được vẻ đẹp của người phụ nữ. Đã là vải lụa thì ai trả thích, lại còn là tấm lụa đào. Đẹp về chất liệu và tươi sáng về màu sắc, nó gợi lên hình ảnh của người phụ nữ vừa đẹp vừa quyến rũ, lại rất quý giá.Thế nhưng tấm lụa cao quí ấy đã trở thành món hàng trao đổi – phất phơ giữa chợ. Không biết tấm lụa tuyệt đẹp này sẽ vào tay ai, một người giàu sang phú quý hiểu được giá trị của nó, hay một kẻ bần hàn coi nó cũng bình thường như những tấm vải khác. Thật khó để có thể trả lời? Câu hỏi tu từ “biết vào tay ai” như một lần nữa khẳng định sự lạc lõng của tấm lụa giữa chốn phồn hoa đông người. Đây cũng như hình ảnh của người phụ nữ ngày xưa, mỏng manh, phụ thuộc không biết đi đâu về đâu giữa dòng đời trong đục khó phân. Bởi thế, lời ca dao như một tiếng than, ngậm ngùi trong câu hỏi vọng lên biết vào tay ai? Dẫu phải rơi vào những nghịch cảnh như vậy, những lời ca về thân em vẫn toát lên một niềm kiêu hãnh về phẩm giá! Sự đối lập giữa hai dòng thơ phần nào cho chúng hiểu được nỗi lòng của người phụ nữ mỏng manh, yếu đuối lạc lõng giữa dòng người.

“Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”.

Hình ảnh hạt mưa xa gợi lên một sắc thái khác. Cô gái không còn đài các, kiêu sa nữa cô gái ở câu thơ này lại nhỏ bé, vô nghĩa. Ai có thể đếm được mỗi cơn mu có bao nhiêu hạt mưa. Mỗi hạt mưa đều giống nhau, đều màu trắng, đều ngọt ngào ai có thể phân biệt được mưa nào đẹp, mưa nào xấu. Thế nhưng câu thơ tiếp theo đã tash biệt ra cai khác của mỗi hạt mưa, đó là chỗ rơi của mỗi hạt mưa là khác nha. Hạt vào đài cac, hạt ra ruộng cày. Dù mưa ở đâu thì mưa cũng đem đến những hạt mưa ngọt ngào trong trẻo cho con người ta. Một hình ảnh so sánh thật đối lập, đài các nơi dành cho tầng lớp thượng lưu, ruộng cày nơi dành cho những người ở tầng lớp hạ lưu. Hạt mưa xa giống như thân phân của người phụ nữ ở trong cùng một thời đại, cùng một thân phận. Nhưng mỗi người lại có một số mệnh khác nhau, người may mắn lấy được người chồng tốt có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Người không may mắn lấy được người chồng phụ bạc sống khổ suốt đời. Lời so sánh như một bức tranh sinh động về mỗi số phận của mỗi người phụ nữ khác nhau.

Câu ca dao tiếp theo nói về hình ảnh chớ trêu của người phụ nữ:

“Thân em như giếng giữa đàng

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”

Nếu vế trước của câu ca dao là hình ảnh trong trẻo, mát lạnh của giếng giữa đàng, thì ở vế sau lại là một hình ảnh so sánh xô bồ, tấp nập. Giếng giữa đàng là giếng không của riêng ai, có người qua kẻ lại, mỗi người sử dụng nước với mục đích khác nhau. Người khôn thì rửa mặt, người phàm rửa chân, có người biết giá trị thì nâng niu, cẩn thận, người không biết giá trị thì phũ phàng, không biết giá trị. Qua đây ta có thể thấy được giá trị của người phụ nữ xưa, họ chỉ chờ đợi vào duyên số, họ không được tự làm chủ cuộc đời mình mà phải phụ thuộc trông chờ vào người khác.

Và ở câu ca dao tiếp theo hình ảnh người phụ nữ còn tủi hờn hơn:

“Thân em như con hạc đầu đình

Muốn bay không cất nổi mình mà bay”

Thật trớ trêu, thật đáng thương có gì khổ bằng sống cả cuộc đời không được làm những điều mà mình muốn. Dẫu có muốn bay cúng không cất nổi mình mà bay. Cả đời chấp nhận sống chung với sự cay đắng, khổ cực, trong cái vòng luẩn quẩn đã được sắp đặt trước. Câu ca dao chứa đựng niềm khao khát tự do cháy bỏng và một nỗi bất bình sâu sắc.Trong một xã hội phong kiến xưa, quan niệm trong nam khinh nữ đã biến cuộc đời người phụ nữ thành chuỗi bi kịch kéo dài. Biết than cùng ai, biết ngỏ cùng ai? Trời thì cao mà đất thì dày. Thôi thì đành giãi bày qua những câu ca vậy!

Ca dao là những câu ca, những tác phẩm khác nhau được tạo ra bởi nhiều người khác nhau, ở những chế độ phong kiến khác nhau, thời đại khác nhau, ở những địa phương khác nhau. Nhưng những câu ca dao ấy như một nỗi lòng chung than trách về thân phận của những người nông dân, bần hàn, những người phụ nữ chân yếu tay mềm, phải chấp nhận sống phụ thuộc cả đời. Dù không phải một người sáng tác, nhưng những câu ca dao ấy lại có nội dung giống nhau, thật trùng hợp, nhưng đắng cay thay những câu ca dao ấy không phải chung niềm vui mà là chung nỗi buồn. Sau từ “thân em’ là từ “như” dùng để so sánh và đối tượng đem ra so sánh: tấm lụa đào, hạt mưa, giếng giữa đàng,con hạc đầu đình. Các vật đem ra so sánh đều là những vật gần gũi, quen thuộc và có những nét tương đồng độc đáo với thân phận của người con gái trong xã hội cũ.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai cực hay 13

Trong xã hội Việt Nam phong kiến tư tưởng “trọng nam khinh nữ” trở thành định kiến khó có thể lay chuyển nổi. Có lẽ chính vì thế mà số phận người phụ nữ trong xã hội ấy rất đau khổ và bi thương. Cũng chính bởi thế mà thân phận người phụ nữ đã đi vào văn học dân gian xưa qua những bài ca dao quen thuộc ở trong đó có bài cao dao với bao lời than thân của người phụ nữ đó là:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Trong câu ca dao xưa là hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính tập thể rất phổ biến, phản ánh đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người trong xã hội phong kiến với nhiều lễ giáo. Thế rồi chính những phong tục cổ hủ và lễ giáo phong kiến ấy đã đè ép biết bao nhiều số phận người phụ nữ, khiến họ bất hạnh, bị dồn vào đường cùng. Cũng chính với bài ca dao trên mở đầu với mô tuýp “thân em” quen thuộc. Chỉ cần đọc lên hai từ “thân em” thật đỗi dịu dàng khiến ta liên tưởng đến người con gái nhỏ bé, yếu ớt. Tại sao lại “Em” chứ không phải “tôi” , “cô”, xưng “em” giúp chúng ta cảm nhận được sự nhún nhường yếu đuối của người phụ nữ.

Thực sự chính lời than thân nghe mà chan chứa nước mắt nhẹ bẫng trong không gian mà nặng trĩu trong lòng người. Thêm với đó chính với những biện pháp so sánh “thân em” với “tấm lụa đào” thì chính hình ảnh câu ca dao đã ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ. Chính với tấm lụa đào là một mảnh vải lụa mỏng manh, mềm mại nhẹ nhàng dùng để may những chiếc áo, như chính người phụ nữ thời xưa . Họ mang vẻ đẹp tâm hồn cao quý nhưng lúc này cũng chỉ là cái bóng lặng lẽ, thậm chí là vô hình, cứ vậy mà sống với đầy rẫy những bất công bởi nền tảng phong kiến cố hữu. Hình ảnh được nhắc nhớ hình ảnh của tấm lụa đào tuy đẹp đẽ là thế nhưng cuối cùng chúng chỉ là những thứ được bày bán ở chợ đông người mà thôi.

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Khi đứng ở không gian ở đây là nơi chợ đông đúc, xô bồ với đủ thể loại người kẻ mua, người bán với các loại mặt hàng khác nhau đa dạng phong phú thì đâu đó “tấm lụa đào” đẹp đẽ mỏng manh đang bay cứ phất phới. Người đọc có thể cảm nhận được một từ láy diễn tả hết thảy hoàn cảnh người phụ nữ đang phải đối mặt. Họ dường như cũng đã trở thành đồ trang trí được bày bán giữa chợ, làm thứ để người ta tùy ý nâng lên đặt xuống, hay cũng lại tùy ý bay trong gió sương. Liệu có ai giữa nơi đông nghịt đó cũng nhận ra được giá trị của tấm lụa.

Như vậy, chúng ta cũng chỉ cảm nhận thấy được thông qua bài ca dao là một thời than, một câu hỏi dài vang lên những bi thương của người phụ nữ trong xã hội cũ. Qua đó ta nhận ra giá trị ,vẻ đẹp tâm hồn của họ, đồng cảm và xót thương cho “thân em” đồng thơi ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 14

Trong số lượng khổng lồ các bài ca dao, dân ca thì có một phần trong đó là các bài ca dao phản ánh về hình ảnh người phụ nữ từ vẻ đẹp tới thân phận. Trong số các bài ca dao về hình ảnh người phụ nữ có một phần thường bắt đầu bằng từ “thân em”. Một trong những bài ca dao mà tôi rất quen thuộc, đó là:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Số phận và vẻ đẹp người phụ nữ là nguồn cảm hứng của mọi nhà văn nhà thơ và kể cả nhân dân lao động sáng tạo văn học dân gian. Đặc biệt, văn học dân gian thường nói về người phụ nữ thôn quê với thân phận nhỏ bé và số phận chuân chuyên nhưng vẫn có nội tâm giàu đẹp.

“Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen”

“Thân em như giếng giữa đàng

Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân”

“Thân em như hạt mưa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”

Trong bài ca dao trên, vấn đề thể hiện cũng nằm trong nội dung này.

Bài ca dao bắt đầu bằng mô-tuýp “thân em” quen thuộc:

“Thân em như tấm lụa đào”

Từ “thân” được đẩy lên đầu câu để nhấn mạnh đến vẻ đẹp bên ngoài hoặc thân phận người con gái. Tác giả dùng từ “em” để đại diện cho những người phụ nữ nói chung. Người phụ nữ được đưa ra so sánh với “tấm lụa đào”. Lụa là loại vải có giá trị, được đánh giá là một trong những loại vải tốt bởi đặc trưng mềm, mỏng, nhẹ, thoáng mát. Màu “lụa đào” gợi cảm giác rất thắm, rất đậm sắc. Khi so sánh như vậy, tác giả muốn nhấn mạnh rằng người phụ nữ Việt Nam có vẻ đẹp duyên dáng, yêu kiều, đằm thắm, mặn mà. Mặt khác, hình ảnh dải lụa cũng gợi liên tưởng tới thân phận nhỏ bé, cuộc đời mỏng manh, bèo bọt, bất định của người phụ nữ.

Câu thơ sau nhấn mạnh hơn về dụng ý đang ám chỉ:

“Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Hơn cả phản ánh vẻ đẹp, dường như nhân dân đang hướng nhiều hơn tới số phận người phụ nữ. Từ láy “phất phơ” đứng đầu câu thơ là tính từ bổ nghĩa cho chủ từ “thân em” và danh từ “tấm lụa đào”. Phất phơ tức là thứ rất mỏng, nhẹ, chuyển động qua lại hoàn toàn phụ thuộc vào lực tác động. Hình ảnh tấm lụa phất phơ gợi cảm giác như đang bị chi phối bởi những cơn gió, hoàn toàn không được tự do chủ động. Tấm lụa được đặt trong không gian “giữa chợ”. Chợ vốn là nơi đông đúc, phức tạp, dòng người xa lạ qua lại mỗi ngày, tranh mua tranh bán, lo sợ thiệt hơn. Từ “giữa” lại càng thể hiện sự lạc lõng, bơ vơ. Một tấm lụa đẹp là thế nhưng cuối cùng vẫn chỉ là một món hàng, bị đem ra cân đo giá cả, chẳng biết rồi ai sẽ trở thành chủ nhân của nó. Khi so sánh “thân em” với thân phận của dải lụa, ta mới thấu hiểu được hết cái tủi hờn của người phụ nữ. Người phụ nữ lạc lòng giữa cuộc đời xô bồ, chẳng thể làm chủ được mình, chẳng có quyền tự do quyết định cuộc đời mình dù cho họ có đẹp đến đâu. Thật vậy, chưa bao giờ người phụ nữ xưa được làm chủ cuộc đời mình. Họ bị ràng buộc bởi lễ giáo và tư tưởng như như “xuất gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, tử tử tòng tôn”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “trọng nam khinh nữ”…

Câu ca dao “Thân em như tấm lụa đào / Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” có thể là sự phản ánh của nhân dân về thân phận người phụ nữ cùng có thể là chính người phụ nữ đang than thở về cuộc đời mình. Dù có thế nào, ta vẫn hiểu được nỗi lòng đáng thương của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 15

Trong kho tàng ca dao của Việt Nam có rất nhiều bài ca dao phản ánh một cách chân thực đời sống tâm hồn của con người. Mỗi một bài ca dao đề cập đến một nội dung riêng của đời sống mà trong đó nội dung than thân khiến người đọc cảm thấy xúc động và xót xa hơn cả. Người phụ nữ sống trong xã hội cũ đã phải chịu quá nhiều thiệt thòi và họ chỉ có một cách duy nhất để thương cho chính mình đó là gửi tâm tư vào trong những bài ca dao như:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Có rất nhiều bài ca dao bắt đầu bằng hai chữ thân em như vậy chẳng hạn “Thân em như hạt mưa sa”, “Thân em như giếng nước giữa đàng”, “Thân em như lá đài bi”,… Tất cả đều nằm trong nhóm ca dao than thân và ta thấy ở mỗi một bài ca dao người phụ nữ lại bị đẩy vào những hoàn cảnh khác nhau. Họ chủ yếu bị phụ thuộc, sống nhưng không có tiếng nói, không được coi trọng. Mặc dù cũng bắt đầu bằng hai chữ thân em nhưng bài ca dao Thân em như tấm lụa đào vẫn mang những nét riêng biệt. Ở đây người phụ nữ đã ví thân mình như tấm lụa đào. Rõ ràng sự so sánh này so với những sự so sánh khác như tôi lấy ví dụ ở trên có sự khác biệt hoàn toàn. Khi ví thân mình như tấm lụa đào, người phụ nữ đã nhận thức được vẻ đẹp của bản thân mình. Đó là vẻ đẹp mềm mại, nổi bật và đầy sức sống. Có thể nói người phụ nữ trong bài ca dao đang ở thời kì thanh xuân đầy rực rỡ. Đây cũng là giai đoạn đẹp nhất của người phụ nữ. Đáng lẽ ở giai đoạn này người phụ nữ phải được hưởng hạnh phúc nhiều nhất nhưng câu ca dao sau lại dập tắt mọi hi vọng.

Tấm lụa đào vừa đẹp đẽ lại vừa giá trị nhưng nó không được nằm ở vị trí trang trọng mà lại phất phơ giữa chợ. Chợ là nơi đông đúc người qua kẻ lại, là nơi mà mọi thứ đều có thể mua được bằng tiền. Như vậy tấm lụa đào cũng chỉ như một món hàng hóa mà bất cứ ai cũng đều có thể sở hữu. Tấm lụa đào không có quyền tự quyết, không biết rồi đây mình sẽ rơi vào tay ai. Rơi vào tay người biết trân trọng thì cuộc sống bớt tủi hờn còn rơi vào tay người không biết trân trọng thì coi như cuộc sống không còn những niềm vui.

Bài ca dao đã bộc lộ rõ sự lo lắng của người phụ nữ về số phận của mình. Dù có đẹp đến mấy, có giá trị đến mấy thì cũng còn phụ thuộc vào tay người sở hữu. Cách ngắt nhịp 2/2/2 khiến cho bài ca dao nghe nhẹ nhàng nhưng lại vô cùng thấm thía và bộc lộ được tâm trạng của nhân vật trữ tình.

Thông qua bài ca dao chúng ta thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ đã nhận thức được giá trị của bản thân mình, chỉ tiếc là xã hội chưa công nhận họ nên họ vẫn chưa có cái quyền mưu cầu hạnh phúc, chưa có quyền tự quyết. Qua đây chúng ta hiểu và càng trân trọng hơn những người phụ nữ ấy.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 16

Thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa luôn bị coi thường, rẻ rúng. Họ luôn phải chịu đựng những bất công trong xã hội, không được làm chủ chính mình. Những người phụ nữ đã cất lên lời than để bày tỏ nỗi niềm của mình, để cho người đời thấu hiểu cảm thông cho thân phận họ. Những lời than ấy được viết thành những câu hát dân ca, những bài ca dao lưu truyền rộng rãi. Một trong số đó chính là câu:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Câu ca dao được viết bằng thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của tộc. Bài ca dao mở đầu bằng từ “thân em”. Đây là một cách mở đầu quen thuộc, thường thấy trong ca dao và nó trở thành mô típ được sử dụng nhiều trong những câu hát than thân. Ví như câu:

Thân em như hạt mưa rào

Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa”

Hay câu:

“Thân em như giếng giữa đàng

Người thanh rửa mặt người phàm rửa chân”

Mô típ này chính là để bày tỏ nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội cũ. “Thân em” là thân phận cửa người phụ nữ nói chung. Ngay từ từ đầu tiên trong câu thơ thứ nhất đã nhấn mạnh đến đối tượng mà câu ca dao hướng đến. “Thân em” giống như một lời xưng hô nhỏ nhẹ, mềm mỏng của người con gái đang chuẩn bị giãi bày tâm sự của mình. Bên cạnh đó tác giả dân gian còn sử dụng biện pháp so sánh giữa “thân em” với “tấm lụa đào”. Phép so sánh ngang bằng để thấy được em như tấm lụa đào.

Trước tiên chúng ta phải hiểu được thế nào là tấm lụa đào để có thể hiểu được nghệ thuật so sánh trong bài ca dao này. Tấm lụa đào là một loại vải óng ả, mềm mượt và đẹp. So sánh người phụ nữ với tấm lụa đào để khẳng định vẻ đẹp của người phụ nữ. Họ không chỉ đẹp bởi nhan sắc bên ngoài mà còn ở cả những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã từng ví người phụ nữ giống như chiếc bánh trôi nước:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn”

Đó là vẻ đẹp bên ngoài tròn trịa, đầy đặn và phúc hậu của người phụ nữ. Hơn thế nữa còn có vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp tâm hồn “mà em vẫn giữ tấm lòng son. Thế mới thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ nhẹ nhàng, thanh thoát giống như tấm lụa đào nổi bật hơn hẳn so với các loại vải khác. Đó là một thứ vải mềm, mỏng manh dùng để làm được nhiều vật dụng khác. Ứng với người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ không chỉ đẹp đẽ ở bề ngoài mà còn là người có tấm lòng nhân hậu, là những người chịu thương chịu khó, chăm chút cho gia đình. Họ là những chiếc bóng âm thầm, lặng lẽ hi sinh cho người khác, họ chịu nhiều những đắng cay, tủi nhục nhưng lại không hề được trân trọng:

“Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”

Éo le thay tấm lụa đào vốn đẹp đẽ lại đặt ở giữa chợ, một nơi đông đúc, xô bồ và có muôn loại người trong xã hội. Có những người có con mắt tinh tường biết được giá trị của tấm lụa đào nhưng cũng đầy kẻ chẳng phân biệt được tốt xấu, ánh mắt phàm tục. Tấm lụa đào vô tri vô giác chỉ biết lẳng lặng đứng trong quầy hàng và chờ đợi, ngóng trông không biết mình sẽ rơi vào tay ai bây giờ. Vốn là một thứ đẹp đẽ, có giá trị nhưng lại không tự quyết định cho số phận mình, họ bị đẩy vào trạng thái thụ động chỉ quanh quẩn trong nhà.

Như chúng ta đã biết, người phụ nữ trong xã hội xưa thường phải sống một cuộc sống khuôn phép, tuân theo nhiều quy tắc trong xã hội. Họ ngoài việc lao động, chăm sóc chồng con còn phải tuân thủ tam tòng, tứ đức. Tam tòng chính là: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Có thể thấy người đàn ông mới là trụ cột trong gia đình và người phụ nữ phải lấy người đàn ông làm gốc để thực hiện hoạt động của mình. Rồi tứ đức tức là người phụ nữ phải có đủ công – dung – ngôn – hạnh, không được làm trái với những điều trên.

Câu ca dao đã đem lại cho chúng ta cái nhìn về số phận cam chịu, tủi nhục mà người phụ nữ xưa từng phải trải qua. Với cách so sánh giàu tính biểu tượng, câu ca dao đem lại cho người đọc nhiều tình cảm, cảm xúc. Những nỗi lo âu, bất lực trước số phận. Những con người cam chịu cả một đời nhận lấy đắng cay muôn phần. Ấy vậy mà họ chẳng hề được người ta cảm thông, sẻ chia.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 17

Những bài ca dao quen thuộc về những người phụ nữ xa xưa trong chế độ phong kiến cũ thường được bắt đầu bằng mô típ “ thân em” . Có thể là lời than trách hoặc là sự khao khát tự do. Có thể lấy ví dụ như:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Thay vì ví von như củ ấu gai hay hạt mưa sa. “ Thân em” – người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được so sánh như tấm lụa đào. Tấm lụa đào óng ả, mềm mượt cũng như người con gái nhẹ nhàng đẹp đẽ. Người ta cảm nhận được sự giá trị của người con gái hơn, có lẽ đây là biện pháp tu từ thanh thoát và dễ đi vào lòng người. Thế nhưng, trong đó còn ẩn đâu đó một nỗi niềm sâu xa. Tấm lụa đào cũng vốn dĩ chỉ là một tấm vải để con người may mặc lên người hay trang trí lên các vật dụng. Tấm lụa âm thầm chịu đựng theo sự sắp đặt của chủ nhân phải chăng cũng giống như người phụ nữ phải luôn chịu ấm ức áp đặt. Một dáng vẻ đẹp đẽ, thanh tao nhưng âm thầm làm con người ta phải suy nghĩ. Dù tấm lụa rất đẹp nhưng vẫn không thể thoát khỏi số phận mong manh. Câu thứ hai có vẻ đã làm rõ ý đồ của tác giả hơn “Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai” . Từ “ phất phơ” và “ giữa chợ” làm nên ấn tượng với người đọc.  Có thể liên tưởng đến Thúy Kiều – người con gái được mang ra trao đổi thương lượng như một món đồ. Số phận người phụ nữ xưa cũng vậy. “ Phất phơ giữa chợ” có nghĩa là phận nữ nhi không lạc lối giữa xã hội phong kiến, không có quyền nắm bắt tương lai của bản thân. Câu hỏi tu từ “ biết vào tay ai” thật tinh tế nhưng cũng phảng phất nỗi buồn của tấm lòng của người con gái. Họ sẽ sống ra sao giữa cuộc đời vô định này.

Bài ca dao là lời than vãn về số phận bấp bênh của người phụ nữ lứa tuổi đôi mươi. Là sự băn khoăn cho lắng cho về số phận tương lai mà không được mình định đoạt. Không chỉ là lời thổn thức tiếng lòng mà còn khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ xưa.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai hay nhất 18

  Ca dao - dân ca phản ánh sinh động đời sống tinh thần phong phú của nhân dân lao động. Họ đã gửi gắm vào đó tiếng nói tâm tình chân thành tha thiết, với đủ mọi cung bậc buồn vui. Nhiều câu ca dao về hình thức và nội dung có những nét giống nhau nhưng mỗi câu lại mang một vẻ đẹp riêng, phù hợp với từng hoàn cảnh và tâm trạng khác nhau. Ví dụ một loạt câu mở đầu bằng cụm từ Thân em mà nội dung cùng đề cập đến phẩm chất tốt đẹp, cao quý và số phậm hẩm hiu, bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.

-  Thân em như củ ấu gai,
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.
   Ai ơi nếm thử mà xem!
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

-  Thân em như tấm lụa đào, 
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai,
Đông đào tây liễu, biết ai bạn cùng?

-  Thân em như hạt mưa rào,
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
   Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

-  Thân em như giếng giữa đàng,
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

-  Thân em như đóa hoa rơi,
Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

-  Thân em như con hạc đầu đình,
Muốn bay không cất nổi mình mà bay!

       Ngậm ngùi, buồn thương, xót xa, cay đắng là cảm xúc chung bao trùm lên những câu ca ấy, khiến nó giống như tiếng thở dài than thân trách phận; tiếng khóc thầm tủi hờn, uất ức của người phụ nữ trước tình cảnh ngang trái, bất công. Trong xã hội phong kiến, họ bị tước đoạt quyền tự do, quyền được sống hạnh phúc và buộc phải phó mặc cuộc đời mình cho sự may rủi ngẫu nhiên của số phận. Cho dù bên trong cái hình thức xấu xí, đen đủi như củ ấu gai là phẩm chất tốt đẹp vừa ngọt vừa bùi nhưng chắc gì người đời đã nhận ra?! Cho dẫu đẹp đẽ như tấm lụa đào đi chăng nữa thì vẻ đẹp ấy chưa chắc là cơ sở bảo đảm cho hạnh phúc. Giống như những hạt mưa từ trời cao rơi xuống, số phận của mỗi người con gái một khác. May rủi cuộc đời có thể đưa họ đến những cảnh ngộ trái ngược trong cuộc sống. Có người được trân trọng, có người bị ngược đãi, cũng như nước cùng một giếng mà người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân. Giống như con hạc đầu đình, người phụ nữ bị trói chặt vào số phận hẩm hiu, dẫu có muốn thay đổi cũng chỉ là ao ước mà thôi.

      Sáu câu ca dao với những cách so sánh khác nhau nhưng cùng nói lên một thực trạng: quyền sống của người phụ nữ xưa kia, mà trước hết là quyền tự do hoàn toàn bị phủ nhận. Đó chính là nguồn gốc của mọi đau khổ, ngang trái mà họ phải chịu đựng trong suốt cuộc đời.

      Sáu câu ca dao là sáu tiếng than thân ngậm ngùi, chua xót. Bởi xét cho cùng, dẫu có tấm lụa đào nào được vào tay khách quý, có hạt mưa sa nào được vào chốn đài các, có nước giếng nào được đêm rửa mặt, thì cũng là nhờ may mắn mà sự may mắn thì thật hiếm hoi. Trong bao nhiêu tấm lụa đào, bao nhiêu hạt mưa sa, bao nhiêu nước giếng mới có được một số phận sáng tươi? Cho nên đau khổ vẫn là tình trạng chung phổ biến nhất của người phụ nữ.

      Những câu ca dao trên chính là tiếng than thân cất lên từ cuộc đời như thế. Than vãn mà không oán trách, bởi vì biết oán trách ai? Rốt cuộc, đành cho rằng đó là định mệnh. Cho hay muôn sự tại trời, không thể nào thay đổi được.

      Cả sáu câu ca dao hầu như cùng một khuôn mẫu về nội dung, về kết cấu. Mở đâu bằng thân em, tiếp theo là sự vật được đem so sánh. Còn những câu dưới là mượn tính chất của sự vật ấy để chỉ thân phận người phụ nữ. Tuy nhiên, trên cơ sở giống nhau về ý nghĩa, mỗi câu ca dao lại khác nhau ở hình ảnh được đem ra so sánh và chính cái đó đã tạo nên sắc thái của từng câu.

     Ta sẽ lần lượt phân tích từng câu để thấy cái hay, cái đẹp trong ý nghĩa và hình thức biểu hiện.

Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi nếm thử mà xem!

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

     Người phụ nữ ngày xưa bị ràng buộc bởi lễ giáo khắt khe cùng những hủ tục, định kiến nặng nề của xã hội trọng nam khinh nữ. Quan niệm nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô: (Một con trai cũng là có, mười con gái cũng là không). Nữ nhân ngoại tộc: (Con gái là người ngoài họ tộc). Hay: Khôn ngoan cũng thể đàn bà, Dẫu rằng vụng dại cũng là đàn ông... đã đẩy người phụ nữ vào vị trí thứ yếu trong gia đình và xã hội.

     Quan niệm sai lệch ấy ảnh hưởng không ít tới cách suy nghĩ của chị em phụ nữ, tạo ra trong họ một mặc cảm tự ti, tiêu cực. Người phụ nữ nông dân vất vả, lam lũ quanh năm thì so sánh:

Thân em như củ ấu gai,

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen.

     Cái củ ấu gai góc, xấu xí ấy sống dưới bùn sâu, chẳng mấy ai để ý tới, dẫu rằng bên trong nó vừa trắng. vừa ngọt, vừa bùi.

Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

Em ngồi cành trúc, em tựa cành mai,

Đông đào tây liễu, biết ai bạn cùng?

      Người phụ nữ xưa tự nhận thức và đánh giá đúng đắn về phẩm chất tốt đẹp của mình và khẳng định điều đó qua ẩn dụ so sánh đầy tính nghệ thuật: Thân em như tấm lụa đào...

      Tấm lụa đào đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc bởi được dệt nên từ loại tơ tằm tốt nhất. Lụa nhẹ, mềm và rất mát, mặc vào thì người đẹp hẳn lên. Lụa màu hoa đào vừa đẹp vừa quý nhưng khi đem bán thì cũng phải bày ra giữa chốn "trăm người bán, vạn người mua", đủ loại người sang kẻ hèn, người thanh kẻ tục, không biết sẽ vào tay ai? Lụa tuy đẹp thật nhưng đã chắc gì có người biết đánh giá đúng giá trị của nó! Hình ảnh tấm lụa đào gợi lên vẻ thanh xuân mơn mởn, tràn đầy sức sống của một cô gái đương thì, nhưng hình ảnh tấm lụa đào phất phơ giữa chợ lại có một cái gì đó thật trớ trêu, tội nghiệp. Nỗi băn khoăn, lo lắng là rất thực. Quả là hoàn cảnh khách quan chi phối rất nhiều, có khi quyết định số phận của cả một đời người.

Thân em như hạt mưa rào,

Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.

Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

      Hình ảnh hạt mưa sa lại gợi lên một sắc thái tình cảm khác. Người phụ nữ cảm thấy thân phận mình quá ư nhỏ bé. Có bao nhiêu hạt mưa từ trời cao rơi xuống trong một cơn mưa?! Mọi hạt mưa đều trong trẻo, mát lành như nhau nhưng chỗ rơi xuống – tức số phận của từng hạt mưa lại không giống nhau. Sự rủi may của hoàn cảnh không thể nào đoán định trước được. Nó có thể dẫn đến những điều trái ngược hoàn toàn trong cảnh ngộ. Giữa muôn ngàn hạt mưa, một số hạt đã may mắn hơn, không rơi xuống giếng, không vào vườn hoa, không mất hút vào luống cày mà lại rơi vào chốn lầu son gác tía (đài các). Bài ca dao này quả là một bức tranh sinh động về thân phận bấp bênh của người phụ nữ xưa kia.

      Nếu không may rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, họ chỉ có một cách lựa chọn là cúi đầu chấp nhận. Dân gian đã ví: Thân con gái mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu, bởi vì người phụ nữ đã bị bao điều đè nén, ràng buộc, bị tước đoạt quyền tự do, quyền làm chủ bản thân. Quy định tam tòng: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu tử tòng tử không cho họ được sống theo ý mình mà hoàn toàn phụ thuộc vào người khác. Dẫu biết là vô lí, bất công cũng vẫn phải nhẫn nhục, cam chịu.

Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân...

    Câu này lấy hình ảnh so sánh là cái giếng giữa đàng vốn rất quen thuộc với làng xóm ngày xưa. Vì là giữa đàng nên có nhiều người qua lại và tất nhiên có người khôn (người tốt, người có con mắt tinh đời...), có người phàm (kẻ tầm thường, bần tiện...). Cách sử dụng nước giếng hoàn toàn do mục đích, thái độ của từng người. Rửa mặt với rửa chân là hai hình ảnh tương phản thật sinh động và ý vị.

Thân em như đóa hoa rơi,

Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

       Đây là hình ảnh so sánh độc đáo và tinh tế, thể hiện mặc cảm về thân phận bất hạnh, về sự dở dang trong hôn nhân. Thân em không phải đóa hoa xinh tươi còn ở trên cành mà đóa hoa héo úa, tàn phàn đã rụng rơi dưới đất. Trong hoàn cảnh đáng buồn ấy, người phụ nữ chỉ biết bám víu vào một hi vọng mong manh: Phải chăng chàng thật là người yêu hoa?!

Thân em như con hạc đầu đình,

Muốn bay không cất nổi mình mà bay.

      Tác giả dân gian đã chọn lựa được một hình ảnh so sánh có khả năng gợi cảm và liên tưởng rất cao. Con hạc đầu đình là một vật dụng để thờ, thường được làm bằng gỗ hay bằng đồng, được đặt ở nơi đền, miếu, đình, chùa... Nhìn những con hạc ấy rồi ngẫm đến thân phận của mình, người phụ nữ thấy có những nét tương đồng. Con hạc kia dẫu có muốn bay thì cũng không thể cất nổi mình mà bay. Trong suốt cuộc đời, người phụ nữ phải cắn răng chịu đựng bao đau thương, tủi nhục. Nếu có thở than thì tiếng thở than của họ cũng không thể thấu tới trời xanh. Cái vòng luẩn quẩn, nghiệt ngã của số phận trói buộc họ, khó bề thoát khỏi. Dù họ có muốn vùng dậy để cắt đứt, phá bỏ những xiềng xích vô hình ấy thì cũng không dễ dàng gì. Câu ca dao chứa đựng niềm khát khao cháy bỏng và một nỗi bất bình sâu sắc.

      Những bài ca dao trên là tiếng nói than thân trách phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hà khắc xưa kia. Nhân vật không phải là một cá nhân cụ thể mà là trăm ngàn phụ nữ cùng chung cảnh ngộ, cuộc đời giống như chuỗi bi kịch kéo dài. Với họ, hạnh phúc chỉ là một cái gì đó rất mơ hồ, khó hình dung và càng khó mà đạt được.

      Những câu ca dao bày tỏ tâm tình tha thiết, chân thành như trên có sức lay động lòng người rất lớn. Ai cũng có thể cảm nhận được từ đấy một chút cảnh ngộ, một chút tâm sự của mình. Vậy chúng ta nên cắt nghĩa như thế nào cho hợp lí về sự song song tồn tại của những câu ca dao vừa giống nhau, vừa khác nhau đó?

     Trước hết, ca dao được sáng tác bởi nhiều người khác nhau, ở những thời kì khác nhau, trên những vùng đất khác nhau. Gặp cảnh ngộ đắng cay, người nông dân xưa hay liên hệ số phận mình với một hình ảnh tương tự nào đó, thế là một câu ca dao ra đời. Câu ca dao ấy vừa chất chứa tâm tư, vừa mang dấu ấn thực tế cuộc sống của người sáng tác.

      Không hẹn mà nên, cái chung của số phận người phụ nữ đã làm cho những câu ca dao gặp nhau ở cùng một nội dung ý nghĩa.

     Mặt khác, ngay cả khi trong tâm trí có sẵn một câu ca dao cũ, nhưng trong cảnh ngộ cụ thể, người làm thơ dân gian vẫn muốn nói lên một điều gì đó cho riêng mình. Cho nên mới lần lượt xuất hiện những câu ca dao nội dung gần giống nhau mà hình thức thì khác đi đôi chút. Đó không đơn giản chỉ là sự lặp lại mà là phát triển và bổ sung thêm cho cái đã có thêm đa dạng, phong phú.

      Tuy nghệ thuật có nhiều chỗ giống nhau như ở cách mở đầu, cách ví von, so sánh, ẩn dụ và giống nhau ở cảm xúc chung nhưng mỗi câu ca dao vẫn lấp lánh một vẻ đẹp riêng. Điều đáng nói là chỉ sau vài lần ngâm nga thưởng thức, người đọc sẽ không thể nào quên bởi cái hay, cái đẹp của nó đã thấm vào máu thịt tự lúc nào chẳng rõ.

      Chỉ xét riêng sáu câu ca dao có chung cách mở đầu bằng Thân em, chúng ta cũng thấy được ca dao đúng là sản phẩm của tài năng và tâm hồn phong phú của nhân dân lao động. Những câu ca dao ấy giúp ta hiểu được nỗi cay đắng ngậm ngùi mà người phụ nữ Việt Nam ngày xưa đã phải trải qua và thêm thông cảm, đồng tình với khát vọng cất mình mà bay của họ.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 19

 Trong ca dao Việt Nam có một điều rất lạ: nhiều câu ca dao hoàn toàn không khác nhau về nội dung, ý nghĩa, nhưng lại cùng tồn tại và mỗi câu đều đem lại niềm hứng thú riêng cho người thưởng thức. Chẳng hạn có rất nhiều câu bắt đầu bằng "Thân em" cùng nói lên số phận đắng cay của người phụ nữ ngày xưa:

- Thân em như tấm lụa đào,

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.

- Thân em như hạt mưa sa,

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

- Thân em như giếng giữa đàng,

Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

- Thân em như con hạc đầu đình,

Muốn bay không cất nổi mình mà bay.

      Cái chung của những câu ca dao này là gì? Tất cả đều nói lên tình cảnh cay đắng của người phụ nữ, bị tước đoạt quyền tự do, quyền quyết định hanh phúc của mình, hoàn toàn phó mặc cho ngẫu nhiên của số phận. Cho dẫu phẩm chất đẹp đẽ, cao quý như tấm lụa đào, phẩm chất ấy không là cái đảm bảo cho hạnh phúc. Cho dẫu hoàn toàn giống nhau về giá trị, như những hạt mưa từ trời cao sa xuống, số phận của những người con gái cũng chưa chắc giống nhau; sự may rủi của đời có thể đưa đến những khác biệt, thậm chí những số phận tương phản. Sự may rủi có thể đưa đến những cảnh ngộ, hoặc được trân trọng hoặc bị bạc đãi, như cùng là nước giếng, mà cũng có thể được dùng cho người rửa mặt, hoặc bị đưa cho người rửa chân. Như con hạc đầu đình, người phụ nữ bị trói chặt vào số phận, dẫu có ao ước đổi thay, họ không sao có thể quyết định được.

      Cả bốn câu ca dao, với những sự so sánh khác nhau, cùng cho ta biết một thực trạng của chế độ phong kiến: quyền sống của người phụ nữ, mà trước hết là quyền tự do quyết định đời mình, hoàn toàn bị phủ nhận. Đó chính là nguồn gốc của mọi đau khổ, mọi cảnh ngang trái mà người phụ nữ phải chịu đựng trong cả đời người dằng dặc. Cả bốn câu ca dao là bốn tiếng than dài, làm nên một chuỗi tiếng than buồn bã, đau đớn. Mở đầu bằng "Thân em", những người phụ nữ ngày xưa đã hiểu được nỗi khổ của mình, nỗi khổ riêng và nỗi khổ chung của mọi người phụ nữ. Bởi xét cho cùng, dẫu cho có tấm lụa đào nào được rơi vào tay khách quý, có hạt mưa sa nào được vào nơi đài các, có nước giếng nào được đem rửa mặt, thì cũng nhờ vào may mắn mà có, nên thực ra nó cũng bấp bênh. Huống chi trong bao nhiêu tấm lụa đào, bao nhiêu hạt mưa sa, bao nhiêu nước giếng, mới có được một số phận sáng tươi. Cho nên đau khổ vẫn là cái chung. Những câu ca dao trên chính là tiếng than đã cất lên từ hàng triệu cuộc đời trong nghìn năm của chế độ phong kiến. Than vãn mà không oán trách, bởi vì không biết oán trách ai, người phụ nữ ngày xưa chỉ biết đó là thân em, cái số phận đã dành cho mình, không thể cắt nghĩa được. Cả bốn câu ca dao hầu như được đúc ra từ một khuôn: ngoài cái giống nhau về nội dung, cả bốn câu đều giống nhau về kết cấu. Mỗi câu là một so sánh nghệ thuật. Bắt đầu bằng "Thân em" rồi tiếp theo là một sự vật so sánh ở nữa câu trên, để chỉ thân phận của người phụ nữ. Tuy nhiên, những câu ca dao ấy không hoàn toàn giống nhau. Nếu hoàn toàn giống nhau, chúng đã không tồn tại. Trên cơ sở giống nhau về ý nghĩa, mỗi câu ca dao lại khác nhau về hình ảnh so sánh. Và đó chính là điều tạo nên sắc thái riêng hứng thú riêng. Hình ảnh "tấm lụa đào" gợi nên một ý niệm đẹp, đẹp từ chất liệu, dáng vẻ đến màu sắc "Người đẹp nhờ lụa", bởi đó là thứ vải mặc được dệt từ loại tơ tằm tốt nhất, bóng sáng, mềm dịu, mặc vào thì mát mẻ, làm đẹp con người lên. Đã lụa lại lụa màu hoa đào nữa thì đẹp quá. Quý thế nhưng khi đem bán thì phải bày lụa ra giữa chợ, để nó "phất phơ giữa chợ", giữa chốn "trăm người bán, vạn người mua", có đủ thứ người sang kẻ hèn, người thanh kẻ tục. Lụa đẹp nhưng đã chắc gì có người biết đúng giá trị của nó, thật là tội nghiệp cho tấm lụa! Hình ảnh "hạt mưa sa" lại gợi lên một sắc thái khác. Đố ai đếm được có bao nhiêu hạt mưa từ trời rơi xuống trong một cơn mưa! Mọi hạt đều trong trẻo như nhau, ngọt mát như nhau, nhỏ bé như nhau, không có hạt mưa nào hơn hạt mưa nào. Thế nhưng giữa cơn mưa đầy trời ấy, chỗ "rơi xuống", số phận cuối cùng của các hạt mưa đã không giống nhau. Giữa triệu triệu hạt mưa rơi xuống đất, một số ít hạt mưa may mắn hơn, không rơi xuống bùn lầy, không rơi mất hút vào luống đất vừa cày xới, lại rơi ngay vào chôn lầu son gác tía. Thật là một bức tranh sinh động. Câu thứ ba lấy hình ảnh so sánh là "giếng nước giữa đàng", một hình ảnh vốn quen thuộc với làng xóm ngày xưa. Vì là giữa đàng nên có bao nhiêu người qua lại. Giữa những người qua lại tất nhiên có người khôn (người có lòng, có con mắt tinh đời...), kẻ phàm (kẻ tầm thường, bần tiện...). Thái độ cùa người sử dụng nước giếng giữa đàng không phải do nước giếng mà do phẩm chất của người dùng nước. Hai hình ảnh "rửa mặt" với "rửa chân" thật là sinh động và thú vị. Câu ca dao thứ tư dùng hình ảnh so sánh mới thật sắc sảo: "Con hạc đầu đình" vốn không phải là một sinh vật mà là một vật dụng để thờ, bằng gỗ hay bằng đồng. Con hạc ấy không thể bay được. Như nhìn vào thân phận của mình, người phụ nữ xưa đã gán cho nó cái ý "muốn bay" để rồi từ đó nhận ra "không cất nổi mình mà bay". Sự tương phản giữa ý muốn chủ quan với thực tế khách quan đến là mạnh mẽ. Từ câu ca dao như bật lên niềm khát khao và một nỗi bất bình, bức bối đến nghẹt thở. Ta cắt nghĩa như thế nào về sự cùng tồn tại của những câu ca dao vừa giống nhau vừa khác nhau đó? Trước hết, ca dao là những tác phẩm đã được sáng tạo ra bởi nhiều người khác nhau, ở những thời kì khác nhau, trên những vùng đất khác nhau. Gặp cảnh ngộ đắng cay, với cách nói cụ thể có hình ảnh, người nông dân xưa liên kết số phận mình với một hình ảnh trùng hợp có trước mắt, thế là câu ca dao ra đời. Câu ca dao ấy vừa mang tâm tư của người sáng tác vừa mang luôn dấu ấn của thực tế mà người sáng tác đang đối diện. Không hẹn mà nên, cái chung của số phận đã làm cho những câu ca dao vốn không hề biết nhau lại gặp nhau ở một nội dung chung. Mặt khác, cả khi trong tâm trí đã có sẵn một câu ca dao cũ của người khác, thì gặp cảnh ngộ của mình, dẫu giống mà vẫn có nét khác với nhiều người đi trước đã nói. Đó không phải là sự lập lại mà chỉ là việc bổ sung cho cái đã có thêm đa dạng.

     Chỉ xét riêng bốn câu ca dao "Thân em", ta cũng thấy được ca dao thật là thú vị, đúng là sản phẩm của tài năng và tâm hồn phong phú của quần chúng nhân dân. Những câu ca dao ấy giúp ta hiểu được những nỗi cay đắng dày đặc mà người phụ nữ Việt Nam ngày xưa đã phải trải qua và đồng tình với khát vọng "cất nổi mình mà bay" của họ.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 20

 Ca dao diễn tả đời sống tư tưởng, tình cảm muôn màu muôn vẻ của người lao động. Sống dưới xã hội cũ, người lao động Việt Nam chịu nhiều nỗi đắng cay, tủi cực. Vì vậy xuất hiện không ít những bài ca dao than thân. Trong những bài thuộc loại này, có một số bài được mở đầu bằng từ Thân em, một lối diễn đạt công thức mang đậm sắc thái dân gian.

     Những bài ca dao mở đầu bằng từ Thân em, trước hết, đều là lời than thân của người phụ nữ. Than vì sự cực khổ trong lao động:

Thân em tội nghiệp vì đâu,

Ngày ngày em chổng phao câu lên trời.

     Than cho số kiếp của một kẻ lẽ mọn:

Thân em làm lẽ chẳng hề,

Có như chính thất mà lê giữa giường.

      Hay vì một nỗi oan uổng:

Thân em như giấy lụa tờ

Chớ nghi mà tội, chớ ngờ mà oan.

     Nhưng phổ biến nhất trong những lời than thân đó là lời than vì duyên phận bị phụ thuộc, không được chủ động trong tình yêu:

Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ?

     Xin được dẫn ra đây 5 bài ca dao khác thuộc loại này để thấy được những nét chung và riêng so với bài ca dao vừa nêu ở trên:

- Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.

- Thân em như miếng cau khô
Kẻ thanh tham mỏng, người thô tham dày.

- Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân.

- Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu?

- Thân em như quả xoài trên cây
Gió đông gió tây, gió nam gió bắc
Nó ánh lúc la lúc lắc trên cành
Một mai rụng xuống biết vào tay ai ?

        Tất cả các bài ca dao đều bắt đầu bằng từ Thân em diễn tả thân phận, cuộc đời bị phụ thuộc, không được quyền quyết định, chịu cảnh hôn nhân không có tình yêu. Từ đó, gợi cho người nghe sự chia sẻ và đồng cảm sâu sắc. Đó là lời chung của người phụ nữ về thân phận nhỏ bé, yếu ớt, đắng cay, tội nghiệp của họ dưới chế độ xưa.

       Sau từ Thân em là từ như dùng để so sánh và đối tượng đem ra so sánh: tấm lụa đào, hạt mưa, miếng cau khô, giếng giữa đàng, quả bần trôi trên sông, quả xoài trên cây. Các vật đem ra so sánh đều là những vật gần gũi, quen thuộc và có những nét tương đồng độc đáo với thân phận của người con gái trong xã hội cũ. Cách đem các sự vật ấy ra so sánh khiến cho đối tượng được so sánh (người phụ nữ) hiện lên một cách rõ ràng, đồng thời cũng làm nổi bật được thân phận không ra gì của họ. Miếng cau khô, hạt mưa rơi, quả xoài... vốn có giá trị gì nhiều lắm đâu, thậm chí nó chỉ là đồ bỏ đi: quả bần trôi trên sông. Trong các vật nêu trên, nếu quả bần trôi trên sông kém giá trị hơn cả, tội nghiệp hơn cả thì tấm lụa đào không chỉ có giá trị hơn mà còn gợi được vẻ đẹp duyên dáng, tươi mát. Như vậy, ở bài ca dao Thân em như tấm lụa đào... người con gái không chỉ than thân mà còn ý thức được sắc đẹp, tuổi xuân và giá trị của mình. Chính vì vậy, nỗi đau thân phận của nhân vật trữ tình trong bài ca dao đã được nhân lên. Đã đau lại càng đau hơn !

      Trong các vật được đem ra so sánh, các vật giếng, trái bần, quả xoài đều có thêm các định ngữ lâm thời (tức là những định ngữ không chỉ bản chất của sự vật): giếng - giữa đàng, trái bần - trôi, quả xoài - trên cây. Việc dùng thêm các định ngữ này phần nào đã làm nổi bật được thân phận không ra gì của người phụ nữ dưới chế độ cũ.

      Ở các câu thơ đầu tiên, tác giả dân gian chủ yếu đưa ra các sự vật để so sánh, còn câu tiếp theo là những câu miêu tả bổ sung, khắc hoạ rõ nét thân phận, cuộc đời bị phụ thuộc, không được quyền quyết định, phải chịu cảnh hôn nhân không có tình yêu, may nhờ rủi chịu. Tuy nhiên, những bài ca dao kết thức bằng các câu hỏi:

- Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai ?

- Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu ?

- Một mai rụng xuống biết vào tay ai ?

      Làm cho lời than thêm não nuột. Đó là tiếng kêu đầy ai oán, khắc sâu vào lòng người nghe một nỗi đau thân phận.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 21

    Ca dao là tiếng tơ lòng muôn điệu, trải dài với những cung bậc cảm xúc, tâm tư và tình cảm của người lao động bình dân. Lắng đọng và trữ tình là những câu hát than thân thường mở đầu bằng mô típ “thân em”. Qua đó, phản ánh một cách sâu sắc số phận của người phụ nữ đầy bi kịch, oan trái trong xã hội phong kiến mục nát, suy tàn – tạo cho độc giả sự đồng cảm, chia sẻ và trân trọng! Mảng ca dao mở đầu bằng “thân em” trở thành mô típ để nói về thân phận, cuộc đời người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó thường là số phận bi kịch và đắng cay được gửi gắm vào trong ca dao bằng giọng điệu buồn tẻ, chua xót và ngậm ngùi. Cách nói giản dị, khiêm nhường song hàm súc nhiều ý nghĩa. Người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa trở thành chủ thể trữ tình của câu hát than thân trách phận. Bởi lẽ, chế độ phong kiến mục nát với luật lệ hà khắc đã chà đạp lên quyền sống, mưu cầu hạnh phúc của con người đặc biệt là người phụ nữ. Cuộc sống lao động cực nhọc, vất vả mưu sinh và lệ thuộc vào hoàn cảnh đã đẩy người phụ nữ vào vòng xoay của bi kịch, khổ đau khó cất lên tiếng nói giãi bày:

“Thân em như trái bần trôi

Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.”

      Hình ảnh “trái bần trôi” lênh đênh trên mặt nước bị “gió dập sóng dồi” phải chăng là cuộc đời, số phận của người phụ nữ xưa. Họ như những cánh hoa bé nhỏ, mong manh trôi dạt nơi bến bờ vô định, bị cuốn vào bi kịch của khổ đau, oan trái bởi thế lực đen tối. Không chỉ thế, những ràng buộc hữu hình hay vô hình lại hoành hành, khiến người phụ nữ không thể vươn lên:

“Thân em như con cá rô thia

Vào trong mắc cạn, ra ngoài mắc câu.”

      Hình ảnh con cá rô đang vùng vẫy không lối thoát như chính sự bế tắt, tuyệt vọng của người phụ nữ. Họ không có quyền quyết định hạnh phúc cho bản thân, bị rào cản của xã hội, gia đình ngăn cấm, phải tùy vào “trong nhờ đục chịu”. Hơn thế, ngay trong xã hội xưa, người phụ nữ không tìm thấy tiếng nói chung, sự bất bình đẵng giữa nam giới và nữ giới đã gieo bao khổ đau, bất hạnh. Điều này, không chỉ thể hiện trong câu hát than thân:

“Thân lòn cúi vợ tôi chồng chúa

Đạo phu thê như đũa nên đôi

Dầu cho lúc đứng khi ngồi

Chồng làm chúa cả, thiếp thời gia nô.”

     Số phận, cuộc đời của người phụ nữ là chuỗi ngày bi kịch, đắng cay đến tủi thẹn. Song, vượt lên trên hết người phụ nữ xưa vẫn vẹn toàn đức hạnh, phẩm giá; họ tự hào khẳng định về vẻ đẹp của bản thân. Nét đẹp đáng quý ấy như một đóa sen tỏa hương thơm ngát giữa chốn bùn nhơ của xã hội điêu tàn:

“Thân em như cây quế tiên non

Trăm năm khô rụi vỏ còn dính cây”

Hay:

“Thân em như củ ấu gai

Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen

Ai ơi nếm thử mà xem

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.”

      Vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ được khẳng định mạnh mẽ, đó là đức hạnh, tấm lòng trong trắng, thuần khiết đáng trân trọng! Song, âm điệu của câu ca vang vọng nỗi ngậm ngùi, chua xót về cuộc đời, xã hội với những thế lực đen tối. Không chỉ đừng lại ở các câu ca dao về “Thân em” mà nỗi lòng về sự bất bình trong xã hội đã cho ra đời những câu ca:

“Thân em như hạt gạo lắc trên sàng

Thân anh như hạt lúa lép giữa đàn gà bươi.”

    Sự đề cao vai trò, vị trí của “thân em” hơn “thân anh” không chỉ là nỗi lòng mà còn là niềm khát khao về cuộc sống bình quyền. Nơi đó, người phụ nữ tìm được tiếng nói, vị thế và hạnh phúc đích thực. Thiên chức người phụ nữ đâu chỉ "lấy nước, sinh con, giữ lửa” mà còn là sự vươn xa hơn, khẳng định tầm vóc của bản thân đã góp phần làm nên cuộc sống tốt đẹp.

     Các câu hát than thân, trách phận thường sử dụng thể thơ lục bát hay lục bát biến thể đầy hàm súc, mang đậm tính dân tộc, thuần Việt. Từ ngữ bình dị, gắn liền với các hình ảnh so sánh gần gũi, giàu ý nghĩa ở nông thôn như chính sự mộc mạc, chân thành của hầu hết các câu ca dao.

    Những câu hát than thân mở đầu bằng mô típ “thân em” dẫu khép lại nhưng khi đọc xong vẫn vang vọng trong trái tim người đọc. Bên cạnh sự trân trọng, ngưỡng mộ về phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ còn là niềm thương cảm cho cuộc đời bất hạnh, đầy oan trái của họ trong xã hội phong kiến xưa. Lời ca than thân không chỉ là tiếng lòng mà còn thể hiện sự phản kháng, đấu tranh cho quyền lợi người phụ nữ. Xã hội phong kiến mục nát, bất công sẽ sụp đổ, thay vào đó sẽ là xã hội mới, bình đẳng, tôn trọng quyền lợi và khát vọng của con người. Nơi ấy người phụ nữ sẽ tìm được hạnh phúc đích thực cho bản thân mình.

Cảm nhận về câu ca dao: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 22

Những câu ca dao than thân luôn để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc ngổn ngang khác nhau. Có người nghe xong lắc đầu chán ngán, có người lại sụt sùi mà suy ngẫm về những phận đời, phận người nổi trôi.

Nổi bật nhất trong dòng ca dao than thân là chủ đề viết cho người phụ nữ, nhất là phụ nữ thời phong kiến. Phải ở trong hoàn cảnh thời ấy, mới thấu hiểu sâu sắc cái khó và cái khổ của họ.

“Thân em như tấm lụa đào

  Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”

“Thân em như tấm lụa đào”

Phải công nhận rằng, tấm lụa đào thời phong kiến rất quý. Ngày xưa, gấm vóc hay tơ lụa là thuộc hàng hóa thượng hạng, không phải ai cũng có thể sở hữu. Chỉ những người có tiền của hay chức sắc trong vùng may ra mới mua nổi. Vậy nên “Thân em như tấm lụa đào”, câu ca dao này chứng tỏ người phụ nữ ở đây rất đẹp và cao quý.

“Thân em như tấm lụa đào
  Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”

Thế nhưng, phụ nữ thời xưa lại có được xem trọng bao nhiêu đâu.Lúc nhỏ ở nhà mới đỡ cơ cực một tí vì có cha mẹ bên cạnh chăm sóc và lo lắng. Khi lớn hơn một chút lại phải bắt đầu học hành nữ công gia chánh, việc đồng án trong ngoài. Lớn thêm chút nữa thì phải theo như thông lệ xuất giá theo chồng. Sinh ra là phụ nữ đã khổ, nếu chọn nhầm người đàn ông của đời mình thì càng khổ hơn.

Có ai biết trước mình sẽ được gả vào một gia đình như thế nào, rồi người mà mình gọi là chồng sẽ đối xử với mình ra sao? Người con gái đẹp như một tấm lụa đào nhưng số phận về sau đâu ai biết trước!

Là may mắn hay bất hạnh?

“Thân em như tấm lụa đào

  Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.”

Tấm lụa đào được đem ra so sánh với người phụ nữ. Mặc dù đẹp và quý nhưng trước sau gì cũng cũng phải vào tay một người. Mà người ấy chưa biết là người như thế nào? Là người kẻ phàm tục hay người nho nhã? Hệt như phụ nữ lấy chồng tuổi mới lớn vậy. Nếu may mắn sẽ gặp được người yêu thương và đỡ đần cho mình. Còn bằng bất hạnh thì đành phải chấp nhận số phận.

Phụ nữ không chỉ phải công dung ngôn hạnh chu toàn và còn cần học theo tam tòng tứ đức. Lúc sống bên chồng dù có được yêu thương thì vẫn là nhà người ta, đắng cay không dám than còn khổ cực không nỡ để cha mẹ già hay biết. Nhiều người còn khổ hơn, đã không được chồng thương mà mẹ chồng còn khắt khe cộng thêm em chồng cay nghiệt. Nhiều lúc nghĩ không biết phải sống tiếp vì điều gì?

Người xưa bảo “Hồng nhan bạc phận”, hễ người đẹp thì thường khổ. Mà ai biết có khi người con gái xấu lại càng khổ hơn. Chung quy, nếu may mắn gặp người trân trọng mình thì còn có chút động lực, bằng ngược lại thật chỉ biết rửa mặt bằng nước mắt cho qua ngày.

Tấm lụa đào sẽ vào tay ai?

Ai bảo phụ nữ chỉ nên yếu đuối thì mới nhận được nhiều yêu thương. Thử hỏi cái thời xa xưa ấy, người phụ nữ đã khổ cực trăm bề mà lại còn yếu đuối nữa thì làm thế nào để tồn tại đây? Đời có mấy khi được dễ dàng đâu! Đừng nói tới phụ nữ thời xưa, cả bây giờ vẫn chưa đoán trước được chuyện gì cả.

Lúc mới yêu thật vui biết bao nhiêu. Những năm độ tuổi thanh xuân rực rỡ, phụ nữ đẹp và thơm ngát như những đóa hoa. Biết bao anh chàng say mê nhìn ngắm, rồi ước được một lần chìm đắm trong ánh mắt kia. Khi mới quen thì chiều chuộng đủ điều, khiến phụ nữ lâng lâng như một nàng công chúa nhỏ. Họ cảm thấy đời thật đẹp và mình cũng thật là vui.

Có ai biết cuộc sống mới đó mà lại đổi thay nhanh. Cưới nhau về là thiên đường dần khép lại. Áp lực từ công việc và các mối quan hệ bên ngoài cho đến áp lực gia đình và việc nhà làm họ gần như suy sụp. Rồi con cái lần lượt ra đời, họ phải quên đi những mộng ước hay thú vui đời thường. Tất cả nhường chỗ cho gánh nặng và trách nhiệm. Có ai đeo thử cái gánh trên vai của phụ nữ đâu mà biết nó nặng?

Hãy tự cứu lấy mình

Tấm lụa đào về tay người ta đã trở nên nhiều số phận. Người trân trọng may áo quý, người không biết thưởng thức chỉ để làm những việc phàm tục. Tựa như người phụ nữ, biết làm sao những may rủi trong đời.

Tấm lụa đào sẽ vào tay ai?

Nếu gặp được người chồng thấu hiểu bạn, yêu thương bạn thì thật hạnh phúc. Tất cả khó khăn hay áp lực ít ra cũng có người sẻ chia. Bạn sẽ cảm thấy vững tin và không còn đơn độc trên cuộc hành trình này nữa. Lúc đó, chúng ta hãy thầm cảm ơn vì điều may mắn trong cuộc đời.

Còn gặp sai người thì thế nào? Tôi đã từng nghe một câu nói “Khi bạn gặp một người, bạn ngỡ rằng người ấy sẽ mang đến hạnh phúc và niềm vui cho cuộc đời của bạn. Nào ngờ đâu sóng gió sau này đều lại từ người ấy mà ra.” Bởi vậy, có ai biết trước được chữ ngờ? Nhưng ở thời đại bây giờ, người phụ nữ có quyền chọn lựa hơn. Chọn sai vẫn có thể chọn lại mà! Chúng ta phải biết rằng, có những người nên để họ đi thì cuộc sống của mình mới có thể trời quang mây tạnh được.

Yêu thương thì cùng nhau xây đắp, tình yêu từ một phía có bao giờ bền lâu? Vậy nên, hãy đứng lên giải thoát cho bản thân nếu bạn cảm thấy mình không thể nào tiếp tục được nữa.

Tạm kết

Khi mọi chuyện đã rồi thì có than trách cũng vô ích. Nhiều chuyện ở trên đời còn do cái duyên, cái nợ, không phải mình muốn là được. Mỗi số phận đã được định sẵn cuộc đời của riêng mình, quan trọng là cách bạn đối mặt với nó. Ai trên đời mà không trải qua sóng gió, nhưng chúng ta chọn cách chấp nhận hay là đấu tranh?

Khi tự làm chủ cuộc đời của mình, bạn sẽ không phải đau lòng vì những chuyện không đáng nữa. Mạnh mẽ đối mặt chính là cách bạn chiến thắng cuộc sống này. Người phụ nữ của tôi ơi, bạn đừng để bị đánh bại nhé!