Soạn bài Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân

Sách kết nối tri thức với cuộc sống

Đổi lựa chọn

Câu 1 (trang 27, SGK Ngữ văn 10, tập 1)

      Trong Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục, trên bình diện xã hội, hoàn toàn đối lập với nhau. Một người là tên "đại nghịch", cầm đầu cuộc nổi loạn này bị bắt giam, đang chờ ngày ra pháp trường để chịu tội ; còn một người là quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự xã hội đương thời. Nhưng cả hai nhân vật này đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ, trên bình diện nghệ thuật, họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Nguyễn Tuân đã đặt những nhân vật của mình vào chốn ngục tù tối tăm nhơ bẩn, tạo nên cuộc gặp gỡ kì lạ của họ. Nguyễn Tuân đã tạo ra một tình huống độc đáo: Mối quan hệ đặc biệt éo le, đầy trớ trêu giữa những tâm hồn tri âm, tri kỉ.

     Tác giả đã đặt những nhân vật này trong một tình thế đối địch: tử tù và quản ngục. Chính tình huống độc đáo này đã làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, làm sáng tỏ tấm lòng biệt nhôm liên tài" của viên quản ngục, đồng thời cũng thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm.

Câu 2 (trang 27, SGK Ngữ văn 10, tập 1)

     Lời kể về nhân vật quản ngục trong phần 1 là lời kể của chính tác giả. Việc sử dụng ngôi kể thứ ba giúp cho cách kể linh hoạt, tự do hơn. Đồng thời, qua cách kể này giúp người đọc hình dung một cách khái quát, có những cảm nhận riêng về nhân vật quản ngục trong truyện.

Câu 3 (trang 27, SGK Ngữ văn 10, tập 1)

- Ban đầu, Huấn Cao tỏ ra vô cùng khinh bạc quản ngục – kẻ đứng đầu nhà lao, coi viên quản cũng giống như bao tên tham quan trong xã hội lúc bấy giờ: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng có đặt chân vào đây. Chính thầy thơ lại đã kể cho Huấn Cao hiểu rõ nỗi lòng của quản ngục. Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp.

- Khi đã hiểu rõ con người, nhân cách của quản ngục,  Huấn Cao đã đồng ý cho chữ. Lúc này, mối quan hệ giữa họ không còn là mối quan hệ giữa quản ngục -  tử tù mà đã chuyển thành một quan hệ tri âm, tri kỉ.

Câu 4 (trang 27, SGK Ngữ văn 10, tập 1)

Vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao được thể hiện ở những phương diện sau:

* Tài hoa nghệ sĩ: 

- Huấn Cao là người có tài viết chữ đẹp, “chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm. Có được chữ ông Huấn mà treo là có được vật báu trên đời”.

* Khí phách hiên ngang: 

- Huấn Cao là một anh hùng, dũng kiệt. Huấn Cao trở thành tử tù bởi ông dám khởi nghĩa chống lại triều đình. Khí phách hiên ngang của Huấn Cao được thể hiện rõ nhất trong thời gian ông ở trong nhà lao. Trước cửa ngục tù, Huấn Cao không những không run sợ, lo lắng, sợ hãi mà ngược lại, tỏ rõ khí phách của mình qua hành động “dỗ gông”: “Huấn Cao, lạnh lùng, chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thang gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái”. Trong ngục tù, Huấn Cao không những không sợ, không quy phục viên quan coi ngục mà còn ung dung nhận phần rượu thịt mà viên quan coi ngục mang cho, thậm chí, còn tỏ rõ thái độ của mình đối với viên quan coi ngục “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà người đừng đặt chân vào đây.”

* Nhân cách trong sáng, cao cả:

- Huấn Cao không bao giờ vì vàng bạc hay quyền lực mà cho chữ “ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Cảm kích trước tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quan coi ngục và quyết định cho ý chữ ở ngay chốn ngục tù. => Qua hình tượng nhân vật Huấn Cao, thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp, cái đẹp, cái tài phải luôn đi liền với cái tâm, với cái thiên lương trong sáng.

Câu 5 (trang 27, SGK Ngữ văn 10, tập 1)

* Cảnh cho chữ - cảnh tượng xưa nay chưa từng có:

- Về không gian: người xưa thường cho chữ ở thư phòng, nơi sạch sẽ, trang nghiêm. Huấn Cao cho chữ viên quản ngục trong nơi ngục tù ẩm mốc, bẩn thỉu, đầy những phân chuột phân gián.

- Về thời gian: cảnh cho chữ này diễn ra vào thời gian giữa đêm khuya thanh vắng. Đặc biệt đó là đêm cuối cùng trước khi Huấn Cao, con người tài hoa, nghĩa hiệp phải thi hành án xử.

- Người cho chữ và người xin chữ cũng vô cùng đặc biệt: Người cho chữ mặc dù bị cùm gông nhưng vẫn ung dung, tự tại, oai phong phóng bút với những nét bút đẹp tuyệt trần. Trong khi đó, viên quản ngục và thầy thơ lại cúi đầu đón nhận như một đặc ân từ tử tù.

- Trật tự, kỉ cương trong nhà tù bị đảo lộn hoàn toàn: Tù nhân trở thành người ban phát cái đẹp, răn dạy quản ngục.

* Ý nghĩa: Cảnh cho chữ làm nổi bật chủ đề của tác phẩm. Đó là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối, của cái đẹp đối với cái xấu xa, nhơ bẩn, của cái thiện đối với cái ác,…

Câu 6 (trang 27, SGK Ngữ văn 10, tập 1)

* Thông điệp của tác giả:

- Cái đẹp có thể sinh ra, tỏa sáng giữa chốn hôi hám, nhơ bẩn nhưng cái đẹp không thể chung sống cùng cái xấu, cái ác

- Con người xứng đáng được thưởng thức cái đẹp chỉ khi giữ được thiên lương

- Cái đẹp có thể cảm hóa được con người

Câu 7 (trang 27, SGK Ngữ văn 10, tập 1)

- Ngô Tử Văn và Huấn Cao đều là những người anh hùng, mang những vẻ đẹp phẩm chất đáng trân trọng. Tử Văn dám châm lửa đốt đền của tên tướng giặc trừ hại cho dân. Huấn Cao vì thấy dân chúng lầm than mà khởi nghĩa chống lại triều đình. Họ không vì quyền uy, tiền bạc mà bị mua chuộc, đánh mất đi chính mình.