Câu 1 (trang 14, SGK Ngữ văn 10, tập 1)
Thần Trụ trời |
Thần Sét |
Thần Gió |
|
Thời gian |
Khi chưa có vũ trụ |
Không có thời gian cụ thể |
Không có thời gian cụ thể |
Không gian |
Trời và đất |
Trên trời và trần gian |
Trên trời |
Nhân vật |
Thần Trụ trời |
Thần Sét, Ngọc Hoàng, ông Cường Bạo |
Thần Gió, thần Mưa, thần Sét, Ngọc Hoàng, đứa con của thần Gió |
Sự kiện chính |
Thần Trụ trời tách trời và đất |
Giới thiệu về thần Sét |
Đứa con của thần Gió bị Ngọc Hoàng đầy xuống trần |
Câu 2 (trang 14, SGK Ngữ văn 10, tập 1)
- Thần thoại suy nguyên là thần thoại kể về nguồn gốc vũ trụ và muôn loài.
- Ba văn bản trên đều thuộc thần thoại suy nguyên. Dấu hiệu:
+ Nhân vật chính đều kể về các vị thần: thần Trụ trời, thần Sấm, thấm Sét
+ Thời gian phiếm chỉ và không gian vũ trụ
+ Qua câu chuyện về cuộc đời của các vị thần nhằm cắt nghĩa, lí giải các hiện tượng tự nhiên và đời sống xã hội.
Câu 3 (trang 14, SGK Ngữ văn 10, tập 1)
- Trong cái nhìn của người cổ đại, thần Trụ Trời, thần Gió, thần Sét đều là các vị thần có hình dạng khổng lồ (thần Trụ Trời) hoặc ngoại hình khác thường (thần Gió không có đầu). Các vị thần đều có sức mạnh siêu nhiên (thần Trụ Trời tách trời và đất; thần Sét có một cái búa lớn, chuyên thi hành pháp luận ở trần gian; thần Gió có thể làm gió lúc to hoặc nhỏ, ngắn hoặc lâu). Các vị thần có “tính khí” nóng nảy và đáng sợ (thần Sét hễ Ngọc Hoàng sai là đi ngay, hễ thấy là đánh liền; thần Gió khi kết hợp với thần Sét và thần Mưa thì vô cùng đáng sợ).
- Các nhân vật trong trong thần thoại là cắt nghĩa, lý giải các hiện tượng tự nhiên và đời sống. Chính vì vậy, dựa vào đặc điểm của các hiện tượng tự nhiên, xã hội mà con người cổ đại đã xây dựng nên các nhân vật thần trong những câu chuyện thần thoại có đặc điểm tương tự như vậy.
Câu 4 (trang 14, SGK Ngữ văn 10, tập 1)
* Thần Trụ Trời:
- Công việc: dùng đất, đá đắp thành một cái cột vừa cao vừa to để chống trời, tách trời và đất ra làm hai.
- Dẫn chứng: “một hôm bỗng đứng dậy dùng đầu đội trời lên rồi đào đất, đá đắp thành một cái cột vừa to vừa cao để chống trời”; “Thần cứ một mình cầy cục đắp, cột đá càng cao chót vót càng đẩy trời lên mãi”.
- Mục đích: Tách trời và đất ra làm hai
=> Lý giải sự hình thành trời đất, di tích Cột chống trời.
* Thần Sét:
- Công việc: thi hành pháp luật ở trần gian.
- Dẫn chứng: Thần có một lưỡi búa đá. Khi xử kẻ nào dù là người, là vật, là cây cỏ thì thần tự mình nhảy xuống tận nơi trỏ ngọn cờ vào đầu tội nhân rồi dùng lưỡi búa bổ xuống đầu.
- Mục đích: làm theo lệnh Ngọc Hoàng, trừng trị những kẻ ác ở trần gian
=> Lý giải các quan niệm dân gian của nhân dân.
* Thần Gió:
- Công việc: làm gió theo lệnh Ngọc Hoàng
- Dẫn chứng: Bảo bối của thần là một thứ quạt nhiệm màu. Thần sẽ làm gió nhỏ hay bão lớn, lâu hay mau tùy theo lệng Ngọc Hoàng. Khi thần phối hợp với Thần Mưa, có khi cả thần Sét
- Mục đích: Tạo ra gió ở dưới trần gian
Câu 5 (trang 14, SGK Ngữ văn 10, tập 1)
- Hình tượng thần Trụ Trời, thần Sét và thần Gió thể hiện quan niệm về vũ trụ của người nguyên thủy. Với tư duy thô sơ, non nớt, người nguyên thủy chưa thể nào lí giải một cách khoa học và logic các hiện tượng tự nhiên ấy. Họ cho rằng có một thế lực siêu nhiên, thần thánh đang chi phối các hiện tượng thiên nhiên ấy cũng như đang chi phối cuộc sống của họ. (Thần Trụ Trời tách trời và đất, thần Sét thi hành pháp luật ở trần gian,..).
- Khát vọng chinh phục thế giới tự nhiên của con người thời nguyên thủy được gửi gắm qua hình tượng các vị thần. Để dọa hay xua đuổi thần Sét, con người đã dùng tiếng gà gáy. Hay như chính đứa con của thần Gió cũng bị đày xuống trần để báo tin khi trời có gió cho cả thiên hạ.
Câu 6 (trang 14, SGK Ngữ văn 10, tập 1)
* Đặc điểm:
- Nhân vật là con người cụ thể được khắc họa trong tác phẩm văn học bằng các biện pháp nghệ thuật. Nhân vật trong ba truyện trên đều là các vị thần, có hình dạng khổng lồ, khác biệt và có sức mạnh siêu nhiên.
- Chức năng nhân vật: cắt nghĩa, lí giải các hiện tượng tự nhiên trong đời sống xã hội.
- Nghệ thuật: Sử dụng các yếu tố tưởng tượng kì ảo.
* Thái độ, tình cảm của người xưa đối với thế giới tự nhiên
- Người nguyên thủy dùng trí tưởng tượng để hình dung, giải thích và chinh phục thế giới.
- Việc xây dựng hình tượng các vị thần để lí giải thể hiện sự tôn kính, ngưỡng mộ, niềm tin của người nguyên thủy đối với thế giới tự nhiên.
Câu 7 (trang 14, SGK Ngữ văn 10, tập 1)
Gợi ý:
Niềm tin hiểu một cách đơn giản là sự tin tưởng một cách tích cực vào sự việc nào đó. Niềm tin là một giá trị tinh thần vô hình, hình thành từ trong suy nghĩ con người. Niềm tin là nguồn năng lượng tiếp sức tinh thần cho con người. Niềm tin vào một thế giới khác vẫn luôn tồn tại trong cuộc sống hiện đại của con người, ví dụ như niềm tín ngưỡng. Niềm tin tín ngưỡng là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người, càng những khi gặp khó khăn, con người lại càng tìm đến điểm tựa tâm linh để chiêm nghiệm, tìm kiếm sự thanh thản trong tâm tưởng, từ đó nhận ra giá trị, ý nghĩa của cuộc sống.
Tin vào sự tồn tại ở thế giới khác không phải là điều xấu, nếu điều đó làm cho bản thân chúng ta tốt hơn. Chỉ những kẻ dựa vào đó để trục lợi, lợi dụng niềm tin của người khác mới đáng lên án.