Dàn ý Giá trị nhân đạo của đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
1/ Mở bài
-Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn, đoạn trích và khẳng định giá trị nhân đạo: Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” trích trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn đã cho ta thấy rõ điều đó.
2/ Thân bài
- Khẳng định giá trị nhân đạo trong đoạn trích: Nhân đạo luôn là một trong những giá trị tinh thần truyền thống của văn học Việt Nam
- Giá trị nhân đạo thể hiện ở sự đồng cảm của tác giả với số phận người chinh phụ: ta đã nhận thấy được tấm lòng đồng cảm và xót thương mà nhà thơ dành cho người chinh phụ, từ sự đồng cảm ấy mà tác giả đã thấu hiểu một cách sâu sắc nỗi cô đơn
- Giá trị nhân đạo thể hiện ở cách diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình: Những nỗi niềm trăn trở của người chinh phụ được nhà thơ miêu tả bằng các hành động bồn chồn, lặp đi lặp lại
- Giá trị nhân đạo thể hiện ở thái độ đồng tình và ca ngợi khát khao hạnh phúc đôi lứa của người chinh phụ: Nỗi lòng của người chinh phụ không còn chỉ là tâm trạng của một người mà là tiếng nói thay cho bao người phụ nữ cùng chung số phận như nàng
3/ Kết bài: Ý nghĩa của đoạn trích: tác giả đã lên tiếng tố cáo chiến tranh, khẳng định chính những cuộc chiến tranh phi nghĩa là nguyên nhân dẫn đến cảnh vợ chồng chia lìa, người mẹ xa con, lỡ dở tình yêu và hạnh phúc đôi lứa.
Giá trị nhân đạo của đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
Thế kỉ XVII của nước ta là thế kỉ mà hình ảnh người phụ nữ được thể hiện nhiều nhất trong văn học trung đại. Khi ấy những cảm hứng về người phụ nữ luôn được các tác giả gắn với cảm hứng nhân đạo. Đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” trích trong tác phẩm “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn đã cho ta thấy rõ điều đó.
Nhân đạo luôn là một trong những giá trị tinh thần truyền thống của văn học Việt Nam. Giá trị nhân đạo thường được biểu hiện qua việc tố cáo, vạch trần tội ác của những kẻ chà đạp lên quyền sống của con người, bên cạnh đó biểu dương những phẩm chất tốt đẹp của con người, đồng thời thông cảm và thấu hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của con người. Ở trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” ta đã nhận thấy được tấm lòng đồng cảm và xót thương mà nhà thơ dành cho người chinh phụ, từ sự đồng cảm ấy mà tác giả đã thấu hiểu một cách sâu sắc nỗi cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ.
Thể hiện một cách rất tài tình từng diễn biến tinh tế trong nội tâm của người chinh phụ. Nỗi buồn khổ và cô đơn của người chinh phụ trong đoạn trích bắt nguồn từ chính bi kịch mà nàng phải chịu đựng, do những cuộc chiến tranh phi nghĩa đã buộc chồng nàng phải đi chiến trận liên miên. Tình yêu đôi lứa và hạnh phúc gia đình đã không còn trong tầm tay. Phải xa chồng, càng xa nàng càng nhớ và càng thương, càng khao khát hạnh phúc. Nhưng trái ngang thay, nàng càng khao khát bao nhiêu thì lại thấy cay đắng, cô độc và đau đớn bấy nhiêu, bao đêm không ngủ vì những trăn trở không nguôi. Nhà thơ đã rất khéo léo diễn tả chân thực và xúc động các cung bậc tình cảm trong lòng nàng:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước…
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”
Những nỗi niềm trăn trở của người chinh phụ được nhà thơ miêu tả bằng các hành động bồn chồn, lặp đi lặp lại: dạo, ngồi, rủ, thác, hành động là vô nghĩa nhưng lại thể hiện chính xác tâm trạng của người chinh phụ. Nàng đang mong ngóng những tin tốt lành về chồng, nhưng càng mong ngóng lại càng thất vọng. Gửi nỗi niềm ấy vào ngọn đèn nhưng ngọn đèn giữa đêm khuya lại càng làm cho nàng thêm cô quạnh. Rồi tác giả lại điểm thêm những tiếng gà và hoa hòe vào buổi đêm càng thể hiện sự hoang vắng, tĩnh mịch của không gian, tô đậm nỗi cô đơn trong lòng người chinh phụ, trong không gian ấy người chinh phụ thấm thía nỗi sầu trong lòng mình “Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”. Nỗi buồn khổ cứ triền miên không ngơi nghỉ làm cho người chinh phụ chẳng thể tập trung làm được việc gì, mọi việc đều bị chi phối bởi sầu muộn. Tác giả thấu hiểu điều đó nên đã dùng những từ “gượng” trước hành động của nàng: gượng đốt, gượng soi, gượng gảy. Nỗi nhớ chồng của người chinh phụ được tác giả gửi đến chồng nơi trận mạc:
“Lòng này gửi gió đông có tiện…
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời”
Chưa bao giờ nỗi nhớ chồng lại được thể hiện hay đến thế trong văn học trung đại lúc bấy giờ. Nỗi nhớ da diết, sâu thẳm và mênh mang, vời vợi. Chính nhờ tài năng và lòng đồng cảm sâu sắc đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một câu thơ hay như vậy. Nỗi lòng của người chinh phụ không còn chỉ là tâm trạng của một người mà là tiếng nói thay cho bao người phụ nữ cùng chung số phận như nàng. Và có thể thấy, đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” nói riêng và bài thơ “Chinh phụ ngâm” nói chung không chỉ được viết bằng sự đồng cảm, nó còn được viết bằng nỗi xót thương đến tột cùng mà nhà thơ dành cho những người chinh phụ. Khi viết về nỗi cô đơn, nhớ thương và buồn khổ trong sâu thẳm tâm hồn người chinh phụ cũng chính là cách tác giả thể hiện thái độ đồng tình, ngợi ca đối với niềm khao khát tình yêu lứa đôi và hạnh phúc gia đình của nàng. Chúng ta có thể khẳng định đó chính là một biểu hiện trong giá trị nhân đạo của đoạn trích.
Qua việc thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình, tác giả đã lên tiếng tố cáo chiến tranh, khẳng định chính những cuộc chiến tranh phi nghĩa là nguyên nhân dẫn đến cảnh vợ chồng chia lìa, người mẹ xa con, lỡ dở tình yêu và hạnh phúc đôi lứa. “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là đoạn trích tiêu biểu nhất về tinh thần nhân đạo của tác giả Đặng Trần Côn.