1. Mở bài:
- Trần Thủ Độ (1194 - 1264) là một nhân vật lịch sử có công rất lớn trong việc lập nên triều đình nhà Trần; giúp hai vua Trần Thái Tông và Trần Thánh Tông ổn định, chính trị, kinh tế đất nước.
- Qua bài viết về Thái sư Trần Thủ Độ, tác giả Ngô Sĩ Liên đề cao đức tinh chí công vô tư, biết lắng nghe và khuyến khích cấp dưới giữ nghiêm phép nước của ông.
2. Thân bài:
* Giới thiệu sơ lược về Trần Thủ Độ:
- Cách viết của tác giả ngược với binh thường là nêu năm mất và chức tước của Trần Thủ độ trước, nhằm gây sự chú ý của người đọc: Giáp Tí, năm thứ 7. Mùa xuân, thắng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi 71), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương.
- Đây là chủ ý của tác giả nhằm nhấn mạnh thái độ trân trọng và biết ơn của các vua Trần đối với Trần Thủ Độ, qua đó gián tiếp giới thiệu vai trò quan trọng và công lao của ông.
* Nhân cách cao quý của Trần Thủ Độ:
+ Được tác giả phản ánh qua bốn tình huống đặc biệt giàu kịch tính:
- Tinh huống thứ nhất: Người hặc (kết tội) ấm ức tâu lên nhà vua rằng Thái sư lấn át quyền vua : Bệ hạ trẻ thơ mà Trần Thủ Độ quyền hơn cả vua, đối với xã tắc thì sẽ ra sao? Đây là tình huống gây ra mâu thuẫn giữa vua và Thái sư. Mâu thuẫn được tác giả đẩy lên tới điểm đỉnh với chi tiết nhà vua đem theo người hặc tội đến gặp Trần Thủ Độ để đối chất. Điểu bất ngờ là Trần Thủ Độ không những không chối mà còn ban thưởng cho người dám hặc tội mình. Chứng tỏ ông rất thẳng thắn, nghiêm khắc với bản thân. Hành động của ông có ý nghĩa động viên, khuyến khích cấp dưới mạnh dạn góp ý, tố cáo sai lầm của cấp trên nhưng phải với mục đích trong sáng là vì quyền lợi của quốc gia, dân tộc.
- Tinh huống thứ hai: Không liên quan tới sơn hà xã tắc mà là chuyện riêng trong gia đình. Phu nhân của Trần Thủ Độ ngồi kiệu vào cung, qua chỗ thềm cấm không xuống kiệu. Một người lính quân hiệu bắt bà phải xuống khiến bà bất bình, cho là người linh kia có ý khinh nhờn nên về mách Thái Sư. Trần Thủ Độ cho gọi người lính tới hỏi đầu đuôi câu chuyện. Nghe xong, ông nói: Ngươi ở chức thấp mà biết giữ phép như thế, ta còn trách gì nữa ? Điều đó cho thấy ông không thiên vị người thân và tôn trọng phép nước.
- Tinh huống thứ ba: Phu nhân của Trần Thủ Độ xin ông ban cho một người họ hàng của bà chức câu đương (một chức địch nhỏ chuyên lo việc bắt giữ và áp giải phạm nhân). Tình huống này tạo ra mâu thuẫn giữa tính cách liêm chính của Trần Thủ Độ với yêu cầu của phu nhân. Tác giả đánh lạc hướng bằng chị tiết: Thủ Độ gật đầu và biên lấy họ tên quê quán của người đô khiến người đọc tưởng rằng ông dễ dàng đổng ý. Bất ngờ, ông ra điều kiện người đó phải chặt một ngón chân để làm dấu phân biệt với các câu đương khác. Kẻ kia sợ hãi van lạy xin tha. Như vậy chứng tỏ Trần Thủ Độ không chấp nhận thói xấu chạy chọt, nhờ vả để tiến thân.
- Tinh huống thứ tư: Vua muốn phong tướng cho anh trai Trần Thủ Độ nên hỏi ý kiến ông. Ông thẳng thắn tâu rằng: An Quốc là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, còn như cho thần là hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc. Nếu anh em cùng là tướng thi việc trong triều đình sẽ ra sao ? Rõ ràng, Trần Thủ Độ luôn nghĩ tới quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Với tầm nhìn xa rộng, ông lường trước những phiền toái sẽ xảy ra trong triều đình nếu cả hai anh em ông cùng nắm giữ trọng trách. Điều này hoàn toàn trái ngược với tâm lí thông thường trong xã hội: Một người làm quan, cả họ được nhờ.
3. Kết bài:
- Những tinh huống đầy kịch tinh nêu trên góp phần khắc hoạ nổi bật bản tĩnh cứng cỏi và nhân cách cao thượng của Thái sư Trần Thù Độ: thẳng thắn, cầu thị, độ lượng, nghiêm minh, chí công vô tư, luôn đặt việc nước lên hàng đầu.
- Sử gia Ngô Sĩ Liên viết về Trần Thủ Độ bằng thái độ trân trọng, yêu mến và cảm phục. Tên tuổi của Thái sư Trần Thủ Độ xứng đáng được lưu đanh muôn thuở.