1. Trình bày suy nghĩ của em về ý kiến sau: Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống 1
Biển cả ngàn năm nay vẫn không ngừng dào dạt sóng, sóng biển có lúc mạnh mẽ ào ạt, lúc lại êm đềm vỗ về bờ cát cũng giống như lớp lớp sóng lòng trong tâm hồn thi nhân vậy. Đứng trước cuộc đời bao la, người nghệ sĩ xúc cảm, những cơn sóng lòng tràn lên con chữ mà thành thơ. Nói về thơ, Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống”. Bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi đã thể hiện rõ điều này.
Thơ là hình thức sáng tác nghệ thuật lấy ngôn từ làm chất liệu để diễn tả những xúc cảm trào dâng nơi tâm hồn nhà thơ. “Tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất” mà Nguyễn Đình Thi đề cập tới ở đây chính là những rung động mãnh liệt bật ra trong một phút thăng hoa trước thế giới. Thế giới là gì nếu không phải là hiện thực khách quan, nơi sự sống vang lên mạnh mẽ? “Đụng chạm tới cuộc sống” chính là lúc mà người nghệ sĩ đối diện, thâm nhập vào đời sống để hiểu đời, hiểu người, từ đó đưa hơi thở ấm áp ấy vào thơ, tạo nên bao dòng cảm xúc bất tận. Với cách nói hình ảnh, Nguyễn Đình Thi khẳng định vai trò của hiện thực và xúc cảm đối với người làm nghệ thuật nói chung cũng như làm thơ nói riêng. Hiện thực là nguồn cội, là cơ sở làm nảy sinh những tình cảm đẹp để từ đó, thơ được thai nghén, được ra đời. Điều này xuất phát từ đặc trưng của thơ. Quá trình sáng tác thơ là mối quan hệ chặt chẽ giữa hiện thực – tác giả - tác phẩm. Lắng nghe “tiếng đời lăn náo nức”, sống giữa cuộc đời muôn hình vạn trạng, hẳn mỗi người đều có cho mình những “hỉ, nộ, ái, ố”. Thế nhưng, ở các nghệ sĩ, đặc biệt là nhà thơ, những “hỉ, nộ, ái, ố” đó không dừng lại ở thứ cảm xúc trung bình chủ nghĩa, nhàn nhạt mà nó thăng hoa để “trong một phút nổ ra như tiếng sét” (Chế Lan Viên), để ngòi bút ghi lên trang giấy không phải là những con chữ mà là “những tiếng lòng đang nhảy múa” (Xuân Diệu) . Làm thơ nghĩa là cuộc hành trình của cảm xúc, những tình cảm sẽ dẫn dắt ngòi bút thi nhân đến những miền thơ mới lạ, đẹp đẽ khác thường. Không có hiện thực thì không có cảm xúc mà không có cảm xúc thì không làm được thơ. Đó là mối tương giao chặt chẽ, có quan hệ hữu cơ với nhau không thể tách rời.“Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học” (Tố Hữu). Đến với trang thơ Cảnh ngày hè, ta cảm nhận được sâu sắc hình bóng cuộc đời trong từng con chữ và những rung động rất thực trong tâm hồn nhà thơ – một vị đại quan về ở ẩn: tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và nỗi niềm yêu nước thương dân. Đứng trước thiên nhiên, ông đã có những cảm nhận thật độc đáo:
Rồi, hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Câu thơ mở đầu với cách ngắt nhịp 1/2/3 sáng tạo đã diễn tả trạng thái ung dung, phong thái của một con người say sưa trước vẻ đẹp thiên nhiên trong những “ngày trường”. Nào, hãy theo chân thi nhân và cùng đắm mình vào không gian hấp dẫn ấy. Mở ra trước mắt người đọc là hình ảnh cây hòe xanh mát, tán ngày càng tỏa rộng khiến ngày hè như dịu lại. Từ láy “đùn đùn” đầy sức tạo hình, diễn tả sức sống căng tràn trong cây hòe cũng như trong cảnh vật khi hè đến. Một sức sống mạnh mẽ như ấp ủ từ cuối đông sang xuân và đến hè thì bừng dậy, trỗi dậy khắp cây cỏ muôn phương. Trong một bài thơ khác, ông viết:
Có thuở ngày hè trương tán lục
Đùn đùn bóng rợp cửa tam công
Ngòi bút Nguyễn Trãi không chỉ tràn ngập hùng tâm tráng chí của thời đại Bình Ngô mà còn hừng hực lửa sống của đời, của người. Không chỉ có cây hòe mà còn cây lựu với những chùm hoa đỏ rực cũng được miêu tả đầy ấn tượng qua động từ “phun”. Một và chỉ một động từ đó thôi cũng đủ để ta hình dung sự sống như có hình khối, màu sắc, có thể cảm nhận trực tiếp bằng thị giác một cách trực tiếp. Sắc đỏ của hoa lựu được đặt cạnh sắc xanh của cây hòe làm nên sự đối chọi nhưng cũng rất hài hòa, tinh tế. Nguyễn Trãi dường như không chỉ là một nhà thơ mà còn là một nhà họa sĩ với những nét màu rất sắc, rất hấp dẫn thị giác người xem. Chẳng thế mà có nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Ta bất ngờ nhận ra điều trùng hợp đến kì lạ. Con người Nguyễn Trãi sao thật giống với danh họa Hà Lan Van – gốc. Không phải ở những màu sắc biểu hiện mà ở cách diễn tả chúng. Van – gốc vẽ cánh đồng ta tưởng như cánh đồng bốc cháy, hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa. Còn Nguyễn Trãi, những chữ “đùn đùn”, “phun” ... ấy là lửa trong lòng nhà thơ...” Một “cuộc chơi” màu sắc làm bức tranh ngày hè sống động đến vô cùng. Sau này, ta cũng gặp “cuộc chơi” đó trong thơ hiện đại. Xuân Diệu viết:
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Tố Hữu – một nhà thơ cách mạng lại có cái nhìn tươi mới hơn:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Có thể thấy, Nguyễn Trãi là người đi tiên phong trong việc đưa những sắc màu sinh động của cuộc sống vào thơ và rất thành công trong việc miêu tả bức tranh cảnh ngày hè. Nhưng như vậy đâu đã đủ. Bên cạnh những hình ảnh, màu sắc rực rỡ đó, mùa hè còn hấp dẫn thi nhân bằng hương sen ngan ngát: “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Lại một lần nữa cách dùng từ của Ức Trai khiến ta thích thú. Động từ “tiễn” như mang hương sen đi khắp không gian, tỏa vào đất trời và thấm vào lòng người. Đọc câu thơ khiến ta như thực sự bước vào thế giới mùa hè sống động đó. Càng sống động hơn khi ta được lắng nghe:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Tâm hồn Nguyễn Trãi như bao trùm lên cảnh vật, cảm nhận và thấu hiểu thế giới xung quanh bằng con mắt âu yếm, trân trọng. Tiếng ve xôn xao, vang động trong không gian được gói trong một từ “dắng dỏi” đầy sức gợi. Vậy là bức tranh thiên nhiên vừa rực rỡ sắc màu, thoang thoảng mùi hương lại náo nức âm thanh. Mọi giác quan đều được bừng thức trước cảnh vật mùa hè, tình yêu thiên nhiên dâng trào qua từng con chữ, đi vào lòng người đọc một cách tự nhiên, đầy ấn tượng. Đó chính là “tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất” của tâm hồn Ức Trai trước cảnh vật mùa hè.
Bên cạnh tình yêu thiên nhiên là tình yêu cuộc sống chan chứa. Chỉ với một câu thơ: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ”, tác giả đã diễn tả được âm thanh vang động của cuộc sống, âm thanh của ấm no, của yên bình mặc dù nó vọng đến từ rất xa, dù chỉ là những tiếng “lao xao” nhưng bằng tấm lòng gần dân, thương dân, Nguyễn Trãi đã lắng nghe và cảm nhận bằng cả tâm hồn mình, thổi sức sống vào những con chữ tưởng như vô tri. Nếu hẳn là âm thanh “ồn ào trên bến đỗ” của Huy Cận trong bài “Đoàn thuyền đánh cá” thì ai cũng nghe thấy, cũng cảm nhận được. Thế nhưng với Nguyễn Trãi, dù chỉ là vang âm “lao xao” của cuộc sống, ông đã có thể nắm bắt và đưa vào thơ thành công. Có lẽ đó cũng chính là những điểm làm nên nét hấp dẫn riêng của hồn thơ Ức Trai: tinh tế, nhạy cảm mà cũng rất mãnh liệt.
“Tiếng nói” sâu lắng nhất, thấm thía nhất trong bài Cảnh ngày hè có lẽ là tiếng lòng ưu thời mẫn thế, yêu nước thương dân hết mực của Nguyễn Trãi:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương
Hai câu kết nêu lên một ước mơ, giãi bày một khát vọng mạnh mẽ của tác giả. Ông ước nhưng không ước cho mình, cho cuộc sống vật chất của bản thân mà dành tất cả sự quan tâm mong mỏi ấy cho nhân dân – những con người “đòn gánh xương chín dạn hai vai”. Thương dân, thấu hiểu những khó khăn vất vả trong đời sống người dân lao động nên nhà thơ chỉ mong có cây đàn của vua Ngu Thuấn để gảy khúc Nam Phong mừng cho đời sống ấm no, hạnh phúc của toàn dân. Ở đây, tác giả đã sử dụng điển tích điển cố nhưng không hề khô khan, gò ép, trái lại rất tự nhiên, diễn tả chân thực khát khao cháy bỏng là nhân dân có cuộc sống bình yên, no đủ, như đương thời vua Lê Thánh Tông cũng mong ước:
Nhà Nam nhà Bắc đều no mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình
Đặt trong bối cảnh Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn do đắc chí, khát vọng ấy “Dẽ có...” (lẽ ra nên có) còn phảng phất nét buồn, tâm sự ưu thời mẫn thế vì chí lớn chưa thỏa sức thực hiện. Nhưng dẫu sao, câu thơ vẫn ánh lên tấm lòng “sáng tựa sao Khuê” của một con người suốt đời lo cho dân cho nước.
Chỉ bằng một bài thơ ngắn, ta đã nhận ra tài năng nghệ thuật Nguyễn Trãi. Với thể thơ thất ngôn xen lục ngôn đầy sáng tạo, hệ thống hình ảnh giàu chất gợi hình, gợi cảm và ngôn ngữ thơ Nôm vừa tinh tế, hàm súc lại rất đỗi gần gũi, thân thuộc, bài thơ là một “công trình nghệ thuật” đầy ấn tượng, mang đậm nét tư tưởng Nguyễn Trãi: tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống và nỗi niềm yêu nước thương dân. Đó là những “tiếng nói” đầy ý nghĩa vang lên từ tâm hồn Ức Trai trước cuộc đời muôn hình muôn sắc. Tiếng nói ấy vừa đặc trưng lại vừa độc đáo, mới mẻ. Thường trong văn học trung đại, khi miêu tả thiên nhiên, các tác giả nghĩ ngay đến xuân với “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du) hay “Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san” chứ ít ai nhắc tới mùa hè. Vượt ra khỏi cái khuôn mẫu xáo mòn, cái “xương xẩu cứng khô” của tư tưởng phi ngã, Nguyễn Trãi đã tạo nên không không gian nghệ thuật riêng, trong đó âm vang cuộc sống hiện lên thật rõ nét qua từng con chữ, thực sự “đụng chạm tới cuộc sống” bằng chính những giác quan nhạy bén, bằng tâm hồn rộng mở và bằng cả ngòi bút tài hoa, xứng đáng là “người làm nên lòng tin cho ngôn ngữ dân tộc” (Lê Trí Viễn).
“Thơ ca là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp” (Sóng Hồng). Đọc thơ cũng chính là đến với thời đại của nhà thơ, đồng thời đến với thế giới nội tâm của người nghệ sĩ với bao xúc cảm lạ lùng. Nhận định của Nguyễn Đình Thi mang đến chiêm nghiệm sâu sắc về thơ ca cũng như bài học cho người sáng tác và người tiếp nhận. Thơ ca là tấm gương phản ánh hiện thực đời sống cũng như hiện thực tâm hồn, do đó người làm thơ cần phải xúc cảm thực sự trước cuộc đời, con người mới có thể mang những cảm xúc đó vào thơ, như Nguyễn Du thương cô Kiều tài hoa bạc mệnh và làm nên kiệt tác “Truyện Kiều”, như Xuân Diệu với lòng yêu đời và khát khao giao cảm mãnh liệt thổi hồn cho những “Vội vàng”; “Thơ duyên”... Cảm xúc sẽ dẫn dắt nhà thơ tới miền đất của cái đẹp, của chân – thiện – mĩ. Tuy nhiên chỉ cảm xúc thôi thì chưa đủ, cảm xúc mãnh liệt cũng cần một tài năng nghệ thuật đích thực để giúp truyền tải những vang âm đó vào trang thơ, làm nên những tác phẩm thực sự mà như Viên Mai đã nhận xét: “Tài gia tình chi phát, tài thịnh tình đắc thâm” (Cái tài do tình sinh ra, tài cao ắt tình sâu). Đối với người đọc, trong quá trình tiếp nhận văn học cần trân trọng công sức của nhà văn, nhà thơ, đọc để không chỉ thấy cái hay của câu chữ mà còn thực sự đồng điệu, tri âm với tâm hồn, với tiếng nói sâu lắng mà nhà thơ gửi gắm vào tác phẩm, bởi “Thơ là một điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu” (Tố Hữu).
Nếu ngày mai em không làm thơ nữa
Cuộc sống trở về bình yên
Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm
Không nỗi khổ, không niềm vui kinh ngạc
(Xuân Quỳnh)
Nếu không còn những vấn thơ – những tiếng nói tâm hồn đầy xúc cảm ấy chắc chắn cuộc sống sẽ thiếu đi hẳn một phần niềm vui, vài phần nỗi buồn và rất nhiều phần lãng mạn. Vậy nên hãy cứ làm thơ, yêu thơ – cũng là yêu chính cuộc sống tươi đẹp này.
2. Trình bày suy nghĩ của em về ý kiến sau: Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống 2
“Thơ là tiếng lòng”, là dấu ấn tư tưởng tình cảm riêng của người nghệ sĩ, còn người nghệ sĩ là thư kí trung thành của trái tim. Thơ xuất phát từ tấm lòng, tâm hồn người viết. Các tác giả gửi gắm tới độc giả những gì mình tâm đắc nhất, rung động mãnh liệt nhất và kí thác vào thơ. Chính vì vậy, khi bàn về thơ và đặc trưng thơ, Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Thơ là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm tới cuộc sống”.
Ý kiến trên là lời khẳng định về thơ: “Thơ là…”. Vậy thơ là gì? Thơ là phương thức trữ tình ghi lại tâm hồn, tư tưởng tình cảm sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất của người nghệ sĩ qua hệ thống ngôn từ nghệ thuật. Cách nói khẳng định đã lí giải thơ “là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn”. Nguyễn Đình Thi đã đề cao tính cần thiết nhất của thơ là tình cảm, cảm xúc. Đứng trước hiện thực xã hội, nhà văn chỉ viết những gì đập vào trái tim mình mạnh nhất, nhiều rung cảm nhất. Nhận định trên xuất phát từ đặc trưng của thơ. Nếu “ngôn từ là tiếng nói thứ nhất của văn học” thì “thơ là tiếng nói đầu tiên của tâm hồn” người nghệ sĩ bởi thơ là tiếng nói của tình cảm, cảm xúc. Tác phẩm ra đời đánh dấu những tình cảm cháy bỏng của người nghệ sĩ trước hiện thực. Không có tác phẩm văn chương nào, đặc biệt là thơ ca lại được viết lên bởi một trái tim lạnh lùng vô cảm. Đó là đặc trưng thơ về nội dung tư tưởng. Người thi sĩ phải có những rung cảm nồng nhiệt và cháy bỏng mới đốt cháy được trái tim người đọc, để độc giả cũng rung động với người nghệ sĩ. Nhà thơ không thể sáng tạo ra thơ từ một tâm hồn, một tình cảm hời hợt, lạnh lẽo.
Thơ xuất phát từ tâm hồn tình cảm và đó “phải là tình cảm chân thật.” (Viên Mai) Từ hiện thực cuộc sống, mỗi nhà thơ có những trải nghiệm riêng, tình cảm của riêng mình để viết nên những bài thơ hay, có nội dung độc đáo. Nội dung ấy trong thơ thể hiện tư tưởng chủ đề của người nghệ sĩ gửi đến các thế hệ bạn đọc. Xuất phát từ tình cảm nhưng thơ phải gắn với hiện thực cuộc sống thông qua cái nhìn đầy rung động của người nghệ sĩ. Mục đích lớn nhất của thơ ca nói riêng và văn học nói chung là nhận thức, khám phá bản chất thực sự của con người và cuộc sống. Lí luận văn học hiện đại đã khẳng định: văn học dù hoang đường kì ảo, viễn tưởng đến đâu cũng hướng đến hiện thực của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và qua từng thời đại. Nếu không gắn với hiện thực, thơ ca và văn chương chỉ còn là “nghệ thuật vị nghệ thuật”, không thể thực hiện chức năng cao cả là “nghệ thuật vị nhân sinh” của nó nữa. Bởi vậy một tác phẩm thơ phải vừa là tiếng nói của tâm hồn tình cảm, tư tưởng mà người nghệ sĩ gửi gắm, vừa thể hiện sâu sắc, chân thực hiện thực của cuộc sống. Như vậy nhà thơ mới có được tác phẩm nghệ thuạt chân chính, làm rung động bạn đọc.
Là nhà tư tưởng, nhân đạo lớn trong văn học trung đại, Nguyễn Du đã đưa vào sáng tác của mình tưởng tình cảm mãnh liệt, làm rung động trái tim người đọc bao thế hệ. “Độc Tiểu Thanh kí” là tác phẩm kết tinh tiếng nói tâm hồn Nguyễn Du trước hiện thực đau đớn của xã hội phong kiến thời bấy giờ. Cảm thương, xót xa cho số phận Tiểu Thanh – người con gái tài sắc, trẻ tuổi mà bạc mệnh, tâm hồntha thiết đầy tình yêu của nhà nhân đạo chủ nghĩa đã ám ảnh tình cảm, tư tưởng người đọc suốt bao thế hệ.
Đại thi hào Nguyễn Du – người có con mắt nhìn thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ cả nghìn đời đã chứng kiến và đau đớn trước hiện thực xã hội đen tối, đầy bất công đối với những kiếp người tài hoa bạc mệnh. Hiện thực cuộc sống đã vùi dập họ, không cho họ có quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc. Đau đớn làm sao cái xã hội bất công đem đến khổ đau cho con người mà đến Trời cũng không thể lí giải:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn”
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi)
Thời gian “cổ kim”, từ xưa đến nay, từ quá khứ cho đến hiện tại, những con người tài hoa như Tiểu Thanh không thể tìm được bến đỗ hạnh phúc mà bị đọa đày, chịu đủ những khổ đau ngang trái trong xã hội. Tiểu Thanh vốn là vợ lẽ, mới mười tám tuổi đã phải chôn vùi tuổi xuân trong nơi hoang vu, hẻo lánh trên núi Cô Sơn. Với tài năng văn chương và sắc đẹp của mình, nàng bị vợ cả ghen ghét, đố kị và hãm hại. Hiện thực xã hội tối đen với sự lộng hành của các thế lực độc ác tác oai tác quái. Trong xã hội ấy Nguyễn Du trông thấy những kẻ:
“Không lộ vuốt nanh cùng nọc độc
Mà xé thịt người nhai ngọt xớt”
Số phận của Tiểu Thanh đã trở thành một quy luật của bao con người tài sắc khác. Chiều dài thời gian được khái quát bằng những số phận khổ đau nên càng thêm trĩu nặng. Nỗi đau đớn tiếc thương đã kết thành “hận sự” , thể hiện nỗi đau trước con người và hiện thực đã dâng đến đỉnh điểm. Nỗi hận ấy đến Trời cũng không thể lí giải được. Hiện thưucj tàn khốc của xã hội đã đẩy con người ta đến đường cùng, không thể tim thấy lối thoát, chỉ thấy cuộc đời đầy đau khổ, bi kịch.
Đứng trước hiện thực đau thương, bế tắc ấy, trái tim nhân đạo của Nguyễn Du rung lên từng hồi mạnh mẽ. Tiếng nói của tâm hồn yêu thương, xót xa, cảm thông với kiếp người tài hoa bạc mệnh đã thôi thúc Nguyễn Du cất lên tấm lòng của mình với Tiểu Thanh và với tất cả kiếp người tài hoa bạc mệnh. Đọc “Độc Tiểu Thanh kí”, người đọc bùi ngùi xúc động trước số phận nàng Tiểu Thanh:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Cảnh đẹp Tây Hồ mở đầu gợi nhớ đến câu chuyện buồn của nàng Tiểu Thanh. Ngay từ câu mở đầu, tác giả đã hé mở chủ đề tác phẩm là tấm lòng thương người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội xưa. Sự xuất hiện của “thành khư” (gò hoang) thay thế cho “hoa uyển” (cảnh đẹp) đã thể hiện sự biến đổi đến tận cùng của cảnh vật thiên nhiên theo chiều hướng tàn phai, héo úa, nhuốm màu đau thương. Cảnh vật biến đổi và con người cũng vậy. Nàng Tiểu Thanh tài sắc xinh đẹp đã không còn, chỉ để lại duy nhất một tập sách. Các từ Hán Việt “tẫn”, “độc”, “nhất” thể hiện nối đau đớn khắc khoải trong lòng Nguyễn Du trước số phận Tiểu Thanh dù chỉ viếng nàng qua một tập sách trước cửa sổ. Đó chính là tấm lòng yêu thương, xót xa đầy cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du với người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Từ tận đáy lòng ông cất lên những lời thơ ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp ấy:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Trong xã hôi phong kiến xưa, người phụ nữ được nhắc tới chỉ bằng những nét đẹp hình thức, nhan sắc. Nguyễn Du là người đầu tiwwn trong văn học trung đại ca ngợi, khẳng định vẻ đẹp ngoại hình lẫn tài năng của người phụ nữ một cách có hệ thống. Từ “chi phấn” khẳng định vẻ đẹp nhan sắc của Tiểu Thanh trong khi “văn chương” lại đề cao tài văn chương nghệ thuật của nàng. Từ Tiểu Thanh, cô Cầm đến Thúy Kiều, Đạm Tiên… trong sáng tác của Nguyễn Du đều xuất hiện những người phụ nữ tài năng và nhan sắc. Ca ngợi vẻ đẹp, xót xa cho số phận, đó thực chất là haimặt của tình yêu thương Nguyễn Du dành cho người phụ nữ.
Cảm thông, chia sẻ vói Tiểu Thanh, đại thi hào đã nhận ra và tự xót thương cho số phận của mình. Đó là tiếng vọng từ tâm hồn của một con người vướng vào kiếp phong lưu, cô đơn, không tìm được ai tri kỉ:
“Phong vận kì oan ngã tự cư”
(Cái án phong lưu khách tự mang)
Nguyễn Du nhận ra kiếp “phong vận” của những con người thanh lịch, tài năng mà bạc mệnh. Từ “ngã” đã khẳng định tiếng nói cá nhân của Nguyễn Du trong nền văn học vốn đầy rẫy tiếng lòng “phi ngã”. Điều đó khẳng định bản lĩnh, tài năng của Nguyễn Du. Đến câu thơ này nhà thơ đã đồng nhất thân phận mình với Tiểu Thanh, với kiếp đời tài hoa bạc mệnh, Nhà thơ tự nhận mình cùng hội cùng thuyền với nàng để từ đó tri âm đồng điệu và thấu hiểu. Đây cũng là một khía cạnh của tinh thần nhân đạo, của tiếng nói tri âm, tiếng nói tâm hồn trong “Độc Tiểu Thanh kí”. Cuối cùng Nguyễn Du cất lên lời đau thương xót xa mong người đời sau nhớ tới mình:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Thời gian ba trăm năm là khoảng thời gian rất dài, con người có thể lãng quên đi mọi thứ. Nhưng lúc này, Nguyễn Du mong người đời sau tri âm thấu hiểu mình, cũng như hơn ba trăm năm trước Nguyễn Du đã khóc Tiểu Thanh. Bởi trong xã hội tối tăm bất công ấy ông không thể tìm được người tri âm, thấu hiểu mình. Kết thúc bài thơ là lời ngỏ với khát khao tìm được sự đồng cảm thấu hiểu, gửi niềm tin vào hậu thế.
Nhận định của Nguyễn Đình Thi khẳng định rất đúng về đặc trưng thơ. Nếu không có tình cảm, người nghệ sí không thể rung cảm với hiện thực cuộc sống, chính tình cảm của người nghệ sĩ làm nên giá trị tác phẩm. Bên cạnh đó, hiện thực xã hội là vùng đất, là địa hạt để nhà thơ gieo trồng cảm xúc, vun vén tư tưởng và tình cảm để kết tinh tác phẩm hay. Người viết còn cần có tài năng nghệ thuật để tạo nên một tác phẩm đich thực. Đó là đich đến của văn chương nghệ thuật, là mục tiêu người nghệ sĩ hướng tới. Trong sáng tạo nghệ thuật cần bắt rễ từ cuộc sống để sáng tạo tác phẩm gắn với hiện thực và có sự trải nghiệm, rung động thực sự. Người đọc cần hiểu được giá trị, ý nghĩa của hiện thực và thấu hiểu tư tưởng tình cảm trong đó.
Chính tấm lòng - “tiếng nói thứ nhất của tâm hồn” đã tạo nên giá trị cho “Độc Tiểu Thanh kí”. Tác phẩm giàu giá trị nhân đạo, hiện thực và thể hiện tình cảm của đại thi hào dân tộc.