Lý thuyết Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề

Sách cánh diều

Đổi lựa chọn

I. Định hướng viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề

1. Định nghĩa: 

      Viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề là viết thu hoạch sau khi nghiên cứu về một đề tài đã được thực hiện. Vấn đề nghiên cứu rất đa dạng, phong phú, có thể đó là một vấn đề đặt ra trong học tập hoặc xuất phát từ thực tiễn cuộc sống.

2. Để viết báo cáo kết quả nghiên cứu về một vấn đề, các em cần chú ý:

- Lựa chọn một vấn đề cần phải viết báo cáo nghiên cứu tổng kết (có thể chọn vấn đề liên quan đến các bài đã học hoặc một vấn đề có ý nghĩa đặt ra từ cuộc sống). 

- Tiến hành nghiên cứu theo một quy trình: Xác định mục đích và cách thức nghiên cứu, thu thập và lựa chọn tài liệu, ghi chép, sử dụng các công cụ tra cứu như từ điển, sách, báo, Internet,...; tổng hợp kết quả nghiên cứu.

- Xây dựng dàn ý đề cương) của báo cáo kết quả nghiên cứu. Đề cương của báo cáo kết quả nghiên cứu thường có các nội dung lớn sau đây:

Phần mở đầu:

+ Nêu vấn đề (đề tài) được lựa chọn để nghiên cứu.

+ Lí do, mục đích và phương pháp nghiên cứu.

Phần nội dung:

+ Nội dung: Lần lượt trình bày các kết quả nghiên cứu về đề tài đã chọn. Triển khai các lí lẽ, dẫn chứng, lập luận chứng minh cho các luận điểm được nêu ra.

+ Cách trình bày: Có thể trích dẫn ý kiến người khác, chú thích và sử dụng các phương tiện hỗ trợ phù hợp (bảng biểu, sơ đồ, thống kê về đối tượng nghiên cứu...) để báo cáo sinh động hơn.

+ Nên có sự so sánh giữa các vấn đề được tìm hiểu, các vấn đề trong và ngoài phạm vi đề tài để tạo thêm sức thuyết phục cho báo cáo.

Phần kết luận

+ Khái quát ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề đã được trình bày.

+ Nêu các đề xuất, khuyến nghị của người nghiên cứu (nếu có).

- Kết quả nghiên cứu tuy mới chỉ dừng ở mức rèn luyện, tập dượt nhưng các em cần mạnh dạn tìm hiểu, cố gắng để có được những phát hiện của riêng mình, trích dẫn đầy đủ, đúng quy cách, tránh việc đạo văn hoặc vay mượn từ công trình, bài viết của người khác mà không dẫn nguồn tài liệu. Phần cuối báo cáo nêu rõ các tài liệu tham khảo (nếu có).

II. Hướng dẫn quy trình Viết bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội

1. Chuẩn bị

- Đọc kĩ đề bài, xác định yêu cầu của đề: xác định nội dung đề bài, sưu tầm các ý kiến liên quan.

- Suy nghĩ về chi tiết, hình ảnh, từ ngữ có thể thêm.

2. Tìm ý và lập dàn ý

- Tìm ý (Đặt và trả lời các câu hỏi)

+ Phân loại.

+ Hình thức và nội dung của đối tượng.

- Lập dàn ý dựa trên việc tìm hiểu tìm ý, sắp xếp theo bố cục 3 phần của bài văn.

+ Mở bài: Giới thiệu/ dẫn dắt vấn đề nghiên cứu.

+ Thân bài: Lần lượt triển khai các vấn đề về hình thức và nội dung của đối tượng.

+ Kết bài: Khái quát, tổng hợp lại vấn đề trình bày.

3. Viết

- Viết báo cáo kết quả nghiên cứu theo dàn ý đã lập.

- Chú ý nêu rõ các kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức của thơ đối tượng và ý kiến của bản thân về vai trò, tác dụng của việc nghiên cứu vấn đề này.

- Nêu các tài liệu tham khảo mà em đã trích dẫn và sử dụng (nếu có).

4. Kiểm tra và chỉnh sửa

- Kiểm tra dàn ý và bài văn: 

+ Bài văn lạc ý hay thiếu ý chỗ nào không?

+ Cần thay đổi gì trong nội dung/ cách kể lại không?

- Xác định lỗi cần sửa trong dàn ý/ bài viết.

III. Ví dụ

Đề bài: Thơ Haiku – sự tinh tế của tâm hồn Nhật Bản

Bài làm

       Thơ Haiku của Nhật Bản là một phần tài sản trong kho tàng văn hóa Á Đông vĩ đại và giàu sang. Chúng ta là người thừa tự nền văn hóa ấy nhưng còn chưa khai thác di sản của nó đúng mức như nó xứng đáng. Nhiều thành quả và tinh hoa của nó còn chờ đợi chúng ta.

Thơ Haiku dung hợp và kết tinh nhiều giá trị trong những dòng văn hóa thấm sâu của phương Đông từ Ấn Độ đến Nhật Bản. Vì vậy ta thấy trong thể thơ có dạng nhỏ nhắn ít lời này tinh thần Phật giáo, hơi thở Thiền mà ta vẫn bắt gặp trong thơ văn Lý Trần của ta. Ngoài ra, Haiku còn phảng phất hương sắc của nghệ thuật cắm hoa ikebana và không khí trà đạo chanoyu phát triển từ thế kỷ mười bốn với tinh thần căn bản là chân phương, hòa điệu và thanh tịnh. Haiku chừng như cũng dấu trong nó vẻ u huyền của kịch mặt nạ Noh.

Thơ Nhật truyền thống thường dựa trên các câu 5-7. Dựa theo nhịp căn bản này, xuất hiện hình thức thơ nối (ren-ga) cuối thời trung cổ. Lối làm thơ này giống như liên ngâm của ta. Người ta soạn renga khi ở thăm một ngôi đền, trong tiệc ngắm trăng, trong khi uống ượu sakê và cả lúc nghỉ ngơi, giữa hai cuộc chiến đấu.

Để làm thơ nối, thông thường có vài ba người tham dự. Họ luân phiên soạn các đoạn thơ. Cứ một đoạn ba câu, một đoạn hai câu. Đề tài do đoạn đi trước qui định, như mùa xuân hoặc mùa đông, như một cuộc hành trình, sự nghèo khó, tình yêu… Chẳng hạn như:

Giọt sương buồn phiền

Và cũng đau cho nỗi

Bông hoa ở lại sau mình

(Sôgi)

Trong sương mờ bóng tối

Tia nắng cuối lung linh

(Shôhaka)

Trong những renga này thì đoạn mở đầu là quan trọng nhất và được gọi là Hokku. Hokku dần dần trở nên độc lập, tạo thành một thể thơ riêng biệt, đổi tên là Haiku (Haiku).

Toàn bài Haiku chỉ có ba câu, bao gồm 17 âm tiết (5-7-5). Tiếng Nhật lại là tiếng đa âm nên cả bài chẳng có được mấy từ. Ví dụ như chim cu trong tiếng Nhật gọi là hototogisu đã chiếm mất năm âm tiết của bài, có thể riêng mình trở thành một câu thơ.

Hototogisu
Naki naki tobu zo

Isogawashi

Ôi cánh chim cu

Tưng bừng bay lượn và ca hát

Bận rộn siết bao!

(Bashô)

Và ngay cả trong hình thức độc lập này, tính chất nối kết giữa hai người dùng thơ để giao cảm vẫn còn. Có thể minh họa tính chất này qua câu chuyện về nhà thơ nữ nổi tiếng thế kỷ mười tám là Chiyô. Cô sống cô đơn trong những hồi tưởng về người chồng và đứa con đã mất nên một người bạn sánh cô với cây liễu quạnh hiu:

Không có hoa trên mình

Đời sao mà thầm lặng

Cây liễu xanh

Chiyô nhận bài thơ, chỉ thay đổi một hàng:

Không có hoa trên mình

Thân không còn hệ lụy

Cây liễu xanh

Tính chất ấy còn nói lên điều này: Haiku đòi hỏi người đọc phải đọc thơ như đang trò chuyện âm thầm với nhà thơ, như thể cùng nhà thơ sáng tạo tiếp tục. Tưởng đó là thái độ cần có khi đi vào thế giới rất tinh tế của Haiku. Với thái độ này, người đọc sẽ bớt bỡ ngỡ khi lần đầu tiếp xúc với Haiku, một trong những thể thơ nổi danh là ngắn gọn nhất thế giới.

*

Đặc điểm đầu tiên của Haiku là cô đọng. Thơ ca Á Đông nói chung là cô đọng. Hình thức ngắn gọn của Haiku, tanka, tứ tuyệt, ca dao Việt Nam… lại có một sức chứa rất đáng kể cho ý tình của con người. Đấy là những nắm tay nắm rất chặt nên có sức mạnh lớn lao. Haiku tiêu biểu cho phong cách cô đọng ấy, cho ý ở ngoài lời. Haiku bao giờ cũng biết cách để trống, nghĩa là tạo một khoảng chân không trong thơ. Khoảng chân không này có thể nói là rất cần thiết. Trong một bức tranh đơn sơ, làm sao vẽ được tiếng gió thổi? Thế mà người họa sĩ tài giỏi phải làm được điều đó. Họ chỉ vẽ có cành thôi nhưng ta nghe được tiếng gió thổi (năng họa nhất chi phong hữu thanh).

Đến đây xem! Để thấy

Chỉ còn một lá cô đơn

Trên cành kiri đấy

(Bashô)

Bashô, bậc thầy Haiku, không vẽ tiếng gió, nhưng người đọc cảm thấy hồi hộp và lo sợ cho chiếc lá cuối cùng ấy.

Căn cứ vào đặc điểm này, Tagor đưa ra nhận xét về Haiku rất chính xác: “Nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài, rồi bước tránh sang bên”.

Ở đây, ta thấy nhà thơ Haiku (Haijin) rất tôn trọng người đọc. Trên con đường thơ, các Haijin nhường lối cho người đọc, không lấn chiếm không làm nghẽn đường. Người đọc đi cùng nhà thơ và vẫn còn đi tiếp khi nhà thơ dừng lại. Nhưng muốn thế, người đọc không có quyền thụ động. Nhà thơ không nói hộ ta tất cả. Cuộc nói chuyện hết lời cạn ý nào mà chẳng chán. Trò chuyện với thơ lại càng không thể để cho niềm chán ngán ấy nổi dậy.

Tagor còn giải thích thêm rằng: “Lý do khiến nhà thơ rút lui nhanh chóng thế vì người đọc Nhật có quyền năng tinh thần về tưởng tượng rất lớn”.

Lời nhận xét của thi hào Ấn Độ ấy có thể làm nản lòng những người đọc không phải là Nhật Bản. Thực ra thì khả năng đó không phải là đặc quyền của người đọc Nhật. Bất kỳ ai yêu thơ đều có thể đọc Haiku, và sau một thời gian tìm hiểu đều có thể cảm nhận Haiku như đã cảm nhận nhiều thể thơ khác. Hơn nữa, thơ ca không chỉ nói riêng với dân tộc mình. “Người phát” là Nhật nhưng “người nhận” có thể là người thuộc bất kỳ dân tộc nào. Đã là thơ hay thì phải có quyền năng truyền đi tín hiệu của cái đẹp.

Có người yêu cầu Bashô soạn một bài Haiku về tám cảnh hồ Ômi. Quả là một trò đùa vì có một bài thơ dài vịnh tám cảnh đã kể hết tên ra cùng với trăng thu, tuyết chiều, hoàng hôn, thuyền buồm, bầu trời, mưa đêm, ngỗng trời và tiếng chuông đền Mii. Hãy thử dồn tất cả thứ đó vào một bài Haiku ba câu. Thế mà Bashô đã thoát chiếc bẫy giăng đùa nghịch ấy như sau:

Hồ Ômi tám cảnh

Sương mù dấu bảy rồi

Còn chuông đền Mii thôi

Cái một ở đây nói thay cho tất cả, dường như ta thấy cả thế giới trong tiếng chuông đền Mii. Gần gũi với tinh thần này, lssa nhìn vào đôi mắt con chuồn chuồn:

Thăm thẳm núi non

Đang hiện hình lấp lánh

Trong mắt con chuồn chuồn

Khi nhà thơ Haiku nhìn thấy núi non trong đôi mắt hết sức nhỏ bé của con chuồn chuồn thì nhà thơ cổ điển Anh Uyliơm Blâyk nhìn thấy thế giới trong một hạt cát:

Nhìn thấy thế giới trong một hạt cát

Và Thiên đàng trong một bông hoa dại

Giữ vô tận trong lòng bàn tay

Và vĩnh cửu trong một giờ đồng hồ

Để diễn tả cái toàn thể đó, cái một đó, ta thấy hai bài thơ khác nhau nhiều trong cách thể hiện. Nhà thơ Haiku sau khi nêu lên hình tượng đôi mắt con chuồn chuồn, đã vội vã rút lui. Chỉ có sự gợi ý. Issa để khoảng trống cho người đọc. Người đọc sẽ tự ý lấp đầy khoảng trống theo cách của mình. Còn giọng thơ Tây phương thì phô ý rõ ràng, khai triển và tăng cấp dồn dập: Thế giới – Thiên đàng – Vô tận – Vĩnh cửu.

Đem so với thơ ca Tây phương, ta thấy tính cô đọng hàm súc của Haiku hiện lên rất rõ.

Có khi Haiku cô đọng đến mức chỉ có một chi tiết đếm hoa rơi như trong bài thơ của Shiki:

Một đóa rơi

Hai đóa rơi…

Hoa trà đang rơi

Không muốn rườm lời, các haijin muốn dùng niềm im lặng, âm thanh âm thầm nhất và ngôn ngữ kết tinh nhất để khơi dậy những cảm thức sâu xa nhất ở người đọc.

Lời đã đành là tinh giản, các haijin còn muốn tinh giản cả cảm xúc (đúng ra là sự bày tỏ cảm xúc) và như thế Tagor gọi là “Sự tinh giản của tâm hồn”. Sự tinh giản ấy đem lại cho Haiku một vẻ đơn sơ hiếm thấy trong thơ ca. Vì vẻ đơn sơ lạ thường của nó, có người không nhận ra Haiku là thơ. Thiếu trang sức, có người tưởng rằng nó không đẹp.

Về điểm này, R.H. Blyth trong bộ sách Haiku vĩ đại của mình có viết:

“Đó là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu nói đó chỉ là ngón tay, và thường không phải là ngón tay lộng lẫy thì đúng thế. Nếu mà bàn tay lộng lẫy và đeo đầy trang sức, e ta quên mất điều mà ngón tay chỉ tới”. (3)

Nghe chim hót, nhà thơ nữ Chigetsu viết:

Tay ngưng việc làm

Bên chậu nước

Tiếng chim chích vang

Thử so sánh bài này với bài tứ tuyệt “Tức cảnh ngày xuân” của Sư Huyền Quang đời Trần, ta sẽ hiểu hơn về tính đơn sơ của Haiku.

Nhị bát giai nhân thích tú trì,

Tử kinh hoa lạ chuyển hoàng ly

Khả liên vô hạn thường xuân ý

Tận tại đình châm bất ngữ thì.

Cả hai bài thơ đều diễn tả cô gái ngừng tay làm việc nghe chim hót mùa xuân (chim chích uguisu trong Haiku là chim của mùa xuân). Trong bài Haiku, ta thấy cô gái chỉ là cô gái. Không biết cô đẹp hay xấu, tuổi bao nhiêu và đang làm gì. Còn trong bài tứ tuyệt thì các chi tiết ấy hiện lên rất rõ (đẹp, tuổi đôi tám, đang thêu thùa). Con chim chích của Haiku chỉ hót chứ không phải hót trong lùm hoa tử kinh. Bài Haiku cũng không bộc lộ cảm xúc như hai câu cuối trong bài tứ tuyệt.

So sánh để thấy tính đơn sơ của Haiku là một đặc điểm chứ không phải rút ra sự hơn kém nào. Vì mỗi thể thơ của mỗi dân tộc có đặc trưng và phong cách riêng. Mỗi bản sắc có cái đẹp của nó. Bài tứ tuyệt của Huyền Quang là bức tranh tuyệt đẹp của mùa xuân, của tuổi xuân. Bài Haiku không có màu sắc ấy.

Đơn sơ như vậy, Haiku không phải là thơ quí tộc. Có thể nói Haiku mang dáng dấp người nhà nghèo, chỉ giàu sang cái sang giàu của thiên nhiên, cái sang giàu mà ngay cả người ăn xin cũng có thể có:

Người ăn xin hạnh phúc

Có cả đất và trời

Làm áo xiêm mùa hạ

(Kikaku)

Ngay cả các thiên thần mà Swedenborg kể trong “Thiên đàng và địa ngục”, thật tình mà nói, không mặc áo xiêm nào. Thì Haiku cũng “trần truồng” như thế.

Sự trần truồng của Haiku lấy đất và trời làm áo xiêm cho mình. Thế mà trái tim của Haiku vẫn ngời ánh sáng.

Tâm tôi ngời ánh sáng

Vầng trăng hẳn tưởng lầm

Đây là ánh trăng trong

(Myôê)

Đây là sự giàu sang tột bực mà chỉ có tâm hồn con người mới đạt tới, chỉ có Haiku mới thể hiện rõ ràng hơn cả.

Cố gắng nhìn thấy vẻ đẹp trong những sự vật bình thường của đời sống là một trong những nguyên lý thẩm mỹ căn bản của Haiku.

Theo NHẬT CHIÊU / (TẠP CHÍ SÔNG HƯƠNG)