I. Tư tưởng dùng binh và tầm quan trọng của thời - thế
- Mở đầu bức thư, tác giả nêu ra tư tưởng dùng binh. Một trong những tư tưởng quan trọng của binh pháp chính là hiểu biết "thời" và "thế".
- Luận điểm chính:
-> Răn giặc biết rõ thời thế mà tiến hay lùi mới được xem là người dùng binh giỏi.
- Lí lẽ chặt chẽ: Được thời có thế thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn; mất thời thất thế, thì mạnh hoá ra yếu, yên lại chuyển nguy. Sự thay đổi ấy chỉ trong khoảnh khắc trở bàn tay mà thôi.
Điều đó thấy:
+ Khi có thời thế hay hành động hợp thời thế -> dù gian khó cũng sẽ đi đến thành công.
+ Khi không có thời thế lại hành động không hợp thời thế -> dù đang hùng mạnh cũng sẽ đi đến thất bại.
- Bằng chứng xác thực: Nay các ông không hiểu rõ thời thế, lại trang sức bằng lời dối trá, thế chẳng phải là bọn thất phu hèn kém ư? Sao đáng để cùng bàn việc binh được?
-> Tướng giặc không hiểu biết thời thế, lại dùng lời lẽ ngụy biện để tự dối mình, dối người, đây là bằng chứng cho thấy sự kém cỏi, không đáng mặt cầm quân và khó có thể thành công.
* Tác dụng của việc sử dụng hình thức thư trong bài văn nghị luận:
- Bài nghị luận yêu cầu luận điểm rõ ràng, lí lẽ, lập luận chặt chẽ, đanh thép, dẫn chứng phải có cơ cơ sở để thuyết phục đối tượng về mặt lí trí.
- Bức thư lời lẽ cần mềm dẻo tinh tế, sự bày giải cần tận tình, tha thiết, chỉ rõ thiệt hơn để thuyết phục đối tượng về mặt tâm lí, tình cảm.
-> Kết hợp hai hình thức này, tác giả vừa đánh vào tâm lí vừa đánh vào lí trí đối phương nên càng tăng hiệu quả cho bức thư dụ hàng tướng giặc.
II. Tình hình hiện tại và nguyên nhân thất bại của giặc Minh
- Tình thế trước đây và hiện tại của giặc Minh:
+ Trước đây: Xưa kia, Tần thôn tính sáu nước, chế ngự bốn phương, mà đức chính không sửa, nên thân mất nước tan.
+ Bây giờ:
./ Nay Ngô mạnh không bằng Tần, mà hà khắc lại quá, không đầy mấy năm nối nhau mà chết, ấy là mệnh trời, không phải sức người vậy.
./ Huống hồ con cháu vua Trần, mệnh trời đã cho, lòng người đã theo, thì Ngô làm sao có thể cướp được!
-> Tác giả đã đưa ra những lí lẽ xác đáng, bằng chứng từ thực tế lịch sử như một lời cảnh tỉnh cho giặc rằng chúng tất sẽ thất bại.
- Tác dụng của việc sử dụng từ "mệnh trời":
+ Triều đình phương Bắc luôn cho mình là "thiên triều", tướng giặc phụng mệnh "thiên tử" thi hành "thiên mệnh" đem quân sang nước ta để giúp "phù Trần diệt Hồ".
+ Bọn giặc làm gì cũng nhân danh "mệnh trời" nhưng thực ra đó là ngôn ngữ xảo trá, lừa bịp để cướp nước ta.
-> Tác giả đã dùng cách "gậy ông đập lưng ông" để vạch rõ chính sách và sự giả danh kèm theo chứng cứ thực tế khiến đối phương không thể biện bạch được.
- Sáu nguyên nhân thất bại của quân giặc:
+ Lũ lụt làm giặc hư hại về cơ sở vật chất, tổn thất quân lương.
+ Đường sá, cửa ải đều bị quân Đại Việt đóng giữ, không viện binh nào của giặc tới cứu được.
+ Quân mạnh, ngựa khỏe của nhà Minh phải dành để đối phó quân Nguyên phía Bắc nên phía Nam không lo được.
+ Phát động chiến tranh liên tiếp nhiều năm làm dân nhà Minh khổ sở, bất mãn.
+ Triều đình nhà Minh thì bạo chúa, gian thần nắm quyền, nội bộ xâu xé nhau.
+ Nghĩa quân Đại Việt đồng lòng quyết chiến, hăng hái tinh nhuệ, lương thực đầy đủ; quân giặc bị vây trong thành thì mệt mỏi, nản lòng.
=> Tác giả phân tích rõ ràng, xác đáng, kèm theo những dẫn chứng từ thực tế trước mắt không thể phủ nhận. Các nguyên nhân cũng được sắp xếp theo trình tự hợp lí, đi từ thực tế khó khăn đến thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Cách diễn đạt: nêu nguyên nhân bằng những lí lẽ phân tích và dẫn chứng -> kết lại bằng một câu rắn rỏi: Đó là điều phải thua thứ sáu.
-> Câu văn như lời phán quyết đanh thép, chắc nịch, quyết đoán không ai có thể phủ định.
III. Tinh thần nhân đạo, đại nghĩa của Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn cùng dân tộc
* Nguyễn Trãi cho Vương Thông hai lựa chọn:
- Chấp nhận đầu hàng, nộp tướng giặc đã gây nhiều tội ác là Phương Chính, Mã Kỳ thì sẽ tránh được thương vong cho quân giặc và tất cả sẽ được an toàn về nước.
- Không đầu hàng thì phải tiếp tục giao chiến (sẽ nhận lấy thất bại) chứ không thể trốn tránh một cách hèn nhát, nhục nhã.
-> Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn luôn thể hiện lập trường "chí nhân" và "đại nghĩa", lòng yêu chuộng hòa bình và luôn biết tận dụng sức mạnh của ngòi bút văn chương chính luận để thực hiện "tâm công" tránh đổ xương máu cho cả hai bên.