Gánh nước đêm
Em bước chân ra
Con đường xa tít
Con sông mù mịt
Bên vai kĩu kịt
Nặng gánh em trở ra về!
Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya...
Vì chưng nước cạn, nặng nề em dám kêu ai!
Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá trời,
Con dã tràng lấp bể biết đời nào xong?
Cái bước đêm khuỷu thân gái ngại ngùng,
Nước non gánh nặng, cái đức ông chồng hay hỡi có hay?
Em trở vai này...!
Trần Tuấn Khải
Trần Tuấn Khải (1894 - 1983) bút danh chính là Á Nam; ngoài ra còn các bút Hiệu khác: Tiểu Hoa Nhân, Lâm Tuyền, Xử Sĩ, Giang Hồ Tản Nhân... Cụ quê ở Nam Định. Là nhà thơ cùng thời với thi sĩ Tản Đà. Nổi tiếng với bài thơ "Tiễn chân anh khóa xuống tàu". Thơ của Trần Tuấn Khải mang nội dung yêu nước và nỗi niềm tâm sự bất đắc chí của một tâm hồn yêu đời, yêu quê hương nhưng rồi buồn chán vì bất lực. Giọng thơ du dương thiết tha cứ quyện lấy vương vấn hồn người.
Tác phẩm của Trần Tuấn Khải gồm có: "Duyên nợ phù sinh" (1921), "Bút quan hoài" (1927), "Với sơn hủ" (1936). Bài thơ "Cánh nước đêm" được sáng tác năm 1917, in trong tập "Duyên nợ phù sinh" (1921) chứa chan nặng tình non nước. Bài thơ mượn chuyện một cô gái gánh nước đêm khuya để kín đáo gửi gắm tâm sự của nhà thơ: trân trọng, cảm thương và kính phục những người yêu nước, những chiến sĩ cách mạng, ngầm thức tỉnh lòng yêu nước và tinh thần cứu nước.
Cuộc đầu độc ở Hà Thành thất bại, tiếng súng đánh Pháp của người anh hùng Đề Thám giữa núi rừng Yên Thế cũng không còn vang rền nữa (1913), Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu đi tìm đường cứu nước mãi chưa về. Tình hình đất nước ta lúc bấy giờ nặng nề, u ám "Chứa chan máu quốc, nước vẩn vơ hồn -
Xao xác tiếng gà, trời mờ mịt tối" (Phan Bội Châu). Thơ văn của những thi sĩ như Tản Đà, Trần Tuấn Khải... phải tìm đến một cách nói xa xôi bóng gió để gửi gắm tâm sự và khêu gợi lòng yêu nước. Bài "Thề non nước" của Tản Đà, bài "Gánh nước đêm" của Trần Tuấn Khải là những bài thơ đa nghĩa, kín đáo bày tỏ lòng yêu nước thiết tha.
Một không gian "xa tít", "mù mịt", sông thì rộng, trời thì khuya. Tương phản với cảnh tối tăm, bao la... ấy là chỉ có một mình "em", một mình cô gái. Càng trở nên bé nhỏ, cô đơn và lẻ loi. Cảnh khuya vắng vẻ, thân gái dặm trường, càng nghe rõ tiếng "kĩu kịt" của đòn gánh. Câu thơ bốn tiếng, nhịp thơ gấp như tiếng thở hồi hộp, lo âu của người con gái gánh nước đêm:
"Em bước chân xa
Con đường xa tít
Con sông mù mịt
Nặng gánh em trở ra về..."
Câu thơ ngắn 4 từ được mở rộng dần đến 10 từ, 12 từ, người đọc cảm nhận rõ và sâu hơn tâm trạng người gánh nước đêm:
"Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya
Vì chưng nước cạn, nặng nề em dám kêu ai".
Vần thơ như một tiếng thở dài. Bao nhiêu khó khăn: "Giời khuya", "sông rộng", "nước cạn", "nặng nề". Bóng tối như bủa vây, vì sông rộng và nước sâu, nước lại cạn thì việc gánh nước càng nhiều khó khăn hơn. Cái cử chỉ "Ngoảnh cổ trông", biểu lộ nỗi cô đơn, lẻ loi, trông đợi, kiếm tìm. Sự "nặng nề" đôi vai là do hoàn cảnh, nên "em dám kêu ai"', than mà chẳng hề dám trách. Hình ảnh cô gái gánh nước đêm khuya chính là hình ảnh người yêu nước, người làm cách mạng thời bấy giờ; gặp nhiều khó khăn, lẻ loi, tận lòng trung hiếu. Đó là cảm nhận của Á Nam Trần Tuấn Khải. Ông đã dành nhiều cảm thương cho họ. Con đường cứu nước những năm bài thơ ra đời thật mù mịt và xa tít - Nhà thơ đã thể hiện đúng thực trạng lịch sử thời bây giờ. Tâm trạng và điệu thơ, vần thơ man mác buồn, bi quan... Cái đáng quý nhất là tấm lòng nhà thơ cần biết "Khi Đảng chưa ra đời, tình hình đen tối như không có đường ra..." (Hồ Chí Minh)
Có biết bao tấm gương ái quốc nhiệt thành. Có biết bao chí sĩ dứt bỏ gia đình quê hương, ôm chí lớn lên đường. Họ là những con người phi thường "đội đá vá trời", nhưng chí lớn không thành chẳng khác nào công con dã tràng xe cát lấp bể. Cảm hứng thơ khơi nguồn từ thần thoại, ca dao, cho ta nhiều liên tưởng về một sự đánh giá: "nghĩ tiếc công", "Biết đời nào xong?”. Đó là sự trân trọng, cảm phục, biết ơn, lo âu. Màu sắc bi quan thời cuộc bao trùm vần thơ.
Mặc dù sông rộng, trời khuya, em vẫn dấn thân "em trở vai này”. Câu thơ "Nước non gánh nặng cái đức ông chồng hay hỡi có hay?" là một câu thơ hàm ẩn, một câu hỏi có giá trị lay tỉnh. Những ai đó, những "đức ông chồng" còn "ngủ yên trong đời chật" hãy biết rằng gánh nước non vô cùng nặng nề, vẫn còn đó, sao lại nỡ để "Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng..."
Qua đó, ta cảm thấy bài "Gánh nước đêm" không chỉ là bài thơ gửi gắm tâm sự yêu nước mà còn là bài thơ khêu gợi, thức tỉnh trước cảnh "nước cạn" và "nước non gánh nặng"...
Hoàn cảnh lịch sử bấy giờ đen tối, mù mịt cho nên bài thơ và tâm trạng nhà thơ không tránh khỏi bi quan, buồn. Con đường gánh nước "xa tít", gánh nước đè nặng đôi vai, mà cô gái "trở vai này" bước tiếp, dù "đêm khuya thân gái ngại ngùng''. Đó cũng là niềm tin của nhà thơ về con đường cứu nước và hình ảnh người cứu nước, rất đáng khâm phục với tất cả lòng biết ơn trân trọng.
Xuân Diệu cho biết bài "Gánh nước đêm" được viết theo điệu bỏng mạc vỉa sa mạc (một điệu dân ca Bắc Bộ). Câu thơ ngắn, dài biến hóa. Ngoài những vần chân, tác giả còn dùng nhiều vần lưng để tạo nên âm điệu phong phú, gợi cảm:
"Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya...
Nghĩ tiếc công cho bà Nữ Oa đội đá vá trời,
Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng...
Cái đức ông chồng hay hỡi có hay ”
"Gánh nước đêm" ngay từ ngày mới ra đời đã được độc giả, báo chí tán thưởng. Hoàng Ngọc Phách trân trọng mời bạn đọc "thưởng giám một lối văn chương đặc biệt". Một tờ báo đương thời nhận xét: “Bài Gánh nước lời văn giản dị mà ý tứ sâu xa biết bao nhiêu...". Thi sĩ Xuân Diệu viết: "Nước ta độc lập rồi, bài thơ ngắn nhỏ vẫn cứ rộng sâu và hay".
loigiaihay.com