Phân tích chi tiết Bản hoà âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư (Chu Văn Sơn)

Sách kết nối tri thức với cuộc sống

Đổi lựa chọn

I. Giới thiệu về bài thơ “Tiếng thu” (đoạn 1)

Lối dẫn dắt khéo léo, nhẹ nhàng, đưa ra quan niệm của người xưa: “Thu là thơ của đất trời, thơ là thu của lòng người”.

II. Phân tích vẻ đẹp nội dung và nghệ thuật của bài thơ (đoạn 2 -> đoạn 12)

1. Sự khác biệt trong cách miêu tả thiên nhiên của Thơ mới so với thơ cổ điển (đoạn 2,3)

- Theo tác giả, sự khác biệt lớn nhất trong cách miêu tả thiên nhiên của Thơ mới so với thơ cổ điển là: Thơ xưa thiên nhiên tĩnh lặng, miên viễn. Yên bình, thanh vắng trở thành một đặc tính của vẻ đẹp thiên nhiên trong nghệ thuật cổ điển. Còn Thơ mới không như thế. Âm hưởng đặc trưng nhất vang lên từ đáy hồn thơ mới là tiếng xôn xao.

- Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt: Đó là các nhà Thơ mới không nhìn thiên nhiên bằng cái chiêm nghiệm, mà họ muốn vào dò la cái sự sống tiềm tàng chất chứa bên trong lòng tạo vật, khám phá sự sống bí mật đầy xôn xao trong lòng thiên nhiên.

2. “Tiếng thu” trong bài thơ của Lưu Trọng Lư (đoạn 4)

- Bài viết đi từ “tiếng thơ”, dẫn dắt đến “tiếng thu” rồi lại “tiếng thơ”, có sự đan xen không tách rời riêng biệt.

- Theo tác giả, “tiếng thu” trong bài thơ của Lưu Trọng Lư là:

+ Tiếng thu không phải là một âm thanh riêng rẽ nào, cũng không phải là một tập hợp giản đơn nôm na của nỗi thổn thức trong đất trời, nỗi rạo rực trong lòng người và tiếng xao xạc của lá rừng. Tiếng thu là một điệu huyền.

+ Tiếng thu là cả một bản hòa âm vừa mơ hồ vừa hiển hiện của bao nỗi xôn xao ngấm ngầm trong lòng tạo vật đang hòa điệu với nỗi xôn xao huyền diệu của hồn thi nhân.

3. Những yếu tố hình thức của bài thơ “Tiếng thu” (đoan 5 -> đoạn 12)

- Đoạn 5: Yếu tố về âm điệu: bài thơ tựa như một ca khúc

- Đoạn 6: Khổ thơ. Cấu trúc ngôn từ tự nó đã chia bài thơ thành ba phần nội dung tương ứng với ba câu hỏi.

- Đoạn 7: Sự lặp lại của vần và nhịp: Hiệp vần bằng cả hai hệ thống: vần bằng và vần trắc.

- Từ đoạn 8 đến đoạn 12: Phân tích cấu trúc ngôn từ mang tính nhạc, phân tích thứ tiếng của mùa thu: tiếng thổn thức, tiếng rạo rực, tiếng lá thu xào xạc, và âm hưởng của toàn bài thơ: âm bằng.

III. Suy tư của tác giả về bài thơ (đoạn 13)

“Tôi cứ nghĩ, Lưu Trọng Lư chính là chú nai kia, bởi cái nghiêng tai ngơ ngác thi sĩ của nó”. Tác giả nhấn mạnh vào từ “xào xạc”: “Chỉ có một tín hiệu duy nhất là tiếng xào xạc nhưng cái âm thanh của rừng thực sự đã là vị sứ giả của cái vương – quốc – thu huyền bí, là phát ngôn chính thúc và hàm súc của Tiếng thu”. Quả không sai khi nói rằng Chu Văn Sơn là một nhà phê bình văn học tài hoa với khả năng cảm nhận, một con mắt nhìn ra cái đẹp của văn chương.

IV. Đánh giá chung Bản hòa âm ngôn từ trong “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư

- Bài viết được triển khai theo luận điểm rõ ràng và cụ thể, mỗi đoạn sẽ có một câu chủ đề riêng, các câu trong đoạn tập trung làm rõ cho câu chủ đề. Bài viết không hề đề cập tới những gì lan man, khó hiểu, không dẫn dắt bạn đọc “cưỡi ngựa xem hoa” mà thường tập trung làm rõ hẳn vào vấn đề một cách trực diện nhưng không kém phần cuốn hút.

- Sử dụng thao tác lập luận phân tích, chứng minh giúp người đọc hiểu một cách đầy đủ và sâu sắc về ý nghĩa bài thơ biểu đạt.