Dàn ý
1. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Công Trứ: là một nhà văn có tính cách "Ngông".
- Giới thiệu chung về "Bài ca ngất ngưởng".
2. Thân bài:
a. Cảm hứng chủ đạo
- Tập trung vào từ “ngất ngưởng”
+ Tên nhan đề
+ Lặp lại bốn lần trong bài thơ
=> Nghĩa đen: chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngả
=> Nghĩa bóng: cách sống vượt lên trên những khuôn mẫu, gò bó. Thể hiện tính cách, thái độ cách sống ngang tàng của Nguyễn Công Trứ.
b. Quan điểm sống ngất ngưởng khi làm quan (sáu câu thơ đầu)
- “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: Đây là quan niệm mà ông đã nói nhiều bài thơ, cho rằng con người sinh ra do “ý của trời đất”, nên phải có trách nhiệm, phải gánh vác việc đời (những việc trong vũ trụ đều thuộc trong phận sự của ta).
- Trong Nguyễn Công Trứ, quan niệm ấy gắn liền với ý tưởng "tu, tề, trị, bình", với chí làm trai và chủ nghĩa anh hùng mà ông đeo đuổi với tất cả lòng tin tưởng, lạc quan trong suốt cuộc đời.
- “Ông Hi Văn…vào lồng”:
+ Hình ảnh ẩn dụ “vào lồng” => diễn tả cuộc đời làm quan, coi thường danh lợi của Nguyễn Công Trứ => cách nhìn mới mẻ, khác lạ so với nhà Nho đương thời
+ Coi nhập thế là việc làm trói buộc, làm quan sẽ mất tự do, gò bó nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng, hoài bão, trọn nghĩa vua tôi.
- Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:
+ Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược)
=> Tài năng lỗi lạc, xuất chúng: văn võ song toàn
+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên
=> Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang, văn vẻ toàn tài.
=> Sáu câu thơ đầu là lời tự thuật chân thành của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng trung quân, lòng tự hào về phẩm chất, năng lực và thái độ sống tài từ, phóng khoáng, khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng. Hay thái độ sống của người quân tử bản lĩnh, kiên trì lí tưởng.
c. Quan niệm sống ngất ngưởng khi về hưu (mười câu thơ tiếp theo)
- Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:
+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.
+ Đi chùa có gót tiên theo sau.
=> Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng
+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.
=> Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng
- Quan niệm sống:
+ “Được mất ... ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian.
+ “Khi ca… khi tùng”: tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên.
+ “ Không …tục”: không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục , sống thoát tục ⇒ sống không giống ai, sống ngất ngưởng.
=> Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả
d. Quãng đời khi cáo quan về hưu (ba câu cuối )
+ “Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố, ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật,...
+ Nguyễn Công Trứ đã tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu bài thơ.
+ Tự hào khẳng định tài năng và công lao của mình một cách đĩnh đạc hào hùng.
+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”
=> Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tài. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.
3. Kết bài:
- Cảm nhận chung về bài thơ.
Bài mẫu
Xưa nay, thông thường với loại thơ tự trào, tự vịnh thế này, các tác già hay mượn bút pháp ngoa ngôn, lộng ngữ pha chút khẩu khí để thể hiện mình. Nguyễn Công Trứ ở “Bài ca ngất ngưởng” này khác hẳn. Ông đã khách thể hóa từ những sự, những việc rất thực của cuộc đời chỉ riêng ông mới có để khẳng định con người ông. Trong bài thơ bốn lần ông nhắc lại hai chữ "ngất ngưởng". "Ngất ngưởng" không chỉ còn là một từ gợi hình nữa, mà đã thành biểu tượng tính cách của một con người không phải ngẫu nhiên mà trên một trăm bài thơ, trong đó có sáu mươi mốt bài ca trù, chỉ có bài này tác giả đặt tên là “Bài ca ngất ngưởng”. Đương thời và hậu thế đều thừa nhận Nguyễn Công Trứ: một chàng trai, một ông quan, một vị tướng, một lão già ngất ngưởng. Cái ngất ngưởng in bóng vào một thời đại, chính là ông.
Nguyễn Công Trứ cũng như hầu hết các nhà nho xưa, đều thành đạt từ cửa Khổng, sân Trình. Trước sau ông vẫn là một tín đồ tuyệt đối trung thành của Khổng giáo:
Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ
Không quân thần phụ tử đếch nên người.
Và hẳn ông cũng biết rằng một trong những điều cốt lõi của nhà nho là cách xử thế hợp lẽ trung dung, kị những gì thái quá. Nhưng rồi Nguyễn Công Trứ hiểu mặt đã quá ngưỡng, vượt qua biên giới người thường... Có lẽ không một nhà nho nào mà lại như Nguyễn Công Trứ: nâng tất cả mọi mặt sinh hoạt đời thường của người quân tử, của kẻ sĩ lên thành một thứ đạo, một triết lí. Trong văn thơ, ông nói đến rất nhiều thứ nợ: nợ cầm thư, nợ tang bồng, nợ phong lưu, nợ trần hoàn, nợ anh hùng, nợ công danh... Đã cái nợ thì hẳn phải đa mang, hẳn vay trả, trả vay... Ông Hi Văn tài bộ đã tự ví mình như cây cau:
Kinh thiên một cột giơ tay chống
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao.
Hoặc với chiếc trông đại:
Hiện bệ gió đưa dùi cắc cắc,
Giang sơn sấm động tiếng tùng tùng.
Không có sự khẳng định tài năng ấy thì làm gì nghĩ được đến nhiều cái nợ như vậy, và làm sao đủ sức mà trang trải công nợ với đời? Sự thực là với món nợ nào. Hi Văn tiên sinh cũng hăm hở ra tài kinh tế, cũng vẫy vùng cho phỉ sức, cũng làm nên tiếng lẫy lừng đâu đấy tỏ.
Cái ngất ngưởng, cái nết ương của Nguyễn Công Trứ còn ở chỗ: Ông sống rất thực với mình, thực với người, thực với đời. Các thi nhân xưa thường viết về những gì phổ quát, tập trung vào thiên chức của kẻ sĩ; còn về cái bản ngã thì không nói đến, hoặc là hàm ẩn trong dòng chảy Văn dĩ tải đạo. Riêng thơ văn Nguyễn Công Trứ thì khác: Ông không hề giấu diếm, không hề né tránh, ông sống đời thường thế nào thì thơ văn ông nó cũng áng lên như vậy. Ví như khi đã ngoài vòng cương tỏa, tuổi ngoài bảy mươi, ông vẫn phong lưu, quen thói đa tình.
Từ đó, có lẽ Nguyễn Công Trứ là nhà thơ cổ cận đại trong văn học lịch sử nước nhà viết về tình yêu nhiều nhất, có cả Yêu hoa, Duyên gặp gỡ, có cả Vịnh chữ tình, Vịnh sầu tinh, lại có cả Tương tư, Bỡn cợt cô đào già... say thơ và thú ả đào là hai mặt tài và tình nổi bật ở Nguyễn Công Trứ. Ông vẫn tự cho mình là khách sành chơi... Ông từng nói Trong trần mấy mặt làng chơi... Biết mùi chơi chưa dễ mấy người. Già lão rồi, ông vẫn cổ súy: Chơi xuân kẻo hết xuân đi, Nếu không chơi, thiệt ấy ai bù...
Nguyễn Công Trứ trước sau vẫn giữ nết ương. Chất Nguyễn Công Trứ là chất nhất quán. Cái ngất ngưởng tự tin thời loạn hải ba đào đã trở thành cái ngất ngưởng ngang tàng khi đã ngoài vòng cương tỏa.
Lúc về hưu trí ở quê nhà, ông đi đâu cũng Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. Nhưng ngất ngưởng hơn nữa là ở đuôi con bò cái vàng úp một tấm mo cau, người ta hỏi thì ông nói là để che miệng thế gian. Nhiều giai thoại nói chi tiết Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”. Ông thường đi chơi các chùa, gần thì như chùa Cấm Sơn trên núi Đan Nại, xa như chùa Hương Tích, chùa Thiên Hương trên núi Hồng Lĩnh, lúc nào cũng dẫn theo mấy cô hầu gái - Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng...
Cái nết ương, cái ngất ngưởng, cái ngạo nghễ kiêu bạc ở Nguyễn Công Trứ là thái độ sống của một người tự tin, tự khẳng định tài năng của mình, ý thức rõ ràng về bản ngã của mình giữa một thuở giao thời:
Được, mất dương dương... không vướng tục.
Lâu nay người ta vẫn cho rằng thơ văn Nguyễn Công Trứ là một khối mâu thuẫn lớn. Thực ra nó rất thống nhất, rất nhất quán. Cái ngất ngưởng trong thơ ông là sự định hình một tính cách. Một bản lãnh trong cuộc sống, trong sáng tạo nghệ thuật. Cái ngất ngưởng ấy là của riêng Nguyễn Công Trứ và cũng là sản phẩm của một thời triều Nguyễn, của một vùng quê, của ông đồ xứ Nghệ. Ba mươi năm làm quan, bảy lần bị thất sủng, giáng chức, không hề làm suy giảm bản chất của ông, trái lại nhân cách ấy càng được khẳng định. Ngày nay, nhớ đến Nguyễn Công Trứ là nhớ đến một công trình sự có công khai phá, tạo lập hai huyện trù phú là Tiền Hải và Kim Sơn (Thái Bình), nhớ đến một nghệ sĩ tài hoa, và nhớ đên một nhân cách sớm khẳng định bản ngã trong lịch sử tư tưởng Việt Nam - mà bài thơ ca trù Bài ca ngất ngưởng là một biểu hiện.
Nguyễn Hữu Định Trường THPT Phan Bội Châu TP. Vinh - Nghệ An