Kể lại bài Thánh Gióng bằng lời của em hay nhất (19 mẫu)

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 1

Vào thời Hùng Vương có một đôi vợ chồng tuy đã già nhưng mãi chưa có con. Vào một buổi sáng sớm khi lên nương làm rẫy, chợt thấy một dấu chân rất to in trên mặt đất, bà sửng sốt kêu lên:
- Ôi! Dấu chân của ai mà to thế này!

Thấy kì lạ, bà đưa chân mình vào ướm thử, về nhà bà liền có thai. Chẳng giống như bình thường, bà mang thai 12 tháng mới sinh ra một bé trai và đặt tên là Gióng. Gióng lên ba tuổi mà chẳng biết nói biết cười. Hàng xóm láng giềng xung quang bắt đầu dị nghị, lời ra tiếng vào, bàn tán về đứa trẻ kì lạ. Họ cho rằng bà thụ thai kì lạ nên đứa trẻ sinh ra cũng không được bình thường. Vào năm ấy, giặc Ân xâm lược nước ta. Quân giặc rất đông và hung hãn, đi đến đâu, chúng cướp bóc, tàn phá đến đấy. Quân của vua Hùng nhiều lần xuất trận nhưng không thể đánh thắng số lượng áp đảo của quân địch. Trước tình hình ấy, vua Hùng rất lo lắng, cử sứ thần đi khắp các vùng miền tìm người tài. Đến làng Phù Đổng, với lòng căm thù quân giặc sục sôi, ý chí bảo vệ đất nước mãnh liệt, người dân cả làng xin vua cho được đi đánh giặc. Không khí đánh giặc cứu nước lan tỏa khắp nơi nơi, mẹ Gióng vô cùng buồn rầu ao ước rằng giá như Gióng cũng bình thường như những người khác thì đã có thể xung quân đánh giặc. Lời ru của mẹ cất lên đầy tha thiết nhưng cũng đầy giục giã: “Làm trai đứng ở trên đời/ Sao cho xứng đáng giống nòi rồng tiên”. Những đứa trẻ khác thấy Gióng vẫn ngủ thì nói: “Gióng ơi dậy đi thôi! Cả làng Phù Đổng ta xin vua cho đi đánh giặc rồi đấy!”. Những lời nói ấy như có sức mạnh làm thức tỉnh con người ngủ quên trong Gióng, Gióng bỗng cất tiếng gọi mẹ xin cho đi đánh giặc: “ Mẹ ơi! Xin mẹ cho gọi sứ giả vào đây”. Mẹ Gióng vô cùng bất ngờ, chuyện quốc gia đại sự đâu phải trò đùa của trẻ con, nhưng Gióng vẫn cương quyết: “Xin mẹ hãy tin con, con có thể ra trận đánh giặc”. Mẹ Gióng đến gặp trưởng làng và mời sứ thần đến gặp Gióng. Gióng nói với sứ giá bằng giọng rõ ràng, dứt khoát: “Xin hãy nói với nhà vua làm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một cái áo giáp sắt”. Sứ giả ban đầu cũng hoài nghi, dù sao Gióng cũng chỉ là một đứa trẻ. Nhưng lúc ấy, có một con rồng không biết từ đâu bay đến rồi vút cao lên trời xanh, biết là điểm báo của trời, vội vàng về tâu lại với nhà vua. Từ hôm ấy, Gióng bỗng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không đủ, vươn vai trở thành một chàng trai khỏe mạnh, khôi ngô, tuấn tú. Những vật dụng cần thiết được mang đến, Gióng cùng trai tráng làng Phù Đổng ra trận đánh giặc. Đánh đến đâu, quân giặc khiếp sợ bỏ chạy đến đấy. Khí thế đang mạnh mẽ thì ngờ đâu kiếm gãy, Gióng nhanh trí nhổ một bụi tre bên đường, quật vào quân giặc tới tấp. Tướng giặc cùng đường phải giơ tay xin hàng, chiến thắng thuộc về nhân dân của nước Văn Lang. Lúc bấy giờ ngựa Gióng đã tiến đến chân núi Sóc Sơn. Gióng bèn cởi toàn bộ giáp rồi cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.

Để tưởng nhớ công ơn của Gióng, vua Hùng cho lập đền thờ ở quê nhà và phong Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Hàng năm, nhân dân vẫn tổ chức lễ hội để du khách thập phương tìm về bái lễ.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 2

Vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức, nhưng lại không có con. Họ buồn lắm. Một hôm, bà lão ra đồng thấy một vết chân to khác thường. Thấy lạ, bà lão đặt bàn chân mình vào để ước chừng bàn chân mình nhỏ hơn bao nhiêu. Thấm thoát thời gian trôi đi, bà lão có thai, rồi mười hai tháng sau bà sinh được một bé trai khôi ngô tuấn tú. Hai vợ chồng già mừng lắm. Nhưng lạ thay, đứa bé đã lên ba mà không biết nói, không biết cười, không biết đi, đặt đâu thì nằm đấy. Vợ chồng ông lão đâm lo?

Bấy giờ giặc Ân thế mạnh như chẻ tre tràn vào xâm lược nước ta. Nhà vua túng thế, bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng loa của sứ giả, bỗng cựa mình và cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả lấy làm kinh ngạc và cũng tỏ ý vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua chấp nhận và sai người ngày đêm làm đủ những vật mà chú bé yêu cầu.

Từ hôm gặp sứ giả, chú bé bỗng lớn nhanh như thổi. Cơm ăn không biết no, áo vừa mới mặc đã chật. Hai vợ chồng làm lụng cực nhọc mà không đủ nuôi con. Bà con xóm làng thấy thế, bèn xúm vào kẻ ít người nhiều nuôi chú bé.

Giặc Ân đã đến chân núi Trâu, tình thế đất nước như ngàn cân treo sợi tóc. Ai nấy đều lo lắng, sợ sệt. Vừa lúc, sứ giả mang đủ các thứ mà chú bé đã dặn. Chú bé vươn vai, trong phút chốc đã trở thành tráng sĩ thật oai phong, thật lẫm liệt. Tráng sĩ vỗ mạnh vào mông ngựa sắt, ngựa hí vang dội cả một vùng. Tráng sĩ mặc áo giáp cầm roi sắt nhảy lên lưng ngựa. Ngựa phi nước đại, phun lữa xông thẳng vào quân giặc hết kớp này đến lớp khác. Bỗng roi sắt bị gãy, tráng sĩ liền nhổ những bụi tre ven đường quất vào quân giặc. Thế giặc hỗn loạn, tan vỡ. Đám tàn quân dẫm đạp lên nhau mà tháo chạy. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc (Sóc Sơn) thì dừng lại, rồi một mình, một ngựa lên đỉnh núi, cởi áo giáp sắt để lại ngựa sắt và tráng sĩ bay lên trời.

Để tưởng nhớ người tướng sĩ có công đánh tan giặc Ân xâm lược. Nhà vua phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay tại quê nhà.

Hiện nay vẫn còn dấu tích đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Hàng năm, đến tháng tư là làng mở hội tưng bừng để tưởng nhớ người tráng sĩ Thánh Gióng. Và để ngắm nhìn những dấu tích mà tráng sĩ và ngựa sắt đã đánh tan giặc Ân, đó là tre đằng ngà, những ao hồ liên tiếp…

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 3

Dưới thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão hiền lành mà chưa có đứa con nào để nối dõi. Một hôm, bà lão ra đồng ướm thử bàn chân mình lên những vết chân lạ, về nhà mang thai đến mười hai tháng mới sinh hạ một đứa con trai khôi ngô. Nuôi đến ba tuổi, đứa bé vẫn nằm một chỗ, chưa biết đi đứng, cười nói.

Gặp lúc giặc Ân quấy nhiễu, vua sai sứ giả đi rao khắp nơi tìm bậc hiền tài ra đánh giặc cứu dân. Nghe tin, cậu bé làng Gióng bỗng bật lên tiếng nói nhờ mẹ mời sứ giả vào. Cậu yêu cầu sứ giả xin vua đúc cho ngựa sắt, roi sắt áo giáp sắt để mình dẹp tan giặc dữ. Từ đó, cậu lớn nhanh, ăn mạnh đến nỗi dân làng phải rủ nhau góp cơm gạo đến giúp.

Nhận được đủ lễ vua ban, cậu bé vươn vai trở thành một tráng sĩ oai nghi lẫm liệt. Nai nịt xong, chàng lên ngựa, vung roi vun vút. Ngựa phun lửa xong thẳng vào đội hình giặc khiến chúng ngã chết như rạ.

Roi gãy, tráng sĩ nhổ những bụi tre bên đường. Quân giặc thua to, tan vỡ cả, đám sống sót tìm đường lẫn trốn. Tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc, cởi áo giáp bỏ lại, cả người lẫn ngựa bay vút lên trời.

Vua Hùng nhớ ơn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Từ đó hàng năm vào tháng tư, ở đây hội Gióng được mở ra tưng bừng, nô nức, thu hút người khắp nơi về tham dự.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 4

Từ thuở còn trong nôi, em đã được bà kể cho nghe nhiều câu chuyện lắm. Nhưng câu chuyện mà em nhớ nhất là truyện Thánh Gióng.

Truyện kể rằng: Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một làng kia có hai vợ chồng ông lão, chăm chỉ làm ăn lại có tiếng là phúc đức. Nhưng đến lúc sắp già mà vẫn chứa có nấy một mụn con. Một ngày kia bà vợ ra đồng trông thấy một bước chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà mang thai. Nhưng không ngờ, khác với người thường, đến mười hai tháng sau bà mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô. Cậu bé ra đời là niềm mơ ước cả đời của hai vợ chồng nên ông bà mừng lắm. Nhưng chẳng biết làm sao, dù đã ba tuổi nhưng cậu bé Gióng (tên cậu do ông bà đặt) vẫn chẳng biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đó. Ông bà buồn lắm.

Cũng năm ấy, giặc Ân sang xâm lược bờ cõi nước ta. Chúng gây bao nhiêu tội ác khiến dân chúng vô cùng khổ sở. Thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp nước cầu hiền tài. Đi đến đâu sứ giả cũng rao:

– Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước.

Nghe tiếng rao, cậu Gióng đang nằm trên giường bèn cất tiếng:

– Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.

(Ngày xưa khi để cho em nghe đến chỗ này, bao giờ bà cũng thêm vào: Tiếng nói đầu tiên của cậu Gióng là tiếng nói yêu nước đấy. Phải nhớ lấy cháu ạ!)

– Nghe tiếng con, vợ chồng lão nông dân thấy lạ đành mời sứ giả vào nhà. Cậu Gióng liền yêu cầu sứ giả về chuẩn bị ngay: roi sắt, ngựa sắt, áo giáp sắt để cậu đi phá giặc.

Càng lạ hơn, từ lúc cậu Gióng gặp sứ giả, cậu cứ lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cậu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Vợ chồng ông bà nọ đem hết gạo ra nuôi mà không đủ bèn nhờ hàng xóm cùng nuôi cậu Gióng. Trong làng ai cũng mong cậu đi giết giặc cứu nước nên chẳng nề hà gì.

Giặc đã đến sát chân núi Trâu. Người người hoảng sợ. Cũng may đúng lúc đó, sứ giả mang những thứ cậu Gióng đã đề nghị đến nơi. Cậu bèn vươn vai đứng dậy như một tráng sỹ, khoác vào áo giáp, cầm roi rồi nhảy lên ngựa phi thẳng tới trận tiền. Bằng sức mạnh như cả ngàn người cộng lại, chẳng mấy chốc cậu đã khiến lũ giặc kinh hồn bạt vía. Đang đánh nhau ác liệt thì roi sắt gãy, cậu bèn nhổ ngay từng bụi tre ở bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc bỏ chạy toán loạn nhưng rồi cũng bị tiêu diệt không sót một tên.

Dẹp giặc xong, cậu Gióng không quay về kinh để nhận công ban thưởng mà thúc ngựa đến núi Sóc, bỏ lại áo giáp sắt, một người một ngựa bay thẳng về trời. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu trụi một làng nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau.

Câu chuyện về người anh hùng Thánh Gióng đã không chỉ còn là niềm yêu thích của riêng em, mà nó đã là niềm say mê của bao thế hệ học trò.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 5

Đó là vào thời Vua Hùng thứ sáu. Đất nước thật thanh bình, mọi người đều hưởng ấm no hạnh phúc. Thế nhưng vợ chồng già chúng tôi chứ cui cút trong gian nhà tranh vắng tiếng trẻ con. Một hôm, tôi đi ra đồng thấy một dấu chân khác lạ. Phần thì tò mò, phần thì vừa thấy thần báo mộng trong đêm, tôi đặt chân ướm thử. Không ngờ về nhà thụ thai.

Chờ hết chín tháng mười ngày vẫn chưa sanh, ông nhà tôi lo quá. Nhưng đến tháng mười hai thì vợ chồng tôi đã có con. Chao ôi, một đứa bé mặt mũi khôi nhô như một tiên đồng. Chúng tôi mừng lắm. Nhưng chăm chút hoài mà thằng bé vẫn cứ như lúc lọt lòng. Đã ba năm tuổi mà nó không biết đi, không biết nói, biết cười.

Rồi một hôm loa sứ giả truyền tin giặc Ân đã đến xâm phạm bờ cõi, vua Hùng đang kén chọn người tài giỏi ra công giết giặc. Thằng bé nhà tôi bỗng níu tay áo, và nó cất tiếng: "Mẹ ơi, mẹ ra mời sứ giả vô đây cho con". Hai vợ chồng tôi bàng hoàng nhìn nhau, tôi vội chạy ra mời sứ giả vào nhà. Thằng bé mắt long lanh và nói sang sảng như phán truyền: "Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt, áo giáp sắt, ta sẽ phá tan giặc!". Sứ giả sửng sốt rồi kính cẩn chào chúng tôi ra về. Tôi và chồng tôi chạy lại ôm con mà mừng khôn xiết. Từ đó thằng bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Bà con lối xóm biết chuyện họ rất phấn khởi ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho thằng bé rất chu đáo. Ai cũng hi vọng Gióng sớm ra giết giặc trừ họa cho mọi người.

Giặc đã đến chân núi Châu Sơn. Mọi người hoảng hốt nhìn Gióng như cầu cứu. Cũng may nhà vua đã cho đưa đến con ngựa sắt, áo giáp sắt và roi sắt. Thằng bé bỗng đứng dậy vươn vai một cái, nó to lớn và mạnh mẽ khác thường. Nó mặc giáp sắt, cầm roi sắt và leo lên ngựa sắt. Nó vỗ vào mông ngựa, ngựa hét vang phun một luồng bão lửa về phía trước. Trông thằng Gióng giờ đây oai phong lẫm liệt như tướng nhà Trời. Nó khẽ gật đầu chào mọi người rồi phi như bay ra nơi có giặc.

Nghe mấy người đi theo Gióng, cùng Gióng giết giặc kể lại thì nó đã cầm roi sắt tả xung hữu đột vào giặc chết như rạ. Đang xông xáo như vậy thì roi sắt va vào núi và bị gãy. Gióng nhà tôi mới nhổ bụi tre bên đường quật một đám tan quân còn lại. Nó truy đuổi giặc đến núi Minh Sóc và tại đây có cởi áo giáp sắt để ngay ngắn trên tảng đá rồi cùng ngựa sắt bay về Trời.

Mọi người đã lập đền thơ ngay trong làng. Và vua Hùng cũng phong cho tôi là Phù Đổng Thiên Vương.

Nghe nói ở Gia Bình có những bụi tre đằng ngà màu vàng óng. Chính ngựa Gióng đã phun lửa mà nó cháy sém như vậy đấy.

Và bà con có biết không? Những ao hồ chi chít ở địa phương ta là dấu chân của con ngựa sắt ghê gớm mà Gióng cưỡi đấy. Tôi cũng muốn lưu ý mọi người cái làng Cháy hiện nay sở dĩ có tên gọi như vậy là do ngựa Gióng phun lựa và đốt trụi cả một làng. Cũng may là bà con đã chạy giặc hết rồi không thì thật là thảm họa.

Vợ chồng ta rất tự hào vì đã có một đứa con dũng cảm giết giặc bảo vệ cuộc sống ấm no cho mọi người. Chúng tôi thật tự hào bởi mỗi lúc ra đường mọi người đều kính nể và nói: "Hai người ấy là cha mẹ của Phù Đổng Thiên Vương đó". Đó bà con hãy chờ coi, thằng Gióng nhà tôi trước lúc bay về trời có nhắm rằng khi nào cha mẹ già yếu nó sẽ trở lại chăm sóc chúng tôi. Chúng tôi đang chờ và cái ngày ấy rồi sẽ đến thôi phải không bà con?

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 6

"Ôi sức trẻ !Xưa trai Phù Đổng
Vươn vai, lớn bổng dậy nghìn cân
Cưỡi lưng ngựa sắt bay phun lửa
Nhổ bụi tre làng, đuổi giặc Ân! "

Những câu thơ trên của nhà văn Tố Hữu gợi nhắc cho ta về hình ảnh người anh hùng đánh giặc cứu nước mang tên Gióng. Sau đấy, em xin kể lại câu chuyện này.

Tục truyền rằng thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng, có hai vợ chồng ông lão đã già mà chưa có con. Một hôm, bà vợ ra đồng ướm thử vào vết chân to. Về nhà bà thụ thai. Mười hai tháng sau sinh ra một đứa con trai đặt tên là Gióng. Cậu bé lên ba mà vẫn chưa biết nói cười, cũng chẳng biết đi, đặt đâu nằm đấy. Bấy giờ có giặc Ân xâm phạm bờ cõi. Theo lệnh vua, sứ giả đi rao khắp nơi tìm người cứu nước. Nghe tiếng rao Gióng cất tiếng nói xin đi đánh giặc. Sau hôm đó, Gióng lớn nhanh như thổi. Dân làng góp gạo nuôi cậu.

Giặc tràn đến chân núi Trâu, Gióng vươn vai thành tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt đi đánh giặc. Roi sắt gẫy, Gióng nhổ tre đánh giặc. Đánh giặc xong, Gióng bay về trời.

Vua nhớ công ơn phong làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Hiện nay vẫn còn dấu tích đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Hàng năm, đến tháng tư là làng mở hội tưng bừng để tưởng nhớ người tráng sĩ Thánh Gióng. Và để ngắm nhìn những dấu tích mà tráng sĩ và ngựa sắt đã đánh tan giặc Ân, đó là tre đằng ngà, những ao hồ liên tiếp…

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 7

Trong chương trình Văn học lớp 6, em đã được học rất nhiều chuyên cổ. tích và truyền thuyết hay. Nhưng em thích nhất là truyện truyền thuyết Thánh Gióng. Câu chuyện đã kể về một người anh hùng đánh giặc giữ nước.

Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão nghèo. Họ rất chăm chỉ làm ăn nhưng lại hiếm con. Tuổi đã cao mà vẫn chưa có được một mụn con. Một hôm, bà vợ đi ra đồng, nhìn thấy một vết chân to, bà bèn đặt chân mình vào ướm thử. Nào ngờ, về nhà bà thụ thai. Đến tháng thứ mười hai, bà sinh được một cậu bé mặt mũi khôi ngô, tuấn tú. Hai vợ chồng vui mừng, đặt tên đứa bé là Gióng. Nhưng niềm vui của ông bà trở thành nỗi lo khi thấy Gióng lên ba tuổi mà vẫn chưa biết nói, biết cười, đặt đâu nằm đó.

Bấy giờ có giặc n đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Vua vô cùng lo lắng, cho sứ giả đi khắp nơi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Vừa nghe thấy tiếng sứ giả loa truyền, chú bé Gióng bỗng cất tiếng nói đòi mẹ cho gọi sứ giả vào gặp. Mẹ Gióng thấy con mình cất tiếng nói thì vô cùng mừng rỡ, chạy đi mời sứ giả. Khi gặp sứ giả, Gióng bèn bảo sứ giả về tâu vua, làm cho một áo giáp sắt, một con ngựa sắt và một cái roi sắt. Nhà vua mừng rỡ, truyền cho thợ làm gấp ngày đêm.

Kỳ lạ hơn, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé Gióng lớn nhanh như thổi. Ăn bao nhiêu cũng không thấy no. Cả làng cùng góp gạo nuôi Gióng. Ai cũng mong chú bé lớn nhanh, khỏe mạnh để giúp vua đánh gặp cứu nước. Giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước rất nguy, ai cũng hoảng sợ, hoảng hốt. Đúng lúc đó, sứ giả đem những thứ Gióng yêu cầu đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai trở thành tráng sĩ, nhảy lên lưng ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội, phun lửa, lao thẳng vào đám giặc. Quân giặc hoảng sợ. Tráng sĩ phi ngựa đến đâu, dẹp tan quân giặc đến đó. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre làm vũ khí. Lũ giặc giẫm đạp lên nhau mà chạy. Tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc. Đến đây, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp, cả người và ngựa bay về trời.

Vua nhớ công ơn, phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 8

Vào đời vua Hưng năm thứ 6, tại làng Gióng 2 vợ chồng chăm chỉ làm ăn và phúc đức, nhưng họ lại không có con. Một hôm nọ bà đi ra đồng thấy có dấu chân to trên cánh đống, thấy lạ bèn ướm thử chân mình vào, về sau bà mang bầu. 12 tháng sau sinh ra một cậu bé sáng sủa thông minh đặt tên là Gióng.

Thánh Gióng kỳ lạ cậu bé đã đến 3 tuổi vẫn không biết nói, chỉ nằm im, một chữ cũng không thốt ra làm mẹ của Gióng lo lắng và sốt ruột lắm.

Thời thế nước nhà bị giật Ân xâm lược, nhà vừa  sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng loa của sứ giả, bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc Ân”. Sứ giả lấy làm kinh ngạc và vui mừng, vội về tâu với vua. Nhà vua chấp nhận và sai lính làm những vật dụng mà cậu bé yêu cầu trong thời gian ngắn nhất.

Từ ngày biết nói, Gióng lớn nhanh, ăn bao nhiêu cũng không đủ, quần áo mặc vào lại rách. Dân làng cùng với nhau góp cơm góp gạo nuôi Gióng. Chỉ thời gian ngắn một cậu bé trở thành chàng trai khỏe mạnh vạm vỡ cường tráng, sức mạnh làm liệt.

Khi sứ giả hoàn thành xong yêu cầu như giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt vun vút lao vào quân giặc. Giặc dữ chống lại quyết liệt lao về phía Gióng. Gióng cưỡi ngựa sắt uy mãnh lao vun vút, ngựa đi đến đâu phun lửa giết giặc đến đó, xác quân cháy thành tro bụi.

Trận chiến đang quyết liệt bỗng roi sắt bị gãy, Gióng bèn nhổ luôn bụi tre đằng ngà gần đó quật vào quân giặc, quân giặc tan tác, tháo chạy không kịp. Tráng sĩ đuổi quân giặc đến chân núi Sóc dừng lại, lên núi và cởi áo giáp sắt để lại ngựa sắt và tráng sĩ bay lên trời.

Hòa bình đã trở lại, đất nước đã thoát khỏi kiếp nạn xâm lăng, công lao của người anh hùng Thánh Gióng  vẫn còn mãi. Để tưởng nhớ công lao to lớn đó, dân làng lập đền thờ Gióng, hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, làng Gióng. Hàng năm, đến tháng tư làng mở hội tưng bừng để tưởng nhớ người anh hùng dân tộc Thánh Gióng.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 9

Hằng năm, cứ đến những ngày đầu tháng giêng với khí trời trong trẻo và tưng bừng của ngày tết chưa qua thì ở làng Gióng, Sóc Sơn, Gia Lâm, Hà Nội lại tổ chức hội Gióng để tưởng nhớ vị anh hùng đã có công dẹp giặc Ân, giữ yên bờ cõi và hơn hết là truyền lại cho đời sau tinh thần đấu tranh nhân dân lấy tre làm vũ khí. Hình tượng Thánh Gióng đã trở thành một trong tứ bất tử có sức ảnh hưởng đến văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Câu chuyện về sự ra đời, lớn lên của Thánh Gióng cũng là một câu chuyện thần kì.

Từ rất xưa, khi đất nước ta có tên gọi là Văn Lang và dưới thời cai trị của các vua Hùng. Vào đời vua Hùng thứ 6, vua thuận lòng dân, hợp ý trời nên mưa thuận gió hòa, quanh năm người dân cày cấy, đánh bắt được mùa nên cuộc sống của người dân khắp đất nước tạm yên ổn.

Ở một ngôi làng nọ, có hai vợ chồng ông lão ăn ở phúc đức nhưng chẳng may đã ngoài lục tuần mà vẫn chưa có lấy một mụn con. Ông bà ngày đêm cầu trời khẩn phật, đi hết chùa này đến miếu nọ vẫn chưa thấy gì thay đổi. Một hôm, như mọi khi, bà ra đồng cấy lúa, lúc ra về bà thấy một bàn chân rất to và kì lạ in hằn trên đất. Lấy làm lạ, bà ướm thử chân mình vào, về nhà bà đã thụ thai. Khi bụng ngày một to và cũng sắp đến ngày khai hoa nở nhị, ông bà càng trông đợi đứa con thì đứa trẻ vẫn chưa chịu ra đời. Nỗi lo lắng cộng tuổi già khiến ông lão bệnh rồi qua đời. Bà mang thai đúng 12 tháng mới hạ sinh một cậu trai kháu khỉnh. Cậu bé ra đời đã mang trên người một ánh hào quang khác thường. Thời gian trôi qua, cậu bé 3 tuổi mà vẫn không nói, không cười, thậm chí cũng chẳng biết bò, biết đi như những đứa trẻ cùng trang lứa. Hàng xóm láng giềng kẻ bàn tán, người thương hại khiến bà mẹ càng đau lòng. Bà mang cậu bé đến những nhà lang y nổi tiếng mà vẫn không thể chữa khỏi vì cậu bé vốn chẳng bệnh tật gì.

Năm ấy, giặc Ân sang xâm phạm bờ coi nước ta. Chúng đến cướp bóc, phá các thôn làng, bắt giết trâu bò ăn thịt, lấy gạo của nông dân. Cuộc sống của nhân dân bỗng trở nên cơ cực, lòng dân oán hận mà không thể đánh đuổi được kẻ thù. Triều đình cho quân lính ra trận nhưng thế giặc mạnh quân ta không thể nào đấu lại. Vua vô cùng nao núng,bèn cho sứ giá đi khắp nơi trên đất nước tìm nhân tài, sứ giả đi tới đâu loa truyền vang khắp xóm:

Loa loa, nay đất nước đang lâm nguy, nhà vua trọng nhân tài, ai có tài năng thì lên kinh phò tá.

Cậu bé đang nằm lăn lóc trong nhà nghe tiếng sứ giả bỗng nhiên thốt lên:

Mẹ ơi! Mẹ mời sứ giả vào đây cho con!

Bà mẹ chưa hết vui mừng vì con mình đã nói được lại hoảng hốt khi con đòi gắp sứ giả, người mẹ can:

Con còn bé thế này, sứ giả đang tìm người tài, con gặp ông ấy làm gì.

Thưa mẹ, con muốn giúp đất nước, xin mẹ hãy mời ông ấy vào đây?

Người mẹ phần lo sợ, phần thương con van nài nên bạo dạn ra mời sứ giả vào. Lúc này, sứ giả gặp một cậu bé tuổi lên ba, tóc còn để chỏm đang dõng dạc nói chuyện, ông cho là đứa trẻ nghịch ngợm, toan bỏ đi.

Có phải ông được lệnh vua tìm người tài đánh giặc Ân? Thế giặc đang hùng mạnh như hổ thêm cánh, nếu không gấp rút thì con hổ ấy sẽ nuốt chửng cả đất nước.

Sau khi nghe xong những lời nói ấy của cậu bé, sứ giả nửa tin, nửa ngờ đáp:

Vậy theo ngươi thì nên làm thế nào?

Ông tìm đúng người rồi đấy, mau về tâu với vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một chiếc roi sắt, đem đến đây cho ta, còn những chuyện khác cứ giao ta.

Sứ giả nhận ra đây thật là một nhân tài nên vội thúc ngựa chạy nhanh về cung bẩm báo. Đêm hôm trước. vua nằm mộng thấy có phúc tinh trên trời chiếu xuống, tra ra thì nơi ấy chính là chỗ ở của cậu bé nên quả quyết đây thật sự là người tài có thể giúp được cho đất nước. Vua cho truyền quân sĩ ngày đêm rèn các loại binh khí đúng theo yêu cầu của cậu bé. Từ ngày gặp sứ giả, cậu Gióng bỗng khác hẳn đi. Cậu ăn rất nhiều, người mẹ chẳng kịp xay thóc nấu cơm. Hàng xóm thấy vậy cũng góp phần nuôi cậu bé.

Giặc đã tràn nên chân núi Trâu, thế giặc ngày càng hung hãn. Đứng xa vài dặm đã nghe thấy tiếng reo hò của kẻ thù. Đúng lúc này, sứ giả mang đến cho Gióng roi sắt, ngựa sắt và áo giáp sắt. Gióng nhanh chóng khoác tấm áo choàng, bỗng một cậu bé lên ba đã biến mất thay vào đấy là một chàng trai khôi ngô, dáng cao, mắt sáng. Ai nấy đều ngạc nhiên, cả người mẹ Gióng cũng ngỡ ngàng không tin vào mắt mình. Bà mới vỡ ra sự tình, có lẽ đứa con trai của bà thương yêu bấy lâu nay chính là thần tiên trên trời đã sai xuống để giúp dân lành trừ giặc. Các quân sĩ cùng nhân dân nhận thấy được sức mạnh phi thường của người tướng lĩnh càng thêm vững lòng và nguyện đem cả tính mạng của mình để bảo vệ đất nước. Giặc cầm cờ phất trận, trống đánh liên hồi, gió ngựa tung bay. Thánh Gióng nhảy lên mình ngựa sắt, chàng cầm roi sắt và quất vào mông ngựa, ngựa đột nhiên hí vang trời. Chàng phi ngựa xông thằng  đến tên giặc cầm đầu, dùng roi sắt đánh tan quân thù. Chàng mở đường đi trước, quân lính reo hò theo sau khiến kẻ thù khiếp sợ. Chúng chạy toán loạn giẫm đạp lên nhau. Roi sắt gãy, chàng nhổ bụi tre bên đường để đánh. Tre như roi khiến quân giặc tan tành.

Quê hương đã sạch bóng quân thù. Chàng Gióng trở về nhà lạy tạ mẹ rồi từ giã dân làng để bay về trời. Mẹ già vừa thương con vừa lưu luyến:

Mẹ con ta duyên chẳng được bao lâu, mẹ thì già rồi lại đơn lẽ một mình muốn có con bên cạnh nhưng vì con chẳng phải người trần. Con phải trở về, con đi mẹ chỉ biết ngóng trông ngày con trở lại.

Thánh Gióng xót xa cho cảnh mẹ già tiễn con nên an ủi:

Mẹ đừng buồn, con về trời nhưng cũng sẽ có ngày lại trở về thăm mẹ. Mẹ ở nhà giữ gìn sức khỏe, con mới có thể yên tâm rời khỏi.

Sau buỗi đưa tiễn ngậm ngùi, Thánh Gióng bỏ lại áo giáp sắt, ngựa sắt rồi bay thẳng về trời. Vua nhớ công ơn nên lập đền thờ Gióng tại chân núi Sóc Sơn. Dân làng nơi đây hằng năm đều tổ chức tưởng nhớ chàng.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 10

Đời vua Hùng Vương thứ Sáu, giặc ngoại xâm ở phía bắc chỉ muốn sang chiếm nước Nam ta. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, tỉnh Bắc Ninh ngày nay, có một người đàn bà đã sáu mươi tuổi. Một hôm bà ra đồng ruộng thấy có một vết chân rất to lớn, bà đặt chân vào thì khi về nhà bà có thai. Bà sinh được một con trai và đặt tên Gióng. Điều kì lạ là không giống như bao đứa trẻ khác “ ba tháng biết nẫy, bảy tháng biết bò”, Gióng nay đã ba tuổi rồi mà không biết nói biết cười, không biết đi, biết nẫy. Rồi bỗng chợt, một ngày nọ ngoài ngõ vang lên tiếng sứ giả rao mõ báo tin nước có ngoại xâm và nhà vua đang cầu hiền tài ra giúp nước. Chợt cậu bé Gióng bật ra tiếng nói, thưa với mẹ :

- Mẹ ơi, con muốn gặp sứ giả.

Qúa đỗi bất ngờ, nhưng thấy con có nói cười gọi mẹ, bà vui lắm vội chạy ra gọi sứ giả tới. Gặp mặt sứ giả, cậu Gióng ngồi dậy truyền bảo: 

Ngươi hãy về tâu với đức vua đúc cho một con ngựa sắt, một cây kiếm sắt, một roi sắt và một chiếc nón sắt để Gióng ta đi dẹp giặc. 

Nhận tin sứ giả tâu lên, vua tức tốc truyền cho làm vật dụng mà Gióng yêu cầu. Rồi sứ giả chuyển đến cho Gióng.

Lại nói chuyện cậu bé Gióng. Từ sau ngày gặp sứ giả, Gióng bảo mẹ và dân làng cứ lo cơm, cà cho Gióng ăn no sẽ lớn lên và đánh được giặc. Bà mẹ cùng dân làng cuống cuồng chạy ngược xuôi lo cơm cà phục vụ cậu Gióng. Khi ăn đến mười nong cơm, ba nong cà, mỗi lần ăn xong một nong lại vươn vai và vụt lớn lên như thổi. Vải vóc do dân làng mang đến rất nhiều để may quần áo mà vẫn không đủ. Dân làng đành phải lấy hoa lau buộc thêm vào để che kín thân. Sau một bữa ăn, Gióng vươn vai đứng dậy, thân cao mười thước, hắt hơi mười tiếng rồi nhảy lên ngựa sắt. Ngựa bị bẹp rúm. Sứ giả sợ hãi cho về đúc lại thành ngựa mới, có đủ nội tạng như ngựa thật, chịu được sức nặng của Gióng. Khi mang ngựa sắt đến nơi cũng là lúc có tin cấp báo giặc Ân đang hoành hành cướp bóc ở Trâu Sơn (!). Thánh Gióng liền đội nón sắt, cầm roi sắt, nhảy lên mình ngựa và thét lớn: Ta là Thiên Tướng đây! Rồi giật cương, ngựa chồm lên, hí dài một tiếng và phi như gió, miệng phun lửa bừng bừng, làm cháy xém cây cối, nhà cửa mấy làng bên (tức các làng Phù Chấn, Phù Lưu và Phù Tảo được mang tên là làng Cháy hiện nay).

Gióng phi ngựa đến chỗ vua đang đóng quân nhận lệnh rồi hướng phía giặc Ân làm tướng tiên phong, quân sĩ ào ào theo sau. Thấy vậy, dân làng trên đường đội quân Gióng đi qua cũng chạy theo, từ trẻ chăn trâu, người đánh cá đến người đập đất, người chài lưới ven sông,… Hai tướng Dực và Minh của đất Hà Lỗ cũng đưa quân theo Gióng. Xung giữa trận tiền, giặc Ân bị đánh tơi bời, đứa thì bị giết, đứa sụp lạy quy hàng. Đang hăng chiến đấu, roi sắt của Gióng bị gãy, chàng liền quờ tay nhổ những khóm tre làng đầy gai mọc gần đấy quật vào quân giặc. Giặc chết như ngả rạ. Hàng loạt dãy tre làng được Gióng dùng vào đánh giặc. Chỗ rặng tre bị nhổ gần núi Trâu Sơn sau biến thành một dải đầm lớn gọi là đầm Thất Gian. Và những mảnh tre bị gãy ném rải rác khắp chiến trường, từ vùng Quế Dương cho đến Đông Ngàn sau này mọc thành loại tre đặc biệt có màu vàng óng ánh nên gọi là tre đằng ngà.

Đánh xong trận ở Trâu Sơn và Hà Lỗ, Gióng cho ngựa phi đến bến Bồ Đề và dừng lại uống nước sông Hồng. Vết chân của ngựa còn để lại hình lồi lõm ở một phiến đá lớn tại làng Phú Viên. Tiếp đó, Gióng lại phi ngựa vượt sông, đi ngược lên hồ Tây, rồi buộc ngựa vào gốc đa bên bờ, nhảy xuống hồ tắm. Nơi này về sau được dân làng Xuân Tảo lập đền thờ cúng. Ăn cơm nắm xong, ngựa đưa Gióng dạo khắp vùng Đông Anh, Kim Anh, Hiệp Hòa. Mỗi nơi ngựa Gióng đi qua đã để lại những cụm ao chuôm mang hình vết chân ngựa. Khi qua Phù Lỗ, đến chân núi Phù Mã, Thánh Gióng bèn cởi áo giáp sắt mắc vào cành đa, thúc ngựa lên đỉnh núi Sóc, để lại nón sắt, roi sắt, nhìn non sông đồng ruộng quanh vùng và hướng về Kẻ Đổng lần cuối, rồi một mình một ngựa bay thẳng lên trời. Hôm đó là ngày mồng chín tháng tư lịch trăng.

Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Ðổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những hồ ao liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là Làng Cháy.

Sau khi thắng trận, để nhớ ơn người anh hùng, vua Hùng sai lập đền thờ Gióng ở làng quê, phong Gióng làm Phù Đổng Thiên Vương, phong mẹ Gióng là Thánh Mẫu Bảo Vương, cho làng có xóm Ban nơi Gióng sinh ra được đặt tên là làng Phù Đổng.

Từ đấy trở đi, người dân quê Phù Đổng của Gióng năm nào cũng mở hội vào ngày Gióng bay về trời, để nhớ lại chiến trận năm xưa và tưởng nhớ công ơn của vị Thánh làng mình. Trong khi đó, người dân hàng trăm làng quanh vùng núi Sóc lại mở hội để tưởng nhớ ngày Gióng sinh ra, cùng nhau nhớ về người anh hùng đã có công giúp dân đánh giặc ngoại xâm, cứu nước.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 11

Từ thuở còn thơ bé, ta đã được nghe bao câu chuyện kể của bà, của mẹ về lịch sử hào hùng, về những truyền thuyết ly kỳ. Và có lẽ ai khi ấy cũng mang trong mình niềm tự hào và ngưỡng mộ những vị anh hùng trong truyền thuyết của dân tộc. Thánh Gióng là một vị anh hùng oai phong như thế. Truyền thuyết Thánh Gióng là truyền thuyết vô cùng hấp dẫn kể về người anh hùng này. 

Truyền thuyết kể lại rằng: Đời Hùng Vương thứ sáu, ở một ngôi làng nọ bên sông Hồng, có hai vợ chồng nông dân, vừa chăm chỉ làm ăn lại có tiếng phúc đức nhưng đến lúc sắp về già mà vẫn chứa có nấy một mụn con. Một ngày kia, bà vợ ra đồng như thường ngày,  trông thấy một vết chân to, bèn đặt chân mình vào ướm thử. Về nhà bà liền mang thai, hai vợ chồng vô cùng vui mừng. Nhưng không giống những người khác, chín tháng mười ngày qua đi, bà mang thai mười hai tháng mới sinh ra một cậu bé mặt mũi khôi ngô, đặt tên là Gióng. Điều kỳ lạ nữa là Gióng lên ba tuổi vẫn chẳng biết nói, chẳng biết cười, đặt đâu năm đó, hai vợ chồng vừa buồn vừa lo lắng. 

Cũng năm ấy, giặc Ân đem quân sang xâm lược bờ cõi nước ta, gây nên bao nhiêu tội ác, dân chúng vô cùng lầm than, khổ sở. Xét thấy thế giặc mạnh, nhà vua bèn sai người đi khắp cả nước tìm người hiền tài cứu nước. Sứ giả đi đến mọi nơi, đi qua cả làng của Gióng. Nghe tiếng rao “Ai có tài, có sức xin hãy ra giúp vua cứu nước”, Gióng đang nằm trên giường bỗng cất tiếng nói đầu tiên:

- Mẹ ơi! Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con.

Thấy vậy, bà mẹ rất bất ngờ vui mừng, vội đi ra mời sứ giả vào nhà. Gióng yêu cầu sứ giả về tâu với vua, chuẩn bị đầy đủ ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt để cậu đi đánh giặc. 

Kỳ lạ hơn, sau khi sứ giả trở về, Gióng ăn rất khỏe và lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng không no, áo vừa mặc xong đã sứt chỉ. Mẹ cậu nuôi không đủ đành nhờ đến hàng xóm láng giềng. Bà con biết chuyện nên cũng rất phấn khởi, ngày đêm tấp nập nấu cơm, đội cà, may vá cho cậu rất chu đáo. Ai cũng hy vọng Gióng sớm ngày ra giết giặc giúp nước, trừ họa cho dân. 

Ngày ấy, giặc vừa đến sát chân núi Trâu thì sứ giả cũng kịp mang vũ khí tới. Gióng bèn vươn vai đứng dậy, lập tức trở thành một tráng sỹ, khoác áo giáp, cầm roi sắt, chào mẹ và dân làng rồi nhảy lên ngựa. Cả người cả ngựa lao vun vút ra trận. 

Trên chiến trường, Gióng tung hoành ngang dọc, tả đột hữu xung, giặc chết dưới tay như ngả rạ. Bỗng gậy sắt gãy, Gióng nhanh như chớp nhổ tre bên đường làm vũ khí mới. Giặc sợ hãi chạy trốn, dẫm đạp lên nhau mà chết. Khi trời đất đã sạch bóng giặc, Gióng phi ngựa bay về núi Sóc, cởi bỏ áo giáp sắt, vái tạ mẹ rồi bay về trời. 

Vua phong hiệu cho cậu là Thánh Gióng, nhân dân lập đền thờ phụng, ghi nhớ công ơn. Nhiều đời sau người ta còn kể, khi ngựa sắt thét ra lửa, lửa đã thiêu trụi một làng. Đến nay làng ấy gọi là làng Gióng. Những vết chân ngựa in xuống ngày xưa nay đã thành những ao hồ to nhỏ nối tiếp nhau, là di tích minh chứng cho chiến công oanh liệt của Thánh Gióng.

Nhiều thời đại qua đi, truyền thuyết người anh hùng Thánh Gióng vẫn được lưu giữ và truyền tụng mãi trong dân gian, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thánh Gióng chính là biểu tượng cho ước mơ, sức mạnh bảo vệ đất nước của nhân dân ta. 

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 12

Kể xong câu chuyện, bà âu yếm xoa đầu em và nói: “Cuộc chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh thật ác liệt phải không các cháu? Hình ảnh này đã giải thích hiện tượng bão lụt xảy ra hằng năm suốt mùa mưa ở khăp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ngoài ra, truyện còn nói lên ước mơ của ngươi dân muốn chiến thắng bão lụt để bảo vệ cuộc sống lao Đã thành lệ, đêm nào, trước khi di ngủ, bà nội cũng kể chuyện cổ tích cho chúng em nghe. Đêm qua, bà kể chuyện “Thánh Gióng”. Câu chuyện thật hay. Chúng em bị cuốn hút theo từng lời kể hấp dẫn của bà.

Bà kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Hai ông bà ao uớc có một đứa con. Một hôm bà ra đồng trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai và mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé mặt mũi rất khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm. Nhưng lạ thay! Đứa trẻ cho đến khi lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đấy.

Bấy giờ có giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi nước ta. Thế giặc mạnh, nhà vua lo sợ, bèn sai sứ giả đi khắp nơi rao tìm người tài giỏi cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng dưng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Sứ giả vào, đứa bé bảo: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả vừa kinh ngạc, vừa mừng rỡ, vội vàng về tâu vua. Nhà vua truyền cho thợ ngày đêm làm gấp những vật chú bé dặn.

Càng lạ hơn nữa, từ sau hôm gặp sứ giả, chú bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong dã căng đứt chỉ. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi con, đành phải chạy nhờ bà con, làng xóm. Bà con đều vui lòng gom góp nuôi chú bé vì ai cũng mong giết giặc, cứu nước.

Giặc đã đến chân núi Trâu. Thế nưởc rất nguy, người người hoảng hốt. Vừa lúc đó, sứ giả dem ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt đến. Chú bé vùng dậy, vươn vai một cái bỗng biến thành tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong, lẫm liệt. Tráng sĩ bước lên vỗ vào mông ngựa. Ngựa hí dài mấy tiếng vang dội. Tráng sĩ mặc ấo giáp, cầm roi, nhảy lên mình ngựa. Ngựa phun lửa, tráng sĩ thúc ngựa phi thẳng đến nơi có giặc, đón đầu chúng đánh giết hết lớp này đến lớp khác, giặc chết như rạ. Bỗng roi sắt gãy. Tráng sĩ bèn nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan vỡ. Đám tàn quân giẫm đạp lên nhau chạy trốn, tráng sĩ đuổi đến chân núi Sóc (Sóc Sơn). Đến đấy, một mình một ngựa, tráng sĩ lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời.

Vua nhớ công ơn phong là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ ngay ở quê nhà.

Hiện nay vẫn còn đền thờ ở làng Phù Đổng, tục gọi là làng Gióng. Mỗi năm đến tháng tư, làng mở hội to lắm. Người ta kể rằng, những bụi tre đằng ngà ở huyện Gia Bình vì ngựa phun lửa bị cháy mới ngả màu vàng óng như thế, còn những vết chân ngựa nay thành những ao hồ liên tiếp. Người ta còn nói khi ngựa thét ra lửa, lửa đã thiêu cháy một làng, cho nên làng đó về sau gọi là làng Cháy.

Câu chuyện Thánh Gióng để lại cho em một ấn tượng sâu sắc. Nó nói lên truyền thống oai hùng đoàn kết chống giặc cứu nước của ông cha ta và thể hiện ước mơ của nhân dân: muốn có đủ sức mạnh vật chất và tinh thần để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 13

Ở một làng nọ có một người phụ nữ đã luống tuổi mà chưa có chồng. Một hôm bà đi ra đồng thấy có dấu chân to và lạ bất thường. Bà thấy lạ bèn ướm thử chân mình vào dấu chân lạ đó. Thật kì lạ sau khi trở về nhà, bà mang bầu. 9 tháng mười ngày sau sinh ra một cậu bé kháu khỉnh mặt mũi thông minh đặt tên là Gióng.

Nhưng có một điều khác thường đó là Thánh Gióng 3 tuổi vẫn không biết nói. Trong khi những đứa trẻ khác đã nói sõi, chạy nhảy khỏe mạnh thì Gióng vẫn chỉ nằm im một chỗ,  một chữ cũng không thốt ra làm mẹ của Gióng lo lắng sốt ruột không nguôi về sự kì lại của đứa con của mình.

Ngày ấy, giặc Ân tràn vào nước ta mang lại bao đau khổ cho nhân dân. Chúng điên cuồng trà đạp đay nghiến cướp của giết người đem đến bao chết chóc tang thương cho người dân. Nhà vua lo lắng cho đất nước nên ra lệnh đi tìm người tài giúp nước mong đuổi được giặc dữ ra khổi đất nước trả lại bình yên cho nhân dân trong nước : “Sáu đời Hùng vận vừa suy, Vũ Ninh có giặc mới đi cầu tài”

Sứ giả đi khắp nơi không tìm được người, đến làng của Gióng, khi cậu bé ba tuổi vừa nghe tiếng sứ giả gọi loa đã bật dậy gọi mẹ mời sứ giả vào. Câu nói đầu tiên Gióng cất lên không phải tiếng gọi cha, gọi mẹ như bình thường mà đó lại là tiếng xin đánh giặc, chí khí ngút trời của một đứa trẻ kì lạ.

Người mẹ ngạc nhiên đến bất ngờ nhưng vẫn chiều lòng con đi gọi sứ giả vào. Sứ giả bước vào, Gióng xin được ra trận đánh giặc, xin nhà vua cấp cho một con ngựa sắt, một áo giáp sắt, một cây roi sắt….Sứ giả thấy chuyện kì lạ mà có người tài giúp nước vui mừng khôn xiết về báo với nhà vua. Nhà vua ngay lập tức sai người gom sắt, mời những thợ rèn giỏi nhất trong nước để có thể làm những đồ Gióng yêu cầu.

 Lại nói về Gióng, từ ngày biết nói, bao nhiêu chuyện đã diễn ra khác thường. Gióng lớn nhanh như thổi, ăn bao nhiêu cũng không đủ, quần áo mặc vào lại rách. Dân làng phải cùng nhau góp cơm góp gạo nuôi Gióng. Chỉ trong thoáng chốc, một cậu bé ngày nào đã trở thành một chàng trai khỏe mạnh vạm vỡ cường tráng hơn người.

Khi sứ giả mang những thứ Thánh Gióng cần đến, Gióng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt vun vút lao vào quân giặc. Giặc dữ chống lại quyết liệt lao về phía Gióng. Gióng cưỡi ngựa sắt uy mãnh lao vun vút, ngựa đi đến đâu phun lửa giết giặc đến đó, xác quân giặc cháy thành tro bụi. Gióng đi đến đâu vung roi sắt giết giặc đến đó, xác giặc ngổn ngang khắp nơi. Đang chiến đấu với giặc thì roi sắt bị gãy, Gióng nhổ luôn bụi tre đằng ngà gần đó quật túi bụi vào quân giặc, quân giặc tan tác, tháo chạy không kịp.

Cuối cùng Gióng đã thắng được quân giặc, giặc Ân khiếp vía mà tháo chạy khỏi đất nước không dám quay đầu lại. Nhân dân hân hoan tung hô chiến công của Gióng. Từ nay về sau, bình yên sẽ quay trở lại với nhân dân nơi này, không còn bóng dáng quân thù khiếp vía nữa.

Dấu vết của cuộc chiến đấu giữa Gióng và giặc Ân vẫn còn nguyên vẹn cho đến ngày hôm nay. Những vết chân ngựa sắt của Gióng dẫm đến đâu tạo thành những hồ lớn, bụi tre bị ngựa sắt phun lửa cháy trở thành những bụi trẻ ngả màu người ta gọi là tre đằng ngà.

Người dân nơi làng của Gióng sinh sống trồng được một giống cà ăn rất giòn và ngon. Quay trở lại với Gióng, cậu sbé làng Phù Đổng ngày nào đã thắng trận. Sau khi giặc Ân tan, Gióng quất roi cho ngựa quay đầu lại, hướng về phía làng vái chào mẹ một lạy rồi bay thẳng lên trời.

Người dân vẫn ca bài ca về chiến công anh dũng của cậu bé làng Phù Đổng:

Tinh anh dấu được khí kiền khôn,
Thiên tướng vang lừng tám cõi đồn.
Nghe tiếng Hùng vương bẻn nảy việc,
Mảng danh, nghịch tặc đã kinh hồn.

Vua Hùng biết ơn đã phong cho Gióng là Phù Đổng Thiên Vương, dân gian vẫn thường gọi là Thánh Gióng. Người dân trong nước nhớ ơn Thánh Gióng thờ phụng như một con người có ơn với đất nước, đời đời hương khói ghi công. Ở nơi Thánh Gióng sinh ra là Làng Phù Đổng đến nay vẫn còn lưu giữ được nhiều dấu tích, các di tích lịch sử về chiến công hiển hách của vị anh hùng dân tộc.Thánh Gióng là tượng trưng cho sức mạnh Việt Nam đối chọi với lũ giặc hung bạo .

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 14

Lên lớp 6, em được cô giáo giảng dạy nhiều thể loại truyện khác nhau như: cổ tích, truyền thuyết,…Thể loại truyện nào cũng hay cũng hấp dẫn và để lại ấn tuợng sâu sắc trong em. Một trong những câu truyện truyền thuyết làm em nhớ mãi đó là truyền thuyết Thánh Gióng.

Tương truyền rằng và đời Hùng Vương thứ sáu ở làng Gióng có đôi vợ chồng chăm chỉ làm ăn và có tiếng là phúc đức. Vì tuổi đã già mà chưa có con nên hai người đều ao ước có một đứa con để một lần làm cha mẹ trước khi nhắm mắt. Nhưng ước muốn của hai ông bà quá đỗi khó khăn để thực hiện vì tuổi hai người đã cao. Một hôm, như thường lệ, bà ra đồng làmthì thấy một vệt chân rất to. Bà nghĩ thầm đây chắc chắn không phải chân người. Bà tò mò liền đưa chân vào ướm thử xem thua kém bao nhiêu. Khi về nhà hai vợ chồng rất đỗi ngạc nhiên và vui mừngkhi biết bà thụ thai. Nhưng thật kì lạ làm sao! Bà mang thai mãi đến 12tháng sau bà mới sinh được một cậu con trai mặt khôi ngô, tuấn tú. Bà đặt tên cho đứa bé là Gióng. Gióng lên ba tuổi mà vẫn không biết nói, biết cười, đặt đâu Gióng nằm đấy.

Bấy giờ giăc phương Bắc qua xâm lược nước Văn Lang ta, gặp ai là chúng giết khiến cho ai nấy đều kinh hoàng. Nhà vua và sứ giả phải ráo riết đi tìm nhân tài cứu nước. Sứ giả đi khắp mọi nơi để rao tin. Một hôm sứ giả đi đến làng Gióng để rao thì bỗng nhiên Gióng kêu mẹ gọi sứ giả vào. Mẹ của Gióng rất ngạc nhiên, sau đó gọi sứ giả vào theo lời Gióng. Gióng nói với sứ giả: “ Ông hãy về tâu với vua sắm cho ta một bộ giáp sắt, một con ngựa sắt và một cây roi sắt”. Sứ giảvô cùng ngạc nhiên khi một đứa bé lên ba đòi đi đánh giặc, vừa vui mừng làm theo lời của Gióng. Sau đó, nhà vua đã sai các thợ rèn làm những thứ Gióng yêu cầu thật gấp rút để mang đến cho Gióng. Từ hôm đó, Gióng lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong thì rách. Hai vợ chồng cùng với bà con hàng xóm góp gạo nuôi Gióng vì ai cũng muốn Gióng đuổi giặc điđể đượchòa bình như xưa. Giặc Ân đã tràn đến chân núi Trâu. Chúng đông không thể tả xiết, cứ như một cơn lũ lụt tràn về vậy.Tình thế nước ta lúc này đã nguy cấp lắm rồi. Sứ giả cùng các binh lính mang những thứ Gióng cần đến. Mọi người không thể tin vào mắt của mình nữa, cứ như một phép thuật vậy. Gióng vươn vai một cái thì trở thành một tráng sĩ. Gióng ngồi lên con ngựa sắt thì nó hí dài sau đó nó phun lửa. Gióng cầm roi sắt lên đánh giặc. Gióng đánh đâu thì thắng đó. Xác giặc nằm la liệt khắp nơi, đếm không xuể. Đánh xong Gióng cởi giáp sắt, bỏ lại roi sắt cùng với ngựa bay về trời. Vua và nhân dân đều biết ơn Gióng, phong thánh và lập đền thờ ở nhiều nơi. Về sau những bụi tre bị phun lửa ngả màu vàng, Làng bị ngựa phun lửa cháy,…. Đều được nhân dân ta giữ gìn và bảo tồn xem như tưởng nhớ và biết ơn vị anh hùng cứu nước.

Em rất thích đọc câu truyện này vì câu truyện này thể hiện người Việt Namcó truyền thống yêu chuộng hòa bình và muốn có người anh hùng chống giặc ngoại xâm của người Việt cổ. Em còn hiểu hơn vì sao tre đằng ngà lại có màu vàng, vì sao làng được gọi là làng Cháy

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 15

Ta là một phụ nữ sống ở vùng quê Gióng, vào thời vua Hùng Vương thứ sáu. Đất nước khi đó rất thanh bình. Nhà vua anh minh, thương dân nên nhà nhà đều được hưởng ấm no, hạnh phúc. Vợ chồng ta sống trong một ngôi nhà nhỏ, chăm chỉ làm ăn, vui vầy với xóm làng, chẳng bao giờ phải lo đến cái đói. Nhưng cả hai luôn cảm thấy phiền lòng vì gian nhà vắng tiếng trẻ thơ. Hai vợ chồng cứ côi cút mãi trong nỗi mòn mỏi mong ngóng một đứa con cho khuây khoả tuổi già.

Một ngày nọ, ta đi ra đồng làm ruộng nhừ bao ngày khác. Bỗng ta nhìn thấy trên đường đi một dấu chân to kì lạ. Ta chưa bao giờ thấy một dấu chân nào to như thế và băn khoăn không hiểu đó là dấu chân của loài nào. Ta quay xung quanh tìm kiếm xem có ai không nhưng trời còn sớm, đường làng vắng hoe. Nỗi tò mò thôi thúc ta đặt chân ướm thử. Thật không ngờ sau đó, ta về nhà và thụ thai.

Hai vợ chồng mừng rỡ khôn xiết, ngày đêm trông ngóng đến ngày sinh nở. Nhưng hết chín tháng mười ngày rồi mà ta vẫn không lâm bồn. Cái thai vẫn nằm yên trong bụng. Chúng ta lo lắng quá mà không biết phải làm sao. Nhưng rồi đến tháng thứ mười hai thì vợ chồng đã được đón chào một cậu bé con. Chao ôi! Đứa bé mới đáng yêu làm sao: bụ bẫm, kháu khỉnh, khôi ngô như một tiên đổng nhỏ. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết, bà con trong làng cũng chia vui với niềm hạnh phúc.

Tuy nhiên, niềm vui nhanh chóng qua đi khi chúng ta chăm chút, nâng niu mãi mà thằng bé vẫn cứ như lúc lọt lòng. Không nản lòng, hai vợ chồng vẫn cố gắng chăm lo cho nó. Ngày tháng vẫn trôi qua trong vô vọng… Đã lên ba mà thằng bé vẫn không biết đi, không biết nói, biết cười, cứ đặt đâu nằm đấy. Không biết bao đêm ta nằm khóc thầm, phần vì thương con, phần vì tủi phận.

Rồi một hôm loa sứ giả truyền tin giặc Ân đến xâm phạm bờ cõi, vua Hùng muốn chiêu mộ người tài giỏi để giết giặc bảo vệ đất nước. Đang lo lắng vì thông tin giặc giã, chúng ta vô cùng sửng sốt khi nghe thấy tiếng con:

“Mẹ ra mời sứ giả vào đây”. Ta không tin nổi vào mắt và vào tai mình. Con ta đang nói đấy ư? Vẫn còn bàng hoàng, ta vội vàng chạy ra mời sứ giả, trong lòng vẫn không khỏi băn khoăn, lo lắng. Khi sứ giả vào nhà, đứa con vốn hằng ngày chẳng nói chẳng cười bỗng dưng cất tiếng dõng dạc: “Ông về tâu với vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”. Sứ giả tỏ ra vô cùng kinh ngạc nhưng cũng không giấu được sự mừng rỡ, vội vã chào chúng ta rồi ra về. Hai vợ chồng mừng vui khôn xiết ôm chầm lấy con.

Kì lạ thay, từ sau hôm đó, thằng bé lớn nhanh như thổi, cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc xong đã đứt chỉ. Hai vợ chồng vô cùng vui mừng, cật lực làm lụng để nuôi con nhưng làm ra bao nhiêu cũng không đủ, đành phải chạy nhờ bà con, lối xóm. Bà con biết chuyện đều hết lòng giúp đỡ, góp gạo nấu cơm, đội cà, dệt vải may áo, mong cho thằng bé mau lớn để giết giặc giúp dân.

Giặc đã đến chân núi Trâu. Mọi người hết sức lo lắng. Vừa lúc đó, sứ giả của nhà vua mang ngựa sắt, áo giáp sắt và roi sắt tới. Cậu bé trông thấy liền vùng dậy, vươn vai một cái, bỗng biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng, oai phong lẫm liệt. Cả dân làng đều hết sức kinh ngạc. Kì lạ hơn khi nó đến vỗ vào mông con ngựa thì ngựa sắt cũng hí lên vang dội khắp cả vùng. Nó mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt rồi nhảy lên lưng ngựa. Dân làng hò reo vang dội. Con ngựa hí vang, phun lửa đỏ rực, chói cả một góc trời. Con trai ta thúc ngựa, phi thẳng đến nơi có giặc. Nó đi đến đâu, quân giặc chết như ngả rạ đến đấy, hết lớp này đến lớp khác. Đang thế thắng như chẻ tre, bỗng roi sắt gãy, con ta bèn nhổ các bụi tre bên đường quật vào lũ giặc. Quân giặc tan tác. Những tên còn sống sót chạy tán loạn. Con ta đuổi theo chúng đến tận chân núi Sóc. Rồi tại đây, nó cởi áo giáp sắt, để ngay ngắn trên một tảng đá, quay lại nhìn quê nhà như gửi lời chào tạm biệt rồi cùng ngựa sắt bay về trời.

Vợ chồng ta cùng bà con lối xóm vừa mừng vì giặc tan, vừa buồn vì phải xa con. Nhưng biết sao được, con ta là người nhà trời, được Ngọc Hoàng phái xuống để dẹp giặc yên dân, xong việc rồi phải về trời thôi.

Vua Hùng đã sắc phong cho con trai ta là Phù Đổng Thiên Vương. Dân làng cũng lập đền thờ ngay trong làng để tưởng nhớ người anh hùng cứu dân. Tháng tư hằng năm dân làng đều mở hội rất to để ghi nhớ công ơn của con trai ta và để nhắc nhở cho con cháu đời sau nhớ về Phù Đổng Thiên Vương.

Thời gian thấm thoắt như thoi đưa. Thằng bé đã về tròi được lâu lắm rồi. Vợ chồng ta ngày đêm mong nhớ con, nhưng vô cùng tự hào khi nghĩ rằng con mình đang đi khắp mọi nơi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ bình yên cho bà con, cho mọi nhà.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 16

Trẻ em trên đất nước ta đều muốn làm tráng sĩ như Thánh Gióng. Em cũng thích câu chuyện về vị Phù Đổng Thiên Vương này và thỉnh thoảng lại kể lại cho em trai em nghe. Cu cậu nghe đi nghe lại câu chuyện này có khi đến hàng trăm lần mà vẫn chưa chán và luôn hỏi: “Chị ơi tại sao Thánh Gióng vươn vai một cái là thành tráng sĩ mà sáng nào em cũng vươn vai mấy lần nhưng vẫn bé tí thế này?”. Em chỉ cười đáp: “Bao giờ gặp Thánh Gióng chị sẽ hỏi cho”. Không ngờ, em đã gặp này trong mơ và được nghe những lời khuyên hết sức bổ ích. Em vẫn nhớ mãi về giấc mơ này.

Trong mơ, em thấy mình đang ở một ngôi làng nhỏ, ngôi nhà bên cạnh em im ắng lạ thường. Em định gõ cửa thì thấy một điều kì lạ xảy ra: tay em xuyên qua cánh cửa. em bèn bước vào. Rồi em nhìn thấy một bà mẹ đang ngồi cạnh cái nôi trong có đứa bé. Lúc đầu, em không biết đó là ai nhưng sau đó em biết là Thánh Gióng lúc nhỏ khi người mẹ than thở: “Trời ơi, sao tôi khổ thấy này? Chúng tôi chỉ có một đứa con trai nhưng đã lên ba tuổi mà vẫn chưa biết nói!”/

Đúng lúc đó, cậu bé bật đứng dậy, đòi mẹ gọi sứ giả vào. Cậu xin sứ giả roi sắt, ngựa sắt, giáp sắt để lên đường ra trận đánh giặc. Bà con hàng xóm láng giềng giúp đỡ cậu bằng cách góp cơm gạo, quần áo cho cậu, tiễn cậu đến tận cổng làng.

Em quan sát sự phi thường của Thánh Gióng khi người ra chiến trận đánh giặc, thầm phục ngài vì đã dùng hết sức lực của mình để cứu nước. Dường như dòng máu yêu nước đã chảy trong ngài là một cậu bé lên ba.

Khi Thánh Gióng đánh thắng quân giặc, ngài cởi áo giáp, chuẩn bị bay về trời thì em chạy đến. Khi bắt gặp ánh mắt khó hiểu của em, Thánh Gióng lên tiếng:

-         Cháu có điều gì muốn hỏi ta phải không?

-         Dạ vâng ạ! – Em đáp – Ngài làm thế nào mà lại có sức mạnh phi thường như vậy ạ?

-         À, đó là do rất nhiều điều. Thứ nhất, ta không chỉ là con của nhân dân Văn Lang vĩ đại mà còn là con của thần thánh. Ta đã lớn lên tại đất Việt, ta biết ơn bố mẹ ta và những người láng giềng tốt bụng, luôn luôn sẻ chia, giúp đỡ nhau.

Thứ hai, hãy luôn về phe chính nghĩa thì cháu sẽ luôn chiến thắng. Đứng về phe ác. Ở đó, cháu sẽ bị nhiễm thói xấu xa, độc ác.

Thứ ba, hãy chăm tập luyện, vận động và giữ vững sự khỏe khoắn cả về thể xác lẫn tinh thần. Hãy giữ cho tâm hồn mình thật trong sạch.

Và điều cuối cùng: Cháu thử xem ai đã cho ta cái ăn, cái mặc? đó là nhân dân. Nhưng nếu chỉ một người tì chắc ta sẽ không bao giờ được như thế này. Phải có sự đoàn kết, cháu ạ. Và đoàn kết là sức mạnh phi thường nhất, cũng là chìa khóa của thành công.

Hãy ghi nhớ lời ta. Kết hợp cả bốn điều trên, ta sẽ có sức mạnh vô song, không ai địch nổi. Hãy nhớ nhé!

Em chưa kịp nói lời cảm ơn thì “Reeng… Reeng…”, cái đồng hồ báo thức kêu lên. Em ngẫm nghĩ về lời khuyên của Phù Đổng Thiên Vương và thấy nó thật là có ích. Bắt đầu từ hôm nay, em sẽ áp dụng những lời khuyên của ngài vào cuộc sống.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 17

Vào đời vua hùng thứ 6, giặc Ân đã tràn lan sang xâm chiếm bờ cõi nước ta. Phe giặc ỷ người đông sức mạnh hung hăng trên chiến trường, nghe danh chúng người dân đã khiếp sợ. Đi đến đâu chúng hung tàn cướp bóc, giết người, cướp của không chớp mắt. Bấy giờ thế lực của quân ta đang yếu. Nhà vua rất lo lắng cho vận mệnh nước nhà, vì vậy chỉ còn cách là nhờ sứ giả ra thông báo tìm ra người tài cứu.

Bấy giờ ở làng Phù Đổng, có một cặp vợ chồng họ tuổi đã khác cao sống rất hiền lành nhưng tạo hóa vẫn chưa ban cho họ một đứa con nào. Một hôm người vợ ra đồng thăm ruộng, bà phát hiện có bàn chân rất to in trên hằn trên mặt ruộng, vì tính tò mò nên bà liền dùng chân mình ướm thử. Chuyện lạ là khi về nhà bà ngạc nhiên khi phát hiện mình mang thai. Nhưng cái thai đã qua 9 tháng 10 ngày bà vẫn chưa có dấu hiệu sinh nở. Người chồng chẳng mai lâm bệnh và vì gia đình quá nghèo không thuốc chạy chữa nên đã không qua khỏi. Còn bà thì rất tiếc thương cho chồng nhưng vì đứa con nên bà cố gắng tiếp tục sống.

Cho đến tháng thứ 12 bà mới sinh con. Bà sinh ra một chú bé rất khôi ngô tuấn tú, mặt mày sáng sủa, bà đặt tên là Gióng. Gióng đến 3 tuổi vẫn chưa biết cười biết nói chỉ biết đòi ăn, bà càng buồn rầu hơn. Một hôm bà đang ngồi dệt vải, có tiếng sứ giả thông báo: “ Loa..loa..loa.. giặc Ân sang cướp nước.. đất nước đang cần người tài…” Càng ngạc nhiên hơn nữa là bà nghe tiếng Gióng lên tiếng:

“Mẹ.. mẹ ra kêu Sứ Giả vào hộ con”

Bà bàng hoàng ngac nhiên không tin vào tai mình 3 năm không nói cười nhưng tiếng đầu tiên con mình lên tiếng là câu nói như vậy. Nhưng vì sự hối giục của con nên bà chạy theo sứ giả mời ông vào nhà. Sứ giả rất vui mừng vì cuối cùng đã có người giúp đỡ và ông tiếp chân theo người phụ nữ trước mắt vào nhà nhưng khi vào thì chẳng thấy một tráng sĩ cường tráng nào mà chỉ thấy một chú bé nhỏ xíu, ông liền quát người mẹ: “Nhà ngươi đang đùa với ta đấy ư “. Đang tức giận thì ông bất ngờ nghe câu nói xuất phát từ cậu bé và ông vô cùng ngạc nhiên:

– “Sứ giả nguôi giận, nhờ ông về tâu với tức vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một chiếc áo giáp sắt và một chiếc nón sắt, ta sẽ đánh đuổi quân giặc”.

– Ngươi là trẻ lên ba nhỏ xíu vậy mà đòi đấy giặc kiểu gì?- Sứ giả không tin vào câu nói mà mình vừa nghe được nhưng cũng cố gắng bình tĩnh hỏi lại cậu bé. Nhưng cậu bé chỉ cười trừ và không nói thêm tiếng nào.

Về tới cung điện sứ giả tâu với đứa vua và đức vua cũng khá ngờ ngợ nhưng ông tin rằng cậu bé là do ông trời phái xuống giúp ông cứu dân cứu nước. Do đó ông cho sai người rèn ngựa, gươm, áo giáp sắt theo yêu cầu cậu bé.

Từ lúc gặp sứ giả người mẹ càng bàng hoàng hơn khi cậu ăn càng ngày càng nhiều, ăn liên tục mà không thấy no.do nhà bà nghèo nên không đủ gạo nuôi cậu bé. Bà liền kể với làng xóm và mọi người đã tin rằng cậu chính là cứu tinh của đất nước nên đã vận động tất cả người dân góp gạo nuôi cậu bé.Gióng càng ăn càng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm cũng không no, bấy nhiêu quần áo cũng không đủ mặc.Nhưng nhờ dân làng đã gps gạo, thịt, vải vóc nên gióng được ăn no và có vải mặc.

Khi đúc xong áo, roi, ngựa, Sứ Giả đem đến cho Gióng. Gióng vươn vai lớn cao to gấp bội lần. Chú đội mũ, cầm gương phóng lên ngựa sắt xông ra chiến trường như như bão táp. Đi đến đâu Gióng chém giặc nhanh như tia chớp. Khi gươm bị gãy, Gióng nhổ các bụi tre bên đường làm vũ khí giết địch.

Chẳng mấy chốc Gióng đã đánh tan lũ giặc cướp nước. Sau đó Gióng cùng ngựa bay thẳng lên núi Sóc, trút bỏ quần áo lại rồi bay thẳng lên trời. Di tích của trận chiến còn lại là những ao hồ rộng lớn đó là do dấu chân của ngựa sắt và khu rừng bị giặc đốt cháy còn có tên là rừng Cháy. Để tỏ lòng biết ơn của vị Thánh đã hóa thân độ thế, dân trong làng đã lập miếu thờ gọi là Thánh Gióng.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 18

Có nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nhưng người ta vẫn mãi khắc ghi một truyền kỳ về người anh hùng ở làng Gióng, được truy phong là Phù Đổng Thiên Vương, mà nhân dân Việt Nam ta đời đời nhớ ơn.

Truyền thuyết kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, ở một ngôi làng nhỏ có hai vợ chồng nghèo, sống rất tình nghĩa, phúc đức, cuộc sống khó khăn không khiến họ mệt mỏi hay nản chí thế nhưng tuổi cả hai ngày một lớn mà mong mỏi mãi cũng không có lấy một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai vợ chồng lấy làm buồn lòng lắm, hàng xóm cũng cảm thấy xót xa cho họ. Một hôm trời nắng to, bà lão theo lệ thường ra ruộng làm cỏ, trong lúc đang cặm cụi nhổ cỏ thì bà vợ bỗng nhìn thấy một dấu chân người đặc biệt to lớn. Không biết trời xui đất khiến thế nào bà lại đưa chân mình vào ướm thử, sau chuyện ấy bà cũng quên khuấy đi, ba tháng sau bà bỗng cảm thấy người mệt mỏi, chán ăn, đến thầy lang khám bệnh thì hay tin mình có thai. Khi nghe tin cả hai vợ chồng đều rất đỗi vui mừng mà sung sướng, bởi ước nguyện bấy lâu đã trở thành hiện thực, gia đình nhỏ của hai vợ chồng dần trở nên ấm áp hơn cả, ngày ngày chờ đợi đứa con bé bỏng ra đời trong hạnh phúc. Nhưng lạ thay, đã qua chín tháng mười ngày tròn mà người vợ vẫn chưa trở dạ, hai vợ chồng lấy làm lo lắng, đợi mãi đến khi cái thai được tròn mười hai tháng, thì đứa trẻ mới chịu chui từ bụng mẹ ra. Vừa ra đời người ta đã nhận xét rằng đây là một đứa bé có tư chất hơn người, bởi vẻ thông minh sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, vợ chồng ông lão nghe thứ thì lại càng vui mừng hơn cả, đặt cho con cái tên là Gióng, cho dễ nuôi. Cuộc sống một gia đình ba người cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng lạ thay mãi đến ba tuổi Gióng vẫn chẳng biết đi biết đứng, cha mẹ đặt đâu thì em ngồi đấy, em cũng chưa hề mở miệng nói một câu nào, điều ấy làm cho hai vợ chồng sốt ruột, bồn chồn không yên vì sợ con mình có bệnh lạ.

Năm ấy, giặc Ân ở phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược, giày xéo mảnh đất Lạc Việt, thế giặc mạnh, vua Hùng cùng với các Lạc Hầu, Lạc Tướng rất lấy làm lo lắng. Trước tình hình ấy vua bèn nảy ra một ý, cho sứ giả truyền tin tuyển mộ người tài, đức ra giúp nước. Khi sứ giả vừa loan tin đến đầu làng, thì Gióng bỗng cất tiếng nói: "Mẹ ra mời sứ giả vào đây giúp con", người mẹ tuy sửng sốt nhưng vẫn chạy ra mời sứ giả vào. Vào đến nơi, sứ giả chỉ thấy một cậu bé ba tuổi và hai vợ chồng đã tuổi xế chiều, thì lấy làm tức giận, tưởng mình bị đùa giỡn, thế nhưng Gióng đã kịp lên tiếng: "Giặc đã hoành hành khá lâu, ta xin nguyện vì bệ hạ, vì non sông xung phong đánh giặc, khẩn cầu ngài về tâu với nhà vua chế tạo cho ta một chiếc roi sắt từ loại sắt tốt nhất, đảm bảo đánh trăm trận mà không gãy, ban cho ta một con chiến mã bằng sắt nặng ngàn cân và một bộ giáp sắt nặng trăm cân, giáo mác xuyên không thủng. Như thế ta có thể yên tâm diệt giặc." Sứ giả nghe thế thì lấy làm mừng rỡ vì đích thị đây là nhân trung long phượng, là bậc kỳ tài hiếm có nên mới có thể có khẩu khí hiên ngang, oai hùng của võ tướng như thế. Kể từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm gạo ăn cũng không đủ, dân làng người nhà nhà chung tay góp cơm, góp gạo cho Gióng ăn, thầm mong chàng sớm ngày đánh tan lũ giặc xâm phạm bờ cõi.

Mười ngày sau, mọi thứ mà Gióng yêu cầu đều được mang tới cả, lúc này đây từ một đứa bé ba tuổi, Gióng đã trở thành chàng trai cao lớn vượt trội, tầm vóc phi phàm, thân hình cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn. Chàng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, từ biệt quê hương và lên đường diệt giặc, trước khi đi Gióng quay lại nhìn cha mẹ "Kiếp này đa tạ phụ mẫu đã sinh dưỡng!", rồi hướng thẳng phía trước mà đi, con ngựa sắt vốn tưởng là khối sắt không có linh tính, thế nhưng lúc này đây nó lại phát ra tiếng hí vang trời, rồi phóng vụt đi, chốc lát chỉ còn lại cái bóng mờ mờ của người anh hùng, lẫn trong đám bụi thổi tung. Ngựa chạy một đường đến nơi đóng quân của giặc, ngựa đi đến đâu phun lửa đến đấy, thiêu trụi hết lương thực và lều trại của quân địch, chúng hoảng hồn bỏ cả vũ khí mà chạy thoát thân, kẻ giẫm đạp lên nhau, người thì chết dưới vó ngựa. Tráng sĩ vung roi sắt quất liên hồi vào lũ giặc cướp nước, khiến chúng chết như ngả rạ dưới vó ngựa, thế nhưng giặc quá đông, sau ba ngày chinh chiến thì không may roi sắt gãy làm đôi. Lúc này đây tráng sĩ vừa đuổi giặc đến khu vực có những lũy tre già hàng mấy chục tuổi, ngựa sắt phun lửa làm loài tre ấy trở nên vàng bóng. Nhanh trí, tráng sĩ đã dùng sức mạnh nhổ hẳn cây tre to nhất bên đường làm vũ khí thay roi sắt, kỳ diệu thay vốn chỉ là cây cỏ thế nhưng trên tay tráng sĩ, cay tre bỗng trở nên mạnh mẽ không kém gì so với những thứ vũ khí sắc bén khác. Sau bảy ngày chiến đấu, cuối cùng đất nước ta cũng sạch bóng quân thù, chỉ còn lại hàng vạn xác chết chốn sa trường, khung cảnh tiêu điều tan hoang.

Tráng sĩ sau khi diệt giặc thì thúc ngựa chạy vào rừng sâu, tìm nơi có dòng suối nguồn trong trẻo chưa ai biết đến, tắm rửa sạch sẽ, cởi bỏ lại bộ giáp sắt, như một cách báo cáo hoàn thành sứ mệnh, rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời. Vua Hùng để tưởng nhớ công ơn đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và cho xây lập đền thờ ngay tại quê nhà, để đời đời được hưởng nhang khói của nhân dân.

Kể chuyện thánh gióng bằng lời văn của em 19

Chuyện xưa kể rằng, vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và nổi tiếng là nhân hậu, phúc đức, nhưng họ buồn vì tuổi đã cao mà chưa có được mụn con nối dõi tông đường.

Một hôm, bà vợ ra đồng, bỗng nhìn thấy một vết chân to lạ thường. Tò mò, bà đặt chân mình vào ướm thử. Không ngờ bà thụ thai và sau mười hai tháng sinh hạ được một cậu con trai bụ bẫm, khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm, thầm cảm ơn Trời Phật đã ban phúc cho gia đình họ. Nhưng khổ thay! Đứa bé đã lên ba mà vẫn không biết đi, không biết nói, không biết cười, cứ đặt đâu nằm đấy.

Lúc bấy giờ, giặc Ân lăm le xâm chiếm nước ta. Thế giặc rất mạnh. Nhà vua lo sợ bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Nghe tiếng rao của sứ giả, cậu bé đang nằm ngửa trên chiếc chõng tre chợt cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây!”. Bà mẹ ngạc nhiên và vui mừng khôn xiết. Sứ giả vào, cậu bé bảo: “Ông về tâu với vua cấp cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”.

Sứ giả vô cùng kinh ngạc và mừng rỡ vội về tâu vua. Nhà vua ra lệnh triệu tập những thợ rèn giỏi trong cả nước, ngày đêm làm gấp những thứ chú bé dặn.

Điều kì lạ nữa là sau khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn mấy cũng không đủ no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Cha mẹ cậu làm lụng quần quật vẫn không kiếm đủ gạo để nuôi con. Thấy vậy, dân làng vui lòng xúm vào góp gạo nuôi cậu bé. Ai cũng mong cậu giết giặc, cứu nước.

Giặc Ân đã tràn đến núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người lo lắng. Vừa lúc đó sứ giả mang giáp sắt, roi sắt và ngựa sắt tới. Cậu bé bỗng vùng dậy, vươn vai một cái biến thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ mặc giáp sắt, tay cầm roi sắt, cưỡi lên mình ngựa sắt. Chàng thúc vào mông ngựa, ngựa sắt hí vang, phun lửa và phi nhanh ra chiến trường. Với chiếc roi sắt trong tay, tráng sĩ vung lên, quật tơi bời vào quân giặc. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ cụm tre bên đường đánh tiếp. Giặc hoảng loạn giẫm đạp lên nhau mà chạy, chết như ngả rạ.

Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ phi ngựa lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ lại rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Giặc tan, muôn dân được sống yên bình. Nhà vua ghi nhớ cống lao của tráng sĩ, phong cho tước hiệu Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ.

Từ bấy đến nay, hằng năm cứ đến tháng tư là làng mở hội Gióng. Dân chúng khắp nơi nô nức kéo đến dự hội và tưởng niệm, tri ơn người anh hùng cứu nước. Dấu ấn trận đánh ác liệt năm xưa còn để lại trong màu vàng óng của những bụi tre đằng ngà, tục truyền là bị cháy do ngựa sắt phun lửa. Những dãy hồ ao liên tiếp chính là vết chân ngựa chiến thuở nào và tương truyền rằng, khi ngựa thét ra lửa đã thiêu rụi cả một làng, đó là làng Cháy.