Câu 1 (trang 82 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
- Bản thông điệp nêu lên hiểm họa toàn cầu từ đại dịch HIV/AIDS và sự cấp bách của việc phòng chống AIDS đối với mọi quốc gia, mọi cá nhân.
- Tác giả cho rằng đó là vấn đề phải đặt lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động thực tế của mỗi quốc gia và mỗi cá nhân vì:
+ Dịch HIV/AIDS vẫn hoành hành, gây tỉ lệ tử vong cao trên thế giới, ít dấu hiệu suy giảm.
+ Chúng ta không hoàn thành một số mục tiêu đề ra cho năm nay và bị chậm trong việc giảm quy mô và tác động của dịch so với chỉ tiêu đã đề ra cho năm 2005.
Câu 2 (trang 82 SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Để việc tổng kết tình hình thực tế không chỉ trung thực mà còn là cơ sở để dẫn tới những kiến nghị, tác giả đã:
- Trình bày bao quát, toàn diện cả những mặt đã làm được và những mặt chưa làm được đối với những khu vực khác nhau, những giới tính, lứa tuổi khác nhau…
- Đưa ra những số liệu, tình hình cụ thể, thuyết phục phản ánh tính cấp thiết của vấn đề.
Câu 3 (trang 82 SGK Ngữ văn 12, tập 1).
Trong lời kêu gọi mọi người phải nỗ lực phòng chống HIV/AIDS nhiều hơn, tác giả đặc biệt nhấn mạnh việc đánh đổ các thành lũy của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử đang vây quanh bệnh dịch này.
Câu 4 (trang 82 SGK Ngữ văn 12, tập 1).
- Nội dung và câu văn gây xúc động là Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết vì tác giả đã nhấn mạnh sự nguy hại khủng khiếp đến từ chính thái độ kì thị của cộng đồng với người nhiễm AIDS.
- Bài học làm văn nghị luận rút ra từ văn bản: bố cục rõ ràng và chặt chẽ, lập luận logic, suy nghĩ sâu sắc và cảm xúc chân thành, dẫn chứng tiêu biểu thuyết phục.