I. Khái niệm Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề
- Báo cáo nghiên cứu là văn bản trình bày kết quả nghiên cứu về một vấn đề dựa trên các dữ liệu khách quan, chính xác, đáng tin cậy. Viết báo cáo nghiên cứu là một hoạt động thực hành giúp bạn phát triển kĩ năng tìm hiểu, khám phá về đời sống xã hội và tự nhiên qua tư liệu thu thập được và trình bày kết quả tìm hiểu, khám phá đó.
- Vấn đề nghiên cứu có thể là một vấn đề đời sống hoặc một vấn đề gợi ra từ tác phẩm văn học mà bạn đã đọc.
II. Yêu cầu Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề
- Nêu được đề tài và vấn đề nghiên cứu được đặt ra trong báo cáo.
- Trình bày được kết quả nghiên cứu thông qua hệ thống các luận điểm sáng rõ, thông tin xác thực.
- Khai thác được các nguồn tham khảo chính xác, đáng tin cậy, sử dụng các trích dẫn, cước chủ và phương tiện hỗ trợ phù hợp, thể hiện sự minh bạch trong việc kế thừa những kết quả nghiên cứu đã có.
- Có danh mục tài liệu tham khảo ở cuối báo cáo.
III. Hướng dẫn quy trình Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề
Bước 1: Chuẩn bị viết
Lựa chọn đề tài
Hãy bắt đầu bằng điều khiến bạn thấy hứng thú và quan tâm nhất sau khi đọc một tác phẩm văn học hay một tài liệu nào đó. Điều gì ở tác phẩm hấp dẫn bạn? Đâu là điều bạn muốn tìm hiểu thêm? Trong các tài liệu mà bạn đọc, liệu có điểm gì mâu thuẫn hoặc chưa sáng tỏ hay không?
Thu thập thông tin
- Để có được thông tin cần thiết cho báo cáo nghiên cứu, bạn cần tìm đọc các sách, báo có liên quan.
- Các tài liệu trên Internet cũng là nguồn cung cấp quan trọng mà bạn cần khai thác. Chỉ cần đánh những từ khoá có liên quan đến vấn đề nghiên cứu vào ô quy định một số trang mạng hỗ trợ tìm kiếm phổ biến trên Internet, bạn có thể nhanh chóng tìm thấy đường dẫn để mở và đọc những tài liệu hữu ích.
Bước 2: Xây dựng đề cương
- Trước khi xây dựng đề cương, cần tập hợp những thông tin thu thập được thành các ý.
- Trên cơ sở các ý huy động được, bạn xây dựng thành một đề cương, sắp xếp các ý theo trật tự nhất định, chẳng hạn theo trật tự thời gian, trật tự không gian, theo logic của vấn đề,...
- Đề cương nghiên cứu cần có các phần sau:
+ Đặt vấn đề: Nêu rõ đề tài và vấn đề nghiên cứu.
+ Giải quyết vấn đề: Trình bày các kết quả nghiên cứu chính thông qua hệ thống luận điểm, có các dữ liệu, bằng chứng.
+ Kết luận: Khẳng định kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu, gợi mở những hướng tiếp cận mới.
+ Tài liệu tham khảo: Ghi rõ tên tác giả, thời gian công bố, tên tài liệu, nơi công bố.
Bước 3: Viết
- Triển khai mỗi luận điểm đã được xác định trong dàn ý thành một đoạn văn. Mỗi đoạn văn cần có câu chủ đề, được đặt ở đầu hoặc cuối đoạn văn. Các câu khác trong đoạn cần cung cấp thông tin, chi tiết để làm sáng tỏ câu chủ đề. Mỗi đoạn văn chỉ nên diễn đạt một luận điểm.
- Chú ý sử dụng ngôn ngữ phù hợp. Tuy chưa phải là một nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp nhưng báo cáo nghiên cứu cũng cần sử dụng ngôn ngữ khoa học, khách quan, trung tính.
- Sử dụng các từ ngữ liên kết để thể hiện mối quan hệ logic giữa các ý, các đoạn như: thứ nhất, thứ hai, thứ ba, tuy nhiên, tóm lại, ...
- Khi trích dẫn dù trực tiếp hay gián tiếp, cần ghi nguồn trích dẫn theo đúng quy cách.
- Sắp xếp các tài liệu tham khảo theo đúng thông lệ: trật tự dựa vào trật tự chữ cái đầutiên trong tên hoặc họ của tác giả.
- Có thể chọn đưa vào báo cáo nghiên cứu một số sơ đồ, biểu đồ, hình ảnh... phù hợp.
Bước 4: Chỉnh sửa, hoàn thiện
Tự rà soát lại bài báo cáo nghiên cứu của mình theo các tiêu chí sau đây:
- Phần giới thiệu nêu rõ được vấn đề nghiên cứu, gây được sự chú ý và hấp dẫn đối với người đọc.
- Các luận điểm chính đã được làm sáng tỏ qua những dữ liệu, bằng chứng xác thực, đáng tin cậy.
- Các phần được sắp xếp theo trật tự logic, có sự liên kết chặt chẽ, không có sự trùng lặp.
- Không có các thông tin thừa, không liên quan trực tiếp đến đề tài.
- Bài viết đảm bảo tuân thủ các quy định về chính tả, không mắc lỗi từ ngữ và câu.
IV. Ví dụ
Thơ Haiku – sự tinh tế của tâm hồn Nhật Bản
Bài làm
Thơ Haiku của Nhật Bản là một phần tài sản trong kho tàng văn hóa Á Đông vĩ đại và giàu sang. Chúng ta là người thừa tự nền văn hóa ấy nhưng còn chưa khai thác di sản của nó đúng mức như nó xứng đáng. Nhiều thành quả và tinh hoa của nó còn chờ đợi chúng ta.
Thơ Haiku dung hợp và kết tinh nhiều giá trị trong những dòng văn hóa thấm sâu của phương Đông từ Ấn Độ đến Nhật Bản. Vì vậy ta thấy trong thể thơ có dạng nhỏ nhắn ít lời này tinh thần Phật giáo, hơi thở Thiền mà ta vẫn bắt gặp trong thơ văn Lý Trần của ta. Ngoài ra, Haiku còn phảng phất hương sắc của nghệ thuật cắm hoa ikebana và không khí trà đạo chanoyu phát triển từ thế kỷ mười bốn với tinh thần căn bản là chân phương, hòa điệu và thanh tịnh. Haiku chừng như cũng dấu trong nó vẻ u huyền của kịch mặt nạ Noh.
Thơ Nhật truyền thống thường dựa trên các câu 5-7. Dựa theo nhịp căn bản này, xuất hiện hình thức thơ nối (ren-ga) cuối thời trung cổ. Lối làm thơ này giống như liên ngâm của ta. Người ta soạn renga khi ở thăm một ngôi đền, trong tiệc ngắm trăng, trong khi uống ượu sakê và cả lúc nghỉ ngơi, giữa hai cuộc chiến đấu.
Để làm thơ nối, thông thường có vài ba người tham dự. Họ luân phiên soạn các đoạn thơ. Cứ một đoạn ba câu, một đoạn hai câu. Đề tài do đoạn đi trước qui định, như mùa xuân hoặc mùa đông, như một cuộc hành trình, sự nghèo khó, tình yêu… Chẳng hạn như:
Giọt sương buồn phiền
Và cũng đau cho nỗi
Bông hoa ở lại sau mình
(Sôgi)
Trong sương mờ bóng tối
Tia nắng cuối lung linh
(Shôhaka)
Trong những renga này thì đoạn mở đầu là quan trọng nhất và được gọi là Hokku. Hokku dần dần trở nên độc lập, tạo thành một thể thơ riêng biệt, đổi tên là Haiku (Haiku).
Toàn bài Haiku chỉ có ba câu, bao gồm 17 âm tiết (5-7-5). Tiếng Nhật lại là tiếng đa âm nên cả bài chẳng có được mấy từ. Ví dụ như chim cu trong tiếng Nhật gọi là hototogisu đã chiếm mất năm âm tiết của bài, có thể riêng mình trở thành một câu thơ.
Hototogisu
Naki naki tobu zo
Isogawashi
Ôi cánh chim cu
Tưng bừng bay lượn và ca hát
Bận rộn siết bao!
(Bashô)
Và ngay cả trong hình thức độc lập này, tính chất nối kết giữa hai người dùng thơ để giao cảm vẫn còn. Có thể minh họa tính chất này qua câu chuyện về nhà thơ nữ nổi tiếng thế kỷ mười tám là Chiyô. Cô sống cô đơn trong những hồi tưởng về người chồng và đứa con đã mất nên một người bạn sánh cô với cây liễu quạnh hiu:
Không có hoa trên mình
Đời sao mà thầm lặng
Cây liễu xanh
Chiyô nhận bài thơ, chỉ thay đổi một hàng:
Không có hoa trên mình
Thân không còn hệ lụy
Cây liễu xanh
Tính chất ấy còn nói lên điều này: Haiku đòi hỏi người đọc phải đọc thơ như đang trò chuyện âm thầm với nhà thơ, như thể cùng nhà thơ sáng tạo tiếp tục. Tưởng đó là thái độ cần có khi đi vào thế giới rất tinh tế của Haiku. Với thái độ này, người đọc sẽ bớt bỡ ngỡ khi lần đầu tiếp xúc với Haiku, một trong những thể thơ nổi danh là ngắn gọn nhất thế giới.
*
Đặc điểm đầu tiên của Haiku là cô đọng. Thơ ca Á Đông nói chung là cô đọng. Hình thức ngắn gọn của Haiku, tanka, tứ tuyệt, ca dao Việt Nam… lại có một sức chứa rất đáng kể cho ý tình của con người. Đấy là những nắm tay nắm rất chặt nên có sức mạnh lớn lao. Haiku tiêu biểu cho phong cách cô đọng ấy, cho ý ở ngoài lời. Haiku bao giờ cũng biết cách để trống, nghĩa là tạo một khoảng chân không trong thơ. Khoảng chân không này có thể nói là rất cần thiết. Trong một bức tranh đơn sơ, làm sao vẽ được tiếng gió thổi? Thế mà người họa sĩ tài giỏi phải làm được điều đó. Họ chỉ vẽ có cành thôi nhưng ta nghe được tiếng gió thổi (năng họa nhất chi phong hữu thanh).
Đến đây xem! Để thấy
Chỉ còn một lá cô đơn
Trên cành kiri đấy
(Bashô)
Bashô, bậc thầy Haiku, không vẽ tiếng gió, nhưng người đọc cảm thấy hồi hộp và lo sợ cho chiếc lá cuối cùng ấy.
Căn cứ vào đặc điểm này, Tagor đưa ra nhận xét về Haiku rất chính xác: “Nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài, rồi bước tránh sang bên”.
Ở đây, ta thấy nhà thơ Haiku (Haijin) rất tôn trọng người đọc. Trên con đường thơ, các Haijin nhường lối cho người đọc, không lấn chiếm không làm nghẽn đường. Người đọc đi cùng nhà thơ và vẫn còn đi tiếp khi nhà thơ dừng lại. Nhưng muốn thế, người đọc không có quyền thụ động. Nhà thơ không nói hộ ta tất cả. Cuộc nói chuyện hết lời cạn ý nào mà chẳng chán. Trò chuyện với thơ lại càng không thể để cho niềm chán ngán ấy nổi dậy.
Tagor còn giải thích thêm rằng: “Lý do khiến nhà thơ rút lui nhanh chóng thế vì người đọc Nhật có quyền năng tinh thần về tưởng tượng rất lớn”.
Lời nhận xét của thi hào Ấn Độ ấy có thể làm nản lòng những người đọc không phải là Nhật Bản. Thực ra thì khả năng đó không phải là đặc quyền của người đọc Nhật. Bất kỳ ai yêu thơ đều có thể đọc Haiku, và sau một thời gian tìm hiểu đều có thể cảm nhận Haiku như đã cảm nhận nhiều thể thơ khác. Hơn nữa, thơ ca không chỉ nói riêng với dân tộc mình. “Người phát” là Nhật nhưng “người nhận” có thể là người thuộc bất kỳ dân tộc nào. Đã là thơ hay thì phải có quyền năng truyền đi tín hiệu của cái đẹp.
Có người yêu cầu Bashô soạn một bài Haiku về tám cảnh hồ Ômi. Quả là một trò đùa vì có một bài thơ dài vịnh tám cảnh đã kể hết tên ra cùng với trăng thu, tuyết chiều, hoàng hôn, thuyền buồm, bầu trời, mưa đêm, ngỗng trời và tiếng chuông đền Mii. Hãy thử dồn tất cả thứ đó vào một bài Haiku ba câu. Thế mà Bashô đã thoát chiếc bẫy giăng đùa nghịch ấy như sau:
Hồ Ômi tám cảnh
Sương mù dấu bảy rồi
Còn chuông đền Mii thôi
Cái một ở đây nói thay cho tất cả, dường như ta thấy cả thế giới trong tiếng chuông đền Mii. Gần gũi với tinh thần này, lssa nhìn vào đôi mắt con chuồn chuồn:
Thăm thẳm núi non
Đang hiện hình lấp lánh
Trong mắt con chuồn chuồn
Khi nhà thơ Haiku nhìn thấy núi non trong đôi mắt hết sức nhỏ bé của con chuồn chuồn thì nhà thơ cổ điển Anh Uyliơm Blâyk nhìn thấy thế giới trong một hạt cát:
Nhìn thấy thế giới trong một hạt cát
Và Thiên đàng trong một bông hoa dại
Giữ vô tận trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu trong một giờ đồng hồ
Để diễn tả cái toàn thể đó, cái một đó, ta thấy hai bài thơ khác nhau nhiều trong cách thể hiện. Nhà thơ Haiku sau khi nêu lên hình tượng đôi mắt con chuồn chuồn, đã vội vã rút lui. Chỉ có sự gợi ý. Issa để khoảng trống cho người đọc. Người đọc sẽ tự ý lấp đầy khoảng trống theo cách của mình. Còn giọng thơ Tây phương thì phô ý rõ ràng, khai triển và tăng cấp dồn dập: Thế giới – Thiên đàng – Vô tận – Vĩnh cửu.
Đem so với thơ ca Tây phương, ta thấy tính cô đọng hàm súc của Haiku hiện lên rất rõ.
Có khi Haiku cô đọng đến mức chỉ có một chi tiết đếm hoa rơi như trong bài thơ của Shiki:
Một đóa rơi
Hai đóa rơi…
Hoa trà đang rơi
Không muốn rườm lời, các haijin muốn dùng niềm im lặng, âm thanh âm thầm nhất và ngôn ngữ kết tinh nhất để khơi dậy những cảm thức sâu xa nhất ở người đọc.
Lời đã đành là tinh giản, các haijin còn muốn tinh giản cả cảm xúc (đúng ra là sự bày tỏ cảm xúc) và như thế Tagor gọi là “Sự tinh giản của tâm hồn”. Sự tinh giản ấy đem lại cho Haiku một vẻ đơn sơ hiếm thấy trong thơ ca. Vì vẻ đơn sơ lạ thường của nó, có người không nhận ra Haiku là thơ. Thiếu trang sức, có người tưởng rằng nó không đẹp.
Về điểm này, R.H. Blyth trong bộ sách Haiku vĩ đại của mình có viết:
“Đó là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu nói đó chỉ là ngón tay, và thường không phải là ngón tay lộng lẫy thì đúng thế. Nếu mà bàn tay lộng lẫy và đeo đầy trang sức, e ta quên mất điều mà ngón tay chỉ tới”. (3)
Nghe chim hót, nhà thơ nữ Chigetsu viết:
Tay ngưng việc làm
Bên chậu nước
Tiếng chim chích vang
Thử so sánh bài này với bài tứ tuyệt “Tức cảnh ngày xuân” của Sư Huyền Quang đời Trần, ta sẽ hiểu hơn về tính đơn sơ của Haiku.
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tử kinh hoa lạ chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn thường xuân ý
Tận tại đình châm bất ngữ thì.
Cả hai bài thơ đều diễn tả cô gái ngừng tay làm việc nghe chim hót mùa xuân (chim chích uguisu trong Haiku là chim của mùa xuân). Trong bài Haiku, ta thấy cô gái chỉ là cô gái. Không biết cô đẹp hay xấu, tuổi bao nhiêu và đang làm gì. Còn trong bài tứ tuyệt thì các chi tiết ấy hiện lên rất rõ (đẹp, tuổi đôi tám, đang thêu thùa). Con chim chích của Haiku chỉ hót chứ không phải hót trong lùm hoa tử kinh. Bài Haiku cũng không bộc lộ cảm xúc như hai câu cuối trong bài tứ tuyệt.
So sánh để thấy tính đơn sơ của Haiku là một đặc điểm chứ không phải rút ra sự hơn kém nào. Vì mỗi thể thơ của mỗi dân tộc có đặc trưng và phong cách riêng. Mỗi bản sắc có cái đẹp của nó. Bài tứ tuyệt của Huyền Quang là bức tranh tuyệt đẹp của mùa xuân, của tuổi xuân. Bài Haiku không có màu sắc ấy.
Đơn sơ như vậy, Haiku không phải là thơ quí tộc. Có thể nói Haiku mang dáng dấp người nhà nghèo, chỉ giàu sang cái sang giàu của thiên nhiên, cái sang giàu mà ngay cả người ăn xin cũng có thể có:
Người ăn xin hạnh phúc
Có cả đất và trời
Làm áo xiêm mùa hạ
(Kikaku)
Ngay cả các thiên thần mà Swedenborg kể trong “Thiên đàng và địa ngục”, thật tình mà nói, không mặc áo xiêm nào. Thì Haiku cũng “trần truồng” như thế.
Sự trần truồng của Haiku lấy đất và trời làm áo xiêm cho mình. Thế mà trái tim của Haiku vẫn ngời ánh sáng.
Tâm tôi ngời ánh sáng
Vầng trăng hẳn tưởng lầm
Đây là ánh trăng trong
(Myôê)
Đây là sự giàu sang tột bực mà chỉ có tâm hồn con người mới đạt tới, chỉ có Haiku mới thể hiện rõ ràng hơn cả.
Cố gắng nhìn thấy vẻ đẹp trong những sự vật bình thường của đời sống là một trong những nguyên lý thẩm mỹ căn bản của Haiku.
Theo NHẬT CHIÊU / (TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG)