Chữ người tử tù là một tác phẩm xuất sắc nhất trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Để hiểu truyện này, thiết tưởng phải nắm được đôi nét về nghệ thuật chơi chữ truyền thống.
Từ xa xưa, ở Trưng Quốc, cũng như ở một số nước lân cận ít nhiều đã từng dùng chữ nho như Nhật Bản, Việt Nam. Trong giới trí thức đều có tập quán chơi chữ. Người có tài viết chữ đẹp rất được kính trọng. Chữ nho là một thứ văn tượng hình, viết bằng bút lông mềm mại, viết chữ mà tựa hồ như vẽ một bức tranh. Và cá tính người viết cũng thể hiện trong nét bút. Người ta thường mua chữ hoặc xin chữ. Người cho chữ hoặc bán chữ viết lên bức tranh.. để chủ nhân làm vật trang trí trong nhà. Chữ phải “vẽ” đẹp đã đành, mà ý nghĩa của chữ cũng phải sâu sắc, hợp tình, hợp cảnh... Đây thực chất là một tác phẩm mỹ thuật của người nghệ sĩ, vừa có tài “vẽ" chữ, vừa có khả năng thấu hiểu ý nghĩa rủa chữ. Bộ môn nghệ thuật này gọi là thư pháp.
Ở Việt Nam, thời phong kiến, Cao Bá Quát được coi là một trong những nghệ sĩ thư pháp đầy tài hoa.
Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu Cao Bá Quát, một con người có bản lĩnh kiên cường, “lãnh tụ một cuộc khởi nghĩa của nông dân” lại là một bậc tài hoa lỗi lạc chữ viết đẹp, giỏi thơ phú, để xây dựng hình tượng Huấn Cao - một nhân vật khí phách kiên cường, nhân cách cao thượng và rất đỗi tài hoa. Thông qua vẻ đẹp của viên quản ngục, Nguyễn Tuân khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với cái xấu xa thấp hèn.
Huấn Cao trước hết là người hết sức tự trọng, “không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”, “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Ấy là một con người sống hiên ngang bất khuất, “chọc trời khuấy nước”, có “hoài bão tung hoành”, “đến cái cảnh chết chém” ông cũng chẳng sợ. Ông khinh bỉ sâu sắc những người đại diện cho quyền lực thống trị. Dưới mắt ông, chúng chỉ là một lũ “tiểu nhân thị oai”. Do đó tuy dưới quyền cai quản của chúng, ông vẫn cố tình tỏ ra khinh bạc. Ông xuất hiện lần đầu tiên trước viên quản ngục bằng hành động vỗ cái gông nặng 7,8 tạ xuống thềm đá tảng, “đánh huỳnh một cái”, và “lãnh đạm”, “không thèm chấp”. Khi nghe lời dọa dẫm của tên áp giải thế rồi, sau khi quản ngục khép nép hỏi Huấn Cao: "ngài có cần gì thêm nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu cấp". Ông đã trả lời với thái độ đầy khinh bỉ: “người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn mật điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây”. Theo ông chỉ có “thiên lương” (bản chất tốt đẹp của con người, và tình yêu cái đẹp, cái cao thượng, với tấm lòng “biệt nhỡn, liên tài”) mới là đáng quý. Kiêu sa là thế, nhưng đến khi hiểu được tấm lòng của quản ngục, Huấn Cao chẳng những vui lòng nhận lời cho chữ, mà còn chân thành thốt lên: ta cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây là lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ.
Và sau khi cho chữ xong, Huấn Cao còn vỗ về khuyên bảo quản ngục, như người cha khuyên bảo con: “tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Như vậy theo ông Huấn, cái đẹp không thể chung sống với cái xấu xa thấp hèn và con người chỉ có thể thưởng thức được cái đẹp, nếu như giữ được bản chất trong sáng.
Huấn Cao còn là con người hết sức tài hoa. Ông có “tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”, chữ ông “đẹp lắm, vuông lắm”, đến nỗi viên quản ngục coi việc xin được chữ của ông là “có một vật báu trên đời”.
Hình tượng Huấn Cao càng trở nên lộng lẫy bởi tư thế hiên ngang đường hoàng đúng là tư thế của người anh hùng. Với bản chất kiên cường, cho dù đã sa cơ thất thế (bị giam giữ chờ ngày ra pháp trường), Huấn Cao vẫn có tư thế ung dung, tự tại của một người “chọc trời khuấy nước” coi khinh cái chết. Trong tù, ông vẫn thản nhiên ăn thịt uống rượu “coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”. Như vậy, tuy bị giam cầm về thể xác, ông Huấn vẫn hoàn toàn tự do về mặt tinh thần.
Đoạn cho chữ ở cuối truyện có thể coi là đoạn hay nhất, kết tinh nghệ thuật của toàn tác phẩm. Qua đoạn này, hình ảnh ông Huấn Cao càng trở nên uy nghi, lẫm liệt giữa một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”. Ở đây thủ pháp đối được sử dụng đầy hiệu quả thẩm mĩ: việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một sáng tạo nghệ thuật với lụa trắng, với lụa thơm, với nét chữ tươi tắn lại được tiến hành trong một vùng tối chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Kì lạ hơn nữa là sự đối lập giữa hình ảnh kì vĩ của người tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” chỉ sáng mai sẽ bị giải vào kinh chịu án tử hình đang ung dung phóng chữ tô chữ tài hoa trên tấm lụa bạch như một nghệ sĩ hoàn toàn tự do, tự chủ với hình ảnh so le của thầy thơ lại “run run bưng chậu mực” và hình ảnh viên quản ngục khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, rồi chấp tay vái người tù, “nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ răng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!”. Chính sự đối lập dường như phi lí này đã tạo ra cảnh tượng mà tác giả gọi là “xưa chưa từng có”, trong nhà tù nhưng cái lạ hơn lại là ở chỗ: té ra giữa chốn tù ngục bạo tàn này không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chủ. Đây là sự chiến thắng của cải đẹp, cái tài hoa và nhân cách đối với xấu xa nhơ bẩn. Ý nghĩa tư tưởng của thiên truyện là ở đấy. Huấn Cao là một nhân vật siêu phàm thường thấy trong văn học lãng mạn. Ở nhân vật này, chữ “tài” và chữ "tâm” kết hợp hài hòa với nhau. Ông cũng như nhiều nhân vật chính diện của Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời, nhất thiết phải là một con người tài hoa. Song, Huấn Cao còn có vẻ đẹp của một con người đầy khí phách và có trách nhiệm đối với thời cuộc (không phải như nhiều nhân vật khác trong Vang bóng một thời, đành chỉ biết tiêu hao ngày tháng bên chén trà ly rượu đế giải sầu..).
Con người như thế quả là một “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, là “cái thuần khiết giữa một đống cặn. Lúc đầu, hai người nghi kị lẫn nhau, nhưng cái đẹp và tình yêu cái đẹp đã làm cho họ hiểu nhau. Bên trong con người công cụ ấy của chính quyền tàn bạo, là một tâm hồn nghệ sĩ. Con người khúm núm trước cái đẹp này, thực ra cũng không thiếu sự dũng cảm ngang tàng. Bằng việc xin chữ người tử tù, ông ta chứng tỏ có thể chết vì nghệ thuật (nếu việc bị bại lộ).
Nhiều người có định kiến Nguyễn Tuân trước cách mạng là một cây bút duy mĩ nghệ thuật vì nghệ thuật. Chữ người tử tù có thể coi là một bằng chứng để bác bỏ định kiến ấy. Qua các nhân vật Huấn Cao và viên quan ngục, ta thấy tác giả không hề đối lập tài với tâm, cái đẹp với thiên lương trong sạch của con người. Huấn Cao tin rằng “một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài hẳn không phải là kẻ xấu hay vô tình”. Và một khi cái đẹp, cái tài, cái tâm không bị tách rời, thì nghệ thuật cảm hóa con người, dù phải sống trong bùn như viên quản ngục nhưng thật sự yêu cái đẹp thì vẫn không mất khả năng hướng thiện.
loigiaihay.com