Bài 2: Nhà thơ Xuân Diệu viết: Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Hãy làm sáng tỏ nhận định trên bằng việc phân tích ba bài thơ thu của ông.

Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Dàn ý

1. MỞ BÀI

- Giới thiệu tác giả Nguyễn Khuyến

- Dẫn dẳt vấn đề cần nghị luận

2. THÂN BÀI

2.1. Nhìn bao quát chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến

- Viết chùm ba bài thơ về mùa thu, Nguyễn Khuyến đã chứng tỏ nguồn cảm hứng dồi dào với mùa thu, với quê hương.

- Mỗi bài thơ thu của Nguyễn Khuyến miêu tả, cảm nhận mùa thu ở một không gian, thời gian không giống nhau nhưng tất cả đó đều là những cảnh vật rất thật của nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ.

2.2 Thu vịnh (Vịnh mùa thu)

- Bài thơ không tả mùa thu từ một nơi, trong một lúc mà là bức tranh tổng hợp, khá hoàn chỉnh về mùa thu. Ở đây hầu như có đủ những hình ảnh đặc trưng cho mùa thu ở thôn quê Việt Nam( bầu trời cao xanh, cần trúc mảnh mai, gió thu nhẹ, mặt nước biếc phu sương khói, ánh trăng trong, chùm hoa trước giậu...).

- Nghệ thuật chấm phá

=> Cảnh mùa thu trong Thu vịnh thật thanh khiết, tĩnh lặng. Từ đường nét đến màu sắc, từ âm thanh đến vận động... cái gì ở đây cũng dịu, cũng nhẹ. Ấy cũng là đặc điểm tâm hồn Nguyễn Khuyến. Ô

=> Không khí làng quê mùa thu ở Thu vịnh im ắng và phảng phất nỗi u hoài. Không gian và thời gian trở nên mông lung, không xác định trong tâm trạng bâng khuâng buồn của thi nhân.

2.3 Thu điếu (Câu cá mùa thu)

- Bài thơ cảm nhận mùa thu từ một không gian xinh xắn, thơ mộng, từ điểm nhìn của một người câu cá.

- Mở đầu bằng một cảnh thu bình dị rất riêng của làng, quê đồng bằng Bắc Bộ: ao thu. Một thế giới tĩnh lặng, trong suốt mà trong đó mọi vật hài hòa nhẹ nhõm.

- Những chuyển động, âm thanh trong thế giới thu này thật nhẹ nhàng và chỉ càng gây ấn tượng về sự đọng kết, sự tĩnh lặng. Làn sóng biếc chỉ “gợn tí”. Lá vàng cũng “khẽ đưa vèo trong gió thu...

=> Hai câu thực tả cảnh gần, hai câu luận tả canh cao, cảnh xa để hợp tạo thành bức tranh thu yên ả, đượm buồn. Chỉ ở mùa thu mới có “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” ấy (ba lần trong ba bài thơ thu đều xuất hiện bầu trời xanh ngắt). Cũng chỉ ở làng quê xứ Bắc đang độ thu mới có “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” ấy!

- Trong bức tranh thu ở Thu điếu hiện lên hình ảnh con người đang ngồi câu cá nơi ao thu lạnh lẽo". Song con người này cũng chẳng hề đánh động thêm gì cho bức tranh. Trái lại, tư thế và tâm tưởng của con người chỉ tạo thêm ấn tượng về sự ngưng đọng mà thôi.

2. 4 Thu ẩm (Uống rượu mùa thu)

- Đây là mùa thu được cảm nhận bằng tâm trạng của một người ngồi uống rượu. Lúc này, cảnh thu sẽ mang các ấn tượng nỗi niềm riêng - dường như cũng chập chờn, mờ ảo. Có lẽ vì thế mà bài thơ có nhiều từ lấp láy và dùng vần “oe”.

- Thu ẩm không miêu tả riêng một cảnh thu ở một thời điểm nào mà là sự “tổng hợp nhiều cảnh thu ở nhiều thời điểm” (Xuân Diệu). Bài thơ cũng không hề có một chữ “thu” (khác với “trời thu” ở Thu vịnh và “ao thu” ở Thu điếu). Vậy mà đọc lên ta nhận ra chính xác cảnh sắc thu quen thuộc của làng quê Việt Nam. Đây là một mái nhà tranh bình dị trong ngõ tối vào đêm sâu lập lòe những con đom đóm.

- Phải là “ngõ tối”, “đêm sâu" thì mới có thể thấy “đóm lập lòe"; ngược lại, cái lập lòe của con đom đóm ấy lại càng khiến cho ngõ tối bỗng tối hơn, đêm sâu thành sâu hơn... Đây là cảnh của buổi sáng sớm (hay buổi chiều) với khói nhạt phất phơ nơi lưng giậu. Rồi lại cảnh đêm trăng với mặt ao lóng lánh.

=> Bài thơ tạo trong ta ấn tượng “phi thời gian” nhưng cũng gợi rất sâu vào không khí tĩnh mịch, trong lành vô cùng thân thuộc của thôn quê Việt Nam.

3. ĐÁNH GIÁ CHUNG:

- Cả ba bài thơ thu đã tái hiện nên những cảnh sắc mùa thu rất đỗi đặc trưng và quen thuộc của mùa thu vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mội bài thơ có một cách diễn đạt, một cách cảm nhận riêng nhưng đều đã thể hiện được tình yêu nước thầm kín của nhà thơ.

Bài mẫu

Bài tham khảo số 1

Nguyễn Khuyến sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên ả. Trừ hơn mười năm làm quan phải sống xa quê, còn lại phần lớn cuộc đời ông gắn bó với lũy tre làng Yên Đổ quê ông. Hình ảnh làng quê ấy đã in đậm trong thơ ông với những nét hết sức tiêu biểu và điển hình khiến Nguyễn Khuyến trở thành: “Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam’’ như Xuân Diệu đã từng nhận xét: "Chỉ cần qua ba bài thơ thu của ông, ta cũng thấy rõ được điều này".

Mùa thu vốn là đề tài muôn thuở, gần gũi và quen thuộc của các thi nhân. Ai làm thơ mà mỗi độ thu về lại chẳng có đôi câu để thổ lộ tâm tình mình qua những bức tranh thu. Nhưng trong lịch sử thơ ca Việt Nam quả cũng ít người có được nhiều bài thơ mùa thu nổi tiếng như Nguyền Khuyến. Nhà thơ Xuân Diệu ở một dịp khác cũng đã nhận xét: "Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là thơ Nôm. Mà thơ Nôm của Nguyễn Khuyến nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh" (Đọc thơ Nguyễn Khuyến). Cùng viết về mùa thu, ba bài thơ có những vẻ đẹp khác nhau, nhưng nhìn chung đều tiêu biểu cho cảnh thu, hồn thu của làng quê Việt Nam. Bài Thu vịnh (Vịnh mùa thu) là một bức tranh thu rất hoàn chỉnh. Một bức tranh thủy mặc mờ ảo, đượm buồn, gợi cảm giác tĩnh lặng và se lạnh lòng người. Ai nói đến mùa thu cũng đều nhắc đến: Trời thu, trăng thu, nước thu... Nguyễn Khuyến cũng đưa những cảnh vật ấy vào bài thơ của mình. Có điều chỉ bằng vài nét chấm phá ông đã như bắt được hồn thu:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào...

Thế là có trời thu, cây thu, trăng thu, nước thu, lại có cả gió mùa thu nữa. Bầu trời trong thơ Nguyễn Khuyến cao vút, trong trẻo đến rợn ngợp bởi hai chữ xanh ngắt. Cây mùa thu ít lá lơ phơ, gió mùa thu hắt hiu, vừa nhẹ nhàng, vừa se lạnh, trời xanh ngắt soi bóng xuống nền nước thu tạo thành sắc biếc mờ ảo, mông lung như làn khói lam bao phủ mặt ao, hồ. Tưởng như thế ta đã có trọn vẹn một bức tranh thu. Thế mà nhà thơ còn đặt thêm vào đó hình ảnh một chùm “hoa năm ngoái”, thả vào đó một âm thanh đơn độc: “Một tiếng trên không ngỗng nước nào”, cả không gian và thời gian càng mông lung, không xác định khiến mùa thu thêm mơ màng hơn, người đọc càng bâng khuâng hơn. Bài Thu điếu (câu cá mùa thu) cũng là một bức tranh quê rất có hồn. Bao trùm lên toàn bộ bức tranh ấy là một bầu không khí tĩnh lặng, yên ắng, một không gian làng quê nên thơ mù lặng lẽ, đượm buồn. Trong thế giới “ao thu” ấy, cái gì cũng nhỏ bé, nhẹ nhàng. Từ “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” đến làn song lăn tăn “gợn tí", từ chiếc lá “khẽ đưa vèo” đến cái ngõ trúc lối nhỏ quanh co không một bóng người “khách vắng teo". Đọc bài thơ, cả một vùng thôn quê yên ả hiện về. Đó chính là vùng quê hương của nhà thơ nói riêng và đồng bằng Bắc Bộ nói chung. Những làng quê ấy có rất nhiều ao, chuôm. Không lớn nhưng nước “trong veo’’. Vào tiết thu khí hậu ở miền Bắc đã bắt đầu chớm lạnh, ngồi trên chiếc “thuyền câu bé tẻo teo” giữa ao thu “nước trong veo” ấy lại càng thấy lạnh lẽo hơn. Một chiếc lá vàng rơi cũng là hình ảnh rất thu. Câu thơ ấy nhắc ta nhớ một vần thơ cổ:

Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu

(Ngô đồng một lá rời cành

Báo cho thiên hạ tin lành thu sang)

Nhìn chiếc lá vàng rụng xuống, ta biết mùa thu đã về. Ở đây, Nguyền Khuyến không chỉ nhìn mà ông còn lắng nghe được tiếng lá rơi “khẽ đưa vèo” trước gió. Sau này Tản Đà cùng đã có câu thơ tương tự: '‘Vèo tròng lá rung đầy sân ". Chữ “vèo" trong câu thơ của cả hai ông đêu thế hiện được tâm trạng bâng khuâng lắng nghe của thi nhân trước mùa thu của đất trơi. Trời xanh cũng là một nét rất tiêu biểu của mùa thu Việt Nam. Trong cả hai bài, Nguyễn Khuyến đều nhắc tới một sắc trời “xanh ngắt”. Hai chữ ấy đã diễn tả được đầy đủ tính chất của bầu trời thu Việt Nam: cao vòi vọi, trong trẻo và thanh sạch đến lạ lùng. Người ta có thể đi câu cá vào nhiều thời điểm trong một năm. Nhưng rõ ràng, nếu Nguyễn Khuyến không lấy tên bài thơ và bỏ các chữ thu đi, người đọc vẫn nhận ra được ngay là tác giả câu cá mùa thu. Cảnh ấy chỉ có thể là mùa thu ấy mà thôi. Bài Thu ẩm luống rượu mùa thu). Nếu như hai bài thơ trên, tác giả nhắc đến những chữ trời thu, ao thu, thì ở bài này, ông không nói gì đến chữ thu ở các câu thơ. Ấy thế mà đọc lên ta vẫn thấy đó là mua thu, là cảnh sắc quen thuộc của làng quê Việt Nam mỗi độ thu về:

Năm gian nhà cỏ thấp le te

Ngõ tối, đêm, sâu, đóm lập lòe

Đích thị đó là cảnh sắc của một làng quê. Ở thành thị, phố phường có nhà cao cửa rộng, có đường rộng thênh thang, sáng sủa làm gì có những ngôi nhà thấp bé, có “ngõ tối, đêm sâu” và “đóm lập lòe”. Phải là cái “ngõ tối, đêm sâu” thì mới có thể thấy đóm “lập lòe”, và ngược lại cái lập lòe của con đom đóm ấy càng làm cho ngõ tối hơn. Phải sống ở nông thôn, làng quê, phải có óc quan sát tinh tế mới viết được những câu thơ như thế. Hai câu tiếp theo:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe

Đúng là cảnh đêm khuya thanh vắng, sương khói bốc lên từ mặt đất, vương vấn, phất phơ lưng giậu. Và trăng khuya chiếu xuống mặt ao hồ, không biết có phải vì sương mù lan tỏa mà trở thành "ánh trăng loe”, hay là vì con mắt nhà thơ đang chếnh choáng hơi men mà nhìn ra thế:

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè

Bài thơ, ở từng chi tiết, thật khó phân tích cho rành mạch. Xuân Diệu cho bài thơ này là “Sự tổng hợp nhiều cảnh thuộc nhiều thời điểm”. Nhưng quả là thu ẩm đã truyền được cái linh hồn rất đỗi tĩnh mịch của xóm làng Việt Nam, vùng đồng bằng Bắc Bộ trong những đêm thu khuya khoắt.

Ba bài thơ là ba bức tranh thu hết sức tiêu biểu cho phong cảnh làng quê Việt Nam được vờn vẽ bằng những nét thủy mạc hết sức tinh tế và tài hoa không yêu qúy quê hương mình, không đặt cả tâm hồn vào cảnh vật, không thể vẽ nên được những bức tranh chân thật và thú vị đến thế. Nguyễn Khuyến thật xứng đáng với danh hiệu mà Xuân Diệu đã đặt cho ông: “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”.

Xem bài tham khảo khác tại đây:

Bài tham khảo số 2

Nguyễn khuyến sinh ra và lớn lên ở một vùng quê yên ả. Trừ hơn 10 năm làm quan phải sống xa quê, còn lại phần lớn cuộc đời ông gắn bó với lũy tre làng Yên Đổ quê ông. Hình ảnh làng quê ấy đã in đậm trong thơ ông với những nét hết sức tiêu biểu và điển hình khiến Nguyễn Khuyến trở thành: “Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam’’ như Xuân Diệu đã từng nhận xét. Chỉ cần qua ba bài thơ thu của ông, ta cũng thấy rõ được điều này.

Mùa thu vốn là đề tài muôn thuở, gần gũi và quen thuộc của các thi nhân. Ai làm thơ mà mỗi độ thu về lại chẳng có đôi câu để thổ lộ tâm tình mình qua những bức tranh thu. Nhưng trong lịch sử thơ ca Việt Nam quả cũng ít người có được nhiều bài thơ mùa thu nổi tiếng như Nguyền Khuyến. Nhà thơ Xuân Diệu ở một dịp khác cũng đã nhận xét: Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là thơ Nôm. Mà thơ Nôm của Nguyễn Khuyến nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh" (Đọc thơ Nguyễn Khuyến). Cùng viết về mùa thu, ba bài thơ có những vẻ đẹp khác nhau, nhưng nhìn chung đều tiêu biểu cho cảnh thu, hồn thu của làng quê Việt Nam. Bài Thu vịnh (vịnh mùa thu) là một bức tranh thu rất hoàn chỉnh. Một bức tranh thủy mặc mờ ảo, đượm buồn, gợi cảm giác tĩnh lặng và se lạnh lòng người. Ai nói đến mùa thu cũng đều nhắc đến: Trời thu, trăng thu, nước thu... Nguyễn Khuyến cũng đưa những cảnh vật ấy vào bài thơ của mình. Có điều chỉ bằng vài nét chấm phá ông đã như bắt được hồn thu:

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu

Nước biếc trông như tầng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào...

Thế là có trời thu, cây thu, trăng thu, nước thu, lại có cả gió mùa thu nữa. Bầu trời trong thơ Nguyễn Khuyến cao vút, trong trẻo đến rợn ngợp bởi hai chữ xanh ngắt. Cây mùa thu ít lá lơ phơ, gió mùa thu hắt hiu, vừa nhẹ nhàng, vừa se lạnh, trời xanh ngắt soi bóng xuống nền nước thu tạo thành sắc biếc mờ ảo, mông lung như làn khói lam bao phủ mặt ao, hồ. Tưởng như thế ta đã có trọn vẹn một bức tranh thu. Thế mà nhà thơ còn đặt thêm vào đó hình ảnh một chùm “hoa năm ngoái”, thả vào đó một âm thanh đơn độc: “Một tiếng trên không ngỗng nước nào”, cả không gian và thời gian càng mông lung, không xác định khiến mùa thu thêm mơ màng hơn, người đọc càng bâng khuâng hơn. Bài Thu điếu (câu cá mùa thu) cũng là một bức tranh quê rất có hồn. Bao trùm lên toàn bộ bức tranh ấy là một bầu không khí tĩnh lặng, yên ắng, một không gian làng quê nên thơ mù lặng lẽ, đượm buồn. Trong thế giới “ao thu” ấy, cái gì cũng nhỏ bé, nhẹ nhàng. Từ “một chiếc thuyền câu bé tẻo teo” đến làn song lăn tăn “gợn tí", từ chiếc lá “khẽ đưa vèo” đến cái ngõ trúc lối nhỏ quanh co không một bóng người “khách vắng teo". Đọc bài thơ, cả một vùng thôn quê yên ả hiện về. Đó chính là vùng quê hương của nhà thơ nói riêng và đồng bằng Bắc Bộ nói chung. Những làng quê ấy có rất nhiều ao, chuôm. Không lớn nhưng nước “trong veo’’. Vào tiết thu khí hậu ở miền Bắc đã bắt đầu chớm lạnh, ngồi trên chiếc “thuyền câu bé tẻo teo” giữa ao thu “nước trong veo” ấy lại càng thấy lạnh lẽo hơn. Một chiếc lá vàng rơi cũng là hình ảnh rất thu. Câu thơ ấy nhắc ta nhớ một vần thơ cổ:

Ngô đồng nhất diệp lạc

Thiên hạ cộng tri thu

(Ngô đồng một lá rời cành

Báo cho thiên hạ tin lành thu sang)

Nhìn chiếc lá vàng rụng xuống, ta biết mùa thu đã về. Ở đây, Nguyền Khuyến không chỉ nhìn mà ông còn lắng nghe được tiếng lá rơi “khẽ đưa vèo” trước gió. Sau này Tản Đà cùng đã có câu thơ tương tự: '‘Vèo tròng lá rung đầy sân ". Chữ “vèo" trong câu thơ của cả hai ông đêu thế hiện được tâm trạng bâng khuâng lắng nghe của thi nhân trước mùa thu của đất trơi. Trời xanh cũng là một nét rất tiêu biểu của mùa thu Việt Nam. Trong cả hai bài, Nguyễn Khuyến đều nhắc tới một sắc trời “xanh ngắt”. Hai chữ ấy đã diễn tả được đầy đủ tính chất của bầu trời thu Việt Nam: cao vòi vọi, trong trẻo và thanh sạch đến lạ lùng. Người ta có thể đi câu cá vào nhiều thời điểm trong một năm. Nhưng rõ ràng, nếu Nguyễn Khuyến không lấy tên bài thơ và bỏ các chữ thu đi, người đọc vẫn nhận ra được ngay là tác giả câu cá mùa thu. Cảnh ấy chỉ có thể là mùa thu ấy mà thôi. Bài Thu ẩm luống rượu mùa thu). Nếu như hai bài thơ trên, tác giả nhắc đến những chữ trời thu, ao thu, thì ở bài này, ông không nói gì đến chữ thu ở các câu thơ. Ấy thế mà đọc lên ta vẫn thấy đó là mua thu, là cảnh sắc quen thuộc của làng quê Việt Nam mỗi độ thu về:

Năm gian nhà cỏ thấp le te

Ngõ tối, đêm, sâu, đóm lập lòe

Đích thị đó là cảnh sắc của một làng quê. Ở thành thị, phố phường có nhà cao cửa rộng, có đường rộng thênh thang, sáng sủa làm gì có những ngôi nhà thấp bé, có “ngõ tối, đêm sâu” và “đóm lập lòe”. Phải là cái “ngõ tối, đêm sâu” thì mới có thể thấy đóm “lập lòe”, và ngược lại cái lập lòe của con đom đóm ấy càng làm cho ngõ tối hơn. Phải sống ở nông thôn, làng quê, phải có óc quan sát tinh tế mới viết được những câu thơ như thế. Hai câu tiếp theo:

Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt

Làn ao lóng lánh bóng trăng loe

Đúng là cảnh đêm khuya thanh vắng, sương khói bốc lên từ mặt đất, vương vấn, phất phơ lưng giậu. Và trăng khuya chiếu xuống mặt ao hồ, không biết có phải vì sương mù lan tỏa mà trở thành "ánh trăng loe”, hay là vì con mắt nhà thơ đang chếnh choáng hơi men mà nhìn ra thế:

Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy

Độ năm ba chén đã say nhè

Bài thơ, ở từng chi tiết, thật khó phân tích cho rành mạch. Xuân Diệu cho bài thơ này là “Sự tổng hợp nhiều cảnh thuộc nhiều thời điểm”. Nhưng quả là thu ẩm đã truyền được cái linh hồn rất đỗi tĩnh mịch của xóm làng Việt Nam, vùng đồng bằng Bắc Bộ trong những đêm thu khuya khoắt.

Ba bài thơ là ba bức tranh thu hết sức tiêu biểu cho phong cảnh làng quê Việt Nam được vờn vẽ bằng những nét thủy mạc hết sức tinh tế và tài hoa không yêu qúy quê hương mình, không đặt cả tâm hồn vào cảnh vật, không thể vẽ nên được những bức tranh chân thật và thú vị đến thế. Nguyễn Khuyến thật xứng đáng với danh hiệu mà Xuân Diệu đã đặt cho ông: “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam”.

loigiaihay.com