Trong phương pháp bản đồ - biểu đồ, để thể hiện giá trị tổng cộng của một đối tượng địa lí trên các đơn vị lãnh thổ, người ta dùng cách.
Trong phương pháp bản đồ - biểu đồ, người ta thể hiện giá trị tổng cộng của một đối tượng trên một đơn vị lãnh thổ bằng cách dùng các biểu đồ đặt vào phạm vi của đơn vị lãnh thổ đó.
Phương pháp bản đồ – biểu đồ thường được dùng để thể hiện:
Trong phương pháp bản đồ - biểu đồ, người ta thể hiện giá trị tổng cộng của một đối tượng trên một đơn vị lãnh thổ bằng cách dùng các biểu đồ đặt vào phạm vi của đơn vị lãnh thổ đó.
=> Phương pháp bản đồ – biểu đồ thường được dùng để thể hiện giá trị tổng cộng của 1 hiện tượng địa lí trên 1 đơn vị lãnh thổ
Trên bản đồ, để thể hiện mỏ sắt người ta dùng kí hiệu , đây là dạng kí hiệu nào?
Kí hiệu có dạng hình tam giác -> đây là dạng kí hiệu hình học.
Trong phương pháp kí hiệu, sự khác biệt về qui mô và số lượng các hiện tượng cùng loại thường được biểu hiện bằng:
Trong phương pháp kí hiệu, sự khác biệt về qui mô và số lượng các hiện tượng cùng loại thường được biểu hiện bằng: sự khác nhau về kích thước độ lớn kí hiệu.
Ví dụ: quy mô các thành phố, đô thị ở nước ta.
Các đối tượng địa lí nào sau đây thường được biểu hiện bằng phương pháp kí hiệu:
Các điểm dân cư phân bố theo những điểm cụ thể, có vị trí cụ thể trên bản đồ.
=> Được thể hiện bằng những kí hiệu chấm tròn.
Ví dụ: Các điểm tập trung dân cư đông đúc như: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Trong phương pháp đường chuyển động, để thể hiện sự khác nhau về khối lượng hoặc tốc độ di chuyển của cùng một loại đối tượng địa lí, người ta sử dụng:
Quan sát kí hiệu mũi tên chỉ tần suất bão và tốc độ gió mùa -> nhận thấy các kí hiệu được thể hiện độ dày - mảnh và dài – ngắn khác nhau.
=> Như vậy trong phương pháp đường chuyển động, để thể hiện sự khác nhau về khối lượng hoặc tốc độ di chuyển của cùng một loại đối tượng địa lí, người ta sử dụng các mũi tên dài – ngắn hoặc dày – mảnh khác nhau.
Trên bản đồ kinh tế – xã hội, các đối tượng địa lí thường được thể hiện bằng phương pháp kí hiệu đường chuyển động là:
- Phương pháp kí hiệu đường chuyển động thể hiện sự di chuyển của các hiện tượng tự nhiên và kinh tế xã hội -> các luồng di dân, luồng vận tải có sự dịch chuyển trong không gian
=> Sử dụng kí hiệu đường chuyển động để hiện hướng di chuyển của các luồng di dân, vận tải…
- Các nhà máy, đường giao thông, biên giới…là những đối tượng đứng yên không di chuyển về mặt không gian -> không thể sử dụng phương pháp đường chuyển động.
Để thể hiện lượng mưa trung bình các tháng trong năm hoặc nhiệt độ trung bình các tháng trong năm ở các địa phương, người ta thường dùng.
Quan sát các trạm khí hậu (Sa Pa, Hà Nội….) -> nhận thấy lượng mưa các tháng trong năm hoặc nhiệt độ trung bình các tháng trong năm ở các địa điểm được thể hiện bằng biểu đồ kết hợp cột đường.
=> Để thể hiện lượng mưa trung bình các tháng trong năm hoặc nhiệt độ trung bình các tháng trong năm ở các địa phương, người ta thường dùng phương pháp bản đồ - biểu đồ.
Để thể hiện các mỏ than trên lãnh thổ nước ta người ta thường dùng phương pháp:
Các mỏ than được kí hiệu bằng hình vuông tô màu đen, đặt đúng vị trí phân bố các mỏ than.
=> Các mỏ than sử dụng phương pháp kí hiệu, cụ thể là kí hiệu hình học
Để thể hiện sự phân bố lượng mưa trung bình năm trên nước ta, người ta thường dùng
Lượng mưa phân bố không đồng đều trên khắp lãnh thổ, có khu vực mưa nhiều, có khu vực mưa ít.
=> Trong khi đặc trưng của phương pháp kí hiệu chỉ thể hiện các đối tượng phân bố theo những điểm cụ thể; phương pháp chấm điểm biểu hiện các đối tượng phân bố không đồng đều bằng những điểm chấm; phương pháp bản đồ - biểu đồ biểu hiện giá trị tổng cộng của một đối tượng trên một đơn vị lãnh thổ.
=> không thích hợp để thể hiện các vùng phân bố mưa => loại đáp án A, B, C
=> Phương pháp nền chất lượng với ưu điểm là thể hiện đặc trưng (đặc tính về chất) khác nhau của các hiện tượng giữa các bộ phận trên lãnh thổ. Trong ví dụ trên, đặc trưng về chất của sự phân bố mưa là “ lượng mưa trung bình” => sử dụng nền chất lượng thích hợp nhất để thể hiện đặc trưng về “lượng mưa” khác nhau giữa các khu vực.
Ví dụ: - khu vực mưa nhiều nhất (lượng mưa trên 2000 mm)
- khu vực mưa nhiều (lượng mưa từ 1500 – 2000 m)
- khu vực mưa vừa (1000 – 1500 mm)
- khu vực mưa ít (800 - 1000 mm)
- khu vực mưa rất ít ( 0 – 800 mm)