Dàn ý
I. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận
II. Thân bài
1. Bài 1
* Lời dẫn cưới của chàng trai:
- Sử dụng biện pháp liệt kê, chàng trai đưa ra một loạt vật dẫn cưới: voi, trâu bò, chuột béo.
- Lối nói khoa trương, cường điệu, phóng đại: Chàng trai định dẫn cưới bằng những lễ vật rất có giá trị.
=> Chàng trai đang tưởng tượng về một lễ cưới linh đình, sang trọng. Đó là ước mơ của những chàng trai thôn quê về một ngày vu quy sung túc.
- Cách nói giảm dần từ voi – trâu – bò và cuối cùng dừng lại ở con chuột béo: Tái hiện lại hành trình từ tưởng tượng đến trở về với hiện thực của chàng trai.
- Thủ pháp tương phản đối lập được sử dụng tài tình, khéo léo để nói về hiện thực: Dẫn voi – quốc cấm, dẫn trâu – máu hàn, dẫn bò – co gân.
=>Lời giải thích hợp tình hợp lí, chính đáng vì lí do chấp hành pháp luật, lo cho sức khỏe họ hàng hai bên chứ không phải vì chàng trai không có.
=> Cách nói thể hiện sự hài hước, dí dỏm, đáng yêu, thông minh của chàng trai.
- Chi tiết hài hước: “Miễn là có thú bốn chân/dẫn con chuột béo mời dân mời làng”
+ Thú bốn chân gợi ra hình ảnh những con vật to lớn, có giá trị
+ Con chuột béo: Loài vật nhỏ bé, có hại và bị người nông dân ghét bỏ.
+ Sự bất thường của chi tiết: Xưa nay chưa từng thấy ai mang chuột đi hỏi vợ và cũng không thể có một con chuột nào to lớn để có thể mời dân mời làng.
=> Chi tiết hài hước vừa đem lại tiếng cười sảng khoái, vừa thể hiện sự vui tươi, hóm hỉnh của chàng trai, một tâm hồn lạc quan, phóng khoáng, yêu đời.
* Lời thách cưới của cô gái
- Thái độ của cô gái
+ Trước lời dẫn cưới của chàng trai cô gái “lấy làm sang”.
=> Đây là cô gái dí dỏm, vui tươi không kém bạn đời
+ Lời nói “Nỡ nào em lại phá ngang”
=> Ý nhị, khiêm tốn, thông cảm với hoàn cảnh của chàng trai
- Thủ pháp tương phản đối lập: người ta – nhà em, lợn gà – nhà khoai lang
=> Sự độc đáo, bất thường trong lời thách cưới bởi những lễ vật ấy bình dị đến mức tầm thường. Chính điều này đã tạo nên tiếng cười đùa vui, hóm hỉnh
- Lời giải thích của cô gái về yêu cầu của mình:
+ Cách nói giảm dần: To – nhỏ - mê – rím – hà
=> Cô gái sẵn sàng đón nhận những lễ vật tầm thường, không cần lựa chọn, sắp xếp gì.
+ Lễ vật được cô chia phần, sắp xếp hợp lí: Mời làng, mời họ, con trẻ, lợn gà
=> Cô gái là người phụ nữ đảm đang, tháo vát, khéo léo, sống có trước có sau, coi trọng tình nghĩa.
=> Thông qua lời thách cưới và dẫn cưới bất bình thường của chàng trai và cô gái đã cho thấy tâm hồn lạc quan, yêu đời, hài hước của những chàng trai, cô gái thôn quê trong cảnh nghèo khó. Chàng trai tự ý thức được cái nghèo của mình mà tự trào, tự cười cợt, cô gái thấu hiểu cảnh ngộ của hai gia đình mà vui vẻ đón nhận vì cô là người coi trọng tình nghĩa hơn của cải.
2. Bài 2
- Câu ca dao mở đầu bằng chí “làm trai”
+ Làm trai: Phải mạnh mẽ, cứng cỏi, khỏe khoắn, quyết đoán, là trụ cột của gia đình và xã hội
+ Liên hệ với chí làm trai trong văn dân gian và văn học trung đại
- Thủ pháp tương phản đối lập:
+ “Khom lưng chống gối”: Gợi động tác mạnh mẽ, dứt khoát của một người làm công việc nặng nhọc, vất vả
+ “Gánh”: Hoạt động di chuyển những vật nặng
+ Hai hạt vừng”: Thứ vô cùng nhỏ bé nhỏ bé
=> Tiếng cười được cất lên. Tư thế khoa trương nhưng hành động tầm thường
=> Chế giễu người đàn ông yếu đuối, tầm thường không đáng làm trai
=> Tiếng cười không chỉ đả kích mà còn là lời nhắc nhở sâu cay về thói hư, tật xấu của con người
3. Bài 3
- Cặp từ đối xứng chồng em – chồng người: Chứa đựng ngụ ý so sánh hơn thua
- Chồng người - Đi ngược về xuôi, tung hoành ngang dọc, thỏa chí tang bồng, tháo vát tài giỏi
=> Thể hiện sự ngưỡng mộ, trân trọng
- Chồng em – quanh quẩn nơi xó bếp sờ đuôi con mèo, lười nhác, đoản chí, không đáng mặt trang nam nhi
=> Thể hiện sự thất vọng, buồn bã
=> Qua sự đối lập, tương phản, bài ca dao đã nói lên lời tâm sự, niềm thất vọng, xấu hổ của cô vợ có anh chồng lười nhác, hèn kém.
=> Phê phán, chế giễu loại đàn ông lười nhác, thấp hèn, không có ý chí.
=> Là bài học cho những kẻ làm trai, làm chồng về lối sống và phẩm chất.
4. Bài 4
- Hình ảnh người vợ.
+ Quan niệm về người phụ nữ xưa: Dịu dàng, khéo léo, đảm đang, tháo vát, biết chăm sóc cho bản thân, cho chồng con. Nhưng người vợ trong bài ca dao lại được khắc họa vô cùng đặc biệt.
+ Ngoại hình: lỗ mũi mười tám gánh lông
=> Hình ảnh phóng đại bất ngờ tạo ra tiếng cười sảng khoái. Bài ca dao sử dụng cách chơi chữ “gánh lông” để miêu tả về một chiếc mũi kinh dị, kì quái
+ Những tật xấu: Đêm nằm gáy o o, đi chợ hay ăn quà, bẩn thỉu (trên đầu những rác cùng rơm)
=> Phép liệt kê tăng tiến những thói xấu của cô vợ không chỉ ở nhà mà còn ra ngoài cả xã hội, phóng đại làm nổi bật những tật xấu, sự vô ý tứ không thể chấp nhận ở một người phụ nữ.
=> Chế giễu người phụ nữ xấu người xấu cả nết, vô duyên đỏng đảnh.
- Hình ảnh người chồng:
+ Trân trọng chiếc mũi kinh dị của vợ, xem đó là của hiếm “râu rồng trời cho”.
+ Trước những tật xấu của vợ, anh chồng còn bao biện mà không góp ý: “gáy cho vui nhà”, “về nhà đỡ cơm”, “hoa thơm rắc đầu”.
=> Người chồng yêu thương, nâng đỡ, che chở cho vợ một cách mù quáng, bao biện cho vợ bằng những lí lẽ ngụy biện, phi lí.
III. Kết luận
- Nêu cảm nhận chung
Bài mẫu
Ca dao hài hước, châm biếm là một bộ phận không thể không thể thiếu của kho tàng ca dao Việt Nam. Những bài ca dao hài hước là tiếng cười mua vui, giải trí thỏa mãn về nhu cầu giải trí tinh thần của người lao động xưa. Bài ca dao còn thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động, họ là những người lạc quan, yêu đời.
Bài ca dao thứ nhất là tiếng cười tự trào, mang ý vị hài hước, vui vẻ của người lao động trong cảnh nghèo. Lời đối đáp giữa chàng trai và cô gái trong việc thách cưới vô cùng lạ lùng, thú vị. Bài ca dao có lối kết cấu đối đáp, lượt lời đầu tiên là của chàng trai, bằng lối nói khoa trương, phóng đại, anh chàng đã nói về những lễ vật của mình. Nhưng cách nói lại sử dụng biện pháp đối lập: tự nêu ra nhưng chính anh chàng lại tự phủ định: Cưới chàng anh toan dẫn voi/ Anh sợ quốc cấm, nên voi không bàn/ Dẫn trâu, sợ họ máu hàn/ Dẫn bò sợ nhà nàng co gân./ Miễn là có thú bốn chân./ Dẫn con chuột béo mười dân, mời làng. Lí lẽ anh chàng đưa ra vô cùng hài hước: Dẫn voi thì sợ quốc cấm ; Dẫn trâu thì sợ họ máu hàn ; Dẫn bò thì sợ họ co gân. Và cuối cùng kết luận dùng con chuột béo mời dân mời làng, hi vọng con chuột béo ấy sẽ đủ để mời dân mời làng. Đáp lại lời chàng trai cô gái cũng hết sức ý nhị, dỉ dỏm, cô thách cưới một nhà khoai lang. Số khoai lang được phân phát theo trình tự hết sức hợp lí : cho dân, cho làng, cho trẻ con và cho cả những con vật trong nhà. Những lời đối đáp ấy đã cho thấy sự chu đáo, biết lo toan, đồng thời cũng rất hồn nhiên, yêu đời của cô gái. Bài ca dao thể hiện niềm lạc quan, yêu đời, ham sống của người lao động trong cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đồng thời thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của những chàng trai, cô gái xưa : Chàng trai mang trong mình sự hài hước, lạc quan, vui vẻ, tình cảm chân thành, còn cô gái là sự bằng lòng, vui vẻ, đảm đang, tháo vát, tình cảm và sự chu đáo dành cho làng xóm, họ hàng xung quanh.
Bài ca dao số hai, số ba đều tập trung phê phán những người đàn ông yếu đuối, ươn hèn, vô tích sự. Câu thơ mở đầu bằng mô tip quen thuộc làm trai, nhưng có những điểm khác biệt: Làm trai cho đáng sức trai/ Khom lưng chống gối gánh hai hạt vừng. Câu thơ đầu cho thấy chí làm trai oai hùng đầy kiêu hãnh, như đang gánh vác việc to lớn, việc giang sơn xã tắc. Nhưng câu thơ thứ hai đã cho thấy rõ công việc anh ta gánh vác gánh hai hạt vừng. Bài ca dao sử dụng biện pháp khoa trương, câu thơ đầu nâng cao rồi đột ngột hạ thấp, để phê phán chàng trai yếu đuối về thể xác, hèn yếu về tinh thần. Quả thật đáng lên án, phê phán.
Bài ca dao sau :
Chồng người đi ngược về xuôi,
Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo.
Bài ca dao trên đã sử dụng thủ pháp đối lập giữa chồng người và chồng em, đồng thời gợi lên sự đối lập về không gian: đi ngược về xuôi còn chồng em không gian hoạt động chỉ ở nơi xó bếp, không gian bếp núc vốn của phụ nữ. Để hoàn chỉnh bức tranh về anh chồng nhu nhược, yếu đuối là hành động sờ đuôi con mèo. Qua đó tiếng cười bật lên, hướng vào những ông chồng vô tích sự, lười nhác.
Bài ca dao cuối cùng phê phán những người đàn bà lười biếng, cẩu thả, vô duyên. Trong truyện cười dân gian, các tác giả dân gian thường lấy đối tượng là nam để châm biếm, phê phán như tham lam, khoác lác, lười biếng nhưng người con gái lại rất ít khi trở thành đối tượng để châm biếm, đả kích. Ca dao đã hoàn thiện sự khuyết thiếu đó. Hình ảnh người phụ nữ ẩu đoảng, lười biếng hiện lên vô cùng rõ nét: Lỗ mũi mười tám gánh lông/ Chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho/…/ Trên đầu những rác cùng rơm/ Chồng yêu chồng bảo hoa thơm rắc đầu. Bài ca dao chế giễu những người đàn bà đỏng đảnh, vô duyên: Hình dáng thô kệch, xấu xí, có nhiều thói quen xấu: Luộm thuộm, bẩn thỉu. Tiếng cười cất lên phê phán những người đàn bà đoảng vị đồng thời cũng phê phán những người chồng mù quáng, vì quá yêu vợ mà không phân biệt tốt – xấu, thực – hư.
Ba bài ca dao, tiếng cười ở đây tập trung phê phán cái xấu, cái chưa hoàn thiện trong nội bộ nhân dân. Tiếng cười có ý nghĩa giải trí, đồng thời cũng là cuộc đấu tranh của nhân dân với cái xấu, cái lạc hậu, bảo thủ trong xã hội.
Ca dao hài hước châm biến thành công đều nhờ việc xây dựng tình huống gây cười, hàm chứa những mâu thuẫn gây cười. Biện pháp khoa trương, phóng đại được sự dụng thành công ở cả bốn bài ca dao. Ngoài ra biện pháp nâng cao ở phía trước hạ thấp ở phía sau cũng phát huy tác dụng để phê phán những cái xấu, cái tiêu cực trong xã hội.
Bài ca dao là lời châm biếm hài hước, nhẹ nhàng những thói hư, tật xấu trong xã hội. Đồng thời bài thơ thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người dân lao động xưa: sự lạc quan, yêu đời của họ trong cảnh đời còn nhiều khó khăn, vất vả.
Nguồn: Sưu tầm